/16
lOMoARcPSD| 61601590
1. Nguồn gốc, bản chất của ý thức: Lý luận và ý nghĩa
Nguồn gốc ý thức ra sao? SGK Tr.45
Nguồn gốc ý thức có thể được phân thành hai khía cạnh chính: nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã
hội.
- Nguồn gốc tự nhiên:
+ Bộ óc con người: Ý thức là thuộc tính của bộ óc con người, một dạng vật chất có tổ chức cao. Bộ óc
càng phát triển, khả năng nhận thức và tư duy của con người càng phong phú và sâu sắc.
+ Mối quan hệ với thế giới khách quan: Thế giới khách quan tác động đến bộ óc con người thông qua
các giác quan, tạo ra quá trình phản ánh sáng tạo và năng động. Quá trình này giúp con người nhận
thức và hiểu biết về thế giới xung quanh.
- Nguồn gốc xã hội:
+ Lao động và ngôn ngữ: Lao động là hoạt động cơ bản giúp con người tương tác với thế giới và phát
triển ý thức. Ngôn ngữ công cụ quan trọng giúp con người giao tiếp, truyền đạt kinh nghiệm tri
thức, từ đó phát triển ý thức.
=+ Quan hệ xã hội: Ý thức không chỉ là sản phẩm của cá nhân mà còn là kết quả của các mối quan hệ
hội. Sự tương tác và giao tiếp giữa con người với nhau trong hội đóng vai trò quan trọng trong
việc hình thành và phát triển ý thức.
Bản chất của ý thức
Trước triết học Mác, quan niệm duy tâm tôn giáo coi ý thức sản phẩm thuần túy của lực lượng
siêu nhiên, hoặc “linh hồn” của con người. Ngược lại quan niệm duy vật coi ý thức sự phản ánh
hiện thực khách quan của bộ não người, vì thế có nhiều thắc mắc xoay quanh về ý thức như: "Ý thức
gì? Bản chất của ý thức gì? dụ về bản chất của ý thức? Phân tích nội dung bản chất của ý
thức?"
Theo đó, triết học duy vật biện chứng coi ý thức là thuộc tính của một dạng vật chất có tổ chức cao là
bộ não người, hoặc là “hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan”.
Ý thức không phải vật chất, chỉ thuộc tính của một dạng vật chất tổ chức cao bộ não
người. Ý thức chỉ con người và tồn tại thông qua sự hoạt động của bộ não người. Khác với vật
chất là i tồn tại khách quan, sự tồn tại của ý thức sự tồn tại chủ quan khả năng phản ánh
tồn tại khách quan. Ý thức hoạt động tinh thần của con người kết cấu phức tạp bao gồm: Tình
cảm, ý chí, tư tưởng,...
Bản chất của ý thức sự phản ánh mang tính tích cực, năng động tính sáng tạo. Bởi vì, nhận
thức của con người là một nhu cầu khách quan, nhu cầu về nghiên cứu và sự giải thích tất cả những
xảy ra trong hiện thực, về sự nắm bắt và vận dụng các qui luật khách quan. Tính năng động và sáng
tạo của ý thức là quá trình cải biến các đối tượng vật chất đã được di chuyển vào bộ não con người,
thành cái tinh thần, cái khách thể tinh thần.
Một số ví dụ bản chất của ý thức:
lOMoARcPSD| 61601590
Bản chất của ý thức, theo quan điểm triết học Marx-Lenin, là sự phản ánh hiện thực khách quan vào
trong bộ óc con người, thông qua hoạt động thực tiễn và các quá trình nhận thức. Ý thức không phi
là thứ tự sinh ra hay tồn tại độc lập mà luôn là sự phản ánh của thế giới vật chất.
Để làm rõ bản chất này, chúng ta có thể xét các ví dụ sau:
(1) Ý thức và lao động
Khi con người đối mặt với thiên nhiên để kiếm sống (như săn bắt, hái lượm), thông qua quá trình này,
ý thức về việc chế tạo công cụ dần hình thành. Con người nhận ra rằng cần cải tiến công cụ lao động
như đá, gỗ để hiệu quả hơn. Đây là quá trình ý thức phản ánh lại những yêu cầu vật chất tthực tiễn
và tạo ra các phát minh mới.
Khi máy móc công nghiệp ra đời, ý thức con người tiếp tục thay đổi và phản ánh những yêu cầu mới
của sản xuất. Các lý thuyết về quản lý, tổ chức lao động, sản xuất tđộng hóa là kết qucủa quá trình
phản ánh và sáng tạo từ thực tiễn công nghiệp hiện đại.
(2) Ý thức về xã hội và đạo đức
Trong các hội phong kiến, quan niệm về quyền lực, địa vị sự phân biệt giai cấp điều hiển nhiên
được chấp nhận. Tuy nhiên, khi xã hội chuyển sang c hình thái kinh tế khác, đặc biệt là trong thời
kỳ tư bản công nghiệp, ý thức về công bằng xã hội, quyền con người, và đấu tranh giai cấp bắt đầu
thay đổi. Đây minh chứng cho việc ý thức hội thay đổi theo các điều kiện vật chất, chính trị
kinh tế của từng thời kỳ.
dụ về sự phát triển ý thức đạo đức: trước đây, các chế độ lệ được coi điều tự nhiên chấp
nhận. Tuy nhiên, khi xã hội phát triển và ý thức con người về tự do, nhân quyền tiến bộ, việc phản đối
xóa bỏ chế độ nô ltrthành điều tất yếu. Điều này cho thấy ý thức đạo đức của con người luôn
gắn liền và phát triển cùng với những biến đổi về vật chất và điều kiện xã hội.
(3) Ý thức và khoa học
Trước khi kính viễn vọng, ý thức con người về trụ rất hạn chế, họ tin rằng Trái đất trung tâm
của vũ trụ (thuyết địa tâm). Nhưng khi khoa học công nghệ phát triển, công cụ quan sát như kính
viễn vọng ra đời, ý thức về trụ thay đổi, dẫn đến thuyết nhật tâm của Copernicus sự phát triển
của thiên văn học hiện đại.
Tóm lại, bản chất của ý thức là sự phản ánh của vật chất và các điều kiện thực tế. Nó không chỉ là sự
sao chép thđộng, mà còn có khả năng sáng tạo, thay đổi và tác động ngược lại vật chất, tạo ra động
lực phát triển của xã hội.
2.Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức. SGK/48
Lý luận:
Để phân tích được mối quan hbiện chứng giữa vật chất ý thức thì trước tiên ta phải hiểu
và phát biểu được khái niệm về vật chất và ý thức
lOMoARcPSD| 61601590
Vật chất: Theo LêNin “ Vật chất là 1 phạm trù triết học dùng để chthực tại khách quan được đem lại
cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh lại và tồn tại
không lệ thuộc vào cảm giác”
Ý thức : Là một dạng vật chất đặc biệt có tổ chức cao là bộ óc con người. Bộ óc người là cơ quan vật
chất của ý thức còn ý thức là chức năng của bộ óc con người vì vậy không thể tách rời ý thức ra khi
bộ óc.
Ý thức có 2 nguồn gốc chính: nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội
Nguồn gốc tự nhiên: Óc người cơ quan vật chất của ý thức kết quả quá trình tiến hóa lâu dài
của vật chất. Sự tiến hóa của các hình thức phản ánh phụ thuộc vào những cấp độ phát triển khác
nhau của vật chất. Phản ánh tâm lý ở động vật cấp cao và sự chuyển hóa của phản ánh tâm lý thành
phản ánh ý thức của con người.
Nguồn gốc hội : ý thức hình thành thông qua quá trình lao động, ngôn ngvà những quan hệ
hội của loài người.
Vật chất được hiểu một phạm trù triết học dùng đchỉ thực tại khách quan được đem lại cho con
người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại; chụp lại; phản ánh và không lệ thuộc vào
cảm giác. Lênin đòi hỏi phân biệt vật chất với với cách một phạm trù triết học, chỉ ra tất cả
những gì tác động đến ý thức của chúng ta, giúp hiểu biết các hiện tượng. Vật chất là hiện thực khách
quan, tồn tại bên ngoài không phụ thuộc vào cảm giác, ý thức của con người.
Đặc điểm của vật chất: Vật chất tồn tại bằng vận động thể hiện sự tồn tại thông qua vận động.Không
vận động ngoài vật chất không vật chất không vận độngVật chất vận động trong không
gian và thời gian; Không gian và thời gian là thuộc tính chung vốn có của các dạng vật chất cụ thể và
là hình thức tồn tại của vật chất.
Bên cạnh vật chất, ý thức kết quả của quá trình phát triển tự nhiên lịch shội. Ý thức mang
bản chất hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, chính sự phản ánh tích cực, tự giác, chủ
động thế giới khách quan và bộ não con người thông qua hoạt động thực tiễn.
2. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
Vật chất ý thức quan hệ 2 chiều tác động qua lại lẫn nhau. Mối quan hệ giữa vật chất ý
thức được thể hiện qua nhận thức và thực tiễn như sau
2.1 Thứ nhất: Vật chất có vai trò quyết định ý thức
Do tồn tại khách quan nên vật chất cái trước mang tính thứ nhất. Ý thức sự phản ánh lại
của vật chất nên là cái có sau và mang tính thứ hai. Nếu không có vật chất trong tự nhiên và vật chất
trong xã hội thì sẽ không có ý thức nên ý thức là thuộc tính, là sn phẩm cuẩ vật chất, chịu sự chi phối,
quyết định của vật chất. Bên cạnh đó, ý thức tính sáng tạo, năng động nhưng những điều này
sở từ vật chất tuân theo những quy luật của vật chất. Vật chất quy định nội dung và hình thc
biểu hiệu của ý thức. Điều này có ý nghĩa là ý thức mang những thông tin về đối tượng vật chất cụ th.
Những thông tin này có thể đúng hoặc sai, đủ hoặc thiếu, sự biểu hiện khác nhau đều do mức độ tác
động của vật chất lên bộ óc con người.
Ví dụ 1:nhân A sinh sống ở vùng sâu. vùng xa không có cơ hội tiếp cận với công nghệ thông tin,
việc tiếp cận còn nhiều hạn chế, cũng như khi đi học thì A cũng thiếu đội ngũ giáo viên giảng vậy. Tức
lOMoARcPSD| 61601590
là về điều kiệnsở h tầng không đáp ứng nên cá nhân A không có kiến thức, hiểu biết nhiều về các
sản phẩm công nghệ thông tin, thậm chí không biết sử dụng. Tuy nhiên, đối với cá nhân B sống Th
đô, từ nhỏ cá nhân B có cơ hội học tập, tiếp cận với các công nghệ thông tin hiện đại,cha mẹ ng
như thầy chỉ dạy, vậy nhân B ddàng sdụng tiếp cận các công nghệ thông tin
những công nghệ mới nhất. Như vậy, có thể thấy điều kiện vật chất sẽ quyết định ý thức.
dụ 2: Việt Nam ta thường câu ca dao tục ngữ "có thực mới vực được đạo" ý vật chất quyết
định nhận thức của con người. Khi con người không đủ no, không sức khoẻ thì bộ não của con
người sẽ khó hoạt động. Bộ não con người sẽ phản ánh những hiện thực của cuộc sống một cách cụ
thnht.
Ý nghĩa phương pháp luận của quan niệm vật chất: Định nghĩa vật chất của V.I Lê Nin đã hai mặt vn
đề bản của triết học trên lập trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng. Trong nhận thức thực
tiễn đòi hỏi con người phải quán triệt nguyên tắc khách quan - xuất phát từ hiện thực khách quan, tôn
trọng khách quan, nhận thức vận dụng đúng đắn quy luật khách quan. Định nghĩa vật chất của V.I
Lenin là cơ sở khoa học cho việc xác định vật chất trong lĩnh vực xã hội - đó là các điều kiện sinh hoạt
vật chất, hoạt động vật chất và các mối quan hvật chất xã hội giữa người với người. Nó còn tạo sự
liên kết giữa chủ nghĩa duy vật biện chứng chủ nghĩa duy vật lịch sử thành một hệ thống luận
thống nhất, góp phần tạo ra nền tảng lý luận khoa học cho việc phân tích một cách duy vật các vấn đề
của chủ nghĩa duy vật lịch sử, trước hết là các vấn đề về sự vận động và phát triển của phương thức
sản xuất vật chất, về mối quan hgiữa tồn tại hội ý thức hội, về mối quan hệ giữa quy luật
khách quan của lịch sự và hoạt động có ý thức của con người.
2.2 Thứ hai: Ý thức tác động trở lại vật chất
Mặc dù vật chất sinh ra ý thức nhưng ý thức không thụ động mà sẽ c động trở lại cật chất thông qua
các hoạt động thực tiễn của con người. Ý thức sau khi sinh ra sẽ không bị vật chất thể
tác động làm thay đổi vật chất.
Vai trò của ý thức đi với vật chất thể hin ở vai trò của con người đối với khách quan. Qua hoạt động
của con người, ý thức ththay đổi, cải tạo hiện thực khách quan theo nhu cầu phát triển của con
người. mức độ tác động phụ thuộc vào nhiều yếu tố như nhu cầu, ý chí, điều kiện, môi trường…
và nếu được tổ chức tốt thì ý thức có khả năng tác động lớn đến vật chất.
Ý thức không thể thoát ly hiện thực khách quan, sức mạnh của ý thức được chứng tỏ qua việc nhận thức hiện
thực khách quan và từ đó xây dựng kế hoạch, xác định mục tiêu ý chí để hoạt động của con người có thể tác
động trở lại vật chất. Việc tác động tích cực lên vật chất thì xã hội sẽ ngày càng phát triển và ngược lại, nếu
nhận tức không dùng, ý thức sẽ kìm hãm lịch sử.
Ý thức tác động lại vật chất thông qua các hoạt động thực tiễn
Trong mối quan hệ với vật chất, ý thức có thể c động trở lại đối với vật chất thông qua các hoạt động
thực tiễn của con người. Bởi ý thức chính ý thức của con người nên nói đến vai trò của ý thức
chính nói đến vai trò của con người. Bản thân ý thức không trực tiếp làm thay đổi bất cứ điều
trong hiện thực khách quan.
Mọi hoạt động của con người đều do ý thức chỉ đạo, vậy vai trò của ý thức không phải là trực tiếp
tạo ra hay làm thay đổi thế giới vật chất trang bcho con người những hiểu biết về hiện thực
khách quan, trên sở đó con người xác định mục tiêu, đra phương hướng, xây dựng kế hoạch,
lựa chọn phương pháp, các biện pháp, công cụ, phương tiện … để thực hiện mục tiêu của mình.
lOMoARcPSD| 61601590
Ví dụ 2: Khi ở nhiệt đố 0 độ C thì nước đông thành đá, do đó con người muốn uống nước đá đã cung
cấp một nhiệt độ vừa đủ để ớc chuyển từ trạng thái lỏng, sang trạng thái rắn (nước đá).
Thường thì sự tác động của ý thức đối với vật chất sẽ diễn ra theo hai hướng:
- Tích cực: Khi phản ánh đúng đắn hiện thực, ý thức sẽ tác động lực thúc đẩy vật chất phát triển nhưhai
vị dụ trên có thể thấy được rằng ý thức đang tác động tích cực đến vật chất.
- Tiêu cực: Khi phản ánh sai lệnh hiện thực, ý thức có thể kìm hãm sự phát triển của vật chất
3. Ý nghĩa phương pháp luận
Phải luôn xuất phát từ hiện thực khách quan trong mọi hoạt động. Tri thức con người thu nhận
được sẽ thông qua chu trình học tập, nghiên cứu từ các hoạt động quan sát, phân tích để tác động
vào đối tượng vật chất buộc những đối tượng đó phải thể hiện những thuộc tính, quy luật.Đcải
tạo thế giới khách quan đáp ứng nhu cầu của mình, con người phải căn cứ vào hiện thực khách quan
để có thể đánh giá, xác định phương hướng biện pháp, kế hoạch mới có thể thành công. Bên cạnh đó
cần phải tránh xa những thói quen chn cứ vào nhu cầu, niềm tin không nghiên cứu đánh giá
tình hình đối tượng vất chất.
Phát huy tính năng động, sáng tạo, sức mạnh to lớn của yếu tố con người.Con người muốn ngày càng
tài năng, xã hội ngày càng phát triển thì phải luôn chủ động, phát huy khả năng của mình và luôn tìm
tòi, sáng tạo cái mới. Bên cạnh đó, con người phải thường xuyên rèn luyện, tu dưỡng, nâng cao năng
lực và không bỏ cuộc giữa chừng.
Trong việc xây dựng nền kinh tế mới: Hiện nay, người dân hiểu và tiếp thu những nghiên cứu, đúc kết
từ phân tích của nhà khoa học, nhà triết học vào thực tiễn cuộc sống. Sau đó áp dụng mối quan hệ
giữa vật chất ý thức. sở để con người phản ứng với thực tại vật chất thông qua nhng
nhận thức cụ thể. Có những thứ tồn tại trong thực tế cuộc sống cần phải có sự cải tạo của con người
mới có ích cho nhiều việc.
Từ sự hiện diện của vật chất trên thế giới này, con người nhận thức đúng, thậm chí thay đổi tác
động trở lại một cách sáng tạo. Làm cho vật chất đó sinh ra các vật thể, đồ vật, sinh vật, thực vật, ….
đa dạng hơn hoặc nếu chthể coi đó là vật có hại thì sẽ tìm cách kìm hãm sự phát triển của nó và loại
bỏ khỏi thế giới loài người. Đất nước ta đang ớc vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa, Đảng ta chủ trương: “huy động ngày càng cao mọi nguồn lực cả trong ngoài nước, đc
biệt là nguồn lực của dân công cuộc phát triển đất nước”, muốn vậy phải “nâng cao năng lực lãnh
đạo và sức chiến đấu của Đảng phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi
mới, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, thực hiện “dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh”.
