Tội ra quyết định trái pháp luật theo Điều 371 Bộ
Luật Hình sự
Hành vi này chỉ cấu thành tội phạm khi người thực hiện đủ tri thức ý chí
để biết quyết định đó vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố tình ban hành,
hậu quả của hành vi đó gây ra thiệt hại nghiêm trọng. Sự nguy hiểm của nh
vi này không nằm việc sai sót nghiệp vụ hay ý, mà tính cố ý trực tiếp
chủ động vi phạm pháp luật của chính những người được giao nhiệm vụ
bảo vệ thực thi pháp luật. Ví d điển hình việc một Điều tra viên ra quyết
định khởi tố bị can trái pháp luật khi không đủ căn cứ, dẫn đến việc bắt, giam
giữ oan sai cho một nhân.
1. Các yếu tố cấu thành tội ra quyết định trái pháp luật
1.1. Mặt khách quan của tội phạm
Hành vi: Hành vi khách quan của tội danh được thể hiện qua cụm từ "ra
quyết định mình biết trái pháp luật". Điều này bao gồm việc ban hành,
duyệt, phê chuẩn, hoặc thông qua một văn bản tố tụng hoặc thi hành án
nội dung hoặc hình thức không p hợp với quy định của pháp luật. Các
quyết định này thể là: quyết định khởi tố vụ án, quyết định khởi tố bị can,
lệnh bắt tạm giam, quyết định truy tố, quyết định thi hành án dân sự, v.v.
Đặc trưng cốt lõi của mặt khách quan dấu hiệu "biết rõ trái pháp luật."
Đây yếu tố quan trọng nhất để phân biệt hành vi phạm tội với các sai sót
nghiệp vụ thông thường. Để truy cứu trách nhiệm hình sự, quan t tụng
phải chứng minh được rằng người phạm tội đã nhận thức đầy đủ về tính
trái pháp luật của quyết định nhưng vẫn cố tình thực hiện. Việc chứng minh
dấu hiệu này là một thách thức lớn trong thực tiễn xét xử, đòi hỏi các chứng
cứ gián tiếp về ý thức chủ quan của người phạm tội.
Hậu quả: Tội phạm này chỉ cấu thành khi gây ra hậu quả nghiêm trọng. Hậu
quả này được pháp luật quy định cụ thể tại các khoản của Điều 371 BLHS,
bao gồm:
Gây thiệt hại về tài sản từ 50.000.000 đồng trở lên.
Gây rối loạn tâm thần hành vi của người bị bắt, b tạm giữ, bị can, bị cáo,
người bị hại, đương sự mà tỷ lệ tổn thương thể từ 31% trở lên.
Dẫn đến việc người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị kết án, người
bị hại, đương sự tự sát.
Gây ra c thiệt hại khác được xác định nghiêm trọng, ảnh hưởng xấu
đến an ninh, trật tự, an toàn hội.
Mối quan hệ nhân qu: Để định tội, phải chứng minh được mối quan hệ
nhân quả trực tiếp tất yếu giữa hành vi ra quyết định trái pháp luật hậu
quả nghiêm trọng đã xảy ra. Thiệt hại phải hệ quả trực tiếp của quyết định
trái pháp luật, không phải do một nguyên nhân độc lập nào khác.
1.2. Khách thể của tội phạm
Khách thể của tội ra quyết định trái pháp luật hoạt động đúng đắn của
quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án thi hành án, lợi ích của Nhà nước,
quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức công dân, làm mất uy tín của các
quan tiến hành tố tụng quan thi hành án
Đối tượng tác động của tội phạm này những quyết định trái pháp luật của
những người thẩm quyền: quyết định thu giữ đồ vật, tài liệu, quyết định xử
vật chứng, quyết định việc gi khẩn cấp, quyết định áp dụng, thay đổi hoăc
huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn, quyết định biên i sản, .... Tuy nhiên nếu
trong các quyết định trái pháp luật chỉ thủ đoạn để người phạm tội thực
hiện tội truy cứu trách nhiệm hình sự người không tội hoặc không truy cứu
trách nhiệm hình sự người tội hoặc ra bản án trái pháp luật thì không còn
đối tượng tác động của tội phạm này nữa.
1.3. Chủ thể của tội phạm
Chủ thể của tội danh này "chủ thể đặc biệt" theo quy định của pháp luật
hình sự. Đó những người thẩm quyền trong hoạt động tố tụng, thi hành
án. Các chức danh thể chủ thể của tội này rất đa dạng, bao gồm:
Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng quan điều tra, Điều tra viên.
Viện trưởng, Phó Viện trưởng, Kiểm sát viên Viện kiểm sát các cấp.
Chánh án, Phó Chánh án, Thẩm phán a án c cấp, Hội thẩm.
Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng quan Thi hành án, Chấp hành viên
quan thi hành án dân sự.
Pháp luật ng tính đến các kịch bản phức tạp hơn, nơi người không thẩm
quyền trực tiếp nhưng lại chỉ đạo, ép buộc người thẩm quyền ra quyết định
trái pháp luật. Trong trường hợp này, tùy vào bản chất hành vi họ thể
bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội đồng phạm hoặc các tội danh khác n
"Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ" (Điều 356
BLHS), "Tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ" (Điều 357 BLHS) hoặc "Tội
ép buộc người thẩm quyền trong hoạt động pháp làm trái pháp luật"
(Điều 367 BLHS).
1.4. Mặt chủ quan của tội phạm
Người phạm tội ra quyết định trái pháp luật thực hiện hành vi phạm tội của
mình do cố ý (cố ý trực tiếp), người phạm tội nhận thức việc ra quyết
định của mình trái pháp luật, thấy trước hậu quả của hành vi mong
muốn hậu quả xảy ra. Nếu do nào đó người thẩm quyền không
biết là trái pháp luật thì không phạm tội ra quyết định trái pháp luật
2. Khung hình phạt tội ra quyết định trái pháp luật
Nội dung Điều 371 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định về tội ra quyết định
trái pháp luật như sau:
Điều 371. Tội ra quyết định trái pháp luật
            
               
         
             
            
              
            
  
            
      
  
      
              

              
            
            
    
           
 
             
             
      
              
            
            
    
            
            
         
          
             
    
Theo Điểm 132 Điều 1 Bộ Luật Hình sự sửa đổi, bổ sung năm 2017 đã sửa
đổi Điều 371 như sau:
            
           
               
         
             
            
              
            
  
             
      
  
      
             
 
              
            
              
 
           
 
             
             
      
              
            
              

              
            

