Tóm tắt một số câu hỏi triết học thi cuối kì - Triết học Mác - Lênin | Đại học Tôn Đức Thắng
1. Vấn đề cơ bản của triết họcVấn đề cơ bản của triết học là vấn đề giữa con người với thế giới nói chung, mà trước hết vàtrung tâm là vấn đề mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, giữa tồn tại và tư duy. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Triết học Mác -Lênin (THML01)
Trường: Đại học Tôn Đức Thắng
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
Câu 4. Sự đối lập giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm trong việc giải quyết vấn
đề cơ bản của triết học.
1. Vấn đề cơ bản của triết học
Vấn đề cơ bản của triết học là vấn đề giữa con người với thế giới nói chung, mà trước hết và
trung tâm là vấn đề mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, giữa tồn tại và tư duy.
- Vấn đề cơ bản của triết học gồm có hai mặt:
+ Mặt thứ nhất trả lời cho câu hỏi: giữa vật chất và ý thức cái nào có trước, cái nào có sau, cái
nào quyết định cái nào?
+ Mặt thứ hai trả lời cho câu hỏi: Con người có khả năng nhận thức được thế giới hay không?
- Vì sao nói: Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là vấn đề cơ bản của triết học?
+ Vật chất và ý thức được coi là hai phạm trù rộng lớn nhất của triết học. Các học thuyết triết
học dù có khác nhau, song đều có nội dung cơ bản về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức.
+ Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là nội dung cơ bản nhất được xác định trong đối tượng
nghiên cứu của triết học.
+ Giải quyết được mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là tiêu chuẩn để phân biệt sự khác nhau
căn bản giữa các trào lưu triết học.
+ Giải quyết mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là cơ sở, nền tảng, là “chìa khóa” để giải quyết
các vấn đề khác nhau của triết học.
2. Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm
Chủ nghĩa duy vật cho rằng: vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất quyết định ý thức, còn ý
thức là sự phản ánh vật chất vào trong bộ não con người, đồng thời khẳng định con người có khả
năng nhận thức được thế giới vật chất.
Trong lịch sử triết học tồn tại ba hình thức cơ bản của chủ nghĩa duy vật:
- Chủ nghĩa duy vật cổ đại: thô sơ, mộc mạc.
- Chủ nghĩa duy vật cận đại: siêu hình, cơ giới, máy móc, không triệt để
- Chủ nghĩa duy vật biện chứng; khoa học, cách mạng, sáng tạo, là cơ sở thế giới quan và phương
pháp luận trong nhận thức và hoạt động thực tiễn.
Chủ nghĩa duy tâm cho rằng: ý thức, tinh thần có trước vật chất; ý thức, tinh thần quyết định
vật chất; còn vật chất chỉ là sản phẩm hoặc là hiện thân của tinh thần, ý thức.
Trong lịch sử triết học tồn tại hai hình thức cơ bản của chủ nghĩa duy tâm:
- Chủ nghĩa duy tâm chủ quan cho rằng: Cảm giác, ý thức của con người có trước, sinh ra và
quyết định vật chất, còn vật chất chỉ là sản phẩm của cảm giác, ý thức.
- Chủ nghĩa duy tâm khách quan cho rằng: “Ý thức tuyệt đối”, “tinh thần thế giới” có trước, sinh
ra và quyết định vật chất, còn vật chất là hiện thân, là biểu hiện sự “tồn tại khác” của tinh thần, ý thức.
Sự khác nhau giữa chủ nghĩa duy tâm chủ quan và chủ nghĩa duy tâm khách quan là ở chỗ: chủ
nghĩa duy tâm chủ quan coi ý thức, tinh thần là cảm giác, ý thức của bản thân con người; còn chủ
nghĩa duy tâm khách quan coi ý thức, tinh thần là ý niệm nằm bên ngoài con người là cái có trước,
sinh ra và quyết định vật chất.
Lịch sử triết học là lịch sử đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm
Câu 9. Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức. Ý nghĩa phương pháp
luậnn của mối quan hệ đó. Vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức trong sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay.
1. Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức
a. Vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức
- Vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất quyết định ý thức, còn ý thức là sự phản ánh thế giới
vật chất vào trong bộ não người.
+ Vật chất quyết định nguồn gốc của ý thức: Không có sự tác động của thế giới khách quan vào
trong bộ não người thì sẽ không có ý thức. Ý thức là sản phẩm của một dạng vật chất có tổ chức
cao là bộ não người. Thế giới vật chất là nguồn gốc khách quan của ý thức.
+ Vật chất quyết định nội dung của ý thức: Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan,
nội dung của ý thức mang tính khách quan, do thế giới khách quan quy định.
- Vật chất quyết định bản chất của ý thức.
- Vật chất quyết định phương thức, kết cấu của ý thức.
b. Sự tác động trở lại ý thức đối với vật chất
- Nói ý thức tác động trở lại đối với vật chất là muốn nói tới hoạt động của con người. Ý thức
tồn tại trong bộ não người nhưng lại có vai trò chỉ đạo, định hướng và thúc đẩy con người hoạt động.
Bằng hoạt động và thông qua hoạt động của con người mà ý thức có thể tác động đến vật chất.
- Ý thức có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự vận động, phát triển của những điều kiện vật chất ở mức độ nhất định.
+ Nếu ý thức phản ánh phù hợp với hiện thực thì nó sẽ làm thúc đẩy sự phát triển của các điều kiện vật chất.
+ Nếu ý thức phản ánh không phù hợp với hiện thực thì nó sẽ làm kìm hãm sự phát triển của các
điều kiện vật chất. Song sự kìm hãm đó chỉ mang tính tạm thời, bởi vì sự vật bao giờ cũng vận động
theo các quy luật khách quan vốn có của nó, nên nhất định phải có ý thức tiến bộ, phù hợp, thay thế
cho ý thức lạc hậu, không phù hợp.
+ Sự tác động của ý thức đối với vật chất dù có đến mức độ nào đi chăng nữa thì nó vẫn phải dựa
trên cơ sở phản ánh thế giới vật chất.
Biểu hiện của mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trong đời sống xã hội là quan hệ giữa tồn tại
xã hội và ý thức xã hội, trong đó tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội; đồng thời ý thức xã hội có
tính độc lập tương đối, tác động trở lại tồn tại xã hội. Ngoài ra, mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
còn là cơ sở để xem xét các mối quan hệ khác như: chủ thể và khách thể, lý luận và thực tiễn, điều
kiện khách quan và nhân tố chủ quan…
2. Ý nghĩa phương pháp luận
- Vật chất quyết định ý thức, ý thức là sự phản ánh vật chất, nên trong nhận thức phải đảm bảo
nguyên tắc “tính khách quan của sự xem xét” và trong hoạt động thực tiễn phải luôn xuất phát từ
thực tế khách quan, tôn trọng và hành động theo các quy luật khách quan.