3.Hai nguyên lý của phép biện chứng duy vật: lý luận và vận dụng SGK/50
A: Nguyên lý về mối liên hệ phbiến
nguyên tắc luận xem xét svật, hiện tượng khách quan tồn tại trong mối liên hệ, ràng buộc lẫn
nhau c động, ảnh hưởng lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng hay giữa các mặt của một sự vật, của
một hiện tượng trong thế giới. Nguyên lý này biểu hiện thông qua 06 cặp phạm trù cơ bản.
- Ý nghĩa phương pháp luận: + SGK/52
lOMoARcPSD| 61601590
+ Quan điểm toàn diện: Khi nghiên cứu hoặc giải quyết vấn đề, cần xem xét toàn diện các mối liên hệ
và tác động qua lại giữa các yếu tố.
+ Quan điểm lịch sử - cụ th: Mỗi sự vật, hiện tượng cần được xem xét trong bối cảnh lịch sử và điều
kiện cụ thể của nó.
Ví dụ: Những ví dụ này cho thấy rằng mọi sự vật, hiện tượng đều tồn tại trong mối liên hệ và tác động
qua lại lẫn nhau, không có gì tồn tại một cách biệt lập.
- Mối liên hgiữa đào tạo hiệu quả lao động: Trong đào tạo phát triển việc đào tạo nâng caokỹ
năng cho người lao động sẽ dẫn đến hiệu quả lao động cao hơn. Ví dụ, khi công nhân được đào tạo
về kỹ thuật mới, họ có thể làm việc hiệu quả hơn và giảm thiểu sai sót trong quá trình sản xuất. - Mối
liên hệ giữa điều kiện làm việc năng suất lao động: Cải thiện điều kiện làm việc (như môi trường
làm việc an toàn, thoải mái) sẽ ảnh hưởng tích cực đến năng suất lao động. Giả sử một nhà máy có
hệ thống thông gió tốt và ánh sáng đầy đủ sẽ giúp công nhân làm việc hiệu quả hơn.
Những ví dụ này cho thấy rằng mọi sự vật, hiện tượng đều tồn tại trong mối liên hệ tác động qua lại
lẫn nhau, không có gì tồn tại một cách biệt lp. B: Nguyên lý về sự phát triển SGK/52,53
là nguyên tắc lý luận mà trong đó khi xem xét sự vật, hiện tượng khách quan phải luôn đặt chúng vào
quá trình luôn luôn vận động và phát triển (vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ kém hoàn thiện đến
hoàn thiện hơn của sự vật). Nguyên lý này biểu hiện thông qua ba quy luật cơ bản
- Ý nghĩa phương pháp luận:
+ Quan điểm phát triển: Khi nghiên cứu hoặc giải quyết vấn đề, cần xem xét sự vt hiện tượng trong
quá trình vận động và phát triển của chúng.
+ Quan điểm toàn diện: Cần xem t sự phát triển trong mối liên hệ với các yếu tố khác, không tách
rời hoặc cô lập.
Ví dụ:
- Trong tnhiên: Các loài sinh vật phát triển từ những dạng sống đơn giản đến phức tạp hơn thông
qua quá trình chọn lọc tự nhiên. Ví dụ, loài người đã tiến hóa từ các loài linh trưởng cổ đại.
- Trong duy: Con người luôn học hỏi tích lũy kiến thức mới. dụ, từ việc hiểu biết bản về
thiên văn học, con người đã phát triển các thuyết phức tạp về trụ khám phá không gian. 4.
Quy luật lượng-cht SGK/63,64
Lý luận:
Mỗi sự vật, hiện tượng tồn ti ở một thể thống nhất bao gồm phần chất phần lượng. Trong đó phần
chất là phần tương đối ổn định còn phần lượng là phần thường xuyên có sự biến đổi.
Sự biến đổi này của lượng sẽ tạo nên sự mâu thuẫn giữa lượng và chất.
Trong một điều kiện nhất định đáp ứng được sự biến đổi về ợng, một sự vật, hiện tượng sẽ sự
biến đổi về ợng, đến một mức đnhất định, sẽ phá vỡ chất cũ. Lúc này mâu thuẫn giữa lượng
và chất được giải quyết, chất mới được hình thành với một lượng mới. Tuy nhiên bản chất của lượng
vận động nên sẽ không đứng yên mà sẽ tiếp tục vận động đến một thời điểm nào đó nó sẽ làm
phá vỡ chất hiện tại.
Quá trình vận động giữa hai mặt Lượng và chất tác động với nhau qua hai mặt: Chúng tạo nên sự vn
động liên tục không dừng lại. Lượng sẽ biến đổi dần dần tạo nên chất mới, hay nói cách khác,
lOMoARcPSD| 61601590
ợng biến đổi dần dần tạo n bước nhảy vọt. Sau đó chúng tiếp tục biến đổi dần và tạo nên bước
nhảy vọt tiếp theo.
Nói một cách ngắn gọn thì nội dung quy luật lượng chất là bất cứ một sự vật, hiện ợng nào cũng đều
vận động và phát triển.
Biến đổi về ợng đến một mức nhất định sdẫn đến biến đổi về chất, sản sinh chất mới. Rồi trên nền
tảng của chất mới lại bắt đầu biến đổi về ợng. Biến đổi về ợng là nền tảng và chuẩn bị tất yếu của
biến đổi về chất. Biến đổi về chất là kết quả tất yếu của biến đổi về ợng. Quy luật biến đổi về chất
ợng cho thấy trạng thái và quá trình phát triển của sự vật.
Vận dụng quy luật trong quá trình học tập và rèn luyện của sinh viên hiện nay.
Sự khác nhau cơ bản giữa việc học tập phổ thông và Đại Học Lượng kiến thức ở bậc đại
học tăng lên đáng kể so với hc ở bậc trung học phổ thông.
Ví dụ đơn giản, nếu ở cấp 3, một môn học kéo dài một năm thì ở đại học, một môn học sẽ chỉ kéo dài
khoảng 1 đến 2 tháng. ràng, lượng kiến thức tăng lên đáng kể sẽ mang đến những khó khăn cho
tân sinh viên. Không chỉ chênh lệch về ợng kiến thức mà còn có sự đa dạng về kiến thức ở bậc đại
học và trung học phổ thông. Không giống như phong cách học tập thụ động ca trường trung học, sinh
viên đại học tham gia vào nhiều hoạt động nhóm, thuyết trình, hoạt động ngoại khóa, v.v. Chính những
thay đổi về ợng kiến thức, thời gian và cách học đã khiến nhiều tân sinh viên khó thích nghi với môi
trường học tập và giáo dục mới. Sự khác biệt lớn nhất giữa trung học và đại học có lẽ là nhiệm vụ học
tập. Việc lên lớp đối với bậc trung học chhoàn thành các mục tiêu giáo viên đề ra nhưng đối
với sinh viên Đại học, điều họ đang đối mặt không chỉ những nhiệm vụ đơn thuần trên lớp họ
còn phải thực hiện các kì thực tập, phải bắt đầu đặt ra mục tiêu cho tương lai của họ. Ngoài ra, khi lên
Đại học, ý thức tự giác yếu tố quan trọng nhất, không còn sổ liên lạc hay họp phụ huynh như bậc
trung học, tinh thần tự học sẽ được phát huy rõ rệt. Có thể nới sự chuyển đổi tphổ thông lên Đại học
cũng giống như quá trình biến đổi từ ợng thành chất. Chính vì vậy mà mỗi sinh viên cần phải thích
nghi, thay đổi nếp sống mới sao cho phù hợp với môi trường đại học để đạt được những thành tích
cao trong quá rình học tập và nghiên cứu của mình.
5.Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập. SGK/66,67,68,69
Vận dung:
- Trong tự nhiên
Quá trình đồng hóa dị hóa trong thsinh vật: Đồnga quá trình tổng hợp các chất hữu
từ các chất đơn giản, trong khi dị hóa là quá trình phân giải các chất hữu cơ phức tạp thành các chất
đơn giản. Hai quá trình này đối lập nhưng cùng tồn tại và tương tác để duy trì sự sống của sinh vật.
- Trong xã hội
Cuộc đấu tranh giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản: Trong xã hội tư bản chủ nghĩa, giai cấpsản
và giai cấp sản có lợi ích đối lập nhau. Sự đấu tranh giữa hai giai cấp này thúc đẩy sự phát triển và
biến đổi của xã hội. - Trong kinh tế
Quan hệ giữa cung và cầu: Cung và cầu là hai mặt đối lập trong nền kinh tế thị trường. Khi cung vượt
quá cầu, giá cả giảm; ngược lại, khi cầu vượt quá cung, giá cả tăng. Sự tương tác giữa cung cầu
tạo ra sự cân bằng và điều chỉnh thị trường. 6. Quy luật phủ định của phủ định SGK/69,70 Vận dụng:
Phân tích của Engles vdmột hạt thóc. hàng nghìn triệu hạt giống nhau được xay ra, nấu chín
và đem làm rượu rồi tiêu dùng đi. Nhưng nếu một hạt thóc như thế gặp những điều kiện bình thường
đối với nếu rơi o một miến đất thích hợp, thì nhờ ảnh hưởng của sức nóng đẩm trong
lOMoARcPSD| 61601590
mình nó sẽ xảy ra một sự biến hóa riêng. Nó nẩy mầm, hạt thóc biến đi, không còn là hạt thóc nữa, bị
thay thế bởi một cây do nó đẻ ra, đó là sự phđịnh hạt thóc. Nhưng cuộc sống thường ngày của cây
này thế nào? Nó lớn lên, ra hoa, thụ phấn và cuối cùng sinh ra những hạt thóc mới, và khi hạt thóc đó
chín thì cây chết đi, bị phđịnh. Kết quả của sự phđịnh này là chúng ta lại hạt thóc ban đầu,
nhưng không phải chỉ là một hạt thóc mà là nhiều gấp mười, hai mươi, ba mươi lần
7. Bản chất của nhận thức.SGK/70 Vn dụng:
Nhận thức đóng vai trò quan trọng trong đời sống của con người. Giúp con người hiểu được cái riêng,
cái chung, hiểu được hiện tượng bản chất của sự vật, sự việc. Nhờ nhận thức con người biết
được đúng đắn, đầy đủ và chính xác về bản chất của sự vật, hiện tượng.
Bên cạnh đó, nhận thức còn cung cấp cho con người một lượng lớn tri thức cũng như tích lũy được
rất nhiều kinh nghiệm trong cuộc sống. Con người dần hiểu được các nguyên lý, định nghĩa khái
niệm trong thế giới quan của mình.
8. Vai trò của nhận thức đối với thực ễn SGK/ 75,76,77
Thnht, thực tiễn là cơ sở, mục đích, là động lực chủ yếu và trực tiếp của nhận thức Vì sao
lại i thực tiễn sở của nhận thức? Xuất phát từ sự thật rằng mọi tri thức trực tiếp hay gián
tiếp đối với bt kì đối tượng con người nào, bất kì trình độ kinh nghiệm hay lý luận đều bắt nguồn từ
thực tiễn. Thực tiễn cung cấp tài liệu cho quá trình nhận thức, cho mọi lý luận. Thông qua những hoạt
động thực tiễn, con người tác động vào thế giới bên ngoài, buộc chúng phải bộc lộ những thuộc tính,
những quy luật để con người có thể nhận thức được chúng. Con người vốn quan hệ với thế giới bên
ngoài bằng thực tiễn chứ không phải bằng lý luận. Chính từ trong quá trình hoạt động thực tiễn cải tạo
thế giới mà nhận thức con người được hình thành và phát triển. Lúc đầu con người thường thu nhận
tài liệu một cách chủ quan, sau đó tiến hành so sánh, phân tích, tổng hợp, khái quát hóa... để phn
ánh bản chất, quy luật vận động của các sự vật, hiện tượng để xây dựng thành khoa học, lý luận.
Thực tiễn còn là mục đích của nhận thức. Bởi lẽ nhận thức dù về vấn đề, khía cạnh hay lĩnh vực nào
đi chăng nữa thì cũng phải quy về phục vụ thực tiễn. Do vây, kết quả nhận thức phải hướng dẫn
chỉ đạo thực tiễn. Nếu lý luận, khoa học không vận dụng được để cải tạo thực tiễn thì không có bất cứ
ý nghĩa nào.
Thực tiễn động lực chủ yếu trực tiếp của nhận thức. Thực tiễn giúp con người nhận thức toàn
diện hơn về thế giới. Những nhu cầu, nhiệm vụ và phương hướng phát triển của nhận thức là kết quả
của thực. Trong quá trình hoạt động thực tiễn làm biến đổi thế giơi, con người cũng không ngừng biến
đổi theo. Từ đó con người ngày càng đi sâu vào nhận thức khám phá thế giới, làm sâu sắc phong
phú vốn tri thức của mình về thế giới xung quanh. Nhu cầu thực tiễn đòi hỏi phải luôn luôn làm mới
nguồn tri thức, biết cách tổng kết kinh nghiệm, khái quảt luận để từ đó thúc đẩy sự ra đời phát
triển của các ngành khoa học. Hoạt động thực tiễn của con người cn tới khoa học - từ đó dẫn đến sự
ra đời của khoa học.
Thhai, thực tiễn tiêu chuẩn của chân lý. Quan điểm của triết học Mác - Lênin đã từng cho rằng:
"vấn đề tìm hiểu xem tư duy con người có thể đạt tới chân lý khách quan hay không hoàn toàn không
phải là một vấn đề lý luận, mà là một vấn đề thực tiễn. Chính trong thực tiễn mà con người phải chứng
minh chân lý. Nhận thức khoa học có tiêu chuẩn logic riêng tuy nhiên chúng không thể thay thế hoàn
toàn cho tiêu chuẩn thực tiễn xét đến cùng còn phụ thuộc và tiêu chuẩn thực tiễn. Thực tiễn
tiêu chuẩn của chân lý vừa tuyệt đối mà cũng vừa tương đối. Tuyệt đối ở đây là bởi thực tiễn chính là
tiêu chuẩn khách quan để kiểm nghiệm chân lý. Không phải tất cả thực tiễn có thể kiểm nghiệm được
chân lý mà còn phải dựa vào thực tiễn mỗi giai đoạn lịch sử kc nhau. Tính tương đối của thực tiễn
thhin chthực tiễn không ngừng biến đổi phát triển. Thực tiễn cũng không tránh khỏi yếu tố
chủ quan bởi lẽ thực tiễn cũng một quá trình và được thực hiện bởi con người. Chính sự biến đổi
không ngừng của thực tiễn đã ngăn cản những tri thức của con người biến thành chân lý tuyệt đối cui
cùng. Những tri thức liên tục bị kiểm nghiệm bởi các giai đoạn của thực tiễn thể thực tiễn trong quá
lOMoARcPSD| 61601590
khứ, hiện tại hay thậm chí tương lai. Để từ đó nhận thức của con người được bổ sung, điều chỉnh
và phát triển toàn diện nhất.
Vận dụng:
nnhững năm 1970-1975, đất nước ta đang trong cuộc chiến đấu đầy nảy lửa cam go để giành lại đất
ớc, từ hiện thức đất nước đang bị xâm lược, chìm tỏng bom đạn, rất nhiều những thanh niên trẻ xung
phong lên đường bảo vệ tổ quốc, hy sinh thân mình để bảo vệ dân tc.
Hay nhưng bạn học sinh nhìn thấy hiện thực ngày nay hội phát triển đòi hỏi con người cũng phát triển để
không bị AI, trí tuệ nhân tạo thay thế thì buộc họ phải mở rộng kiến thức, học hỏi và phát triển bản thân.
9. Quy luật QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX SGK/109,111 Quy luật về
sự phù hợp giữa QHSX với trình độ phát triển của LLSX:
Nội dung QHSX phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất LLSX là phép biện chứng cơ
bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử, thể hiện phương pháp nhận thức khoa học, đối lập với phép nhn
thức siêu hình. Phép biện chứng này nhìn thấy sự tác động qua lại của QHSX LLSX trong từng giai
đoạn lịch sử nhất định. Mối quan hbiện chứng giữa LLSX QHSX được thể hiện thành một quy
luật, đó là quy luật về sự phù hợp của QHSX với trình độ phát triển của LLSX.
Sự phù hợp một khái niệm chỉ sự thích ứng giữa các yếu tố cấu thành LLSX và QHSX; giữa LLSX
với QHSX, đem lại 1 phương thức kết hợp giữa lao động sống và lao động quá khứ, tạo ra 1 hiệu qu
cao nhất trong quá trình sản xuất và kinh doanh.
Quy luật về sự phù hợp giữa QHSX với trình độ phát triển của LLSX: một quy luật bản của sự
vận động và phát triển của XH loài người, là nguyên nhân động lực đưa đến sự thay đổi và phát trin
của các PTSX. Từ CXNT -> CHNL, PK,TBCN-> CSCN
Nội dung của quy luật được thể hin ở các điểm chủ yếu sau:
- Biện chứng giữa LLSX và QHSX là mối quan hệ khách quan, vốn có trong mọi quá trình sản
xuất vật chất. Nói cách khác, để tiến hành sản xuất vật chất, con người phải thực hiện mối quan hệ
đôi, quan hệ kép, quan hệ song trùng này. Thiếu một trong hai quan hệ đó, quá trình sản xuất vt
chất không thực hiện được.
-Trong cấu trúc của PTSX thì LLSX là nội dung còn QHSX hình thức XH của PTSX. LLSX giữ vai trò
quyết định sự phát triển của QHSX. Khuynh hướng của sản xuất xã hội là không ngừng biến đổi theo
chiều tiến bộ. Sự biến đổi đó, xét đến cùng bao giờ cũng bắt đầu từ sự biến đổi phát triển của LLSX,
trước hết là công cụ lao động. Sự phát triển khách quan của LLSX, trước hết là công cụ lao động đến
1 mức độ nht định sẽ làm cho QHSX phải biến đổi theo phù hợp với nó.