          
2.1. Các khoản hình phạt tương ứng với hành vi hậu quả
Căn cứ Điều 371 B luật Hình sự 2015, sửa đổi 2017, c khung hình phạt
được quy định như sau:
Khoản 1: Phạt từ 01 năm đến 05 năm đối với nh vi ra quyết định trái
pháp luật gây thiệt hại về tài sản từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000
đồng hoặc gây thiệt hại khác đến lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp
pháp của tổ chức, nhân.
Khoản 2: Phạt từ 02 năm đến 07 năm nếu phạm tội thuộc một trong các
trường hợp định khung tăng nặng.
Khoản 3: Phạt từ 07 năm đến 15 năm nếu phạm tội thuộc một trong các
trường hợp định khung tăng nặng đặc biệt.
Khoản 4: Người phạm tội n thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định
từ 01 năm đến 05 năm.
2.2. Tình tiết định khung tăng nặng giảm nhẹ
Các tình tiết định khung ng nặng được quy định tại Khoản 2 Khoản 3
Điều 371 BLHS bao gồm:
tổ chức.
Phạm tội 02 lần trở lên.
Đối với người dưới 18 tuổi, phụ nữ biết thai, người già yếu. (Trong
thực tiễn, việc xác định "người già yếu" cần xác nhận của quan
chuyên môn về tình trạng sức khỏe, đặc biệt đối với người đủ 70 tuổi trở
lên ).
Gây rối loạn tâm thần hành vi của người bị hại tỷ lệ tổn thương
thể từ 31% đến 60% (Khoản 2) hoặc 61% trở lên (Khoản 3).
Gây thiệt hại về tài sản từ 200.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng
(Khoản 2) hoặc 1.000.000.000 đồng trở lên (Khoản 3).
Dẫn đến người bị hại, đương sự tự sát.
Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được áp dụng theo quy định
chung tại Điều 51 Bộ luật Hình sự, dụ như người phạm tội thành khẩn khai
báo, ăn năn hối cải, tự nguyện bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả,
v.v..
2.3. Phân định ranh giới Hậu quả "Nghiêm trọng"
Việc xác định hậu quả “nghiêm trọng” một trong những thách thức lớn nhất
trong việc áp dụng Điều 371 BLHS. Mặc hậu quả thể thiệt hại về vật
chất (tài sản) hoặc phi vật chất (oan sai, tổn hại tinh thần), nhưng việc định
lượng chúng trong thực tiễn còn gặp nhiều khó khăn.
Hướng dẫn từ Nghị quyết 03/2020/NQ-HĐTP: Để giải quyết vấn đề này,
Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao đã ban hành Ngh quyết số 03/2020/NQ-
HĐTP, hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLHS trong xét xử tội phạm
tham nhũng tội phạm khác về chức vụ. Nghị quyết này đưa ra các tiêu chí
cụ thể để xác định trị giá tài sản bị chiếm đoạt hoặc thiệt hại về tài sản. Chẳng
hạn, Nghị quyết quy định trị giá tài sản bị chiếm đoạt làm căn cứ xử hình sự
được xác định tại thời điểm thực hiện hành vi phạm tội. Đối với các tội phạm
liên tục, o dài, trị giá tài sản bị chiếm đoạt sẽ được xác định tại thời điểm
hành vi phạm tội b phát hiện, ngăn chặn hoặc kết thúc.
Mặc Ngh quyết 03/2020/NQ-HĐTP đã cung cấp một khung định lượng
hóa ràng cho thiệt hại về tài sản, nhưng nó chưa đề cập sâu đến cách xác
định thiệt hại phi vật chất. Cụ thể, các vụ án liên quan đến hậu quả "gây rối
loạn tâm thần hành vi" (được đề cập trong Điều 370 về Tội ra bản án trái
pháp luật ) hay "oan sai" vẫn chưa hướng dẫn chi tiết để định lượng hoặc
định tính một cách thống nhất. Việc thiếu các tiêu chí này thể dẫn đến việc
áp dụng thiếu đồng nhất, tùy thuộc vào quan điểm của từng quan tố tụng.
       Trong khi thiệt hại về vật chất thể được
xác định thông qua việc định giá tài sản , thiệt hại phi vật chất lại mang tính
trừu tượng khó đo lường hơn. Các thiệt hại này thể bao gồm:
   Dẫn đến việc một người tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự
hoặc bị kết án.
     Gây ra những tổn thương tâm nghiêm trọng cho bị
hại, thể dẫn đến rối loạn tâm thần hành vi.
          Khi một quyết định trái pháp luật
gây ra sự bất mãn lớn trong công chúng, làm mất niềm tin vào hệ thống
pháp, hoặc gây ra các hệ lụy hội nghiêm trọng khác.
Việc chứng minh mối quan h nhân quả giữa hành vi ra quyết định trái pháp
luật các hậu quả phi vật chất này một thách thức lớn trong t tụng hình
sự.
3. Giám định pháp y thu thập chứng cứ
Giám định pháp đóng một vai trò thiết yếu trong việc chứng minh các yếu
tố cấu thành của tội danh này, đặc biệt khi c định hậu quả của hành vi.
Các loại giám định thường được trưng cầu bao gồm:
Giám định pháp y tâm thần: Bắt buộc khi cần c định tình trạng tâm thần
của người bị hại hoặc người bị buộc tội, đặc biệt khi dấu hiệu hậu quả
"gây rối loạn tâm thần hành vi".
Giám định pháp y: Dùng để xác định tỷ lệ tổn thương thể của người bị
hại, phục vụ cho việc định khung nh phạt.
Giám định tài chính, kế toán: Dùng để xác định mức đ thiệt hại về tài sản
do quyết định trái pháp luật gây ra, dụ như chi phí bồi thường oan sai,
thiệt hại do việc thu gi tài sản trái phép, v.v.
Việc giám định tỷ lệ tổn thương thể được thực hiện theo các thông
hướng dẫn của Bộ Y tế. Tương tự, việc xác định thiệt hại về tài sản được
thực hiện theo các văn bản quy phạm pháp luật các quy định của Bộ Tài
chính.
Kết luận giám định pháp được coi một nguồn chứng cứ quan trọng trong
vụ án hình sự. Các quan tiến hành tố tụng nghĩa vụ xem xét, ra quyết
định trưng cầu giám định thông báo kết luận giám định cho các bên liên
quan trong thời hạn quy định. Kết luận này sở để xác định mức độ
nghiêm trọng của hậu quả, làm căn cứ để định tội danh, định khung hình phạt
giải quyết trách nhiệm dân sự trong vụ án.
4. So nh với tội danh tương tự
Việc phân biệt "Tội ra quyết định trái pháp luật" với các tội danh tương tự
cùng quan trọng để định tội danh chính xác, tránh oan sai trong t tụng.
Hai tội danh dễ b nhầm lẫn nhất "Tội ra bản án trái pháp luật" (Điều 370
BLHS) "Tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ" (Điều 357 BLHS).