- Ý thức có tính độc lập tương đối, tác động trở lại đối với vật chất thông qua hoạt động của con
người, nên cần phải phát huy tính tích cực, sáng tạo của ý thức bằng cách nâng cao trình độ nhận
thức hiện thực khách quan và năng lực vận dụng chúng trong hoạt động thực tiễn.
- Khi xem xét các hiện tượng gắn liền với hoạt động của con người cần phải tính đến cả những
điều kiện khách quan và những nhân tố chủ quan.
- Cần chống các biểu hiện tả khuynh – chủ quan, nóng vội duy ý chí và biểu hiện hữu khuynh –
bảo thủ, trì trệ, thụ động, không biết phát huy tính tích cực, sáng tạo của ý thức.
3. Vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức trong sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay
- Phải xuất phát từ thực tế khách quan, điều kiện và khả năng khách quan của Việt Nam trong
bối cảnh và xu thế của thế giới hiện nay để xác định mục tiêu công nghiệp hóa – hiện đại hóa cho phù hợp.
- Phải nhận thức đầy đủ, đúng đắn và tôn trọng các quy luật khách quan của quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa để xác định con đường, cách thức và bước đi cho sát đúng.
Tránh bệnh chủ quan, ảo tưởng, duy ý chí, xa rời thực tế khách quan cũng như bất chấp quy
luật khách quan trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
- Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là sự nghiệp mới mẻ và vô cùng khó khăn, do đó đòi hỏi phải
phát huy mạnh mẽ tính năng động, sáng tạo của ý thức, phát huy vai trò tích cực của nhân tố con
người. Cùng với việc phát huy vai trò tích cực của nhân tố con người, Đảng và Nhà nước phải quan
tâm đào tạo nguồn nhân lực có bản lĩnh, tâm huyết, có trình độ, có năng lực để tiến hành công
nghiệp hóa, hiện đại hóa.
- Khắc phục thái độ thụ động, ỷ lại, trông chờ vào điều kiện khách quan.
Câu 11. Phân tích nội dung và ý nghĩa phương pháp luận của nguyên lý về mối liên hệ phổ
biến. Sự vận dụng nguyên lý này ở Việt Nam hiện nay.
1. Nội dung nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
a. Khái niệm mối liên hệ
Khái niệm mối liên hệ được dùng để chỉ sự ràng buộc, phụ thuộc, quy định, tác động qua lại và
chuyển hóa lẫn nhau giữa các mặt, các yếu tố, các bộ phận cấu thành nên sự vật, hiện tượng; giữacác
sự vật, hiện tượng với nhau; giữa sự vật, hiện tượng với môi trường; mà trong đó sự biến đổi của
sự vật, hiện tượng này sẽ kéo theo sự biến đổi của sự vật, hiện tượng khác.
b. Tính chất của mối liên hệ Tính khách quan
- Xuất phát từ tính thống nhất vật chất của thế giới.
- Mối liên hệ là cái vốn có của bản thân các sự vật, hiện tượng; tồn tại độc lập không phụ thuộc
vào ý thức của con người. Tính phổ biến
- Xuất phát từ bản thân tính biện chứng của thế giới.
- Mỗi sự vật, hiện tượng là một hệ thống có cấu trúc nội tại. Không có sự vật, hiện tượng nào tồn
tại một cách cô lập, biệt lập với các sự vật, hiện tượng khác; cũng như không thể có yếu tố hay bộ
phận nào tồn tại tách biệt với các yếu tố hay bộ phận khác. Bản thân sự vật, hiện tượng là một chỉnh thể thống nhất.
- Mối liên hệ có trong mọi sự vật, hiện tượng; mọi giai đoạn, mọi quá trình; có cả trong tự nhiên,
xã hội và tư duy con người. Tính đa dạng, phong phú
- Xuất phát từ tính đa dạng, muôn hình, muôn vẻ của thế giới vật chất.
- Trong thế giới có nhiều hình thức mối liên hệ, mà mỗi hình thức mối liên hệ có đặc điểm riêng,
có vị trí, vai trò riêng đối với sự tồn tại, vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng. Cho nên sự
phân loại mối liên hệ là điều hết sức cần thiết:
+ Có mối liên hệ bên trong – mối liên hệ bên ngoài.
+ Có mối liên hệ cơ bản – mối liên hệ không cơ bản.
+ Có mối liên hệ chủ yếu – mối liên hệ thứ yếu.
+ Có mối liên hệ bản chất – mối liên hệ không bản chất.
+ Có mối liên hệ tất nhiên – mối liên hệ ngẫu nhiên.
+ Có mối liên hệ trực tiếp – mối liên hệ gián tiếp.
+ Mối liên hệ diễn ra rất phức tạp trong đời sống xã hội.
2. Ý nghĩa phương pháp luận
Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến đòi hỏi trong nhận thức và thực tiễn cần phải có quan điểm
toàn diện và quan điểm lịch sử - cụ thể.
Quan điểm toàn diện yêu cầu:
Xem xét tất cả các mặt, các mối liên hệ, kể cả các mắt khâu trung gian.
- Xem xét các sự vật, hiện tượng trong mối liên hệ qua lại giữa các mặt, các yếu tố, các bộ phận
của chính sự vật, hiện tượng; cũng như giữa sự vật, hiện tượng đó với các sự vật, hiện tượng khác.
- Trong vô vàn các mối liên hệ, cần rút ra những mối liên hệ cơ bản, chủ yếu nhằm xác định bản
chất của sự vật, hiện tượng.
- Chống lại cách xem xét siêu hình, phiến diện, một chiều (chỉ thấy một mặt mà không thấy nhiều
mặt, chỉ thấy một mối liên hệ mà không thấy các mối liên hệ khác).
- Chống lại cách xem xét cào bằng, dàn trải (coi mọi mối liên hệ như nhau); có nghĩa là chống
lại chủ nghĩa chiết trung về mối liên hệ.
- Chống lại thuật ngụy biện (quy cái thứ yếu thành cái chủ yếu, quy cái không cơ bản thành cái
cơ bản; bằng lỹ lẽ, lập luận tưởng rằng có lý, nhưng thực chất là vô lý).
Quan điểm lịch sử cụ thể yêu cầu:
- Khi xem xét các sự vật, hiện tượng, cần phải đặt chúng trong điều kiện, môi trường cụ thể;
trong từng hoàn cảnh lịch sử cụ thể; trong từng điều kiện không gian, thời gian cụ thể nhất định;
trong; trong từng mối liên hệ, quan hệ nhất định; trong từng trường hợp cụ thể nhất định; trong từng
hệ tọa độ cụ thể nhất định,…
- Xét đến tính chất đặc thù của đối tượng nhận thức và các tình huống khác nhau phải giải quyết trong thực tiễn.