Cuối TK 18, sra đời của máy hơi nước -> chuyển từ SX thủ công sang SX công nghiệp, đại công
trường -> NSLD tăng lên, trình độ tổ chức lao động XH, trình độ ứng dụng KHKT vào SX, trình độ kinh
nghiệm kỹ năng của NLĐ, trình độ phân công lao động tăng lên làm cho LLSX phát triển mạnh ->
QHSX PK dần bị thay thế bằng QHSX dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân TBCN.
- Sự phù hợp của QHSX với trình độ phát triển của LLSX là sự phù hợp biện chứng, sự
phù hợp bao hàm mâu thuẫn.
+ Sự phù hợp của QHSX với trình độ phát triển của LLSX 1 trạng thái trong đó QHSX hình
thức phát triển tất yếu của LLSX, là trạng thái mà ở đó các yếu tố cấu thành QHSX tạo địa bàn đầy đ
cho LLSX phát triển. Trong trạng thái phù hợp, cả ba mặt của QHSX đạt tới sự thích ứng với trình độ
phát triển của LLSX, tạo điều kiện tối ưu cho việc sử dụng và kết hợp giữa lao động và TLSX. Sự phù
hợp đó biểu hiện kết quả là LLSX phát triển, kinh tế phát triển, phát huy được mọi ng lực sản xuất
năng suất lao động cao. Đây sự phù hợp giữa một yếu tđộng (LLSX luôn biến động) với một
yếu tố mang tính ổn định tương đối (QHSX ổn định hơn, ít biến đổi hơn).
+ QHSX từ chỗ thích ứng với sự phát triển của LLSX, nhưng do LLSX luôn biến đổi, phát triển, lại trở
thành xiềng xích kìm hãm sự phát triển của LLSX. Con người phát hiện những yếu tố dẫn đến không
phù hợp, phát hiện mâu thuẫn và giải quyết những mâu thuẫn đó đem lại sự thích ứng mới của QHSX
với LLSX, dẫn đến tiến trình vận động, phát triển không ngừng của SXXH. Cho nên, sphù hợp -
không phù hợp - phù hợp biểu hiện khách quan của quá trình tương tác giữa LLSX QHSX của
lOMoARcPSD| 61601590
mọi phương thức sản xuất trong lịch sử. Giải quyết mâu thuẫn giữa LLSX QHSX không phải chỉ
bằng cách duy nhất là xóa bỏ QHSX cũ, thiết lập QHSX mới, mà là 1 quá trình thường xuyên đổi mới,
cải cách, điều chỉnh QHSX trước mỗi sự phát triển của LLSX. Tuy nhiên, đến một giới hạn nhất định,
khi mâu thuẫn giữa QHSX LLSX đã trở nên gay gắt, không thể không giải quyết thông qua biện
pháp cải cách, điều chỉnh được nữa thì tất yếu phải xóa bỏ QHSX cũ, thiết lập QHSX mới cho phù hợp
với sự phát triển của LLSX.
Trong quá trình xây dựng CNXH trước đây, ở nhiều nước trong đó cớc ta, khi cải tạo xây
dựng nền kinh tế mới đã nhận thức quy luật này một cách chủ quan, duy ý chí, đơn giản, máy móc,
cho rằng nền sản xuất TBCN luôn diễn ra sự không phù hợp giữa QHSX và LLSX, đó QHSX đưc
xây dựng trên sở chiếm hữu nhân TBCN về liệu sản xuất. Còn nền sản xuất XHCN thường
xuyên có sự phù hợp của QHSX đối với LLSX, vì đây QHSX được xây dựng trên sở chế độ công
hữu XHCN vliệu sản xuất. Từ đó dẫn đến việc xóa bỏ QHSX dựa trên chiếm hữu nhân
TBCN về tư liệu sản xuất, chỉ xây dựng QHSX dựa trên cơ sở chế độ công hữu XHCN vềliệu sản
xuất, thiết lập một nền kinh tế thuần nhất dưới hai hình thức sở hữu tư liệu sản xuất (sở hữu nhà nước
sở hữu tập thể) nên đã đlãng phí nguồn lực sản xuất, năng suất lao động, làm kìm hãm sự phát
triển của LLSX.
Ngày nay, nền sản xuất TBCN đã tạo ra một LLSX đồ sộ, tính chất xã hội hóa ngày càng cao, dẫn đến
mâu thuẫn ngày càng gay gắt với QHSX dựa trên chế độ chiếm hữu nhân TBCN về liệu sản xuất.
Các nước TBCN đang cố giải quyết mâu thuẫn này bằng cách cải cách, điều chỉnh QHSX tạo ra sự
thích nghi nhất định với LLSX. Biện pháp đó trước mắt vẫn tạo ra được tiềm năng để phát triển kinh
tế. Tuy nhiên, điều này không giải quyết được triệt để c mâu thuẫn, khủng hoảng chu kỳ vẫn đang
tiếp tục diễn ra đang đòi hỏi phải những thay đổi căn bản QHSX, thiết lập QHSX mới phù hợp với
trình độ phát triển của LLSX.
ới CNXH, sự phù hợp không phù hợp của QHSX với LLSX cũng tồn tại khách quan, bên trong
nền sản xut vật chất. Chính vì thế, CNXH cũng phải thường xuyên phát hiện mâu thuẫn và giải quyết
mâu thuẫn một cách có hiệu quả, tạo ra sự phù hợp của của QHSX với trình độ phát triển của LLSX,
thức đẩy LLSX phát triển, kinh tế phát triển.
Vai trò của QHSX: Sự tác động trở lại của QHSX đối vi sự phát triển của LLSX
- QHSX được xây dựng trên cơ sở trình độ phát triển của LLSX, do LLSX quyết định. Nhưng sau
khi được xác lập, nó có sự tác động trở lại sự phát triển của LLSX.
- QHSX quy định mục đích XH của sản xuất, quy định hình thức tổ chức, quản lý sản xuất, quyết
địnhkhuynh hướng phát triển của các nhu cầu về lợi ích vật chất và lợi ích tinh thần, từ đó hình thành
hệ thống những yếu tố tác động trở lại đối với sự phát triển của LLSX.
- QHSX tác động trở lại LLSX theo 2 hướng. Nếu QHSX phù hợp với trình độ phát triển LLSX thì
sẽ tạo địa bàn cho sự phát triển LLSX, thúc đẩy quá trình SXVC phát triển. Ngược lại, nếu QHSX
không phù hợp với trình độ phát triển LLSX thì sẽ kìm hãm sự phát triển của nền SXXH. 2 kh
năng của sự không phù hợp giữa QHSX LLSX: QHSX lỗi thời, lạc hậu so với trình độ phát triển của
LLSX hoặc QHSX phát triển không đồng bộ, giả tạo, vượt trước ảo tưởng so với trình độ của LLSX.
Tác động theo chiều hướng tiêu cực của QHSX đối với sự phát triển LLSX chỉ ý nghĩa tương đối.
QHSX không phù hợp LLSX, sớm muộn gì cũng được thay thế bằng 1 QHSX mới phù hợp với trình
độ mới của LLSX. Đó là xu thế tất yếu của sự phát triển sản xuất, sự phát triển kinh tế mà không 1 giai
cấp nào, 1 chủ thể nào có thể cưỡng lại được.
Ý nghĩa phương pháp luận:
- Quy luật về sự phù hợp của QHSX với trình độ phát triển của LLSX 1 quy luật chung nhất
củasự phát triển XH, sự tác động của quy luật này đã khẳng định tính tất yếu k.quan của sự phát triển
XH loài người từ PTSX XH nguyên thủy, CHNL, PK, TBCN và PTSX CSCN tương lai.
- Quy luật về sự phù hợp của QHSX với trình độ phát triển của LLSX là quy luật về sự vận động
vàphát triển từ thấp đến cao. Nhưng trong những ĐK khách quan cụ thmột nước hoặc nhiều nước
có thể bỏ qua 1 trong 2 PTSX để tiến lên một PTSX cao hơn.
lOMoARcPSD| 61601590
10. Quy luật về mối quan hệ biện chứng giữ CSHT và KTTT SGK/111 LÝ LUẬN:
Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng:
sở hạ tầng nào sinh ra kiến trúc thượng tầng ấy. Giai cấp nào chiếm địa vị thống trị về kinh tế thì
cũng chiếm địa vị thống trị trong đời sống tinh thần. Quan hệ sản xuất nào thống trị thì tạo ra kiến trúc
thượng tầng chính trị tương ứng. Mâu thuẫn trong lĩnh vực kinh tế quyết định tính chất mâu thuẫn
trong lĩnh vực tư tưởng.
Do đặc điểm nói trên, bất kỳ hiện tượng nào thuộc kiến trúc thượng tầng: nhà ớc, pháp luật, đảng
phái chính trị, triết học, đạo đức,.. đều không thể giải thích từ chính nó, bởi vì, chúng đều trực tiếp
hoặc gián tiếp phụ thuộc vào cơ sở hạ tầng và do cơ sở hạ tầng quyết định.
Những biến đổi bản trong sở hạ tầng sẽ hình thành nên một kiến trúc thượng tầng tương ứng
với nó. Tính chất của kiến trúc thượng tầng là do tính chất của cơ sở hạ tầng quyết định. Trong xã hội
có giai cấp, giai cấp nào thống trị về kinh tế thì cũng chiếm địa vị thng trị về mặt chính trị và đời sống
tinh thần của xã hội. Các mâu thuẫn trong kinh tế, xét đến cùng, quyết định các mâu thuẫn trong lĩnh
vực chính trtưởng; cuộc đấu tranh giai cấp về chính trị tư tưởng biểu hiện những đối kháng trong
đời sống kinh tế. Tất cả các yếu tố của kiến trúc thượng tầng như nhà nước, pháp quyền, triết học, tôn
giáo,… đều trực tiếp hay gián tiếp phụ thuộc vào cơ sở hạ tầng, do cơ sở hạ tầng quyết định.
- Khi sở hạ tầng thay đổi kéo theo kiến trúc thượng tầng cũng thay đổi theo. Quá trình thay
đổidiễn ra không chỉ trong giai đoạn thay đổi từ hình thái kinh tế - hội này sang hình thái kinh tế -
hội khác, mà còn diễn ra ngay trong bản thân mỗi hình thái kinh tế - hội. Sự thay đổi sở hạ
tầng dẫn đến làm thay đổi kiến trúc thượng tầng diễn ra rất phức tạp. Trong đó, có những yếu tố của
kiến trúc thượng tầng thay đổi nhanh chóng cùng với sự thay đổi sở hạ tầng như chính trị, pháp
lut,
Tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng:
- Tất cả các yếu tố cấu thành kiến trúc thượng tầng đều c động đến sở htầng. Tuy
nhiên,mỗi yếu tố khác nhau có vai trò khác nhau, có cách thức tác động khác nhau.
- Sự tác động của kiến trúc thượng tầng đối với sở hạ tầng diễn ra theo hai chiều. Nếu kiến
trúcthượng tầng tác động phù hợp với các quy luật kinh tế khách quan thì động lực mạnh mẽ
thúc đẩy kinh tế phát triển; nếu tác động ngược lại, sẽ kìm hãm phát triển kinh tế, kìm hãm phát
triển xã hội.
Trong các bộ phận của kiến trúc thượng tầng, nhà nước giữ vai trò đặc biệt quan trọng, có tác dụng to
lớn đối với cơ sở hạ tầng. Nhà nước không chỉ dựa vào hệ tư tưởng mà còn dựa vào chức năng kiểm
soát hội để tăng cường sức mạnh kinh tế của giai cấp thống trị. Ăngghen viết: “bạo lực (nghĩa
quyền lực nhà nước) cũng là một lực lượng kinh tế”. Các bộ phận khác của kiến trúc thượng tầng như
triết học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật cũng tác động đến cơ sở hạ tầng, nhưng thường thường phải
thông qua nhà nước, pháp luật.
Vận dụng:
11. Sự phát triển của các hình thái KT-XH là một quá trình lịch sử- tự nhiên SGK/114
hội loài người đã phát triển trải qua nhiều hình thái kinh tế - hội nối tiếp nhau. Trên sphát
hiện ra các quy luật vận động phát triển khách quan của hội, C.Mác đã đi đến kết luận rằng: "Sự
phát triển của những hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên."
Theo đó, tính chất lịch sử, tự nhiên của quá trình phát triển các hình thái kinh tế - xã hội đưc thể hin
ở các nội dung chủ yếu sau đây:
Một là, sự vận động phát triển của xã hội không tuân theo ý cchủ quan của con người tuân
theo các quy luật khách quan, đó là các quy luật của chính bản thân cấu trúc hình thái kinh tế - xã hội,
hệ thống các quy luật xã hội thuộc các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, khoa học,... Trong đó quan
trọng bản nhất quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất và quy luật kiến trúc thượng tầng phù hợp với cơ sở hạ tầng.
lOMoARcPSD| 61601590
Hai là, nguồn gốc của mọi sự vận động, phát triển của xã hội, của lịch sử nhân loại, của mọi lĩnh vực
kinh tế, chính trị, văn hóa,... của xã hội suy đến cùng, xét đến cùng đều có nguyên nhân trực tiếp hay
gián gián tiếp từ sự phát triển của lực lượng sản xuất của xã hội.
Ba là, quá trình phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội, tức là quá trình thay thế lẫn nhau của các
hình thái kinh tế - xã hội trong lịch sử nhân loại và đó là sự phát triển của lịch sử xã hội loài người, có
thdo stác động của nhiều nhân tchủ quan, nhưng nhân tgiữ vai trò quyết định chính sự tác
động của các quy luật khách quan.
ới stác động của các quy luật khách quan lịch sử nhân loại, xét trong tính chất toàn bộ của
nó, là quá trình thay thế tuần tự của các hình thái kinh tế - xã hội: hình thái kinh tế - xã hội nguyên thủy
đến hình thái kinh tế - xã hội nô lệ, phong kiến, hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa và tương lai
nhất thuộc về hình thái kinh tế - hội cộng sản chủ nghĩa. thể nói, sự tác động của các quy luật
khách quan làm cho các hình thái kinh tế - hội phát triển thay thế nhau từ thấp đến cao đó con
đường phát triển chung nhất của nhân loại.
Song tuy nhiên, con đường phát triển của mỗi dân tộc không chỉ bị chi phối bởi các quy luật chung,
còn bị tác động bởi các điều kiện về tự nhiên, về chính trị, về truyền thống văn hóa, về điều kiện quốc
tế,... Chính vì vậy, lịch sử phát triển của nhân loại hết sức phong phú, đa dạng. Mỗi dân tộc đều có nét
độc đáo riêng trong lịch sử phát triển của mình. Có những dân tộc lần lượt trải qua các hình thái kinh
tế - xã hội từ thấp đến cao; nhưng cũng có những dân tộc bỏ qua một hay một s hình thái kinh tế -
hội nào đó. Tuy nhiên, việc bỏ qua đó cũng diễn ra theo một quá trình lịch sử - tự nhiên chứ không
phải theo ý muốn chủ quan.
Như vậy, quá trình lịch sử - tự nhiên của sự phát triển hội chẳng những diễn ra bằng con đường
phát triển tuần tự, mà còn bao hàm cả sự bỏ qua, trong những điều kiện nhất định, một hoặc một vài
hình thái kinh tế - xã hội nhất định.
Vận dụng:
12. Tính tất yếu, vai trò và nội dung của đấu tranh giai cấp trong giai đoạn hiện nay SGK/117,119
Khái niệm giai cấp
Giai cấp là những tập đoàn to lớn gồm những người có địa vị khác nhau trong một hệ
thống kinh tế - xã hội nhất định
Khái niệm đấu tranh giai cấp
-Cuộc đấu tranh giai cấp của quần chúng bị tước quyền, bị áp bức và lao động, chống
bọn đặc quyền, đặc lợi, bọn áp bức và bọn ăn bám, cuộc đấu tranh của những người
công nhân làm thuê hay những người vô sản chống những người hữu sản hay giai cấp
tư sản.
-Thực chất của đấu tranh giai cấp là cuộc đấu tranh giữa những giai cấp, những tầng lớp
mà lợi ích của chúng đối lập nhau trong thể điều hòa với nhau được.
-Có nhiều hình thức đấu tranh: Đấu tranh kinh tế, đấu tranh chính trị, đấu tranh tư tưởng…
Trong thực tế còn có đấu tranh dân tộc, tôn giáo.
Nguyên nhân của đấu tranh giai cấp
Nguyên nhân sâu xa của đấu tranh giai cấp là mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất
Nguyên nhân trực tiếp của đấu tranh giai cấp là mâu thuẫn giữa giai cấp bị trị và giai
cấp thống trị về lợi ích, mà trước hết là lợi ích kinh tế.
Mâu thuẫn giữa một bên là giai cấp tiến bộ, cách mạng, đại diện cho phương thức sản
xuất mới với một bên là giai cấp thống trị, bóc lột đại biểu cho phương thức sản xuất lỗi
thời, lạc hậu.
lOMoARcPSD| 61601590
Đấu tranh giai cấp là một trong những động lực phát triển của các xã hội có giai cấp
(Vai trò)
-Thứ nhất, kết cục của đấu tranh giai cấp là mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất được giải
quyết, quan hệ sản xuất cũ bị mất đi được thay thế bằng quan hệ sản xuất mới, cơ sở hạ tầng mới ra đời, kiến
trúc thượng tầng mới xuất hiện, làm cho mọi mặt của đời sống xã hội phát triển, từ đó thúc đẩy cho sự phát triển
của xã hội.
-Thứ hai, đấu tranh giai cấp lật đổ chính quyền cũ, xác lập chính quyền mới, cùng với quá trình đó, kết cấu xã hội
- giai cấp cũ bị xóa bỏ, kết cấu xã hội - giai cấp mới được hình thành làm cho xã hội phát triển.