Tiêu
chí
T
i ra quy
ế
t
đị
nh trái pháp lu
t
(Điu 371)
T
i ra b
n án trái
pháp lut (Điu 370)
T
i l
m quy
n trong khi thi
hành công v (Điu 357)
Khách
th
Ho
t
độ
ng
đ
úng
đắ
n c
a các c
ơ
quan
tiến hành t tng thi hành án.
Ho
t
độ
ng xét x
c
a
Tòa án.
Hoạt động đúng đắn ca cơ quan,
tổ chức, gây suy yếu uy tín ca cơ
quan, tổ chức.
Ch
th
Chủ thể đặc biệt: Người thẩm quyền trong
hoạt động tố tụng, thi hành án (đa dạng: Điều
tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Chấp hành
viên...).
Chủ thể đặc biệt: Chỉ
Thẩm phán, Hội thẩm.
Chủ thể đặc biệt: Ngưi có chc
vụ, quyền hạn (phạm vi rng hơn,
không giới hạn trong lĩnh vc tư
pháp).
Tiêu
chí
T
i ra quy
ế
t
đị
nh trái pháp lu
t
(Điu 371)
T
i ra b
n án trái
pháp lut (Điu 370)
T
i l
m quy
n trong khi thi
hành công v (Điu 357)
Hành vi
Ra "quy
ế
t
đị
nh" trái pháp lu
t (ph
m
vi rng, bao gm nhiu văn bn t
t
ng).
Ra "bản án" trái pháp luật
(phạm vi hẹp, chỉ bản
án).
V
ượ
t quá quy
n h
n
đư
c
giao để thc hin công v.
Mt
ch
quan
Lỗi cố ý trực tiếp ("biết trái pháp luật").
Lỗi cố ý trực tiếp ("biết
trái pháp luật").
Li c ý hoc ý.
Hu
qu
Cn gây ra thit hi nghiêm trng
theo quy
đị
nh t
i
đ
i
u lu
t.
Cn gây ra hu qu
nghiêm trng theo quy
đị
nh t
i
đ
i
u lu
t.
Cần gây ra thiệt hại nghiêm trng.
Ý nghĩa thực tiễn của việc phân biệt đúng c tội danh này nền tảng cho
một nền pháp công bằng. Việc định tội danh chính xác giúp quan tố
tụng áp dụng đúng khung hình phạt, tránh việc kết án oan sai hoặc bỏ lọt tội
phạm, qua đó đảm bảo nguyên tắc pháp chế, thượng tôn pháp luật.
5. Câu hỏi thường gặp (FAQs) liên quan
Câu hỏi 1: Một người không chức vụ hoặc thẩm quyền nhưng đã ra
quyết định giả mạo gây thiệt hại thì bị truy tố về tội này không?
Trả lời: Không. Ch thể của tội danh "Ra quyết định trái pháp luật" ch thể
đặc biệt, phải người thẩm quyền trong hoạt động t tụng, thi hành án.
Hành vi giả mạo quyết định thể b truy cứu trách nhiệm hình sự về các tội
danh khác như "Tội làm giả tài liệu của quan, t chức" (Điều 341 BLHS)
hoặc "Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản" (Điều 174 BLHS).
Câu hỏi 2: Hậu quả "gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước" được xác
định như thế o?
Trả lời: Thiệt hại này không ch giới hạn thiệt hại vật chất (như chi phí bồi
thường oan sai, chi p tố tụng không cần thiết) còn bao gồm các thiệt hại
phi vật chất. Đó việc làm giảm uy tín của các quan nhà nước, y mất
trật tự, an ninh hội, gây ảnh hưởng tiêu cực đến chính sách của Đảng
Nhà nước.
Câu hỏi 3: Cần chứng minh yếu tố "biết rõ" như thế nào trong thực tiễn
xét xử?
Trả lời: Việc chứng minh yếu tố này thường dựa vào các chứng cứ gián tiếp.
dụ, hồ vụ án th hiện ràng các chứng cứ mâu thuẫn nhưng bị cố nh
bỏ qua, các bút lục thể hiện sự phản đối của cấp dưới nhưng vẫn bị bác bỏ,
hoặc lời khai của chính người phạm tội các nhân chứng khác về việc họ
đã được cảnh báo nhưng vẫn cố tình vi phạm.
6. Khó khăn vướng mắc đề xuất kiến nghị
Trong hệ thống pháp luật Việt Nam, n bản quy phạm pháp luật nguồn
luật chính, trong khi án lệ giá trị tham khảo đối với Thẩm phán khi giải
quyết các vụ việc. Hiện tại, việc tìm kiếm một án lệ hoặc quyết định giám đốc
thẩm công khai về Tội ra quyết định trái pháp luật (Điều 371) một thách
thức, do tính chất phức tạp nhạy cảm của c vụ án liên quan.
Tuy nhiên, thể phân tích một trường hợp thực tiễn để làm sáng tỏ bản chất
của hành vi này. Một dụ điển hình vụ việc Thẩm phán Thị Hồng Thu
bị kỷ luật vi phạm pháp luật tố tụng dân sự. Các hành vi của Thẩm phán
này bao gồm: thụ đơn khởi kiện không hợp lệ, thụ vụ án trước khi nộp án
phí, ban hành quyết định khẩn cấp tạm thời trái quy định pháp luật. Mặc vụ
việc này không được truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 371, nhưng các
hành vi vi phạm tố tụng được liệt những minh chứng nét cho bản chất
của hành vi "ra quyết định trái pháp luật."
Việc phân ch các hành vi trong vụ việc này cho thấy những vi phạm về thủ
tục, thẩm quyền trong quá trình t tụng, nếu lỗi cố ý gây ra hậu quả
nghiêm trọng, hoàn toàn thể sở để truy cứu trách nhiệm hình sự theo
Điều 371. Phân tích này cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tuân thủ
nghiêm ngặt c quy định về tố tụng để tránh những sai phạm thể dẫn đến
trách nhiệm hình sự.
Thực tiễn áp dụng tội danh này gặp nhiều khó khăn, chủ yếu xoay quanh việc
chứng minh yếu tố "biết là trái pháp luật." Đây một yếu t thuộc về ý
thức chủ quan của người phạm tội, rất khó đ thu thập bằng chứng vật chất
một cách trực tiếp. Quá trình điều tra thường phải dựa vào các chứng cứ gián
tiếp như: hồ vụ án thể hiện các chứng cứ mâu thuẫn nhưng bị cố tình bỏ
qua, bút lục thể hiện sự phản đối từ cấp dưới, hay lời khai của các nhân
chứng.
Việc chứng minh sự tồn tại của lỗi cố ý trực tiếp thường dẫn đến những tranh
cãi gay gắt tại phiên tòa, gây kéo dài thời gian giải quyết vụ án. Điều này đòi
hỏi các Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán phải trình độ chuyên môn
cao kinh nghiệm thực tiễn để đánh giá chứng cứ một cách toàn diện
chính xác.
Một trong những vướng mắc lớn nhất sự thiếu thống nhất trong nhận thức
áp dụng pháp luật giữa các quan tố tụng (Công an, Viện kiểm sát, a
án) giữa các cấp xét xử. Tình trạng này dẫn đến việc trả hồ để điều tra
bổ sung nhiều lần, Tòa án xét xử khác tội danh hoặc khoản so với Viện kiểm
sát đã truy tố, gây khó khăn cho khâu thi hành án. Sự thiếu thống nhất này
thể hệ quả của việc thiếu các văn bản hướng dẫn chi tiết mang tính liên
ngành, khiến cho mỗi địa phương hoặc mỗi quan thể áp dụng một cách
khác nhau, tạo ra sự tùy nghi thiếu công bằng.
              