- Cần phải xem xét sự vật, hiện tượng trong quá trình phát sinh, hình thành và phát triển đa dạng của chúng.
- Cần nghiên cứu sự vật, hiện tượng trong sự vận động, phát triển ở từng giai đoạn cụ thể nhất
định, như V.I.Lênin đã từng nói: phân tích cụ thể mỗi tình hình cụ thể, đó là bản chất, là linh hồn
sống của chủ nghĩa Mác.
3. Sự vận dụng nguyên lý này ở Việt Nam hiện nay
a. Quán triệt quan điểm toàn diện trong nhận thức và thực tiễn
- Công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay được tiến hành toàn diện trong tất cả các lĩnh vực của
đời sống xã hội: Lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội và tinh thần. Trong các lĩnh vực ấy, Đảng ta xác
định lấy đổi mới kinh tế là trọng tâm, xây dựng Đảng là then chốt.
- Mặt khác, trong từng lĩnh vực cũng cần phải quán triệt quan điểm toàn diện:
+ Trong lĩnh vực kinh tế, cần đổi mới mọi ngành, mọi khâu của hoạt động kinh tế: đổi mới lĩnh
vực công nghiệp, nông nghiệp, lâm nghiệp, thương nghiệp,…; đổi mới cơ chế quản lý kinh tế; cơ
cấu vùng kinh tế; cơ cấu thành phần kinh tế;… Đặc biệt, lấy đổi mới cơ chế quản lý kinh tế làm nền
tảng, cốt lõi cho đổi mới các khâu, các mặt khác của hoạt động kinh tế, theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
+ Trong lĩnh vực chính trị, cần phải đổi mới tất cả mọi mặt trong lĩnh vực chính trị, như các tư
tưởng, quan điểm chính trị, các tổ chức, thiết chế quyền lực, hệ thống luật pháp và các chính sách,…
Trong đó, cần chú ý khâu cơ bản là đổi mới hệ thống chính trị với ba bộ phận cốt lõi là Đảng, Nhà
nước và Mặt trận Tổ quốc; xác định rõ ràng, rành mạch chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các
bộ phận trong hệ thống chính trị, tránh sự chồng chéo giữa các chức năng với nhau.
+ Trong lĩnh vực xã hội, cần phải đổi mới tất cả các mặt, các khâu trong lĩnh vực xã hội, như các
quan hệ giai cấp, quan hệ dân tộc, quan hệ gia đình,… Trong đó, cần chú trọng giải quyết tốt mối
quan hệ giai cấp, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, củng cố liên minh giữa giai cấp công nhân
với giai cấp nông dân và đội ngũ tri thức, lấy đó là một trong những động lực thúc đẩy sự phát triển của đất nước.
+ Trong lĩnh vực tinh thần, cần phải đổi mới toàn diện tất cả các mặt trong đời sống tinh thần
của xã hội. Trong đó, tập trung vào những bộ phận cốt lõi, như văn hóa, giáo dục – đào tạo, khoa học.
Quán triệt quan điểm toàn diện trong công cuộc đổi mới, chúng ta nhất định sẽ thực hiện thành
công mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
b. Quán triệt quan điểm lịch sử - cụ thể trong nhận thức và thực tiễn
Vận dụng quan điểm lịch sử - cụ thể, từ năm 1930, Đảng ta đã lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa.
Ngày nay, để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, Đảng đã đề ra đường lối xây dựng và phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa;
ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng
xã hội chủ nghĩa; phát huy cao độ nội lực đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội
nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững; thực hiện tăng tưởng kinh tế đi
liền với phát triển văn hóa, từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực
hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường; kết hợp phát triển kinh tế - xã hội
với tăng cường an ninh, quốc phòng; bảo vệ và xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh.
Thực tiễn cho thấy con đường đi lên chủ nghĩa xã hội không tuân theo những công thức có sẵn,
bất biến mà chúng được vận dụng linh hoạt, mềm dẻo, luôn đổi mới để phù hợp với điều kiện, hoàn
cảnh của mỗi nước và tình hình quốc tế trong từng giai đoạn. Con đường của cách mạng Việt Nam
được Đảng ta xác định là xây dựng và phát triển đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền
tảng chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Ngày nay, tình hình thế giới vẫn diễn biến quanh co, phức tạp đặt ra nhiều vấn đề lý luận và thực
tiễn hết sức mới mẻ càn được giải quyết. Hơn bao giờ hết, chúng ta cần nắm vững phép biện chứng
duy vật, mài sắc tư duy biện chứng, vận dụng các nguyên tắc phương pháp luận của nó để thực
hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay.
Câu 12. Phân tích nội dung và ý nghĩa phương pháp luận của nguyên lý về sự phát triển.
1. Nội dung nguyên lý về sự phát triển a. Khái niệm phát triển
Khái niệm phát triển dùng để chỉ quá trình vận động của sự vật, hiện tượng theo khuynh hướng
đi lên, từ trình độ thấp đến trình độ cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn.
Như vậy, nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển có mối quan hệ mật
thiết với nhau, vì nhờ có mối liên hệ thì mới có vận động, phát triển.
b. Tính chất của sự phát triển Tính khách quan
Phát triển là thuộc tính vốn có, tất yếu của bản thân các sự vật, hiện tượng, không phụ thuộc vào
ý thức của con người, dù muốn hay không muốn thì bản thân sự vật, hiện tượng luôn luôn nằm trong quá trình phát triển. Tính phổ biến
- Quá trình phát triển diễn ra trong mọi sự vật, hiện tượng, trong mọi lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy con người.
- Trong mỗi quá trình biến đổi đã có thể bao hàm khả năng dẫn đến sự ra đời của cái mới, phù
hợp với quy luật khách quan. Tính đa dạng, phong phú
- Phát triển là khuynh hướng chung của mọi sự vật, hiện tượng: Sự phát triển thường diễn ra
quanh co, phức tạp, có thể trải qua những khâu trung gian, thậm chí có sự thụt lùi tạm thời, nhưng
chính sự thụt lùi ấy lại đóng vai trò là tiền đề, điều kiện của một vận động đi lên.
- Sự phát triển sẽ không hoàn toàn giống nhau ở các sự vật, hiện tượng khác nhau, trong những
điều kiện không gian và thời gian khác nhau, trong những lĩnh vực hiện thực khác nhau.
- Quan điểm biện chứng của sự phát triển còn chỉ ra:
+ Cách thức của sự phát triển là từ những sự thay đổi về lượng dẫn đến những sự thay đổi về
chất và ngược lại, thông qua các bước nhảy vọt.