-Thứ ba, đấu tranh giai cấp không chỉ góp phần xóa bỏ thế lực phản động, lạc hậu, mà còn đồng thời có tác
dụng cải tạo bản thân các giai cấp cách mạng và quần chúng cách mạng, giai cấp đó sẽ lãnh đạo cách mạng và
thúc đẩy xã hội phát triển.
-Thứ tư, đấu tranh giai cấp không chỉ là đòn bẩy của lịch sử trong thời kì cách mạng, mà còn là động lực phát
triển của xã hội ngay cả trong thời kì <hòa bình= của xã hội có giai cấp. Trong tiến trình phát triển của lực
lượng sản xuất, cách mạng khoa học – công nghệ, cải cách về dân chủ và tiến bộ xã hội… không tách rời cuộc
đấu tranh của giai cấp tiến bộ chống lại giai cấp thống trị, các thế lực thù địch phản động. Đấu tranh cách
mạng (Tính tất yếu và thực chất của đấu tranh giai cấp trong giai đoạn hiện nay. Hỏi thì mới trả lời).
-Đấu tranh giai cấp là một tất yếu không chỉ dưới chủ nghĩa tư bản, mà ngay cả trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa
xã hội. Dưới chủ nghĩa tư bản, đấu tranh giai cấp vẫn là một tất yếu, bởi vì:
-Mâu thuẫn bản của chủ nghĩa bản mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất ngày càng mang tính hội a
quan hệ sản xuất dựa trên chế độ chiếm hữu nhân về liệu sản xuất vẫn chưa được giải quyết. Biểu hiện
về mặt hội mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân với giai cấp sản mâu thuẫn đối kháng không thể điều
hòa. Hơn nữa, nhiều vấn đề xã hội nan giải không thể giải quyết. Đặc biệt, bản chất của chủ nghĩa tư bản là một
chế độ áp bức, bóc lột. Trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đấu tranh giai cấp vẫn là một tất yếu, bởi vì: -
Thứ nhất, trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội vẫn tồn tại cơ sở kinh tế làm phân hóa xã hội thành giai cấp,
đó nền kinh tế vận hành theo chế thị trường, nên bên cạnh mặt ch cực còn mặt hạn chế đó sự phân
hóa xã hội thành giàu nghèo
-Thứ hai, trong thời quá độ lên chủ nghĩa hội, các thế lực phản động luôn rắp tâm mưu đồ giành giật lại
chính quyền mà chúng đã bị mất.
-Thứ ba, trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội, vẫn tồn tại những tàn dư của xã hội cũ để lại.
-Thứ tư, trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội, với nền kinh tế mở cửa, bên cạnh mặt tích cực còn có mặt tiêu
cực, đó là sự du nhập của những yếu tố ngoại lai không phù hợp.
-Thứ năm, trong thời quá độ lên chủ nghĩa hội, c thế lực phản động trong nước cấu kết với các thế lực
phản động quốc tế sử dụng <Diễn biến hòa bình= chống lại thành quả cách mạng của nhân dân các nước…
vậy, đấu tranh giai cấp hơn bao giờ hết vẫn là một tất yếu.
Đấu tranh giai cấp trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam (Vận dụng)
Mục tiêu của đấu tranh giai cấp ở Việt Nam:
-Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, dân giàu. nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
-Đấu tranh giai cấp Việt Nam diễn ra với nhiều hình thức, nhưng nổi bật lên trước hết cuộc đấu tranh giữa
một bên quần chúng nhân dân lao động, các lực lượng hội đi theo con đường dẫn đến mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, đoàn kết trong mặt trận thống nhất dân tộc do Đảng lãnh đạo, với một
bên là các thế lực, các tổ chức, các phần tử chống độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, chống Đảng, Nhà nước
pháp luật, phá hoại trật tự xã hội và an ninh quốc gia. Đấu tranh giai cấp ở nước ta còn thể hiện ở <cuộc đấu tranh
giữa hai con đường xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa= Nội dung đấu tranh giai cấp ở Việt Nam hiện nay:
Thực hiện thắng lợi sự nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, khắc phục tình trạng
nước nghèo, kém phát triển, thực hiện công bằng xã hội, chống áp bức, bất công, đấu tranh ngăn chặn, khắc phục
những tưởng hành động chống phá của các thế thực thù địch, bảo vệ độc lập dân tộc, xây dựng nước ta
thành một nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh, nhân dân hạnh phúc. Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại
đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân, đội ngũ trí thức và các tầng
lớp lao động khác dưới sự lãnh đạo của Đảng kết hợp hài hòa các lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội, phát huy mọi
tiềm năng nguồn lực của các thành phần kinh tế, của toàn xã hội. Tóm lại, trong giai đoạn hiện nay cần nhận
lOMoARcPSD| 61601590
thức rõ tính chất gay go, phức tạp của cuộc đấu tranh giai cấp. Cần nắm vững quan điểm giai cấp của chủ nghĩa
Mác - Lenin, tránh rơi vào hai thái cực sai lầm hoặc quá cường điệu đấu tranh giai cấp đi đến rụt rè, không dám
đổi mới, hoặc mơ hồ mất cảnh giác đi đến phủ nhận đấu tranh giai cấp
13. Quan hệ biện chứng giữ tồn tại xã hội và ý thức xã hội SGK/131
LÝ LUẬN
Mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại hội ý thức hội là một trong những nguyên bản của triết học
Mác-Lênin, đặc biệt liên quan đến lý thuyết về lịch sử và sự phát triển của xã hội.
Theo nguyên này, tồn tại hội và ý thức hội mối quan hệ qua lại, tác động lẫn nhau, nhưng tồn tại
hội đóng vai trò quyết định đối với ý thức xã hội.
Theo đó, tồn tại xã hội bao gồm các yếu tố vật chất và điều kiện khách quan của đời sống xã hội, cụ thể:
- Phương thức sản xuất: là yếu tố quan trọng nhất, bao gồm lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
- Cơ sở hạ tầng kinh tế: hệ thống các quan hệ kinh tế trong xã hội, như chế độ sở hữu, phân phối của cải.
- Điều kiện tự nhiên và môi trường sống: ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống con người.
Tồn tại hội phản ánh những điều kiện khách quan con người phải đối mặt trong quá trình tồn tại phát
triển.
Ý thức hội bao gồm toàn bộ tư tưởng, quan niệm, quan điểm, tôn giáo, đạo đức, pháp luật các giá trị tinh
thần khác được hình thành từ quá trình phản ánh hiện thực xã hội. Ý thức xã hội tồn tại dưới nhiều hình thức như:
- Ý thức chính trị: quan điểm, hệ tư tưởng liên quan đến quyền lực nhà nước.
- Ý thức pháp quyền: các quan niệm về công bằng, quyền lợi và luật pháp.
- Ý thức tôn giáo: niềm tin và giáo lý liên quan đến các hiện tượng siêu nhiên.
- Ý thức đạo đức, văn hóa: các giá trị về đạo đức, lối sống và văn hóa trong xã hội.
Mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội
Mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội là một mối quan hệ biện chứng, tức là chúng c động qua lại lẫn
nhau. Trong đó:
Tồn tại xã hội quyết định ý thức hội: Tồn tại hội, đặc biệt phương thức sản xuất, quyết định sự hình thành
và phát triển của ý thức xã hội. Ví dụ, trong một xã hội phong kiến, ý thức xã hội sẽ phản ánh hệ thống giá trị và
đạo đức phong kiến, trong khi trong xã hội tư bản, ý thức hội sẽ phản ánh những quan điểm về lợi nhuận, cạnh
tranh, và sở hữu tư nhân.
Ý thức xã hội tính độc lập tương đối và phản tác động lại tồn tại hội: Mặc tồn tại hội quyết định ý
thức hội, nhưng ý thức xã hội cũng có tính độc lập tương đối vàthể tác động ngược lại sự phát triển của tồn
tại hội. Ví dụ, một hệ tư tưởng tiến bộ thể thúc đẩy sự thay đổi xã hội và góp phần làm cho tồn tại xã hội
phát triển theo một hướng mới. Tính biện chứng trong mối quan hệ
Mối quan hệ này không diễn ra theo một chiều mang tính biện chứng, tức tồn tại hội ý thức hội
vừa tác động, vừa ảnh hưởng qua lại lẫn nhau. Tuy nhiên, về mặt cơ bản, sự biến đổi trong tồn tại xã hội sẽ dẫn
đến những thay đổi trong ý thức xã hội. Đồng thời, ý thức xã hội, đặc biệt là các yếu tố tư tưởng, văn hóa tiến bộ,
có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của tồn tại xã hội.
Thông tin trên phân tích mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội.
VẬN DỤNG
Mối quan hệ giữa tồn tại hội và ý thức hội có thể được minh họa bằng nhiều ví dụ trong lịch sử thực tiễn.
- Thời kỳ bao cấp và đổi mới kinh tế ở Việt Nam (1986):
+ Tồn tại xã hội: Sau khi Việt Nam thống nhất năm 1975, nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung được áp dụng, dựa
trên quản lý nhà nước và phân phối tài nguyên. Tuy nhiên, nền kinh tế bao cấp gặp nhiều khó khăn, khủng hoảng,
và kém hiệu quả. Đến năm 1986, Việt Nam bắt đầu công cuộc Đổi Mới, chuyển sang nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa.
+ Ý thức xã hội: Sự thay đổi này đã làm thay đổi nhận thức của xã hội về vai trò của thị trường, tư nhân, và nền
kinh tế. Tư tưởng mới về kinh doanh, tự do kinh tế, và hội nhập quốc tế dần dần phát triển, thay thế cho các giá
trị cũ về kiểm soát kinh tế chặt chẽ và sự phụ thuộc vào nhà nước.
Ví dụ hiện đại về sự tác động qua lại giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội:
lOMoARcPSD| 61601590
- Công nghệ số và ý thức xã hội về công nghệ:
+ Tồn tại xã hội: Sphát triển của internet, công nghệ số và các phương tiện truyền thông xã hội đã thay đổi cách
con người giao tiếp, làm việc, tiếp nhận thông tin. Công nghệ không chỉ thay đổi cách thức sản xuất còn
mở ra các ngành kinh tế mới như thương mại điện tử, marketing số, và các dịch vụ trực tuyến.
+ Ý thức hội: Công nghệ số cũng ảnh hưởng mạnh mẽ đến ý thức hội, làm thay đổi cách con người nhìn
nhận về quyền riêng tư, bảo mật thông tin và các giá trị đạo đức trong không gian số. Các phong trào liên quan
đến bảo vệ quyền riêng tư trực tuyến, chống lại sự lạm dụng công nghệ như quyền kiểm soát thông tin cá nhân,
đã xuất hiện mạnh mẽ.
Những ví dụ này cho thấy sự tác động lẫn nhau giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội.
Tồn tại hội (các điều kiện vật chất và kinh tế) quyết định ý thức hội, nhưng đồng thời, ý thức xã hội cũng
có khả năng tác động trở lại để thay đổi tồn tại xã hội, tạo ra những chuyển biến trong lịch sử và đời sống xã hội.
14. Quan điểm của CNDVLS về con người và bản chất con người. SGK/140
LÝ LUẬN:
Quan điểm duy vật lịch sử về bản chất của con người
Theo C. Mác: “Bản chất con người không phải một cái trừu tượng cố hữu của nhân riêng biệt. Trong nh
hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội”.
- Phân tích nội dung chính của quan điểm trên
Quan niệm của C. Mác về bản chất của con người đã khắc phục được hạn chế nào của quan niệm duy vật siêu
hình vể bản chất của con người và đem lại quan niệm mới nào?
Hạn chế căn bản của quan niệm duy vật siêu hình, trực quan là đã trừu tượng hóa, tuyệt đối hóa phương diện tự
nhiên của con người, thường xem nhẹ việc lý giải con người từ phương diện lịch sử xã hội của nó, do đó về căn
bản chỉ thấy bản tính tự nhiên của con người. Khác với quan niệm đó, quan niệm duy vật lịch sử về con người
trong khi thừa nhận bản tính tự nhiên của con người còn lý giải con người từ giác độ các quan hệ lịch sử xã hội,
từ đó phát hiện bản tính hội của nó. Hơn nữa, chính bản tính hội của con ngưòi phương diện bản chất
nhất của con người với cách “người”, phân biệt con người với các tồn tại khác của giới tự nhiên. Với quan
niệm đó có thể định nghĩa con người một thực thể tự nhiên nhưng đóthực thể tự nhiên mang đặc tính xã hội.
Vậy, bản chất của con người, xét trên phương diện tính hiện thực của nó, chính là “tổng hòa của các quan hệ
hội”, bởi xã hội chính là xã hội của con người, được tạo nên từ toàn bộ các quan hệ giữa người với người trên các
mặt kinh tế, chính trị, văn hóa,...
- Ý nghĩa phương pháp luận nhận thức và thực tiễn rút ra từ quan niệm duy vật lịch sử về con người và bảnchất
của con người
Một là, để lý giải một cách khoa học những vấn đề về con người thì không thể chỉ đơn thuần từ phương diện bản
tính tự nhiên của điều căn bản hơn, tính quyết định phải từ phương diện bản tính hội của nó, từ
những quan hệ kinh tế - xã hội của nó.
Hai là, động lực cơ bản của sự tiến bộ phát triển của xã hội chính năng lực sáng tạo lịch sử của con người.
Vì vậy, phát huy năng lực sáng tạo của mỗi con người, vì con người chính là phát huy nguồn động lực quan trọng
thác đẩy sự tiến bộ và phát triển của xã hội.
Ba là, sự nghiệp giải phóng con người, nhằm phát huy khả năng sáng tạo lịch sử của phải hướng vào sự
nghiệp giải phóng những quan hệ kinh tế - hội. Trên ý nghĩa phương pháp luận đó có thể thấy một trong những
giá trị căn bản nhất của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa chính là ở mục tiêu xóa bỏ triệt để các quan hệ kinh tế
- xã hội áp bức và bóc lột, ràng buộc khả năng sáng tạo lịch sử của con người. Thông qua cuộc cách mạng đó nó
cũng thực hiện sự nghiệp giải phóng toàn nhân loại bằng phương thức xây dựng mối quan hệ kinh tế - xã hội xã
lOMoARcPSD| 61601590
hội chu nghĩa và cộng sản chủ nghĩa nhầm xác lập và phát triển một xã hội mà tự do, sáng tạo của người này trở
thành điều kiện cho tự do và sáng tạo của người khác. Đó cũng chính là thực hiện triết lý đạo đức nhân sinh cao
đẹp nhất của chủ nghĩa cộng sản: “mỗi người vì mọi người, mọi người vì mỗi người”.
VẬN DỤNG:
15. Hiện tượng tha hoá con người và vấn đề giải phóng con người : SGK/143
- Theo C.Mác thực chất của lao động bị tha hóa là quá trình lao động và sản phẩm lao đọng từ chỗ để phục
vụvà phát triển con người đã bị biến thành lực lượng đối lâp, nô dịch và thống trị con người.
=> Con người bị tha hóa là con người đánh mất mình trong lao động, tức trong hoạt động đặc trưng, bản chất của
con người (Hoặc nói:+ Lao động là hoạt động mang tính sáng tạo của con người, là đặc trưng chỉ có ở con người
chứ không hề có ở con vật.
+ Nhưng khi hoạt động lao động trở thành hoạt động mang tính chất cưỡng bức bị o ép bởi điều kiện môi trường
hội thì con người không còn đủ năng lực, ý chí để sáng tạo lao động một khi bị tha a không còn phẩm
chất con người nữa chỉ yếu tố để đảm bảo sự tồn tại thuần túy về mặt thể xác của con người điều đó
nghĩa là một khi con người lao động trong điều kiện lao động bị tha hóa thì con người đang thực hiện chức năng
của con vật.)
- Tha hóa con người thuộc tính vốn của các nền sản xuất dựa trên chế đhữu liệu sản xuất, nhưng
nóđược đẩy lên ở mức cao nhất trong nền sản xuất TBCN (Hoặc nói : Chế độ TBCN đã tạo ra sự phân hóahội
về chiếm hữu tư nhân, tư liệu sản xuất điều này đã làm cho đa số người lao động trở thành vô sản, số ít trở thành
tư sản vì vậy những người vô sản phải bán sức lao động của mình tức là làm thuê cho tư sản => bị vô sản bóc lột
=>tất yếu quá trình tha hóa lao động sẽ diễn ra)
=> Lao động bị tha hóa là nguyên nhân, nội dung chính yếu của sự tha hóa con người
- Sự tha hóa đã làm cho người lao dộng ngày càng phẫn nộ, sự phân cực xã hội ngày càng lớn và điều này
nó đãgây ra tình trạng bất ổn xã hội, tiềm ẩn nguy cơ khủng hoảng về mặt chính trị xã hội
-Trong nề sản xuất bản chủ nghĩa sự tha hóa của lao động tạo nên bởi sự tha hóa trên các phương diện khác
của đời sống xã hội: ví dụ như sự tha hóa của đời sống chính trị, tư tưởng của tầng lớp thống trị, của các thiết chế
xã hội ....
=> Chính vì vậy sự khác phục sự tha hóa không chỉ gắn liền với việc xóa bỏ chế độ tư hữu, tư bản chủ nghĩa mà
còn gắn liền với việc khắc phục sự tha hóa trên các phương diện khác của đời sống xã hội, đó là một quá trình
lâu dài, phức tạp để giải phóng con người nói chung, giải phóng người lao dộng nói riêng
VẬN DỤNG:
1. Giải pháp phát triển kinh tế Vit Nam hiện nay
2. Phát triển con người toàn diện
3. Phát triển lực lượng sản xuất

Preview text:

lOMoAR cPSD| 61601590
1. Nguồn gốc, bản chất của ý thức: Lý luận và ý nghĩa
Nguồn gốc ý thức ra sao? SGK Tr.45
Nguồn gốc ý thức có thể được phân thành hai khía cạnh chính: nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội. - Nguồn gốc tự nhiên:
+ Bộ óc con người: Ý thức là thuộc tính của bộ óc con người, một dạng vật chất có tổ chức cao. Bộ óc
càng phát triển, khả năng nhận thức và tư duy của con người càng phong phú và sâu sắc.