   
Sửa đổi luật, bổ sung hướng dẫn để giải quyết các vướng mắc trong thực
tiễn, cần thiết phải những văn bản hướng dẫn cụ th từ các quan
trung ương. Kiến nghị ban hành một Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán
Tòa án nhân dân Tối cao hoặc Thông liên tịch của Viện kiểm sát nhân
dân Tối cao, Tòa án nhân dân Tối cao Bộ Công an để giải thích chi tiết
các dấu hiệu cấu thành tội phạm, đặc biệt dấu hiệu "biết trái pháp
luật" cách xác định hậu quả nghiêm trọng trong các trường hợp phi vật
chất. Việc này sẽ đảm bảo tính thống nhất minh bạch trong áp dụng pháp
luật trên toàn quốc.
Tăng cường đào tạo cán bộ tố tụng bên cạnh việc hoàn thiện hệ thống văn
bản pháp luật, cần chú trọng vào việc nâng cao năng lực chuyên môn, đạo
đức nghề nghiệp ý thức trách nhiệm của đội ngũ cán bộ tư pháp. Việc
tăng cường đào tạo, bồi dưỡng định kỳ sẽ giúp cán b nhận thức đúng
áp dụng thống nhất c quy định của pháp luật. Đồng thời, cần chế để
bảo đảm tính độc lập của Thẩm phán, Hội thẩm khi xét xử, ngăn chặn mọi
hành vi can thiệp trái pháp luật o hoạt động pháp.
Ứng dụng công nghệ, cải thiện công tác giám định ứng dụng công nghệ
thông tin trong việc quản lý, giám sát các quyết định t tụng sẽ giúp tăng
cường tính minh bạch giảm thiểu khả năng thao túng hồ vụ án. Cần
cải thiện quy trình năng lực của các tổ chức giám định pháp, đảm bảo
tính khách quan kịp thời của các kết luận giám định, đặc biệt trong các
vụ án phức tạp liên quan đến thiệt hại về tâm thần, sức khỏe.
Kết luận
Tội ra quyết định trái pháp luật (Điều 371 BLHS) một tội danh phức tạp,
đóng vai trò then chốt trong việc bảo vệ tính đúng đắn của hoạt động pháp.
Báo cáo này đã phân tích chi tiết các yếu tố cấu thành tội phạm, làm bản
chất đặc biệt của chủ thể sự khác biệt giữa cấu thành hình thức vật
chất của tội danh. Phân ch cũng chỉ ra những thách thức trong việc áp dụng
pháp luật, đặc biệt trong việc định lượng các thiệt hại phi vật chất, vốn
chưa được hướng dẫn chi tiết trong các văn bản pháp luật hiện hành.
Sự phân biệt giữa Tội ra quyết định trái pháp luật với Tội ra bản án trái pháp
luật Tội lạm quyền trong khi thi hành ng vụ rất quan trọng để xác định
đúng tội danh, dựa trên sự khác biệt về chủ thể bản chất hành vi. Phân
tích các mối liên hệ với Tội nhận hối lộ cũng cho thấy rằng hành vi ra quyết
định trái pháp luật thường một phần của một chuỗi hành vi phạm tội phức
tạp, đòi hỏi việc áp dụng nguyên tắc tổng hợp hình phạt một cách chính xác.
Từ các phân tích trên, thể rút ra một số khuyến nghị chuyên môn. Để nâng
cao hiệu quả áp dụng Điều 371 BLHS, các quan pháp cần ban hành
thêm các văn bản hướng dẫn chi tiết, đặc biệt về ch thức xác định, định
lượng các loại thiệt hại phi vật chất như oan sai hoặc tổn hại tinh thần. Đồng
thời, việc công bố rộng rãi các bản án đã hiệu lực pháp luật liên quan đến
tội danh này sẽ cung cấp nguồn án lệ quý giá, giúp thống nhất nhận thức
áp dụng pháp luật trong thực tiễn.