+ Nguồn gốc, động lực của sự phát triển là mâu thuẫn nội tại của bản thân các sự vật, hiện tượng,
là sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập.
+ Khuynh hướng của sự phát triển là phủ định của phủ định. Sau mỗi chu kỳ phủ định của phủ
định, cái mới được ra đời dường như lặp lại cái cũ nhưng trên cơ sở cao hơn.
2. Ý nghĩa phương pháp luận
Nguyên lý về sự phát triển đòi hỏi trong nhận thức và thực tiễn cần phải có quan điểm phát triển
và quan điểm lịch sử - cụ thể.
Quan điểm phát triển yêu cầu:
- Khi xem xét các sự vật, hiện tượng cần đặt nó trong sự vận động, biến đổi không ngừng.
Cần vạch ra cái tương lai trong cái hiện tại, phát hiện ra những nhân tố mới tiến bộ đang tiềm
ẩn trong cái cũ, chỉ rõ tính chất đứng im tương đối, tạm thời của cái cũ; vạch ra xu hướng phát triển
cái mới và tạo mọi điều kiện cho cái mới tiến bộ được ra đời.
- Cần phân chia quá trình phát triển thành các giai đoạn; nghiên cứu để vạch ra đặc điểm, nội
dung của từng giai đoạn. Từ đó có các phương pháp, biện pháp tác động một cách phù hợp nhằm
thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của nó, tùy theo sự phát triển đó có lợi hay có hại cho đời sống
của con người và xã hội.
- Chống lại quan điểm bảo thủ, trì trệ, gây cản trở sự phát triển.
- Chống lại quan điểm chủ quan, nóng vội, duy ý chí, vội vàng xóa bỏ cái cũ khi chưa có đầy đủ điều kiện chín muồi.
Câu 19. Phân tích nội dung và ý nghĩa phương pháp luận của quy luật chuyển hóa từ những
sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất và ngược lại.
- Quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất và ngược
lại (còn gọi là quy luật lượng – chất).
- Quy luật lượng – chất là một trong ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật.
- Quy luật lượng – chất vạch ra cách thức của sự phát triển. 1. Nội dung quy luật
a. Khái niệm chất, lượng
Khái niệm chất dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật, hiện tượng; là sự thống
nhất hữu cơ các thuộc tính cấu thành nó, phân biệt nó với cái khác.
- Chất có tính khách quan, được cấu thành bởi các thuộc tính khách quan vốn có của sự vật. Vì
vậy, để xác định chất của sự vật thì cần phải xác định các thuộc tính của nó, mà thuộc tính của sự
vật chỉ bộc lộ ra khi nó nằm trong mối liên hệ với các sự vật khác.
- Chất có tính khách quan, được cấu thành bởi các thuộc tính khách quan vốn có của sự vật. Vì
vậy, để xác định chất của sự vật thì cần phải xác định các thuộc tính của nó, mà thuộc tính của sự
vật chỉ bộc lộ ra khi nó nằm trong mối liên hệ với các sự vật khác.
- Thuộc tính bao gồm hai loại: Thuộc tính cơ bản và thuộc tính không cơ bản.
- Thuộc tính cơ bản là những thuộc tính quyết định chất của sự vật; nghĩa là khi nó thay đổi thì
chất của sự vật sẽ thay đổi.
- Thuộc tính không cơ bản là những thuộc tính không quyết định chất của sự vật; nghĩa là khi nó
thay đổi thì chất của sự vật vẫn chưa thay đổi.
+ Tuy nhiên, sự phân biệt giữa thuộc tính cơ bản và không cơ bản cũng chỉ mang tính tương đối,
tùy thuộc vào từng mối quan hệ nhất định.
+ Tổng hợp các thuộc tính cơ bản tạo thành chất cơ bản; còn tổng hợp các thuộc tính không cơ
bản tạo thành chất không cơ bản của sự vật
- Nhưng mặt khác, mỗi thuộc tính lại được tạo thành từ các đặc trưng về chất của nó; vì vậy, mỗi
thuộc tính lại đóng vai trò là một chất. Do đó sự phân biệt giữa thuộc tính và chất cũng chỉ mang tính tương đối.
- Sự vật có vô vàn thuộc tính, nên sự vật không chỉ có một chất mà còn có vô vàn chất.
- Chất biểu hiện tính toàn vẹn, tính chỉnh thể thống nhất của sự vật.
- Chất và sự vật gắn liền với nhau: Chất là chất của sự vật; còn sự vật tồn tại với tính quy định về chất của nó.
- Chất của sự vật không chỉ được xác định bởi chất của các thuộc tính, mà còn được xác định bởi
phương thức liên kết giữa các thuộc tính cấu thành nó.
Khái niệm lượng dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật, hiện tượng về mặt
số lượng các thuộc tính, yếu tố cấu thành; quy mô của sự tồn tại; tốc độ, nhịp điệu của sự vận động và phát triển của nó.
- Lượng có tính khách quan, là cái vốn có của bản thân các sự vật, hiện tượng.
- Mỗi sự vật, hiện tượng có vô vàn chất, cho nên nó cũng có vô vàn lượng. Mỗi loại lượng có
phương thức xác định khác nhau. Có những lượng được biểu thị bằng con số chính xác, nhưng cũng
có những lượng phải bằng sự trừu tượng hóa, khái quát hóa.
- Sự phân biệt giữa lượng và chất cũng chỉ mang tính tương đối, tùy vào từng đối mối quan hệ nhất định.
b. Mối quan hệ biện chứng giữa lượng và chất
Từ những sự thay đổi về lượng dẫn đến những sự thay đổi về chất
- Bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng là một thể thống nhất giữa hai mặt lượng và chất. Hai mặt
đó không tách rời nhau mà tác động lẫn nhau một cách biện chứng.
- Sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng bao giờ cũng bắt đầu từ sự thay đổi về lượng,
bởi vì chất là mặt tương đối ổn định, còn lượng là mặt thường xuyên biến đổi. Tuy nhiên, không
phải sự thay đổi bất kỳ nào về lượng cũng dẫn đến sự thay đổi về chất. Ở một giới hạn nhất định,
sự thay đổi về lượng chưa dẫn tới sự thay đổi về chất. Giới hạn ấy được gọi là độ.
- Khái niệm độ dùng để chỉ sự thống nhất giữa chất và lượng, là khoảng giới hạn mà trong đó sự
thay đổi về lượng chưa làm thay đổi căn bản về chất của sự vật, hiện tượng.
Khi lượng thay đổi đến một điểm giới hạn vượt quá độ sẽ dẫn đến sự thay đổi căn bản về chất.
Điểm giới hạn đó là điểm nút.