+ Mối quan hệ với thế giới khách quan: Thế giới khách quan tác động đến bộ óc con người thông qua
các giác quan, tạo ra quá trình phản ánh sáng tạo và năng động. Quá trình này giúp con người nhận
thức và hiểu biết về thế giới xung quanh. - Nguồn gốc xã hội:
+ Lao động và ngôn ngữ: Lao động là hoạt động cơ bản giúp con người tương tác với thế giới và phát
triển ý thức. Ngôn ngữ là công cụ quan trọng giúp con người giao tiếp, truyền đạt kinh nghiệm và tri
thức, từ đó phát triển ý thức.
=+ Quan hệ xã hội: Ý thức không chỉ là sản phẩm của cá nhân mà còn là kết quả của các mối quan hệ
xã hội. Sự tương tác và giao tiếp giữa con người với nhau trong xã hội đóng vai trò quan trọng trong
việc hình thành và phát triển ý thức.
Bản chất của ý thức
Trước triết học Mác, quan niệm duy tâm và tôn giáo coi ý thức là sản phẩm thuần túy của lực lượng
siêu nhiên, hoặc là “linh hồn” của con người. Ngược lại quan niệm duy vật coi ý thức là sự phản ánh
hiện thực khách quan của bộ não người, vì thế có nhiều thắc mắc xoay quanh về ý thức như: "Ý thức
là gì? Bản chất của ý thức là gì? Ví dụ về bản chất của ý thức? Phân tích nội dung bản chất của ý thức?"

Theo đó, triết học duy vật biện chứng coi ý thức là thuộc tính của một dạng vật chất có tổ chức cao là
bộ não người, hoặc là “hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan”.
Ý thức không phải là vật chất, mà chỉ là thuộc tính của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ não
người. Ý thức chỉ có ở con người và tồn tại thông qua sự hoạt động của bộ não người. Khác với vật
chất là cái tồn tại khách quan, sự tồn tại của ý thức là sự tồn tại chủ quan và có khả năng phản ánh
tồn tại khách quan. Ý thức là hoạt động tinh thần của con người có kết cấu phức tạp bao gồm: Tình
cảm, ý chí, tư tưởng,...
Bản chất của ý thức là sự phản ánh mang tính tích cực, năng động và tính sáng tạo. Bởi vì, nhận
thức của con người là một nhu cầu khách quan, nhu cầu về nghiên cứu và sự giải thích tất cả những
gì xảy ra trong hiện thực, về sự nắm bắt và vận dụng các qui luật khách quan. Tính năng động và sáng
tạo của ý thức là quá trình cải biến các đối tượng vật chất đã được di chuyển vào bộ não con người,
thành cái tinh thần, cái khách thể tinh thần.
Một số ví dụ bản chất của ý thức: lOMoAR cPSD| 61601590
Bản chất của ý thức, theo quan điểm triết học Marx-Lenin, là sự phản ánh hiện thực khách quan vào
trong bộ óc con người, thông qua hoạt động thực tiễn và các quá trình nhận thức. Ý thức không phải
là thứ tự sinh ra hay tồn tại độc lập mà luôn là sự phản ánh của thế giới vật chất.
Để làm rõ bản chất này, chúng ta có thể xét các ví dụ sau:
(1) Ý thức và lao động
Khi con người đối mặt với thiên nhiên để kiếm sống (như săn bắt, hái lượm), thông qua quá trình này,
ý thức về việc chế tạo công cụ dần hình thành. Con người nhận ra rằng cần cải tiến công cụ lao động
như đá, gỗ để hiệu quả hơn. Đây là quá trình ý thức phản ánh lại những yêu cầu vật chất từ thực tiễn
và tạo ra các phát minh mới.
Khi máy móc công nghiệp ra đời, ý thức con người tiếp tục thay đổi và phản ánh những yêu cầu mới
của sản xuất. Các lý thuyết về quản lý, tổ chức lao động, sản xuất tự động hóa là kết quả của quá trình
phản ánh và sáng tạo từ thực tiễn công nghiệp hiện đại.
(2) Ý thức về xã hội và đạo đức
Trong các xã hội phong kiến, quan niệm về quyền lực, địa vị và sự phân biệt giai cấp là điều hiển nhiên
và được chấp nhận. Tuy nhiên, khi xã hội chuyển sang các hình thái kinh tế khác, đặc biệt là trong thời
kỳ tư bản và công nghiệp, ý thức về công bằng xã hội, quyền con người, và đấu tranh giai cấp bắt đầu
thay đổi. Đây là minh chứng cho việc ý thức xã hội thay đổi theo các điều kiện vật chất, chính trị và
kinh tế của từng thời kỳ.
Ví dụ về sự phát triển ý thức đạo đức: trước đây, các chế độ nô lệ được coi là điều tự nhiên và chấp
nhận. Tuy nhiên, khi xã hội phát triển và ý thức con người về tự do, nhân quyền tiến bộ, việc phản đối
và xóa bỏ chế độ nô lệ trở thành điều tất yếu. Điều này cho thấy ý thức đạo đức của con người luôn
gắn liền và phát triển cùng với những biến đổi về vật chất và điều kiện xã hội.
(3) Ý thức và khoa học
Trước khi có kính viễn vọng, ý thức con người về vũ trụ rất hạn chế, họ tin rằng Trái đất là trung tâm
của vũ trụ (thuyết địa tâm). Nhưng khi khoa học và công nghệ phát triển, công cụ quan sát như kính
viễn vọng ra đời, ý thức về vũ trụ thay đổi, dẫn đến thuyết nhật tâm của Copernicus và sự phát triển
của thiên văn học hiện đại.
Tóm lại, bản chất của ý thức là sự phản ánh của vật chất và các điều kiện thực tế. Nó không chỉ là sự
sao chép thụ động, mà còn có khả năng sáng tạo, thay đổi và tác động ngược lại vật chất, tạo ra động
lực phát triển của xã hội.
2.Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức. SGK/48 Lý luận:
Để phân tích được mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức thì trước tiên ta phải hiểu
và phát biểu được khái niệm về vật chất và ý thức lOMoAR cPSD| 61601590
Vật chất: Theo LêNin “ Vật chất là 1 phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại
cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh lại và tồn tại
không lệ thuộc vào cảm giác”
Ý thức : Là một dạng vật chất đặc biệt có tổ chức cao là bộ óc con người. Bộ óc người là cơ quan vật
chất của ý thức còn ý thức là chức năng của bộ óc con người vì vậy không thể tách rời ý thức ra khỏi bộ óc.
Ý thức có 2 nguồn gốc chính: nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội
Nguồn gốc tự nhiên: • Óc người là cơ quan vật chất của ý thức là kết quả quá trình tiến hóa lâu dài
của vật chất. • Sự tiến hóa của các hình thức phản ánh phụ thuộc vào những cấp độ phát triển khác
nhau của vật chất. Phản ánh tâm lý ở động vật cấp cao và sự chuyển hóa của phản ánh tâm lý thành
phản ánh ý thức của con người.
Nguồn gốc xã hội : ý thức hình thành thông qua quá trình lao động, ngôn ngữ và những quan hệ xã hội của loài người.
Vật chất được hiểu là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con
người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại; chụp lại; phản ánh và không lệ thuộc vào
cảm giác. Lênin đòi hỏi phân biệt vật chất với với tư cách là một phạm trù triết học, nó chỉ ra tất cả
những gì tác động đến ý thức của chúng ta, giúp hiểu biết các hiện tượng. Vật chất là hiện thực khách
quan, tồn tại bên ngoài không phụ thuộc vào cảm giác, ý thức của con người.
Đặc điểm của vật chất: Vật chất tồn tại bằng vận động và thể hiện sự tồn tại thông qua vận động.Không
có vận động ngoài vật chất và không có vật chất không có vận độngVật chất vận động trong không
gian và thời gian; Không gian và thời gian là thuộc tính chung vốn có của các dạng vật chất cụ thể và
là hình thức tồn tại của vật chất.
Bên cạnh vật chất, ý thức là kết quả của quá trình phát triển tự nhiên và lịch sử xã hội. Ý thức mang
bản chất là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, chính là sự phản ánh tích cực, tự giác, chủ
động thế giới khách quan và bộ não con người thông qua hoạt động thực tiễn.
2. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
Vật chất và ý thức có quan hệ 2 chiều và tác động qua lại lẫn nhau. Mối quan hệ giữa vật chất và ý
thức được thể hiện qua nhận thức và thực tiễn như sau
2.1 Thứ nhất: Vật chất có vai trò quyết định ý thức
Do tồn tại khách quan nên vật chất là cái có trước và mang tính thứ nhất. Ý thức là sự phản ánh lại
của vật chất nên là cái có sau và mang tính thứ hai. Nếu không có vật chất trong tự nhiên và vật chất
trong xã hội thì sẽ không có ý thức nên ý thức là thuộc tính, là sản phẩm cuẩ vật chất, chịu sự chi phối,
quyết định của vật chất. Bên cạnh đó, ý thức có tính sáng tạo, năng động nhưng những điều này có
cơ sở từ vật chất và tuân theo những quy luật của vật chất. Vật chất quy định nội dung và hình thức
biểu hiệu của ý thức. Điều này có ý nghĩa là ý thức mang những thông tin về đối tượng vật chất cụ thể.
Những thông tin này có thể đúng hoặc sai, đủ hoặc thiếu, sự biểu hiện khác nhau đều do mức độ tác
động của vật chất lên bộ óc con người.
Ví dụ 1: Cá nhân A sinh sống ở vùng sâu. vùng xa không có cơ hội tiếp cận với công nghệ thông tin,
việc tiếp cận còn nhiều hạn chế, cũng như khi đi học thì A cũng thiếu đội ngũ giáo viên giảng vậy. Tức lOMoAR cPSD| 61601590
là về điều kiện cơ sở hạ tầng không đáp ứng nên cá nhân A không có kiến thức, hiểu biết nhiều về các
sản phẩm công nghệ thông tin, thậm chí không biết sử dụng. Tuy nhiên, đối với cá nhân B sống ở Thủ
đô, từ nhỏ cá nhân B có cơ hội học tập, tiếp cận với các công nghệ thông tin hiện đại, có cha mẹ cũng
như thầy cô chỉ dạy, vì vậy cá nhân B dễ dàng sử dụng và tiếp cận các công nghệ thông tin dù là
những công nghệ mới nhất. Như vậy, có thể thấy điều kiện vật chất sẽ quyết định ý thức.
Ví dụ 2: Việt Nam ta thường có câu ca dao tục ngữ "có thực mới vực được đạo" ý là vật chất quyết
định nhận thức của con người. Khi con người không đủ no, không có sức khoẻ thì bộ não của con
người sẽ khó hoạt động. Bộ não con người sẽ phản ánh những hiện thực của cuộc sống một cách cụ thể nhất.
Ý nghĩa phương pháp luận của quan niệm vật chất: Định nghĩa vật chất của V.I Lê Nin đã hai mặt vấn
đề cơ bản của triết học trên lập trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng. Trong nhận thức và thực
tiễn đòi hỏi con người phải quán triệt nguyên tắc khách quan - xuất phát từ hiện thực khách quan, tôn
trọng khách quan, nhận thức và vận dụng đúng đắn quy luật khách quan. Định nghĩa vật chất của V.I
Lenin là cơ sở khoa học cho việc xác định vật chất trong lĩnh vực xã hội - đó là các điều kiện sinh hoạt
vật chất, hoạt động vật chất và các mối quan hệ vật chất xã hội giữa người với người. Nó còn tạo sự
liên kết giữa chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử thành một hệ thống lý luận
thống nhất, góp phần tạo ra nền tảng lý luận khoa học cho việc phân tích một cách duy vật các vấn đề
của chủ nghĩa duy vật lịch sử, trước hết là các vấn đề về sự vận động và phát triển của phương thức
sản xuất vật chất, về mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, về mối quan hệ giữa quy luật
khách quan của lịch sự và hoạt động có ý thức của con người.
2.2 Thứ hai: Ý thức tác động trở lại vật chất
Mặc dù vật chất sinh ra ý thức nhưng ý thức không thụ động mà sẽ tác động trở lại cật chất thông qua
các hoạt động thực tiễn của con người. Ý thức sau khi sinh ra sẽ không bị vật chất gò bó mà có thể
tác động làm thay đổi vật chất.
Vai trò của ý thức đối với vật chất thể hiện ở vai trò của con người đối với khách quan. Qua hoạt động
của con người, ý thức có thể thay đổi, cải tạo hiện thực khách quan theo nhu cầu phát triển của con
người. Và mức độ tác động phụ thuộc vào nhiều yếu tố như nhu cầu, ý chí, điều kiện, môi trường…
và nếu được tổ chức tốt thì ý thức có khả năng tác động lớn đến vật chất.
Ý thức không thể thoát ly hiện thực khách quan, sức mạnh của ý thức được chứng tỏ qua việc nhận thức hiện
thực khách quan và từ đó xây dựng kế hoạch, xác định mục tiêu ý chí để hoạt động của con người có thể tác
động trở lại vật chất. Việc tác động tích cực lên vật chất thì xã hội sẽ ngày càng phát triển và ngược lại, nếu
nhận tức không dùng, ý thức sẽ kìm hãm lịch sử.
Ý thức tác động lại vật chất thông qua các hoạt động thực tiễn
Trong mối quan hệ với vật chất, ý thức có thể tác động trở lại đối với vật chất thông qua các hoạt động
thực tiễn của con người. Bởi vì ý thức chính là ý thức của con người nên nói đến vai trò của ý thức
chính là nói đến vai trò của con người. Bản thân ý thức không trực tiếp làm thay đổi bất cứ điều gì
trong hiện thực khách quan.
Mọi hoạt động của con người đều do ý thức chỉ đạo, vì vậy vai trò của ý thức không phải là trực tiếp
tạo ra hay làm thay đổi thế giới vật chất mà nó trang bị cho con người những hiểu biết về hiện thực
khách quan, trên cơ sở đó con người xác định mục tiêu, đề ra phương hướng, xây dựng kế hoạch,
lựa chọn phương pháp, các biện pháp, công cụ, phương tiện … để thực hiện mục tiêu của mình. lOMoAR cPSD| 61601590
Ví dụ 2: Khi ở nhiệt đố 0 độ C thì nước đông thành đá, do đó con người muốn uống nước đá đã cung
cấp một nhiệt độ vừa đủ để nước chuyển từ trạng thái lỏng, sang trạng thái rắn (nước đá).
Thường thì sự tác động của ý thức đối với vật chất sẽ diễn ra theo hai hướng:
- Tích cực: Khi phản ánh đúng đắn hiện thực, ý thức sẽ tác động lực thúc đẩy vật chất phát triển nhưhai
vị dụ trên có thể thấy được rằng ý thức đang tác động tích cực đến vật chất.
- Tiêu cực: Khi phản ánh sai lệnh hiện thực, ý thức có thể kìm hãm sự phát triển của vật chất
3. Ý nghĩa phương pháp luận
Phải luôn xuất phát từ hiện thực khách quan trong mọi hoạt động. Tri thức mà con người thu nhận
được sẽ thông qua chu trình học tập, nghiên cứu từ các hoạt động quan sát, phân tích để tác động
vào đối tượng vật chất và buộc những đối tượng đó phải thể hiện những thuộc tính, quy luật.Để cải
tạo thế giới khách quan đáp ứng nhu cầu của mình, con người phải căn cứ vào hiện thực khách quan
để có thể đánh giá, xác định phương hướng biện pháp, kế hoạch mới có thể thành công. Bên cạnh đó
cần phải tránh xa những thói quen chỉ căn cứ vào nhu cầu, niềm tin mà không nghiên cứu đánh giá
tình hình đối tượng vất chất.
Phát huy tính năng động, sáng tạo, sức mạnh to lớn của yếu tố con người.Con người muốn ngày càng
tài năng, xã hội ngày càng phát triển thì phải luôn chủ động, phát huy khả năng của mình và luôn tìm
tòi, sáng tạo cái mới. Bên cạnh đó, con người phải thường xuyên rèn luyện, tu dưỡng, nâng cao năng
lực và không bỏ cuộc giữa chừng.
Trong việc xây dựng nền kinh tế mới: Hiện nay, người dân hiểu và tiếp thu những nghiên cứu, đúc kết
từ phân tích của nhà khoa học, nhà triết học vào thực tiễn cuộc sống. Sau đó áp dụng mối quan hệ
giữa vật chất và ý thức. Nó là cơ sở để con người phản ứng với thực tại vật chất thông qua những
nhận thức cụ thể. Có những thứ tồn tại trong thực tế cuộc sống cần phải có sự cải tạo của con người
mới có ích cho nhiều việc.
Từ sự hiện diện của vật chất trên thế giới này, con người nhận thức đúng, thậm chí thay đổi và tác
động trở lại một cách sáng tạo. Làm cho vật chất đó sinh ra các vật thể, đồ vật, sinh vật, thực vật, ….
đa dạng hơn hoặc nếu chủ thể coi đó là vật có hại thì sẽ tìm cách kìm hãm sự phát triển của nó và loại
bỏ nó khỏi thế giới loài người. Đất nước ta đang bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa, Đảng ta chủ trương: “huy động ngày càng cao mọi nguồn lực cả trong và ngoài nước, đặc
biệt là nguồn lực của dân và công cuộc phát triển đất nước”, muốn vậy phải “nâng cao năng lực lãnh
đạo và sức chiến đấu của Đảng phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi
mới, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, thực hiện “dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh”.