Preview text:

Tội ra quyết định trái pháp luật theo Điều 371 Bộ Luật Hình sự
Hành vi này chỉ cấu thành tội phạm khi người thực hiện có đủ tri thức và ý chí
để biết rõ quyết định đó là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố tình ban hành, và
hậu quả của hành vi đó gây ra thiệt hại nghiêm trọng. Sự nguy hiểm của hành
vi này không nằm ở việc sai sót nghiệp vụ hay vô ý, mà ở tính cố ý trực tiếp
và chủ động vi phạm pháp luật của chính những người được giao nhiệm vụ
bảo vệ và thực thi pháp luật. Ví dụ điển hình là việc một Điều tra viên ra quyết
định khởi tố bị can trái pháp luật khi không đủ căn cứ, dẫn đến việc bắt, giam
giữ oan sai cho một cá nhân.
1. Các yếu tố cấu thành tội ra quyết định trái pháp luật
1.1. Mặt khách quan của tội phạm
Hành vi
: Hành vi khách quan của tội danh được thể hiện qua cụm từ "ra
quyết định mà mình biết rõ là trái pháp luật". Điều này bao gồm việc ban hành,
ký duyệt, phê chuẩn, hoặc thông qua một văn bản tố tụng hoặc thi hành án
mà nội dung hoặc hình thức không phù hợp với quy định của pháp luật. Các
quyết định này có thể là: quyết định khởi tố vụ án, quyết định khởi tố bị can,
lệnh bắt tạm giam, quyết định truy tố, quyết định thi hành án dân sự, v.v.
Đặc trưng cốt lõi của mặt khách quan là dấu hiệu "biết rõ là trái pháp luật."
Đây là yếu tố quan trọng nhất để phân biệt hành vi phạm tội với các sai sót
nghiệp vụ thông thường. Để truy cứu trách nhiệm hình sự, cơ quan tố tụng
phải chứng minh được rằng người phạm tội đã có nhận thức đầy đủ về tính
trái pháp luật của quyết định nhưng vẫn cố tình thực hiện. Việc chứng minh
dấu hiệu này là một thách thức lớn trong thực tiễn xét xử, đòi hỏi các chứng
cứ gián tiếp về ý thức chủ quan của người phạm tội.
Hậu quả: Tội phạm này chỉ cấu thành khi gây ra hậu quả nghiêm trọng. Hậu
quả này được pháp luật quy định cụ thể tại các khoản của Điều 371 BLHS, bao gồm: 
Gây thiệt hại về tài sản từ 50.000.000 đồng trở lên. 
Gây rối loạn tâm thần và hành vi của người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo,
người bị hại, đương sự mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% trở lên. 
Dẫn đến việc người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị kết án, người
bị hại, đương sự tự sát. 
Gây ra các thiệt hại khác được xác định là nghiêm trọng, ảnh hưởng xấu
đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội.
Mối quan hệ nhân quả: Để định tội, phải chứng minh được mối quan hệ
nhân quả trực tiếp và tất yếu giữa hành vi ra quyết định trái pháp luật và hậu
quả nghiêm trọng đã xảy ra. Thiệt hại phải là hệ quả trực tiếp của quyết định
trái pháp luật, không phải do một nguyên nhân độc lập nào khác.
1.2. Khách thể của tội phạm
Khách thể của tội ra quyết định trái pháp luật là hoạt động đúng đắn của cơ
quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án và thi hành án, lợi ích của Nhà nước,
quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức và công dân, làm mất uy tín của các cơ
quan tiến hành tố tụng và cơ quan thi hành án
Đối tượng tác động của tội phạm này là những quyết định trái pháp luật của
những người có thẩm quyền: quyết định thu giữ đồ vật, tài liệu, quyết định xử
lý vật chứng, quyết định việc giữ khẩn cấp, quyết định áp dụng, thay đổi hoăc
huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn, quyết định kê biên tài sản, .... Tuy nhiên nếu
trong các quyết định trái pháp luật chỉ là thủ đoạn để người phạm tội thực
hiện tội truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội hoặc không truy cứu
trách nhiệm hình sự người có tội hoặc ra bản án trái pháp luật thì không còn
là đối tượng tác động của tội phạm này nữa.
1.3. Chủ thể của tội phạm
Chủ thể của tội danh này là "chủ thể đặc biệt" theo quy định của pháp luật
hình sự. Đó là những người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng, thi hành
án. Các chức danh có thể là chủ thể của tội này rất đa dạng, bao gồm: 
Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra, Điều tra viên. 
Viện trưởng, Phó Viện trưởng, Kiểm sát viên Viện kiểm sát các cấp. 
Chánh án, Phó Chánh án, Thẩm phán Tòa án các cấp, Hội thẩm. 
Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan Thi hành án, Chấp hành viên ở cơ quan thi hành án dân sự.
Pháp luật cũng tính đến các kịch bản phức tạp hơn, nơi người không có thẩm
quyền trực tiếp nhưng lại chỉ đạo, ép buộc người có thẩm quyền ra quyết định
trái pháp luật. Trong trường hợp này, tùy vào bản chất hành vi mà họ có thể
bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội đồng phạm hoặc các tội danh khác như
"Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ" (Điều 356
BLHS), "Tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ" (Điều 357 BLHS) hoặc "Tội
ép buộc người có thẩm quyền trong hoạt động tư pháp làm trái pháp luật" (Điều 367 BLHS).
1.4. Mặt chủ quan của tội phạm
Người phạm tội ra quyết định trái pháp luật thực hiện hành vi phạm tội của
mình là do cố ý (cố ý trực tiếp), người phạm tội nhận thức rõ việc ra quyết
định của mình là trái pháp luật, thấy trước hậu quả của hành vi và mong
muốn hậu quả xảy ra. Nếu vì lý do nào đó mà người có thẩm quyền không
biết rõ là trái pháp luật thì không phạm tội ra quyết định trái pháp luật
2. Khung hình phạt tội ra quyết định trái pháp luật
Nội dung Điều 371 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định về tội ra quyết định trái pháp luật như sau:
Điều 371. Tội ra quyết định trái pháp luật
1. Người nào có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng, thi hành
án ra quyết định mà mình biết rõ là trái pháp luật gây thiệt hại về
tài sản từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng hoặc
gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tổ chức,
cá nhân, nếu không thuộc một trong các trường hợp quy định tại
các điều 368, 369, 370, 377 và 378 của Bộ luật này, thì bị phạt
cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong những trường hợp sau đây, thì bị
phạt tù từ 02 năm đến 07 năm: a) Có tổ chức;
b) Phạm tội 02 lần trở lên;
c) Đối với người dưới 18 tuổi, phụ nữ mà biết có thai, người già yếu;
d) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của người bị bắt, người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị kết án, người phải chấp hành
án, người bị hại, nguyên đơn, bị đơn, người khởi kiện, người bị
khởi kiện từ 11% đến 45%;
đ) Gây thiệt hại về tài sản từ 200.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng;
e) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt
tù từ 07 năm đến 12 năm:
a) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của người bị bắt, người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị kết án, người phải chấp hành

án, người bị hại, nguyên đơn, bị đơn, người khởi kiện, người bị khởi kiện 46% trở lên;
b) Làm người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị
kết án, người phải chấp hành án, người bị hại, nguyên đơn, bị
đơn, người khởi kiện, người bị khởi kiện tự sát;
c) Gây thiệt hại về tài sản 1.000.000.000 đồng trở lên.
4. Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm.

Theo Điểm 132 Điều 1 Bộ Luật Hình sự sửa đổi, bổ sung năm 2017 đã sửa đổi Điều 371 như sau:
132. Sửa đổi, bổ sung các khoản 1, 2 và 3 Điều 371 như sau:
“1. Người nào có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng, thi hành
án ra quyết định mà mình biết rõ là trái pháp luật gây thiệt hại về
tài sản từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng hoặc
gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp
của tổ chức, cá nhân, nếu không thuộc trường hợp quy định tại
các điều 368, 369, 370, 377 và 378 của Bộ luật này, thì bị phạt
cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt
tù từ 02 năm đến 07 năm: a) Có tổ chức;
b) Phạm tội 02 lần trở lên;
c) Đối với người dưới 18 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu;
d) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của người bị bắt, người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị kết án, người phải chấp hành
án, người bị hại, đương sự mà tỷ lệ tổn thương cơ thê từ 31% đến 60%;
đ) Gây thiệt hại về tài sản từ 200.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng;
e) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt
tù từ 07 năm đến 12 năm:
a) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của người bị bắt, người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị kết án, người phải chấp hành

án, người bị hại, đương sự mà tỷ lệ tổn thương cơ thê 61% trở lên;
b) Dẫn đến người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người
bị kết án, người phải chấp hành án, người bị hại, đương sự tự sát;
c) Gây thiệt hại về tài sản 1.000.000.000 đồng trở lên.”.