- Khái niệm điểm nút dùng để chỉ điểm giới hạn mà tại đó sự thay đổi về lượng làm thay đổi về
chất của sự vật, hiện tượng.
Sự thay đổi căn bản về chất được gọi là bước nhảy.
Khái niệm bước nhảy dùng để chỉ sự chuyển hóa về chất của sự vật, hiện tượng do sự thay đổi
về lượng của nó trước đó gây nên.
Có nhiều hình thức bước nhảy khác nhau (bước nhảy dần dần và đột biến, bước nhảy cục bộ và
toàn bộ, bước nhảy tự phát và tự giác,…).
Bước nhảy đánh dấu sự kết thúc một giai đoạn vận động, phát triển; đồng thời đó cũng là điểm
khởi đầu cho một giai đoạn mới, là sự gián đoạn trong quá trình vận động, phát triển liên tục của sự vật, hiện tượng.
Bước nhảy đánh dấu sự kết thúc một giai đoạn vận động, phát triển; đồng thời đó cũng là điểm
khởi đầu cho một giai đoạn mới, là sự gián đoạn trong quá trình vận động, phát triển liên tục của sự vật, hiện tượng.
Sự tác động trở lại của chất đối với lượng
Chất mới ra đời có sự tác động trở lại đến lượng của sự vật, hiện tượng. Chất mới tác động đến
lượng của sự vật, hiện tượng trên nhiều phương diện như: làm thay đổi kết cấu, quy mô, trình độ,
nhịp điệu của sự vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng.
2. Ý nghĩa phương pháp luận
- Trong nhận thức và thực tiễn cần phải chú ý khâu tích lũy dần dần về lượng, đồng thời phải biết
thực hiện kịp thời những bước nhảy khi có điều kiện chín muồi.
- Chống quan điểm “tả khuynh” (chủ quan, nóng vội, duy ý chí), khi lượng chưa biến đổi đến
điểm nút đã vội vàng thực hiện bước nhảy.
- Chống quan điểm “hữu khuynh” (bảo thủ, trì trệ), khi lượng đã biến đổi đến điểm nút nhưng
không thực hiện bước nhảy.
- Phải thấy được tính đa dạng của các bước nhảy, nhận thức được từng hình thức bước nhảy, có
thái độ ủng hộ bước nhảy, tạo mọi điều kiện cho bước nhảy được thực hiện một cách kịp thời.
- Phải có thái độ khách quan và quyết tâm thực hiện những bước nhảy khi hội đủ các điều kiện chín muồi
Câu 22. Thực tiễn và các hình thức cơ bản của thực tiễn. Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức
1. Thực tiễn và các hình thức cơ bản của thực tiễn
- Thực tiễn là toàn bộ hoạt động vật chất có mục đích mang tính lịch sử xã hội của con người,
nhằm cải biến tự nhiên và xã hội.
- Hoạt động thực tiễn không bao gồm toàn bộ hoạt động của con người, mà chỉ là những hoạt
động vật chất. Khác với hoạt động tư duy, trong hoạt động thực tiễn, con người sử dụng những công
cụ vật chất tác động vào những đối tượng vật chất làm biến đổi chúng theo mục đích của mình.
Những hoạt động ấy mang tính năng động, sáng tạo.
- Hoạt động thực tiễn là những hoạt động đặc trưng và bản chất của con người, là phương thức
tồn tại cơ bản của con người và xã hội loài người.
- Hoạt động thực tiễn có ba hình thức cơ bản:
+ Hoạt động sản xuất vật chất là hoạt động mà trong đó con người sử dụng những công cụ lao
động tác động vào giới tự nhiên để tạo ra của cải vật chất, các điều kiện cần thiết nhằm duy trì sự
tồn tại và phát triển của mình.
+ Hoạt động chính trị - xã hội là hoạt động của các cộng đồng người, các tổ chức khác nhau
trong xã hội nhằm cải biến những quan hệ chính trị - xã hội để thúc đẩy xã hội phát triển.
+ Hoạt động khoa học thực nghiệm là hoạt động được tiến hành trong những điều kiện do con
người tạo ra, gần giống, giống hoặc lặp lại những trại thái của tự nhiên và xã hội nhằm xác định
những quy luật biến đổi, phát triển của đối tượng nghiên cứu.
Trong ba hình thức hoạt động thực tiễn cơ bản trên, hoạt động sản xuất vật chất có ý nghĩa quyết định nhất.
3. Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức
a. Thực tiễn là cơ sở, động lực của nhận thức
- Thực tiễn là điểm xuất phát trực tiếp của nhận thức, chính yêu cầu của thực tiễn đã buộc con
người phải nhận thức thế giới. Thực tiễn đề ra nhu cầu, nhiệm vụ, cách thức và khuynh hướng vận
động và phát triển của nhận thức, không có thực tiễn thì không có nhận thức.
- Nhu cầu tất yếu khách quan của con người là giải thích và cải tạo thế giới đã buộc con người
phải tác động vào các sự vật, hiện tượng bằng hoạt động thực tiễn của mình. Sự tác động đó làm
cho các sự vật, hiện tượng bộc lộ những thuộc tính, những mối liên hệ, cung cấp những tài liệu để
con người có cơ sở nhận thức, giúp cho nhận thức nắm bắt được bản chất, các quy luật vận động và
phát triển của thế giới.
- Nhờ hoạt động thực tiễn mà các giác quan của con người ngày càng hoàn thiện, năng lực tư
duy logic không ngừng được củng cố và phát triển, các phương tiện nhận thức ngày càng tinh vi,
hiện đại càng làm tăng thêm khả năng nhận thức của con người.
b. Thực tiễn là mục đích của nhận thức
- Con người nhận thức thế giới không chỉ thỏa mãn trí tuệ, mà để cải tạo thế giới và phục vụ nhu
cầu cuộc sống của mình. Vì vậy, thực tiễn là mục đích của nhận thức, của lý luận.
- Tri thức thu nhận được trong quá trình nhận thức phải quay về phục vụ thực tiễn, hướng dẫn,
chỉ đạo và được tổ chức thực hiện trong thực tiễn. Sự phát triển không ngừng của nhận thức, của
khoa học là để phục vụ sản xuất và đấu tranh cải tạo xã hội.
- Thực tiễn thường xuyên vận động và phát triển nên nó đặt ra cho nhận thức những nhu cầu,
nhiệm vụ và phương hướng mới đòi hỏi, con người không ngừng nhận thức thế giới.
c. Thực tiễn là tiêu chuẩn để kiểm tra tri thức (thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý)
Thông qua thực tiễn kiểm nghiệm, con người sẽ xác nhận được tri thức là đúng sai, đồng thời bổ
sung, điều chỉnh, sửa chữa, phát triển và hoàn thiện nhận thức từ đó nhận thức của con người ngày
càng đầy đủ, càng tiến gần đến bản chất của sự vật hơn.