3.Hai nguyên lý của phép biện chứng duy vật: lý luận và vận dụng SGK/50
A: Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
là nguyên tắc lý luận xem xét sự vật, hiện tượng khách quan tồn tại trong mối liên hệ, ràng buộc lẫn
nhau tác động, ảnh hưởng lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng hay giữa các mặt của một sự vật, của
một hiện tượng trong thế giới. Nguyên lý này biểu hiện thông qua 06 cặp phạm trù cơ bản.
- Ý nghĩa phương pháp luận: + SGK/52 lOMoAR cPSD| 61601590
+ Quan điểm toàn diện: Khi nghiên cứu hoặc giải quyết vấn đề, cần xem xét toàn diện các mối liên hệ
và tác động qua lại giữa các yếu tố.
+ Quan điểm lịch sử - cụ thể: Mỗi sự vật, hiện tượng cần được xem xét trong bối cảnh lịch sử và điều kiện cụ thể của nó.
Ví dụ: Những ví dụ này cho thấy rằng mọi sự vật, hiện tượng đều tồn tại trong mối liên hệ và tác động
qua lại lẫn nhau, không có gì tồn tại một cách biệt lập.
- Mối liên hệ giữa đào tạo và hiệu quả lao động: Trong đào tạo và phát triển việc đào tạo và nâng caokỹ
năng cho người lao động sẽ dẫn đến hiệu quả lao động cao hơn. Ví dụ, khi công nhân được đào tạo
về kỹ thuật mới, họ có thể làm việc hiệu quả hơn và giảm thiểu sai sót trong quá trình sản xuất. - Mối
liên hệ giữa điều kiện làm việc và năng suất lao động: Cải thiện điều kiện làm việc (như môi trường
làm việc an toàn, thoải mái) sẽ ảnh hưởng tích cực đến năng suất lao động. Giả sử một nhà máy có
hệ thống thông gió tốt và ánh sáng đầy đủ sẽ giúp công nhân làm việc hiệu quả hơn.
Những ví dụ này cho thấy rằng mọi sự vật, hiện tượng đều tồn tại trong mối liên hệ và tác động qua lại
lẫn nhau, không có gì tồn tại một cách biệt lập. B: Nguyên lý về sự phát triển SGK/52,53
là nguyên tắc lý luận mà trong đó khi xem xét sự vật, hiện tượng khách quan phải luôn đặt chúng vào
quá trình luôn luôn vận động và phát triển (vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ kém hoàn thiện đến
hoàn thiện hơn của sự vật). Nguyên lý này biểu hiện thông qua ba quy luật cơ bản
- Ý nghĩa phương pháp luận:
+ Quan điểm phát triển: Khi nghiên cứu hoặc giải quyết vấn đề, cần xem xét sự vật và hiện tượng trong
quá trình vận động và phát triển của chúng.
+ Quan điểm toàn diện: Cần xem xét sự phát triển trong mối liên hệ với các yếu tố khác, không tách rời hoặc cô lập. Ví dụ:
- Trong tự nhiên: Các loài sinh vật phát triển từ những dạng sống đơn giản đến phức tạp hơn ‘thông
qua quá trình chọn lọc tự nhiên. Ví dụ, loài người đã tiến hóa từ các loài linh trưởng cổ đại.
- Trong tư duy: Con người luôn học hỏi và tích lũy kiến thức mới. Ví dụ, từ việc hiểu biết cơ bản về
thiên văn học, con người đã phát triển các lý thuyết phức tạp về vũ trụ và khám phá không gian. 4.
Quy luật lượng-chất SGK/63,64 Lý luận:
Mỗi sự vật, hiện tượng tồn tại ở một thể thống nhất bao gồm phần chất và phần lượng. Trong đó phần
chất là phần tương đối ổn định còn phần lượng là phần thường xuyên có sự biến đổi.
Sự biến đổi này của lượng sẽ tạo nên sự mâu thuẫn giữa lượng và chất.
Trong một điều kiện nhất định đáp ứng được sự biến đổi về lượng, một sự vật, hiện tượng sẽ có sự
biến đổi về lượng, đến một mức độ nhất định, nó sẽ phá vỡ chất cũ. Lúc này mâu thuẫn giữa lượng
và chất được giải quyết, chất mới được hình thành với một lượng mới. Tuy nhiên bản chất của lượng
là vận động nên nó sẽ không đứng yên mà sẽ tiếp tục vận động đến một thời điểm nào đó nó sẽ làm
phá vỡ chất hiện tại.
Quá trình vận động giữa hai mặt Lượng và chất tác động với nhau qua hai mặt: Chúng tạo nên sự vận
động liên tục và không dừng lại. Lượng sẽ biến đổi dần dần và tạo nên chất mới, hay nói cách khác, lOMoAR cPSD| 61601590
lượng biến đổi dần dần và tạo nên bước nhảy vọt. Sau đó chúng tiếp tục biến đổi dần và tạo nên bước nhảy vọt tiếp theo.
Nói một cách ngắn gọn thì nội dung quy luật lượng chất là bất cứ một sự vật, hiện tượng nào cũng đều
vận động và phát triển.
Biến đổi về lượng đến một mức nhất định sẽ dẫn đến biến đổi về chất, sản sinh chất mới. Rồi trên nền
tảng của chất mới lại bắt đầu biến đổi về lượng. Biến đổi về lượng là nền tảng và chuẩn bị tất yếu của
biến đổi về chất. Biến đổi về chất là kết quả tất yếu của biến đổi về lượng. Quy luật biến đổi về chất và
lượng cho thấy trạng thái và quá trình phát triển của sự vật.
Vận dụng quy luật trong quá trình học tập và rèn luyện của sinh viên hiện nay.
Sự khác nhau cơ bản giữa việc học tập ở phổ thông và Đại Học Lượng kiến thức ở bậc đại
học tăng lên đáng kể so với học ở bậc trung học phổ thông.

Ví dụ đơn giản, nếu ở cấp 3, một môn học kéo dài một năm thì ở đại học, một môn học sẽ chỉ kéo dài
khoảng 1 đến 2 tháng. Rõ ràng, lượng kiến thức tăng lên đáng kể sẽ mang đến những khó khăn cho
tân sinh viên. Không chỉ chênh lệch về lượng kiến thức mà còn có sự đa dạng về kiến thức ở bậc đại
học và trung học phổ thông. Không giống như phong cách học tập thụ động của trường trung học, sinh
viên đại học tham gia vào nhiều hoạt động nhóm, thuyết trình, hoạt động ngoại khóa, v.v. Chính những
thay đổi về lượng kiến thức, thời gian và cách học đã khiến nhiều tân sinh viên khó thích nghi với môi
trường học tập và giáo dục mới. Sự khác biệt lớn nhất giữa trung học và đại học có lẽ là nhiệm vụ học
tập. Việc lên lớp đối với bậc trung học chỉ là hoàn thành các mục tiêu mà giáo viên đề ra nhưng đối
với sinh viên Đại học, điều họ đang đối mặt không chỉ là những nhiệm vụ đơn thuần trên lớp mà họ
còn phải thực hiện các kì thực tập, phải bắt đầu đặt ra mục tiêu cho tương lai của họ. Ngoài ra, khi lên
Đại học, ý thức tự giác là yếu tố quan trọng nhất, không còn sổ liên lạc hay họp phụ huynh như bậc
trung học, tinh thần tự học sẽ được phát huy rõ rệt. Có thể nới sự chuyển đổi từ phổ thông lên Đại học
cũng giống như quá trình biến đổi từ lượng thành chất. Chính vì vậy mà mỗi sinh viên cần phải thích
nghi, thay đổi nếp sống mới sao cho phù hợp với môi trường đại học để đạt được những thành tích
cao trong quá rình học tập và nghiên cứu của mình.
5.Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập. SGK/66,67,68,69 Vận dung: - Trong tự nhiên
Quá trình đồng hóa và dị hóa trong cơ thể sinh vật: Đồng hóa là quá trình tổng hợp các chất hữu cơ
từ các chất đơn giản, trong khi dị hóa là quá trình phân giải các chất hữu cơ phức tạp thành các chất
đơn giản. Hai quá trình này đối lập nhưng cùng tồn tại và tương tác để duy trì sự sống của sinh vật. - Trong xã hội
Cuộc đấu tranh giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản: Trong xã hội tư bản chủ nghĩa, giai cấp tư sản
và giai cấp vô sản có lợi ích đối lập nhau. Sự đấu tranh giữa hai giai cấp này thúc đẩy sự phát triển và
biến đổi của xã hội. - Trong kinh tế
Quan hệ giữa cung và cầu: Cung và cầu là hai mặt đối lập trong nền kinh tế thị trường. Khi cung vượt
quá cầu, giá cả giảm; ngược lại, khi cầu vượt quá cung, giá cả tăng. Sự tương tác giữa cung và cầu
tạo ra sự cân bằng và điều chỉnh thị trường. 6. Quy luật phủ định của phủ định SGK/69,70 Vận dụng:
Phân tích của Engles về ví dụ một hạt thóc. Có hàng nghìn triệu hạt giống nhau được xay ra, nấu chín
và đem làm rượu rồi tiêu dùng đi. Nhưng nếu một hạt thóc như thế gặp những điều kiện bình thường
đối với nó nếu nó rơi vào một miến đất thích hợp, thì nhờ ảnh hưởng của sức nóng và độ ẩm trong lOMoAR cPSD| 61601590
mình nó sẽ xảy ra một sự biến hóa riêng. Nó nẩy mầm, hạt thóc biến đi, không còn là hạt thóc nữa, bị
thay thế bởi một cây do nó đẻ ra, đó là sự phủ định hạt thóc. Nhưng cuộc sống thường ngày của cây
này thế nào? Nó lớn lên, ra hoa, thụ phấn và cuối cùng sinh ra những hạt thóc mới, và khi hạt thóc đó
chín thì cây chết đi, nó bị phủ định. Kết quả của sự phủ định này là chúng ta lại có hạt thóc ban đầu,
nhưng không phải chỉ là một hạt thóc mà là nhiều gấp mười, hai mươi, ba mươi lần
7. Bản chất của nhận thức.SGK/70 Vận dụng:
Nhận thức đóng vai trò quan trọng trong đời sống của con người. Giúp con người hiểu được cái riêng,
cái chung, hiểu được hiện tượng và bản chất của sự vật, sự việc. Nhờ nhận thức mà con người biết
được đúng đắn, đầy đủ và chính xác về bản chất của sự vật, hiện tượng.
Bên cạnh đó, nhận thức còn cung cấp cho con người một lượng lớn tri thức cũng như tích lũy được
rất nhiều kinh nghiệm trong cuộc sống. Con người dần hiểu được các nguyên lý, định nghĩa và khái
niệm trong thế giới quan của mình.
8. Vai trò của nhận thức đối với thực tiễn SGK/ 75,76,77
Thứ nhất, thực tiễn là cơ sở, mục đích, là động lực chủ yếu và trực tiếp của nhận thức Vì sao
lại nói thực tiễn là cơ sở của nhận thức? Xuất phát từ sự thật rằng mọi tri thức dù trực tiếp hay gián
tiếp đối với bất kì đối tượng con người nào, ở bất kì trình độ kinh nghiệm hay lý luận đều bắt nguồn từ
thực tiễn. Thực tiễn cung cấp tài liệu cho quá trình nhận thức, cho mọi lý luận. Thông qua những hoạt
động thực tiễn, con người tác động vào thế giới bên ngoài, buộc chúng phải bộc lộ những thuộc tính,
những quy luật để con người có thể nhận thức được chúng. Con người vốn quan hệ với thế giới bên
ngoài bằng thực tiễn chứ không phải bằng lý luận. Chính từ trong quá trình hoạt động thực tiễn cải tạo
thế giới mà nhận thức ở con người được hình thành và phát triển. Lúc đầu con người thường thu nhận
tài liệu một cách chủ quan, sau đó tiến hành so sánh, phân tích, tổng hợp, khái quát hóa... để phản
ánh bản chất, quy luật vận động của các sự vật, hiện tượng để xây dựng thành khoa học, lý luận.
Thực tiễn còn là mục đích của nhận thức. Bởi lẽ nhận thức dù về vấn đề, khía cạnh hay lĩnh vực nào
đi chăng nữa thì cũng phải quy về phục vụ thực tiễn. Do vây, kết quả nhận thức phải hướng dẫn và
chỉ đạo thực tiễn. Nếu lý luận, khoa học không vận dụng được để cải tạo thực tiễn thì không có bất cứ ý nghĩa nào.
Thực tiễn là động lực chủ yếu và trực tiếp của nhận thức. Thực tiễn giúp con người nhận thức toàn
diện hơn về thế giới. Những nhu cầu, nhiệm vụ và phương hướng phát triển của nhận thức là kết quả
của thực. Trong quá trình hoạt động thực tiễn làm biến đổi thế giơi, con người cũng không ngừng biến
đổi theo. Từ đó con người ngày càng đi sâu vào nhận thức và khám phá thế giới, làm sâu sắc và phong
phú vốn tri thức của mình về thế giới xung quanh. Nhu cầu thực tiễn đòi hỏi phải luôn luôn làm mới
nguồn tri thức, biết cách tổng kết kinh nghiệm, khái quảt lý luận để từ đó thúc đẩy sự ra đời và phát
triển của các ngành khoa học. Hoạt động thực tiễn của con người cần tới khoa học - từ đó dẫn đến sự ra đời của khoa học.
Thứ hai, thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý. Quan điểm của triết học Mác - Lênin đã từng cho rằng:
"vấn đề tìm hiểu xem tư duy con người có thể đạt tới chân lý khách quan hay không hoàn toàn không
phải là một vấn đề lý luận, mà là một vấn đề thực tiễn. Chính trong thực tiễn mà con người phải chứng
minh chân lý. Nhận thức khoa học có tiêu chuẩn logic riêng tuy nhiên chúng không thể thay thế hoàn
toàn cho tiêu chuẩn thực tiễn và xét đến cùng nó còn phụ thuộc và tiêu chuẩn thực tiễn. Thực tiễn là
tiêu chuẩn của chân lý vừa tuyệt đối mà cũng vừa tương đối. Tuyệt đối ở đây là bởi thực tiễn chính là
tiêu chuẩn khách quan để kiểm nghiệm chân lý. Không phải tất cả thực tiễn có thể kiểm nghiệm được
chân lý mà còn phải dựa vào thực tiễn ở mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau. Tính tương đối của thực tiễn
thể hiện ở chỗ thực tiễn không ngừng biến đổi và phát triển. Thực tiễn cũng không tránh khỏi yếu tố
chủ quan bởi lẽ thực tiễn cũng là một quá trình và được thực hiện bởi con người. Chính sự biến đổi
không ngừng của thực tiễn đã ngăn cản những tri thức của con người biến thành chân lý tuyệt đối cuối
cùng. Những tri thức liên tục bị kiểm nghiệm bởi các giai đoạn của thực tiễn có thể thực tiễn trong quá lOMoAR cPSD| 61601590
khứ, hiện tại hay thậm chí là tương lai. Để từ đó nhận thức của con người được bổ sung, điều chỉnh
và phát triển toàn diện nhất. Vận dụng:
Ví như những năm 1970-1975, đất nước ta đang trong cuộc chiến đấu đầy nảy lửa và cam go để giành lại đất
nước, từ hiện thức đất nước đang bị xâm lược, chìm tỏng bom đạn, có rất nhiều những thanh niên trẻ xung
phong lên đường bảo vệ tổ quốc, hy sinh thân mình để bảo vệ dân tộc.
Hay nhưng bạn học sinh nhìn thấy hiện thực ngày nay xã hội phát triển đòi hỏi con người cũng phát triển để
không bị AI, trí tuệ nhân tạo thay thế thì buộc họ phải mở rộng kiến thức, học hỏi và phát triển bản thân.
9. Quy luật QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX SGK/109,111 Quy luật về
sự phù hợp giữa QHSX với trình độ phát triển của LLSX:
Nội dung QHSX phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất LLSX là phép biện chứng cơ
bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử, thể hiện phương pháp nhận thức khoa học, đối lập với phép nhận
thức siêu hình. Phép biện chứng này nhìn thấy sự tác động qua lại của QHSX và LLSX trong từng giai
đoạn lịch sử nhất định. Mối quan hệ biện chứng giữa LLSX và QHSX được thể hiện thành một quy
luật, đó là quy luật về sự phù hợp của QHSX với trình độ phát triển của LLSX.
Sự phù hợp là một khái niệm chỉ sự thích ứng giữa các yếu tố cấu thành LLSX và QHSX; giữa LLSX
với QHSX, đem lại 1 phương thức kết hợp giữa lao động sống và lao động quá khứ, tạo ra 1 hiệu quả
cao nhất trong quá trình sản xuất và kinh doanh.
Quy luật về sự phù hợp giữa QHSX với trình độ phát triển của LLSX: là một quy luật cơ bản của sự
vận động và phát triển của XH loài người, là nguyên nhân động lực đưa đến sự thay đổi và phát triển
của các PTSX. Từ CXNT -> CHNL, PK,TBCN-> CSCN
Nội dung của quy luật được thể hiện ở các điểm chủ yếu sau: -
Biện chứng giữa LLSX và QHSX là mối quan hệ khách quan, vốn có trong mọi quá trình sản
xuất vật chất. Nói cách khác, để tiến hành sản xuất vật chất, con người phải thực hiện mối quan hệ
đôi, quan hệ kép, quan hệ song trùng này. Thiếu một trong hai quan hệ đó, quá trình sản xuất vật
chất không thực hiện được.