2.1. Các khoản hình phạt tương ứng với hành vi và hậu quả
Căn cứ Điều 371 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi 2017, các khung hình phạt được quy định như sau: 
Khoản 1: Phạt tù từ 01 năm đến 05 năm đối với hành vi ra quyết định trái
pháp luật gây thiệt hại về tài sản từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000
đồng hoặc gây thiệt hại khác đến lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp
pháp của tổ chức, cá nhân. 
Khoản 2: Phạt tù từ 02 năm đến 07 năm nếu phạm tội thuộc một trong các
trường hợp định khung tăng nặng. 
Khoản 3: Phạt tù từ 07 năm đến 15 năm nếu phạm tội thuộc một trong các
trường hợp định khung tăng nặng đặc biệt. 
Khoản 4: Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
2.2. Tình tiết định khung tăng nặng và giảm nhẹ
Các tình tiết định khung tăng nặng được quy định tại Khoản 2 và Khoản 3 Điều 371 BLHS bao gồm:  Có tổ chức. 
Phạm tội 02 lần trở lên. 
Đối với người dưới 18 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu. (Trong
thực tiễn, việc xác định "người già yếu" cần có xác nhận của cơ quan
chuyên môn về tình trạng sức khỏe, đặc biệt là đối với người đủ 70 tuổi trở lên ). 
Gây rối loạn tâm thần và hành vi của người bị hại mà tỷ lệ tổn thương cơ
thể từ 31% đến 60% (Khoản 2) hoặc 61% trở lên (Khoản 3). 
Gây thiệt hại về tài sản từ 200.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng
(Khoản 2) hoặc 1.000.000.000 đồng trở lên (Khoản 3). 
Dẫn đến người bị hại, đương sự tự sát.
Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được áp dụng theo quy định
chung tại Điều 51 Bộ luật Hình sự, ví dụ như người phạm tội thành khẩn khai
báo, ăn năn hối cải, tự nguyện bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả, v.v..
2.3. Phân định ranh giới Hậu quả "Nghiêm trọng"
Việc xác định hậu quả “nghiêm trọng” là một trong những thách thức lớn nhất
trong việc áp dụng Điều 371 BLHS. Mặc dù hậu quả có thể là thiệt hại về vật
chất (tài sản) hoặc phi vật chất (oan sai, tổn hại tinh thần), nhưng việc định
lượng chúng trong thực tiễn còn gặp nhiều khó khăn.
Hướng dẫn từ Nghị quyết 03/2020/NQ-HĐTP: Để giải quyết vấn đề này,
Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao đã ban hành Nghị quyết số 03/2020/NQ-
HĐTP, hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLHS trong xét xử tội phạm
tham nhũng và tội phạm khác về chức vụ. Nghị quyết này đưa ra các tiêu chí
cụ thể để xác định trị giá tài sản bị chiếm đoạt hoặc thiệt hại về tài sản. Chẳng
hạn, Nghị quyết quy định trị giá tài sản bị chiếm đoạt làm căn cứ xử lý hình sự
được xác định tại thời điểm thực hiện hành vi phạm tội. Đối với các tội phạm
liên tục, kéo dài, trị giá tài sản bị chiếm đoạt sẽ được xác định tại thời điểm
hành vi phạm tội bị phát hiện, ngăn chặn hoặc kết thúc.
Mặc dù Nghị quyết 03/2020/NQ-HĐTP đã cung cấp một khung định lượng
hóa rõ ràng cho thiệt hại về tài sản, nhưng nó chưa đề cập sâu đến cách xác
định thiệt hại phi vật chất. Cụ thể, các vụ án liên quan đến hậu quả "gây rối
loạn tâm thần và hành vi" (được đề cập trong Điều 370 về Tội ra bản án trái
pháp luật ) hay "oan sai" vẫn chưa có hướng dẫn chi tiết để định lượng hoặc
định tính một cách thống nhất. Việc thiếu các tiêu chí này có thể dẫn đến việc
áp dụng thiếu đồng nhất, tùy thuộc vào quan điểm của từng cơ quan tố tụng. 
So sánh và Định tính thiệt hại: Trong khi thiệt hại về vật chất có thể được
xác định thông qua việc định giá tài sản , thiệt hại phi vật chất lại mang tính
trừu tượng và khó đo lường hơn. Các thiệt hại này có thể bao gồm: 
Gây oan sai: Dẫn đến việc một người vô tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc bị kết án. 
Tổn hại về tinh thần: Gây ra những tổn thương tâm lý nghiêm trọng cho bị
hại, có thể dẫn đến rối loạn tâm thần và hành vi. 
Ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự xã hội: Khi một quyết định trái pháp luật
gây ra sự bất mãn lớn trong công chúng, làm mất niềm tin vào hệ thống tư
pháp, hoặc gây ra các hệ lụy xã hội nghiêm trọng khác.
Việc chứng minh mối quan hệ nhân quả giữa hành vi ra quyết định trái pháp
luật và các hậu quả phi vật chất này là một thách thức lớn trong tố tụng hình sự.
3. Giám định pháp y và thu thập chứng cứ
Giám định tư pháp đóng một vai trò thiết yếu trong việc chứng minh các yếu
tố cấu thành của tội danh này, đặc biệt là khi xác định hậu quả của hành vi.
Các loại giám định thường được trưng cầu bao gồm: 
Giám định pháp y tâm thần: Bắt buộc khi cần xác định tình trạng tâm thần
của người bị hại hoặc người bị buộc tội, đặc biệt khi có dấu hiệu hậu quả là
"gây rối loạn tâm thần và hành vi". 
Giám định pháp y: Dùng để xác định tỷ lệ tổn thương cơ thể của người bị
hại, phục vụ cho việc định khung hình phạt. 
Giám định tài chính, kế toán: Dùng để xác định mức độ thiệt hại về tài sản
do quyết định trái pháp luật gây ra, ví dụ như chi phí bồi thường oan sai,
thiệt hại do việc thu giữ tài sản trái phép, v.v.
Việc giám định tỷ lệ tổn thương cơ thể được thực hiện theo các thông tư
hướng dẫn của Bộ Y tế. Tương tự, việc xác định thiệt hại về tài sản được
thực hiện theo các văn bản quy phạm pháp luật và các quy định của Bộ Tài chính.
Kết luận giám định tư pháp được coi là một nguồn chứng cứ quan trọng trong