4. Ý nghĩa phương pháp luận
- Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức đòi hỏi chúng ta phải luôn luôn quán triệt quan điểm
thực tiễn. Quan điểm này yêu cầu việc nhận thức phải xuất phát từ thực tiễn, dựa trên cơ sở thực
tiễn, đi sâu vào thực tiễn, phải coi trọng công tác tổng kết thực tiễn. Việc nghiên cứu lý luận phải
liên hệ với thực tiễn, học đi đôi với hành.
- Nếu xa rời thực tiễn sẽ dẫn đến bệnh chủ quan, duy ý chí, giáo điều, máy móc, quan liêu. Ngược
lại, nếu tuyệt đối hóa vai trò của thực tiễn sẽ rơi vào chủ nghĩa thực dụng, kinh nghiệm chủ nghĩa
Câu 25. Vấn đề ngăn ngừa và khắc phục bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều trong quá
trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
a. Bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam Bệnh kinh nghiệm
- Thực chất của bệnh kinh nghiệm trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là tuyệt
đối hóa kinh nghiệm, coi thường lý luận nói chung cũng như lý luận của chủ nghĩa xã hội khoa học. - Biểu hiện: + Coi thường lý luận.
+ Ngại học lý luận, hài lòng với kinh nghiệm.
+ Coi thường lớp trẻ, đề cao người lớn tuổi. - Nguyên nhân:
+ Không được trang bị về lý luận, không được học hành đến nơi đến chốn dẫn đến thiếu lý luận,
thiếu hiểu biết về khoa học.
+ Tiếp thu lý luận một cách sơ lược, giản đơn, cắt xén, làm cho lý luận bị méo mó, không còn
tính hệ thống, tính khoa học và cách mạng dẫn đến yếu kém về lý luận, về trình độ khoa học. Bệnh giáo điều:
- Thực chất của bệnh giáo điều là tuyệt đối hóa lý luận, thoát ly thực tiễn. - Biểu hiện:
+ Học lý luận nhưng lại không nắm được thực chát khoa học và cách mạng của lý luận, của chủ
nghĩa Mác – Lênin, mới chỉ dừng lại ở câu chữ, theo kiểu học vẹt, học thuộc lòng.
+ Nặng nề rập khuôn những gì có trong sách vở mà không đối chiếu với cuộc sống, không cần
biết hiện thực cuộc sống đang diễn ra như thế nào.
+ Bắt chước kinh nghiệm của người khác, địa phương khác, nước khác để áp dụng vào công cuộc
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam một cách máy móc, thiếu sáng tạo. - Nguyên nhân:
+ Yếu kém về lý luận, không nắm được thực chất khoa hcọ và sáng tạo của lý luận chuyên ngành
cũng như những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa xã hội khoa học.
+ Thiếu quan điểm lịch sử - cụ thể khi vận dụng lý luận cũng như khi học hỏi, tiếp thu kinh
nghiệm xây dựng chủ nghĩa xã hội, kinh nghiệm phát triển kinh tế - xã hội của nước ngoài.
b. Phương hướng ngăn ngừa và khắc phục bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều trong quá
trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
- Trang bị một cách có hệ thống lý luận khoa học chuyên ngành và lý luận Mác – Lênin, làm
cho người học nắm vững bản chất khoa học và sáng tạo của lý luận.
Đổi mới công tác nghiên cứu lý luận theo hướng gắn lý luận với thực tiễn xây dựng chủ nghĩa
xã hội hiện nay ở Việt Nam, nhằm đáp ứng tốt nhất cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
- Tích cực nghiên cứu, tổng kết thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xãhội ở nước ta cũng như thực tiễn
xã hội trên phạm vi toàn thế giới để đúc rút thành lý luận, kịp thời chỉ đạo công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở nước ta.
Câu 29. Phân tích kết cấu của quan hệ sản xuất và vai trò của quan hệ sản xuất đối với sự phát triển xã hội.
1. Khái niệm và kết cấu của quan hệ sản xuất
Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất (sản xuất và tái sản xuất xã hội).
- Quan hệ sản xuất bao gồm:
+ Quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất.
+ Quan hệ trong tổ chức và quản lý quá trình sản xuất.
+ Quan hệ trong phân phối kết quả của quá trình sản xuất.
- Quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của quá trình sản xuất và là cơ sở sâu xa của đời sống tinh
thần xã hội. Ba mặt hợp thành quan hệ sản xuất gắn bó hữu cơ với nhau, tạo thành một hệ thống
mang tính ổn định tương đối so với sự vận động không ngừng của lực lượng sản xuất, trong đó quan
hệ sở hữu về tư liệu sản xuất giữ vai trò quyết định.
- Tính chất của quan hệ sản xuất trước hết được quy định bởi quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản
xuất. Trong các hình thái kinh tế - xã hội mà loài người đã từng trải qua, lịch sử đã được chứng kiến
sự tồn tại của hai loại hình thức sở hữu cơ bản đối với tư liệu sản xuất: sở hữu tư nhân và sở hữu công cộng.
2. Vai trò của quan hệ sản xuất đối với sự phát triển xã hội
- Trong sự sản xuất ra đời sống xã hội của mình, con người ta, dù muốn hay không cũng buộc
phải duy trì và thực hiện những quan hệ nhất định với nhau. Những quan hệ này mang tính tất yếu
và không phụ thuộc vào ý muốn của ai cả. Đó chính là những quan hệ sản xuất. Cố nhiên quan hệ
sản xuất là do con người tạo ra, song nó tuân theo những quy luật tất yếu, khách quan của sự vận
động của đời sống xã hội.
- Trong các hình thái kinh tế - xã hội xác định, quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất luôn có
vai trò quyết định đối với tất cả quan hệ xã hội khác. Các quan hệ về tổ chức, quản lý quá trình sả
xuất có khả năng quyết định một cách trực tiếp quy mô, tốc độ, hiệu quả và xu hướng của mỗi nền
sản xuất cụ thể. Còn các quan hệ phân phối sản phẩm lao động, mặc dù bị phụ thuộc vào các quan
hệ sở hữu và quan hệ tổ chức quản lý quá trình sản xuất, song do có khả năng kích thích trực tiếp
vào lợi ích của con người, nên các quan hệ phân phối là “chất xúc tác” của các quá trình kinh tế -
xã hội. Quan hệ phân phối có thể thúc đẩy tốc độ và nhịp điệu của sự sản xuất, làm năng động toàn
bộ đời sống kinh tế xã hội; hoặc trong trường hợp ngược lại, nó có khả năng kìm hãm sản xuất, kìm
hãm sự phát triển của xã hội.