-Trong cấu trúc của PTSX thì LLSX là nội dung còn QHSX là hình thức XH của PTSX. LLSX giữ vai trò
quyết định sự phát triển của QHSX. Khuynh hướng của sản xuất xã hội là không ngừng biến đổi theo
chiều tiến bộ. Sự biến đổi đó, xét đến cùng bao giờ cũng bắt đầu từ sự biến đổi và phát triển của LLSX,
trước hết là công cụ lao động. Sự phát triển khách quan của LLSX, trước hết là công cụ lao động đến
1 mức độ nhất định sẽ làm cho QHSX phải biến đổi theo phù hợp với nó.
Cuối TK 18, sự ra đời của máy hơi nước -> chuyển từ SX thủ công sang SX công nghiệp, đại công
trường -> NSLD tăng lên, trình độ tổ chức lao động XH, trình độ ứng dụng KHKT vào SX, trình độ kinh
nghiệm và kỹ năng của NLĐ, trình độ phân công lao động tăng lên làm cho LLSX phát triển mạnh ->
QHSX PK dần bị thay thế bằng QHSX dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân TBCN. -
Sự phù hợp của QHSX với trình độ phát triển của LLSX là sự phù hợp biện chứng, sự
phù hợp bao hàm mâu thuẫn.
+ Sự phù hợp của QHSX với trình độ phát triển của LLSX là 1 trạng thái mà trong đó QHSX là hình
thức phát triển tất yếu của LLSX, là trạng thái mà ở đó các yếu tố cấu thành QHSX tạo địa bàn đầy đủ
cho LLSX phát triển. Trong trạng thái phù hợp, cả ba mặt của QHSX đạt tới sự thích ứng với trình độ
phát triển của LLSX, tạo điều kiện tối ưu cho việc sử dụng và kết hợp giữa lao động và TLSX. Sự phù
hợp đó biểu hiện ở kết quả là LLSX phát triển, kinh tế phát triển, phát huy được mọi năng lực sản xuất
và năng suất lao động cao. Đây là sự phù hợp giữa một yếu tố động (LLSX luôn biến động) với một
yếu tố mang tính ổn định tương đối (QHSX ổn định hơn, ít biến đổi hơn).
+ QHSX từ chỗ thích ứng với sự phát triển của LLSX, nhưng do LLSX luôn biến đổi, phát triển, lại trở
thành xiềng xích kìm hãm sự phát triển của LLSX. Con người phát hiện những yếu tố dẫn đến không
phù hợp, phát hiện mâu thuẫn và giải quyết những mâu thuẫn đó đem lại sự thích ứng mới của QHSX
với LLSX, dẫn đến tiến trình vận động, phát triển không ngừng của SXXH. Cho nên, sự phù hợp -
không phù hợp - phù hợp là biểu hiện khách quan của quá trình tương tác giữa LLSX và QHSX của lOMoAR cPSD| 61601590
mọi phương thức sản xuất trong lịch sử. Giải quyết mâu thuẫn giữa LLSX và QHSX không phải chỉ
bằng cách duy nhất là xóa bỏ QHSX cũ, thiết lập QHSX mới, mà là 1 quá trình thường xuyên đổi mới,
cải cách, điều chỉnh QHSX trước mỗi sự phát triển của LLSX. Tuy nhiên, đến một giới hạn nhất định,
khi mâu thuẫn giữa QHSX và LLSX đã trở nên gay gắt, không thể không giải quyết thông qua biện
pháp cải cách, điều chỉnh được nữa thì tất yếu phải xóa bỏ QHSX cũ, thiết lập QHSX mới cho phù hợp
với sự phát triển của LLSX.
Trong quá trình xây dựng CNXH trước đây, ở nhiều nước trong đó có cả nước ta, khi cải tạo và xây
dựng nền kinh tế mới đã nhận thức quy luật này một cách chủ quan, duy ý chí, đơn giản, máy móc,
cho rằng nền sản xuất TBCN luôn diễn ra sự không phù hợp giữa QHSX và LLSX, vì ở đó QHSX được
xây dựng trên cơ sở chiếm hữu tư nhân TBCN về tư liệu sản xuất. Còn nền sản xuất XHCN thường
xuyên có sự phù hợp của QHSX đối với LLSX, vì ở đây QHSX được xây dựng trên cơ sở chế độ công
hữu XHCN về tư liệu sản xuất. Từ đó dẫn đến việc xóa bỏ QHSX cũ dựa trên chiếm hữu tư nhân
TBCN về tư liệu sản xuất, chỉ xây dựng QHSX dựa trên cơ sở chế độ công hữu XHCN về tư liệu sản
xuất, thiết lập một nền kinh tế thuần nhất dưới hai hình thức sở hữu tư liệu sản xuất (sở hữu nhà nước
và sở hữu tập thể) nên đã để lãng phí nguồn lực sản xuất, năng suất lao động, làm kìm hãm sự phát triển của LLSX.
Ngày nay, nền sản xuất TBCN đã tạo ra một LLSX đồ sộ, tính chất xã hội hóa ngày càng cao, dẫn đến
mâu thuẫn ngày càng gay gắt với QHSX dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân TBCN về tư liệu sản xuất.
Các nước TBCN đang cố giải quyết mâu thuẫn này bằng cách cải cách, điều chỉnh QHSX tạo ra sự
thích nghi nhất định với LLSX. Biện pháp đó trước mắt vẫn tạo ra được tiềm năng để phát triển kinh
tế. Tuy nhiên, điều này không giải quyết được triệt để các mâu thuẫn, khủng hoảng chu kỳ vẫn đang
tiếp tục diễn ra đang đòi hỏi phải có những thay đổi căn bản QHSX, thiết lập QHSX mới phù hợp với
trình độ phát triển của LLSX.
Dưới CNXH, sự phù hợp và không phù hợp của QHSX với LLSX cũng tồn tại khách quan, bên trong
nền sản xuất vật chất. Chính vì thế, CNXH cũng phải thường xuyên phát hiện mâu thuẫn và giải quyết
mâu thuẫn một cách có hiệu quả, tạo ra sự phù hợp của của QHSX với trình độ phát triển của LLSX,
thức đẩy LLSX phát triển, kinh tế phát triển.
Vai trò của QHSX: Sự tác động trở lại của QHSX đối với sự phát triển của LLSX -
QHSX được xây dựng trên cơ sở trình độ phát triển của LLSX, do LLSX quyết định. Nhưng sau
khi được xác lập, nó có sự tác động trở lại sự phát triển của LLSX. -
QHSX quy định mục đích XH của sản xuất, quy định hình thức tổ chức, quản lý sản xuất, quyết
địnhkhuynh hướng phát triển của các nhu cầu về lợi ích vật chất và lợi ích tinh thần, từ đó hình thành
hệ thống những yếu tố tác động trở lại đối với sự phát triển của LLSX. -
QHSX tác động trở lại LLSX theo 2 hướng. Nếu QHSX phù hợp với trình độ phát triển LLSX thì
sẽ tạo địa bàn cho sự phát triển LLSX, thúc đẩy quá trình SXVC phát triển. Ngược lại, nếu QHSX
không phù hợp với trình độ phát triển LLSX thì sẽ kìm hãm sự phát triển của nền SXXH. Có 2 khả
năng của sự không phù hợp giữa QHSX và LLSX: QHSX lỗi thời, lạc hậu so với trình độ phát triển của
LLSX hoặc QHSX phát triển không đồng bộ, giả tạo, vượt trước ảo tưởng so với trình độ của LLSX.
Tác động theo chiều hướng tiêu cực của QHSX đối với sự phát triển LLSX chỉ có ý nghĩa tương đối.
QHSX không phù hợp LLSX, sớm muộn gì cũng được thay thế bằng 1 QHSX mới phù hợp với trình
độ mới của LLSX. Đó là xu thế tất yếu của sự phát triển sản xuất, sự phát triển kinh tế mà không 1 giai
cấp nào, 1 chủ thể nào có thể cưỡng lại được.
Ý nghĩa phương pháp luận: -
Quy luật về sự phù hợp của QHSX với trình độ phát triển của LLSX là 1 quy luật chung nhất
củasự phát triển XH, sự tác động của quy luật này đã khẳng định tính tất yếu k.quan của sự phát triển
XH loài người từ PTSX XH nguyên thủy, CHNL, PK, TBCN và PTSX CSCN tương lai. -
Quy luật về sự phù hợp của QHSX với trình độ phát triển của LLSX là quy luật về sự vận động
vàphát triển từ thấp đến cao. Nhưng trong những ĐK khách quan cụ thể một nước hoặc nhiều nước
có thể bỏ qua 1 trong 2 PTSX để tiến lên một PTSX cao hơn. lOMoAR cPSD| 61601590
10. Quy luật về mối quan hệ biện chứng giữ CSHT và KTTT SGK/111 LÝ LUẬN:
Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng:
Cơ sở hạ tầng nào sinh ra kiến trúc thượng tầng ấy. Giai cấp nào chiếm địa vị thống trị về kinh tế thì
cũng chiếm địa vị thống trị trong đời sống tinh thần. Quan hệ sản xuất nào thống trị thì tạo ra kiến trúc
thượng tầng chính trị tương ứng. Mâu thuẫn trong lĩnh vực kinh tế quyết định tính chất mâu thuẫn
trong lĩnh vực tư tưởng.
Do đặc điểm nói trên, bất kỳ hiện tượng nào thuộc kiến trúc thượng tầng: nhà nước, pháp luật, đảng
phái chính trị, triết học, đạo đức,.. đều không thể giải thích từ chính nó, bởi vì, chúng đều trực tiếp
hoặc gián tiếp phụ thuộc vào cơ sở hạ tầng và do cơ sở hạ tầng quyết định.
Những biến đổi cơ bản trong cơ sở hạ tầng sẽ hình thành nên một kiến trúc thượng tầng tương ứng
với nó. Tính chất của kiến trúc thượng tầng là do tính chất của cơ sở hạ tầng quyết định. Trong xã hội
có giai cấp, giai cấp nào thống trị về kinh tế thì cũng chiếm địa vị thống trị về mặt chính trị và đời sống
tinh thần của xã hội. Các mâu thuẫn trong kinh tế, xét đến cùng, quyết định các mâu thuẫn trong lĩnh
vực chính trị tư tưởng; cuộc đấu tranh giai cấp về chính trị tư tưởng là biểu hiện những đối kháng trong
đời sống kinh tế. Tất cả các yếu tố của kiến trúc thượng tầng như nhà nước, pháp quyền, triết học, tôn
giáo,… đều trực tiếp hay gián tiếp phụ thuộc vào cơ sở hạ tầng, do cơ sở hạ tầng quyết định. -
Khi cơ sở hạ tầng thay đổi kéo theo kiến trúc thượng tầng cũng thay đổi theo. Quá trình thay
đổidiễn ra không chỉ trong giai đoạn thay đổi từ hình thái kinh tế - xã hội này sang hình thái kinh tế -
xã hội khác, mà còn diễn ra ngay trong bản thân mỗi hình thái kinh tế - xã hội. Sự thay đổi cơ sở hạ
tầng dẫn đến làm thay đổi kiến trúc thượng tầng diễn ra rất phức tạp. Trong đó, có những yếu tố của
kiến trúc thượng tầng thay đổi nhanh chóng cùng với sự thay đổi cơ sở hạ tầng như chính trị, pháp luật,
Tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng: -
Tất cả các yếu tố cấu thành kiến trúc thượng tầng đều có tác động đến cơ sở hạ tầng. Tuy
nhiên,mỗi yếu tố khác nhau có vai trò khác nhau, có cách thức tác động khác nhau. -
Sự tác động của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng diễn ra theo hai chiều. Nếu kiến
trúcthượng tầng tác động phù hợp với các quy luật kinh tế khách quan thì nó là động lực mạnh mẽ
thúc đẩy kinh tế phát triển; nếu tác động ngược lại, nó sẽ kìm hãm phát triển kinh tế, kìm hãm phát triển xã hội.
Trong các bộ phận của kiến trúc thượng tầng, nhà nước giữ vai trò đặc biệt quan trọng, có tác dụng to
lớn đối với cơ sở hạ tầng. Nhà nước không chỉ dựa vào hệ tư tưởng mà còn dựa vào chức năng kiểm
soát xã hội để tăng cường sức mạnh kinh tế của giai cấp thống trị. Ăngghen viết: “bạo lực (nghĩa là
quyền lực nhà nước) cũng là một lực lượng kinh tế”. Các bộ phận khác của kiến trúc thượng tầng như
triết học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật cũng tác động đến cơ sở hạ tầng, nhưng thường thường phải
thông qua nhà nước, pháp luật. Vận dụng:
11. Sự phát triển của các hình thái KT-XH là một quá trình lịch sử- tự nhiên SGK/114
Xã hội loài người đã phát triển trải qua nhiều hình thái kinh tế - xã hội nối tiếp nhau. Trên cơ sở phát
hiện ra các quy luật vận động phát triển khách quan của xã hội, C.Mác đã đi đến kết luận rằng: "Sự
phát triển của những hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên."
Theo đó, tính chất lịch sử, tự nhiên của quá trình phát triển các hình thái kinh tế - xã hội được thể hiện
ở các nội dung chủ yếu sau đây:
Một là, sự vận động và phát triển của xã hội không tuân theo ý chí chủ quan của con người mà tuân
theo các quy luật khách quan, đó là các quy luật của chính bản thân cấu trúc hình thái kinh tế - xã hội,
là hệ thống các quy luật xã hội thuộc các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, khoa học,... Trong đó quan
trọng và cơ bản nhất là quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất và quy luật kiến trúc thượng tầng phù hợp với cơ sở hạ tầng. lOMoAR cPSD| 61601590
Hai là, nguồn gốc của mọi sự vận động, phát triển của xã hội, của lịch sử nhân loại, của mọi lĩnh vực
kinh tế, chính trị, văn hóa,... của xã hội suy đến cùng, xét đến cùng đều có nguyên nhân trực tiếp hay
gián gián tiếp từ sự phát triển của lực lượng sản xuất của xã hội.
Ba là, quá trình phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội, tức là quá trình thay thế lẫn nhau của các
hình thái kinh tế - xã hội trong lịch sử nhân loại và đó là sự phát triển của lịch sử xã hội loài người, có
thể do sự tác động của nhiều nhân tố chủ quan, nhưng nhân tố giữ vai trò quyết định chính là sự tác
động của các quy luật khách quan.
Dưới sự tác động của các quy luật khách quan mà lịch sử nhân loại, xét trong tính chất toàn bộ của
nó, là quá trình thay thế tuần tự của các hình thái kinh tế - xã hội: hình thái kinh tế - xã hội nguyên thủy
đến hình thái kinh tế - xã hội nô lệ, phong kiến, hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa và tương lai
nhất thuộc về hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Có thể nói, sự tác động của các quy luật
khách quan làm cho các hình thái kinh tế - xã hội phát triển thay thế nhau từ thấp đến cao đó là con
đường phát triển chung nhất của nhân loại.
Song tuy nhiên, con đường phát triển của mỗi dân tộc không chỉ bị chi phối bởi các quy luật chung, mà
còn bị tác động bởi các điều kiện về tự nhiên, về chính trị, về truyền thống văn hóa, về điều kiện quốc
tế,... Chính vì vậy, lịch sử phát triển của nhân loại hết sức phong phú, đa dạng. Mỗi dân tộc đều có nét
độc đáo riêng trong lịch sử phát triển của mình. Có những dân tộc lần lượt trải qua các hình thái kinh
tế - xã hội từ thấp đến cao; nhưng cũng có những dân tộc bỏ qua một hay một số hình thái kinh tế - xã
hội nào đó. Tuy nhiên, việc bỏ qua đó cũng diễn ra theo một quá trình lịch sử - tự nhiên chứ không
phải theo ý muốn chủ quan.
Như vậy, quá trình lịch sử - tự nhiên của sự phát triển xã hội chẳng những diễn ra bằng con đường
phát triển tuần tự, mà còn bao hàm cả sự bỏ qua, trong những điều kiện nhất định, một hoặc một vài
hình thái kinh tế - xã hội nhất định. Vận dụng:
12. Tính tất yếu, vai trò và nội dung của đấu tranh giai cấp trong giai đoạn hiện nay SGK/117,119 Khái niệm giai cấp
Giai cấp là những tập đoàn to lớn gồm những người có địa vị khác nhau trong một hệ
thống kinh tế - xã hội nhất định
Khái niệm đấu tranh giai cấp
-Cuộc đấu tranh giai cấp của quần chúng bị tước quyền, bị áp bức và lao động, chống
bọn đặc quyền, đặc lợi, bọn áp bức và bọn ăn bám, cuộc đấu tranh của những người
công nhân làm thuê hay những người vô sản chống những người hữu sản hay giai cấp tư sản.
-Thực chất của đấu tranh giai cấp là cuộc đấu tranh giữa những giai cấp, những tầng lớp
mà lợi ích của chúng đối lập nhau trong thể điều hòa với nhau được.
-Có nhiều hình thức đấu tranh: Đấu tranh kinh tế, đấu tranh chính trị, đấu tranh tư tưởng…
Trong thực tế còn có đấu tranh dân tộc, tôn giáo.
Nguyên nhân của đấu tranh giai cấp
Nguyên nhân sâu xa của đấu tranh giai cấp là mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất
Nguyên nhân trực tiếp của đấu tranh giai cấp là mâu thuẫn giữa giai cấp bị trị và giai
cấp thống trị về lợi ích, mà trước hết là lợi ích kinh tế.
Mâu thuẫn giữa một bên là giai cấp tiến bộ, cách mạng, đại diện cho phương thức sản
xuất mới với một bên là giai cấp thống trị, bóc lột đại biểu cho phương thức sản xuất lỗi thời, lạc hậu. lOMoAR cPSD| 61601590
Đấu tranh giai cấp là một trong những động lực phát triển của các xã hội có giai cấp (Vai trò)
-Thứ nhất, kết cục của đấu tranh giai cấp là mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất được giải
quyết, quan hệ sản xuất cũ bị mất đi được thay thế bằng quan hệ sản xuất mới, cơ sở hạ tầng mới ra đời, kiến
trúc thượng tầng mới xuất hiện, làm cho mọi mặt của đời sống xã hội phát triển, từ đó thúc đẩy cho sự phát triển của xã hội.