vụ án hình sự. Các cơ quan tiến hành tố tụng có nghĩa vụ xem xét, ra quyết
định trưng cầu giám định và thông báo kết luận giám định cho các bên liên
quan trong thời hạn quy định. Kết luận này là cơ sở để xác định mức độ
nghiêm trọng của hậu quả, làm căn cứ để định tội danh, định khung hình phạt
và giải quyết trách nhiệm dân sự trong vụ án.
4. So sánh với tội danh tương tự
Việc phân biệt "Tội ra quyết định trái pháp luật" với các tội danh tương tự là
vô cùng quan trọng để định tội danh chính xác, tránh oan sai trong tố tụng.
Hai tội danh dễ bị nhầm lẫn nhất là "Tội ra bản án trái pháp luật" (Điều 370
BLHS) và "Tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ" (Điều 357 BLHS). Tiêu
Ti ra quyết định trái pháp lut
Ti ra bn án trái
Ti lm quyn trong khi thi chí (Điu 371)
pháp lut (Điu 370)
hành công v(Điu 357)
Hoạt động đúng đắn của cơ quan, Khách
Hoạt động đúng đắn của các cơ quan Hoạt động xét xử của th
tiến hành tố tụng và thi hành án. Tòa án.
tổ chức, gây suy yếu uy tín của cơ quan, tổ chức.
Chủ thể đặc biệt: Người có thẩm quyền trong
Chủ thể đặc biệt: Người có chức
Chhoạt động tố tụng, thi hành án (đa dạng: Điều Chủ thể đặc biệt: Chỉ có
vụ, quyền hạn (phạm vi rộng hơn, th
tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Chấp hành Thẩm phán, Hội thẩm.
không giới hạn trong lĩnh vực tư viên. .). pháp). Tiêu
Ti ra quyết định trái pháp lut
Ti ra bn án trái
Ti lm quyn trong khi thi chí (Điu 371)
pháp lut (Điu 370)
hành công v(Điu 357)
Ra "quyết định" trái pháp luật (phạm
Ra "bản án" trái pháp luật Vượt quá quyền hạn được
Hành vi vi rộng, bao gồm nhiều văn bản tố
(phạm vi hẹp, chỉ là bản giao để thực hiện công vụ. tụng). án). Mt
Lỗi cố ý trực tiếp ("biết rõ
chLỗi cố ý trực tiếp ("biết rõ là trái pháp luật"). Lỗi cố ý hoặc vô ý. quan là trái pháp luật"). Cần gây ra hậu quả Hu
Cần gây ra thiệt hại nghiêm trọng nghiêm trọng theo quy qu
theo quy định tại điều luật.
Cần gây ra thiệt hại nghiêm trọng. định tại điều luật.
Ý nghĩa thực tiễn của việc phân biệt đúng các tội danh này là nền tảng cho
một nền tư pháp công bằng. Việc định tội danh chính xác giúp cơ quan tố
tụng áp dụng đúng khung hình phạt, tránh việc kết án oan sai hoặc bỏ lọt tội
phạm, qua đó đảm bảo nguyên tắc pháp chế, thượng tôn pháp luật.
5. Câu hỏi thường gặp (FAQs) có liên quan
Câu hỏi 1: Một người không có chức vụ hoặc thẩm quyền nhưng đã ra
quyết định giả mạo gây thiệt hại thì có bị truy tố về tội này không?
Trả lời: Không. Chủ thể của tội danh "Ra quyết định trái pháp luật" là chủ thể
đặc biệt, phải là người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng, thi hành án.
Hành vi giả mạo quyết định có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về các tội
danh khác như "Tội làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức" (Điều 341 BLHS)
hoặc "Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản" (Điều 174 BLHS).
Câu hỏi 2: Hậu quả "gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước" được xác định như thế nào?
Trả lời: Thiệt hại này không chỉ giới hạn ở thiệt hại vật chất (như chi phí bồi
thường oan sai, chi phí tố tụng không cần thiết) mà còn bao gồm các thiệt hại
phi vật chất. Đó là việc làm giảm uy tín của các cơ quan nhà nước, gây mất
trật tự, an ninh xã hội, gây ảnh hưởng tiêu cực đến chính sách của Đảng và Nhà nước.
Câu hỏi 3: Cần chứng minh yếu tố "biết rõ" như thế nào trong thực tiễn xét xử?
Trả lời: Việc chứng minh yếu tố này thường dựa vào các chứng cứ gián tiếp.
Ví dụ, hồ sơ vụ án thể hiện rõ ràng các chứng cứ mâu thuẫn nhưng bị cố tình
bỏ qua, các bút lục thể hiện sự phản đối của cấp dưới nhưng vẫn bị bác bỏ,
hoặc lời khai của chính người phạm tội và các nhân chứng khác về việc họ
đã được cảnh báo nhưng vẫn cố tình vi phạm.
6. Khó khăn vướng mắc và đề xuất kiến nghị
Trong hệ thống pháp luật Việt Nam, văn bản quy phạm pháp luật là nguồn
luật chính, trong khi án lệ có giá trị tham khảo đối với Thẩm phán khi giải
quyết các vụ việc. Hiện tại, việc tìm kiếm một án lệ hoặc quyết định giám đốc
thẩm công khai về Tội ra quyết định trái pháp luật (Điều 371) là một thách
thức, do tính chất phức tạp và nhạy cảm của các vụ án liên quan.
Tuy nhiên, có thể phân tích một trường hợp thực tiễn để làm sáng tỏ bản chất
của hành vi này. Một ví dụ điển hình là vụ việc Thẩm phán Võ Thị Hồng Thu
bị kỷ luật vì vi phạm pháp luật tố tụng dân sự. Các hành vi của Thẩm phán
này bao gồm: thụ lý đơn khởi kiện không hợp lệ, thụ lý vụ án trước khi nộp án
phí, ban hành quyết định khẩn cấp tạm thời trái quy định pháp luật. Mặc dù vụ
việc này không được truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 371, nhưng các
hành vi vi phạm tố tụng được liệt kê là những minh chứng rõ nét cho bản chất
của hành vi "ra quyết định trái pháp luật."
Việc phân tích các hành vi trong vụ việc này cho thấy những vi phạm về thủ
tục, thẩm quyền trong quá trình tố tụng, nếu có lỗi cố ý và gây ra hậu quả
nghiêm trọng, hoàn toàn có thể là cơ sở để truy cứu trách nhiệm hình sự theo
Điều 371. Phân tích này cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tuân thủ
nghiêm ngặt các quy định về tố tụng để tránh những sai phạm có thể dẫn đến trách nhiệm hình sự.
Thực tiễn áp dụng tội danh này gặp nhiều khó khăn, chủ yếu xoay quanh việc