- Quan hệ sản xuất còn là tiêu chuẩn khách quan để phân biệt các hình thái kinh tế - xã hội khác nhau.
3. Ý nghĩa phương pháp luận
Muốn nhận thức đúng đắn đời sống xã hội, phải phân tích một cách sâu sắc các mặt của đời sống
xã hội và các mối quan hệ lẫn nhau giữa chúng, đặc biệt phải xuất phát từ những quan hệ sản xuất hiện thực.
Câu 30. Phân tích nội dung qui luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất. Sự vận dụng qui luật này ở Việt Nam hiện nay.
1. Khái niệm lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất (Xem câu 28 và 29)
2. Quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
- Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất thống nhất biện chứng lẫn nhau trong đó lực lượng sản
xuất quyết định sự hình thành biến đổi phát triển của quan hệ sản xuất và quan hệ sản xuất tác động
trở lại lực lượng sản xuất.
+ Lực lượng sản xuất là yếu tố động nhất, cách mạng nhất, là nội dung vật chất của quá trình sản
xuất, còn quan hệ sản xuất là “hình thức xã hội” của quá trình đó, nên quan hệ sản xuất có tính tương đối ổn định.
+ Trong phương thức sản xuất, hai mặt lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất gắn bó với nhau,
lực lượng sản xuất tồn tại ở trình độ như thế nào thì quan hệ sản xuất cũng tương ứng với trình độ
của lực lượng sản xuất ấy. Khi lực lượng sản xuất phát triển thì quan hệ sản xuất cũng biến đổi theo
cho phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất. Sự phù hợp đó làm cho lực lượng sản xuất tiếp tục phát triển.
+ Quan hệ sản xuất với tư cách là hình thức kinh tế - xã hội của quá trình sản xuất nó luôn luôn
có khả năng tác động trở lại lực lượng sản xuất. Sự tác động của quan hệ sản xuất theo chiều hướng
tích cực hoặc tiêu cực. Nếu quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất thì thúc
đẩy sự phát triển của sản xuất, ngược lại sẽ kìm hãm sự phát triển của sản xuất.
- Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là thống nhất có bao hàm khả năng
chuyển hóa các mặt đối lập.
- Khi trình độ của lực lượng sản xuất phát triển nhanh, quan hệ sản xuất phát triển chậm, mâu
thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất ngày càng gay gắt, đòi hỏi phá vỡ quan hệ sản
xuất cũ lạc hậu thay bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất đang phát triển.
- Sự phát triển của lực lượng sản xuất từ thấp tới cao qua các thời đại lịch sử khác nhau đã quyết
định sự thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới đưa loài người phát triển từ phương
thức sản xuất này lên phương thức sản xuất khác cao hơn.
3. Sự vận dụng qui luật này ở nước ta hiện nay
- Từ một nền nông nghiệp lạc hậu, sản xuất nhỏ là chủ yếu nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội. Kinh
nghiệm thực tế chỉ rõ lực lượng sản xuất bị kìm hãm không chỉ trong trường hợp quan hệ sản xuất
lạc hậu, mà cả quan hệ sản xuất phát triển không đồng bộ, có các yếu tố đi quá xa so với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất.
- Thực tế lực lượng sản xuất ở nước ta còn thấp kém lại phát triển không đồng đều, điều đó đòi
hỏi phải coi trọng những hình thức trung gian, quá độ từ thấp lên cao, từ qui mô nhỏ lên qui mô lớn
Để xây dựng phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa, chúng ta chủ trương xây dựng một nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhằm phát huy mọi tiềm năng của các thành phần kinh
tế, phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất để xây dựng kinh tế của chủ nghĩa xã hội. Từng bước xã
hội hóa xã hội chủ nghĩa, quá trình đó không phải bằng gò ép mà là sự kết hợp các hình thức sở hữu
đề dần dần hình thành các tập đoàn sản xuất, kinh doanh lớn, trong đó các đơn vị quốc doanh và tập thể là nòng cốt.
3. Vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội ở Việt Nam hiện nay
- Tồn tại xã hội và ý thức xã hội là hai phương diện thống nhất biện chứng của đời sống xã hội
cho nên công cuộc cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới phải được tiến hành đồng thời trên cả hai
mặt tồn tại xã hội và ý thức xã hội. Cần thấy rằng, thay đổi tồn tại xã hội là điều kiện cơ bản nhất
để thay đổi ý thức xã hội vì vậy chỉ có thể thực sự tạo dựng được đời sống tinh thần của xã hội xã
hội chủ nghĩa trên cơ sở cải tạo triệt để phương thức sinh hoạt vật chất tiểu nông truyền thống và
xác lập, phát triển được một phương thức sản xuất mới trên cơ sở thực hiện thành công sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
- Quán triệt quan điểm đó cũng đồng thời tránh tái phạm sai lầm chủ quan duy ý chí trong việc
xây dựng nền văn hóa mới, xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa.
- Tuy nhiên, những tác động của đời sống tinh thần xã hội, với những điều kiện xác định cũng
có thể tạo ra những biến đổi mạnh mẽ, sâu sắc trong tồn tại xã hội. Quán triệt nguyên tắc phương
pháp luận đó, trong sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, phải coi trọng cuộc cách mạng
tư tưởng văn hóa, phát huy vai trò tác động đời sống tinh thần xã hội đối với quá trình phát triển
kinh tế xã hội của đất nước.
- Phát huy vai trò của ý thức xã hội còn thể hiện ở việc phát triển mạnh và nâng cao hiệu quả
hoạt động khoa học và công nghiệp, kết hợp chặt giữa hoạt động khoa học và công nghệ với giáo
dục và đào tạo để thực sự phát huy vai trò quốc sách hàng đầu, tạo động lực đẩy nhanh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa và phát triển nền kinh tế tri thức.
- Phát huy vai trò của ý thức xã hội còn được thông qua việc xây dựng, hoàn thiện ý thức chính
trị, ý thức pháp quyền, ý thức đạo đức, ý thức thẩm mỹ,… trong đời sống xã hội
Câu 33. Khái niệm, cấu trúc hình thái kinh tế xã hội. Giá trị khoa học của lý luận hình thái kinh tế xã hội.
1. Khái niệm, cấu trúc hình thái kinh tế - xã hội
- Hình thái kinh tế xã hội là một phạm trù cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử, dùng để chỉ xã
hội trong từng giai đoạn lịch sử nhất định, với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã hội đó
phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất và với một kiến trúc thượng tầng tương
ứng được xây dựng lên trên những quan hệ sản xuất ấy.