-Thứ hai, đấu tranh giai cấp lật đổ chính quyền cũ, xác lập chính quyền mới, cùng với quá trình đó, kết cấu xã hội
- giai cấp cũ bị xóa bỏ, kết cấu xã hội - giai cấp mới được hình thành làm cho xã hội phát triển.
-Thứ ba, đấu tranh giai cấp không chỉ góp phần xóa bỏ thế lực phản động, lạc hậu, mà còn đồng thời có tác
dụng cải tạo bản thân các giai cấp cách mạng và quần chúng cách mạng, giai cấp đó sẽ lãnh đạo cách mạng và
thúc đẩy xã hội phát triển.
-Thứ tư, đấu tranh giai cấp không chỉ là đòn bẩy của lịch sử trong thời kì cách mạng, mà còn là động lực phát
triển của xã hội ngay cả trong thời kì lượng sản xuất, cách mạng khoa học – công nghệ, cải cách về dân chủ và tiến bộ xã hội… không tách rời cuộc
đấu tranh của giai cấp tiến bộ chống lại giai cấp thống trị, các thế lực thù địch phản động. Đấu tranh cách
mạng (Tính tất yếu và thực chất của đấu tranh giai cấp trong giai đoạn hiện nay. Hỏi thì mới trả lời).

-Đấu tranh giai cấp là một tất yếu không chỉ dưới chủ nghĩa tư bản, mà ngay cả trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa
xã hội. Dưới chủ nghĩa tư bản, đấu tranh giai cấp vẫn là một tất yếu, bởi vì:
-Mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản là mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất ngày càng mang tính xã hội hóa
và quan hệ sản xuất dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất vẫn chưa được giải quyết. Biểu hiện
về mặt xã hội là mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân với giai cấp tư sản là mâu thuẫn đối kháng không thể điều
hòa. Hơn nữa, nhiều vấn đề xã hội nan giải không thể giải quyết. Đặc biệt, bản chất của chủ nghĩa tư bản là một
chế độ áp bức, bóc lột. Trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đấu tranh giai cấp vẫn là một tất yếu, bởi vì: -
Thứ nhất, trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội vẫn tồn tại cơ sở kinh tế làm phân hóa xã hội thành giai cấp,
đó là nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường, nên bên cạnh mặt tích cực còn có mặt hạn chế đó là sự phân
hóa xã hội thành giàu nghèo
-Thứ hai, trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội, các thế lực phản động luôn rắp tâm mưu đồ giành giật lại
chính quyền mà chúng đã bị mất.
-Thứ ba, trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội, vẫn tồn tại những tàn dư của xã hội cũ để lại.
-Thứ tư, trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội, với nền kinh tế mở cửa, bên cạnh mặt tích cực còn có mặt tiêu
cực, đó là sự du nhập của những yếu tố ngoại lai không phù hợp.
-Thứ năm, trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội, các thế lực phản động trong nước cấu kết với các thế lực
phản động quốc tế sử dụng vậy, đấu tranh giai cấp hơn bao giờ hết vẫn là một tất yếu.
Đấu tranh giai cấp trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam (Vận dụng)
Mục tiêu của đấu tranh giai cấp ở Việt Nam:
-Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, dân giàu. nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
-Đấu tranh giai cấp ở Việt Nam diễn ra với nhiều hình thức, nhưng nổi bật lên trước hết là cuộc đấu tranh giữa
một bên là quần chúng nhân dân lao động, các lực lượng xã hội đi theo con đường dẫn đến mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, đoàn kết trong mặt trận thống nhất dân tộc do Đảng lãnh đạo, với một
bên là các thế lực, các tổ chức, các phần tử chống độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, chống Đảng, Nhà nước và
pháp luật, phá hoại trật tự xã hội và an ninh quốc gia. Đấu tranh giai cấp ở nước ta còn thể hiện ở giữa hai con đường xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa= Nội dung đấu tranh giai cấp ở Việt Nam hiện nay:
Thực hiện thắng lợi sự nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, khắc phục tình trạng
nước nghèo, kém phát triển, thực hiện công bằng xã hội, chống áp bức, bất công, đấu tranh ngăn chặn, khắc phục
những tư tưởng và hành động chống phá của các thế thực thù địch, bảo vệ độc lập dân tộc, xây dựng nước ta
thành một nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh, nhân dân hạnh phúc. Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại
đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân, đội ngũ trí thức và các tầng
lớp lao động khác dưới sự lãnh đạo của Đảng kết hợp hài hòa các lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội, phát huy mọi
tiềm năng và nguồn lực của các thành phần kinh tế, của toàn xã hội. Tóm lại, trong giai đoạn hiện nay cần nhận lOMoAR cPSD| 61601590
thức rõ tính chất gay go, phức tạp của cuộc đấu tranh giai cấp. Cần nắm vững quan điểm giai cấp của chủ nghĩa
Mác - Lenin, tránh rơi vào hai thái cực sai lầm hoặc quá cường điệu đấu tranh giai cấp đi đến rụt rè, không dám
đổi mới, hoặc mơ hồ mất cảnh giác đi đến phủ nhận đấu tranh giai cấp
13. Quan hệ biện chứng giữ tồn tại xã hội và ý thức xã hội SGK/131 LÝ LUẬN
Mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội là một trong những nguyên lý cơ bản của triết học
Mác-Lênin, đặc biệt liên quan đến lý thuyết về lịch sử và sự phát triển của xã hội.
Theo nguyên lý này, tồn tại xã hội và ý thức xã hội có mối quan hệ qua lại, tác động lẫn nhau, nhưng tồn tại xã
hội đóng vai trò quyết định đối với ý thức xã hội.
Theo đó, tồn tại xã hội bao gồm các yếu tố vật chất và điều kiện khách quan của đời sống xã hội, cụ thể:
- Phương thức sản xuất: là yếu tố quan trọng nhất, bao gồm lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
- Cơ sở hạ tầng kinh tế: hệ thống các quan hệ kinh tế trong xã hội, như chế độ sở hữu, phân phối của cải.
- Điều kiện tự nhiên và môi trường sống: ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống con người.
Tồn tại xã hội phản ánh những điều kiện khách quan mà con người phải đối mặt trong quá trình tồn tại và phát triển.
Ý thức xã hội bao gồm toàn bộ tư tưởng, quan niệm, quan điểm, tôn giáo, đạo đức, pháp luật và các giá trị tinh
thần khác được hình thành từ quá trình phản ánh hiện thực xã hội. Ý thức xã hội tồn tại dưới nhiều hình thức như:
- Ý thức chính trị: quan điểm, hệ tư tưởng liên quan đến quyền lực nhà nước.
- Ý thức pháp quyền: các quan niệm về công bằng, quyền lợi và luật pháp.
- Ý thức tôn giáo: niềm tin và giáo lý liên quan đến các hiện tượng siêu nhiên.
- Ý thức đạo đức, văn hóa: các giá trị về đạo đức, lối sống và văn hóa trong xã hội.
Mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội
Mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội là một mối quan hệ biện chứng, tức là chúng tác động qua lại lẫn nhau. Trong đó:
Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội: Tồn tại xã hội, đặc biệt là phương thức sản xuất, quyết định sự hình thành
và phát triển của ý thức xã hội. Ví dụ, trong một xã hội phong kiến, ý thức xã hội sẽ phản ánh hệ thống giá trị và
đạo đức phong kiến, trong khi trong xã hội tư bản, ý thức xã hội sẽ phản ánh những quan điểm về lợi nhuận, cạnh
tranh, và sở hữu tư nhân.
Ý thức xã hội có tính độc lập tương đối và phản tác động lại tồn tại xã hội: Mặc dù tồn tại xã hội quyết định ý
thức xã hội, nhưng ý thức xã hội cũng có tính độc lập tương đối và có thể tác động ngược lại sự phát triển của tồn
tại xã hội. Ví dụ, một hệ tư tưởng tiến bộ có thể thúc đẩy sự thay đổi xã hội và góp phần làm cho tồn tại xã hội
phát triển theo một hướng mới. Tính biện chứng trong mối quan hệ
Mối quan hệ này không diễn ra theo một chiều mà mang tính biện chứng, tức là tồn tại xã hội và ý thức xã hội
vừa tác động, vừa ảnh hưởng qua lại lẫn nhau. Tuy nhiên, về mặt cơ bản, sự biến đổi trong tồn tại xã hội sẽ dẫn
đến những thay đổi trong ý thức xã hội. Đồng thời, ý thức xã hội, đặc biệt là các yếu tố tư tưởng, văn hóa tiến bộ,
có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của tồn tại xã hội.
Thông tin trên phân tích mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội. VẬN DỤNG
Mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội có thể được minh họa bằng nhiều ví dụ trong lịch sử và thực tiễn.
- Thời kỳ bao cấp và đổi mới kinh tế ở Việt Nam (1986):
+ Tồn tại xã hội: Sau khi Việt Nam thống nhất năm 1975, nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung được áp dụng, dựa
trên quản lý nhà nước và phân phối tài nguyên. Tuy nhiên, nền kinh tế bao cấp gặp nhiều khó khăn, khủng hoảng,
và kém hiệu quả. Đến năm 1986, Việt Nam bắt đầu công cuộc Đổi Mới, chuyển sang nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa.
+ Ý thức xã hội: Sự thay đổi này đã làm thay đổi nhận thức của xã hội về vai trò của thị trường, tư nhân, và nền
kinh tế. Tư tưởng mới về kinh doanh, tự do kinh tế, và hội nhập quốc tế dần dần phát triển, thay thế cho các giá
trị cũ về kiểm soát kinh tế chặt chẽ và sự phụ thuộc vào nhà nước.
Ví dụ hiện đại về sự tác động qua lại giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội: lOMoAR cPSD| 61601590
- Công nghệ số và ý thức xã hội về công nghệ:
+ Tồn tại xã hội: Sự phát triển của internet, công nghệ số và các phương tiện truyền thông xã hội đã thay đổi cách
con người giao tiếp, làm việc, và tiếp nhận thông tin. Công nghệ không chỉ thay đổi cách thức sản xuất mà còn
mở ra các ngành kinh tế mới như thương mại điện tử, marketing số, và các dịch vụ trực tuyến.
+ Ý thức xã hội: Công nghệ số cũng ảnh hưởng mạnh mẽ đến ý thức xã hội, làm thay đổi cách con người nhìn
nhận về quyền riêng tư, bảo mật thông tin và các giá trị đạo đức trong không gian số. Các phong trào liên quan
đến bảo vệ quyền riêng tư trực tuyến, chống lại sự lạm dụng công nghệ như quyền kiểm soát thông tin cá nhân,
đã xuất hiện mạnh mẽ.
Những ví dụ này cho thấy sự tác động lẫn nhau giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội.
Tồn tại xã hội (các điều kiện vật chất và kinh tế) quyết định ý thức xã hội, nhưng đồng thời, ý thức xã hội cũng
có khả năng tác động trở lại để thay đổi tồn tại xã hội, tạo ra những chuyển biến trong lịch sử và đời sống xã hội.
14. Quan điểm của CNDVLS về con người và bản chất con người. SGK/140 LÝ LUẬN:
Quan điểm duy vật lịch sử về bản chất của con người
Theo C. Mác: “Bản chất con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính
hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội”.
- Phân tích nội dung chính của quan điểm trên
Quan niệm của C. Mác về bản chất của con người đã khắc phục được hạn chế nào của quan niệm duy vật siêu
hình vể bản chất của con người và đem lại quan niệm mới nào?
Hạn chế căn bản của quan niệm duy vật siêu hình, trực quan là đã trừu tượng hóa, tuyệt đối hóa phương diện tự
nhiên của con người, thường xem nhẹ việc lý giải con người từ phương diện lịch sử xã hội của nó, do đó về căn
bản chỉ thấy bản tính tự nhiên của con người. Khác với quan niệm đó, quan niệm duy vật lịch sử về con người
trong khi thừa nhận bản tính tự nhiên của con người còn lý giải con người từ giác độ các quan hệ lịch sử xã hội,
từ đó phát hiện bản tính xã hội của nó. Hơn nữa, chính bản tính xã hội của con ngưòi là phương diện bản chất
nhất của con người với tư cách “người”, phân biệt con người với các tồn tại khác của giới tự nhiên. Với quan
niệm đó có thể định nghĩa con người là một thực thể tự nhiên nhưng đó là thực thể tự nhiên mang đặc tính xã hội.
Vậy, bản chất của con người, xét trên phương diện tính hiện thực của nó, chính là “tổng hòa của các quan hệ xã
hội”, bởi xã hội chính là xã hội của con người, được tạo nên từ toàn bộ các quan hệ giữa người với người trên các
mặt kinh tế, chính trị, văn hóa,...
- Ý nghĩa phương pháp luận nhận thức và thực tiễn rút ra từ quan niệm duy vật lịch sử về con người và bảnchất của con người
Một là, để lý giải một cách khoa học những vấn đề về con người thì không thể chỉ đơn thuần từ phương diện bản
tính tự nhiên của nó mà điều căn bản hơn, có tính quyết định phải là từ phương diện bản tính xã hội của nó, từ
những quan hệ kinh tế - xã hội của nó.
Hai là, động lực cơ bản của sự tiến bộ và phát triển của xã hội chính là năng lực sáng tạo lịch sử của con người.
Vì vậy, phát huy năng lực sáng tạo của mỗi con người, vì con người chính là phát huy nguồn động lực quan trọng
thác đẩy sự tiến bộ và phát triển của xã hội.
Ba là, sự nghiệp giải phóng con người, nhằm phát huy khả năng sáng tạo lịch sử của nó phải là hướng vào sự
nghiệp giải phóng những quan hệ kinh tế - xã hội. Trên ý nghĩa phương pháp luận đó có thể thấy một trong những
giá trị căn bản nhất của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa chính là ở mục tiêu xóa bỏ triệt để các quan hệ kinh tế
- xã hội áp bức và bóc lột, ràng buộc khả năng sáng tạo lịch sử của con người. Thông qua cuộc cách mạng đó nó
cũng thực hiện sự nghiệp giải phóng toàn nhân loại bằng phương thức xây dựng mối quan hệ kinh tế - xã hội xã lOMoAR cPSD| 61601590
hội chu nghĩa và cộng sản chủ nghĩa nhầm xác lập và phát triển một xã hội mà tự do, sáng tạo của người này trở
thành điều kiện cho tự do và sáng tạo của người khác. Đó cũng chính là thực hiện triết lý đạo đức nhân sinh cao
đẹp nhất của chủ nghĩa cộng sản: “mỗi người vì mọi người, mọi người vì mỗi người”. VẬN DỤNG:
15. Hiện tượng tha hoá con người và vấn đề giải phóng con người : SGK/143 -
Theo C.Mác thực chất của lao động bị tha hóa là quá trình lao động và sản phẩm lao đọng từ chỗ để phục
vụvà phát triển con người đã bị biến thành lực lượng đối lâp, nô dịch và thống trị con người.
=> Con người bị tha hóa là con người đánh mất mình trong lao động, tức trong hoạt động đặc trưng, bản chất của
con người (Hoặc nói:+ Lao động là hoạt động mang tính sáng tạo của con người, là đặc trưng chỉ có ở con người
chứ không hề có ở con vật.
+ Nhưng khi hoạt động lao động trở thành hoạt động mang tính chất cưỡng bức bị o ép bởi điều kiện môi trường
xã hội thì con người không còn đủ năng lực, ý chí để sáng tạo lao động một khi bị tha hóa nó không còn phẩm
chất con người nữa mà chỉ là yếu tố để đảm bảo sự tồn tại thuần túy về mặt thể xác của con người điều đó có
nghĩa là một khi con người lao động trong điều kiện lao động bị tha hóa thì con người đang thực hiện chức năng của con vật.) -
Tha hóa con người là thuộc tính vốn có của các nền sản xuất dựa trên chế độ tư hữu tư liệu sản xuất, nhưng
nóđược đẩy lên ở mức cao nhất trong nền sản xuất TBCN (Hoặc nói : Chế độ TBCN đã tạo ra sự phân hóa xã hội
về chiếm hữu tư nhân, tư liệu sản xuất điều này đã làm cho đa số người lao động trở thành vô sản, số ít trở thành
tư sản vì vậy những người vô sản phải bán sức lao động của mình tức là làm thuê cho tư sản => bị vô sản bóc lột
=>tất yếu quá trình tha hóa lao động sẽ diễn ra)
=> Lao động bị tha hóa là nguyên nhân, nội dung chính yếu của sự tha hóa con người -
Sự tha hóa đã làm cho người lao dộng ngày càng phẫn nộ, sự phân cực xã hội ngày càng lớn và điều này
nó đãgây ra tình trạng bất ổn xã hội, tiềm ẩn nguy cơ khủng hoảng về mặt chính trị xã hội
-Trong nề sản xuất tư bản chủ nghĩa sự tha hóa của lao động tạo nên bởi sự tha hóa trên các phương diện khác
của đời sống xã hội: ví dụ như sự tha hóa của đời sống chính trị, tư tưởng của tầng lớp thống trị, của các thiết chế xã hội ....
=> Chính vì vậy sự khác phục sự tha hóa không chỉ gắn liền với việc xóa bỏ chế độ tư hữu, tư bản chủ nghĩa mà
còn gắn liền với việc khắc phục sự tha hóa trên các phương diện khác của đời sống xã hội, đó là một quá trình
lâu dài, phức tạp để giải phóng con người nói chung, giải phóng người lao dộng nói riêng VẬN DỤNG:
1. Giải pháp phát triển kinh tế Việt Nam hiện nay
2. Phát triển con người toàn diện
3. Phát triển lực lượng sản xuất