chứng minh yếu tố "biết rõ là trái pháp luật." Đây là một yếu tố thuộc về ý
thức chủ quan của người phạm tội, rất khó để thu thập bằng chứng vật chất
một cách trực tiếp. Quá trình điều tra thường phải dựa vào các chứng cứ gián
tiếp như: hồ sơ vụ án thể hiện các chứng cứ mâu thuẫn nhưng bị cố tình bỏ
qua, bút lục thể hiện sự phản đối từ cấp dưới, hay lời khai của các nhân chứng.
Việc chứng minh sự tồn tại của lỗi cố ý trực tiếp thường dẫn đến những tranh
cãi gay gắt tại phiên tòa, gây kéo dài thời gian giải quyết vụ án. Điều này đòi
hỏi các Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán phải có trình độ chuyên môn
cao và kinh nghiệm thực tiễn để đánh giá chứng cứ một cách toàn diện và chính xác.
Một trong những vướng mắc lớn nhất là sự thiếu thống nhất trong nhận thức
và áp dụng pháp luật giữa các cơ quan tố tụng (Công an, Viện kiểm sát, Tòa
án) và giữa các cấp xét xử. Tình trạng này dẫn đến việc trả hồ sơ để điều tra
bổ sung nhiều lần, Tòa án xét xử khác tội danh hoặc khoản so với Viện kiểm
sát đã truy tố, gây khó khăn cho khâu thi hành án. Sự thiếu thống nhất này có
thể là hệ quả của việc thiếu các văn bản hướng dẫn chi tiết và mang tính liên
ngành, khiến cho mỗi địa phương hoặc mỗi cơ quan có thể áp dụng một cách
khác nhau, tạo ra sự tùy nghi và thiếu công bằng.
Từ những vấn đề trên, Luật Minh Khuê đưa ra đề xuất kiến nghị hoàn thiện pháp luật như sau:
Sửa đổi luật, bổ sung hướng dẫn để giải quyết các vướng mắc trong thực
tiễn, cần thiết phải có những văn bản hướng dẫn cụ thể từ các cơ quan
trung ương. Kiến nghị ban hành một Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán
Tòa án nhân dân Tối cao hoặc Thông tư liên tịch của Viện kiểm sát nhân
dân Tối cao, Tòa án nhân dân Tối cao và Bộ Công an để giải thích chi tiết
các dấu hiệu cấu thành tội phạm, đặc biệt là dấu hiệu "biết rõ là trái pháp
luật" và cách xác định hậu quả nghiêm trọng trong các trường hợp phi vật
chất. Việc này sẽ đảm bảo tính thống nhất và minh bạch trong áp dụng pháp luật trên toàn quốc. 
Tăng cường đào tạo cán bộ tố tụng bên cạnh việc hoàn thiện hệ thống văn
bản pháp luật, cần chú trọng vào việc nâng cao năng lực chuyên môn, đạo
đức nghề nghiệp và ý thức trách nhiệm của đội ngũ cán bộ tư pháp. Việc
tăng cường đào tạo, bồi dưỡng định kỳ sẽ giúp cán bộ nhận thức đúng và
áp dụng thống nhất các quy định của pháp luật. Đồng thời, cần có cơ chế để
bảo đảm tính độc lập của Thẩm phán, Hội thẩm khi xét xử, ngăn chặn mọi
hành vi can thiệp trái pháp luật vào hoạt động tư pháp. 
Ứng dụng công nghệ, cải thiện công tác giám định ứng dụng công nghệ
thông tin trong việc quản lý, giám sát các quyết định tố tụng sẽ giúp tăng
cường tính minh bạch và giảm thiểu khả năng thao túng hồ sơ vụ án. Cần
cải thiện quy trình và năng lực của các tổ chức giám định tư pháp, đảm bảo
tính khách quan và kịp thời của các kết luận giám định, đặc biệt là trong các
vụ án phức tạp liên quan đến thiệt hại về tâm thần, sức khỏe. Kết luận
Tội ra quyết định trái pháp luật (Điều 371 BLHS) là một tội danh phức tạp,
đóng vai trò then chốt trong việc bảo vệ tính đúng đắn của hoạt động tư pháp.
Báo cáo này đã phân tích chi tiết các yếu tố cấu thành tội phạm, làm rõ bản
chất đặc biệt của chủ thể và sự khác biệt giữa cấu thành hình thức và vật
chất của tội danh. Phân tích cũng chỉ ra những thách thức trong việc áp dụng
pháp luật, đặc biệt là trong việc định lượng các thiệt hại phi vật chất, vốn
chưa được hướng dẫn chi tiết trong các văn bản pháp luật hiện hành.
Sự phân biệt giữa Tội ra quyết định trái pháp luật với Tội ra bản án trái pháp
luật và Tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ là rất quan trọng để xác định
đúng tội danh, dựa trên sự khác biệt về chủ thể và bản chất hành vi. Phân
tích các mối liên hệ với Tội nhận hối lộ cũng cho thấy rằng hành vi ra quyết
định trái pháp luật thường là một phần của một chuỗi hành vi phạm tội phức
tạp, đòi hỏi việc áp dụng nguyên tắc tổng hợp hình phạt một cách chính xác.
Từ các phân tích trên, có thể rút ra một số khuyến nghị chuyên môn. Để nâng
cao hiệu quả áp dụng Điều 371 BLHS, các cơ quan tư pháp cần ban hành
thêm các văn bản hướng dẫn chi tiết, đặc biệt là về cách thức xác định, định
lượng các loại thiệt hại phi vật chất như oan sai hoặc tổn hại tinh thần. Đồng
thời, việc công bố rộng rãi các bản án đã có hiệu lực pháp luật liên quan đến
tội danh này sẽ cung cấp nguồn án lệ quý giá, giúp thống nhất nhận thức và
áp dụng pháp luật trong thực tiễn.
Document Outline

  • Tội ra quyết định trái pháp luật theo Điều 371 Bộ
    • 1. Các yếu tố cấu thành tội ra quyết định trái phá
      • 1.1. Mặt khách quan của tội phạm
      • 1.2. Khách thể của tội phạm
      • 1.3. Chủ thể của tội phạm
      • 1.4. Mặt chủ quan của tội phạm
    • 2. Khung hình phạt tội ra quyết định trái pháp luậ
      • 2.1. Các khoản hình phạt tương ứng với hành vi và
      • 2.2. Tình tiết định khung tăng nặng và giảm nhẹ
      • 2.3. Phân định ranh giới Hậu quả "Nghiêm trọng"
    • 3. Giám định pháp y và thu thập chứng cứ
    • 4. So sánh với tội danh tương tự
    • 5. Câu hỏi thường gặp (FAQs) có liên quan
    • 6. Khó khăn vướng mắc và đề xuất kiến nghị
    • Kết luận