- Cấu trúc hình thái kinh tế - xã hội:
Hình thái kinh tế xã hội là một xã hội cụ thể có kết cấu phức tạp, trong đó những mặt cơ bản nhất
là lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng. Mỗi mặt đều có vai trò nhất định
và tác động đến các mặt khác tạo nên sự vận động và phát triển xã hội.
+ Lực lượng sản xuất là nền tảng vật chất kĩ thuật của mỗi hình thái kinh tế - xã hội. Sự hình
thành và phát triển của mỗi hình thái kinh tế - xã hội xét đến cùng là do lực lượng sản xuất quyết
định. Lựclượng sản xuất phát triển qua các hình thái kinh tế - xã hội nối tiếp nhau từ thấp đến cao
thể hiện tính liên tục trong sự phát triển của xã hội.
+ Quan hệ sản xuất là quan hệ kinh tế cơ bản, quyết định tất cả các mối quan hệ xã hội khác, là
tiêu chuẩn khách quan để phân biệt chế độ xã hội này với chế độ xã hội khác. Mỗi một hình thái
kinh tế xã hội có một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng, tương ứng với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất.
+ Những quan hệ sản xuất của mỗi xã hội cụ thể hợp thành cơ sở hạ tầng, trên đó hình thành nên
kiến trúc thượng tầng của xã hội, mà chức năng xã hội của nó là bảo vệ, duy trì và phát triển cơ sở
hạ tầng đã sinh ra nó, đấu tranh xóa bỏ cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng cũ.
+ Ngoài những yếu tố cơ bản trên còn có những quan hệ khác như quan hệ dân tộc, quan hệ gia đình, v.v…
2. Giá trị khoa học của lý luận hình thái kinh tế xã hội
Lý luận hình thái kinh tế xã hội là hạt nhân của chủ nghĩa duy vật lịch sử cung cấp một phương
pháp luận khoa học trong nghiên cứu về lĩnh vực xã hội:
- Muốn giải thích các hiện tượng trong đời sống xã hội phải xuất phát từ bản thân thực trạng phát
triển của nền sản xuất xã hội. Đặc biệt là từ trình độ phát triển của phương thức sản xuất của xã hội
với cốt lõi của nó là trình độ phát triển của lực lượng sản xuất hiện thực.
- Muốn giải thích chính xác đời sống xã hội cần phải xuất phát từ quan hệ sản xuất hiện thực của
xã hội để tiến hành phân tích các phương diện khác nhau (chính trị, pháp luật, văn hóa, khoa học…)
của đời sống xã hội và mối quan hệ lẫn nhau giữa chúng.
- Muốn nhận thức và giải quyết đúng đắn, có hiệu quả những vấn đề của đời sống xã hội phải đi
sâu nghiên cứu các quy luật phát triển của xã hội.
Câu 34. Phân tích luận điểm của K.Marx: “Sự phát triển của những hình thái kinh tế - xã
hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên”.
1. Khái niệm và kết cấu của hình thái kinh tế - xã hội (Xem câu 33)
2. Quá trình lịch sử - tự nhiên của sự phát triển các hình thái kinh tế - xã hội
- Phân tích theo lý luận cấu trúc hình thái kinh tế - xã hội thì lịch sử phát triển của nhân loại đã
trải qua nhiều giai đoạn nối tiếp nhau từ thấp đến cao, tương ứng với mỗi giai đoạn là một hình thái
kinh tế - xã hội. Hình thái kinh tế - xã hội là một hệ thống, trong đó các mặt không ngừng tác động
qua lại lẫn nhau tạo thành các quy luật khách quan thuộc các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa,
khoa học,… mà trước hết và cơ bản nhất là quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất, quy luật cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng. Chính
sự tác động của các quy luật khách quan đó là các hình thái kinh tế - xã hội vận động, phát triển từ
thấp đến cao như một quá trình lịch sử - tự nhiên, không phụ thuộc vào ý muốn của con người. Đó
là các hình thái kinh tế - xã hội: nguyên thủy, nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa, và tương lai nhất
định thuộc về cộng sản chủ nghĩa.
- Nguồn gốc của mọi sự vận động, phát triển của xã hội, của lịch sử nhân loại, của mọi lĩnh vực
kinh tế, chính trị, văn hóa,… suy đến cùng đều có nguyên nhân trực tiếp hay gián tiếp từ sự phát
triển của lực lượng sản xuất. Những lực lượng sản xuất được tạo ra bằng năng lực thực tiễn của con
người, song không phải con người làm ra theo ý muốn chủ quan. Bản thân năng lực thục tiễn của
con người cũng bị quy định bởi nhiều điều kiện khách quan nhất định. Người ta làm ra lực lượng
sản xuất của mình dựa trên những lực lượng sản xuất đã đạt được trong một hình thái kinh tế - xã
hội đã có sẵn do thế hệ trước để lại. Chính sự phát triển của lực lượng sản xuất đã quyết định, làm
thay đổi quan hệ sản xuất. Đến lượt mình, quan hệ sản xuất thay đổi sẽ làm cho kiến trúc thượng
tầng thay đổi theo, và do đó mà hình thái kinh tế - xã hội cũ được thay thế bằng hình thái kinh tế -
xã hội mới cao hơn, tiến bộ hơn. Như vậy, xét đến cùng lực lượng sản xuất quyết định quá trình vận
động và phát triển của hình thái kinh tế - xã hội như một quá trình lịch sử - tự nhiên.
- Trong các quy luật khách quan chi phối sự vận động và phát triển của các hình thái kinh tế - xã
hội thì quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
có vai trò quyết định nhất. Nó vừa bảo đảm tính kế thừa trong sự phát triển tiến lên của xã hội, vừa
biểu hiện tính gián đoạn trong sự phát triển của lịch sử.
- Khi khẳng định tính lịch sử - tự nhiên, tức tính quy luật khách quan của sự vận động, phát triển
của xã hội, chủ nghĩa Mác – Lênin cũng đồng thời khẳng định vai trò của các nhân tố khác đối với
tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại như: điều kiện địa lý; tương quan lực lượng chính trị của
các giai cấp, tầng lớp xã hội; truyền thống văn hóa của mỗi cộng đồng người; điều kiện tác động
của tình hình quốc tế;… Chính do sự tác động của các nhân tố đó mà tiến trình phát triển của mỗi
cộng đồng người không diễn ra như một đường
thẳng, nó vô cùng phong phú đa dạng và có thể bỏ
qua một hay một vài hình thái kinh tế - xã hội nhất định
Câu 35. Sự vận dụng lý luận hình thái kinh tế xã hội trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
1. Ý nghĩa của lý luận học thuyết hình thái kinh tế - xã hội
- Học thuyết Mác – Lênin về hình thái kinh tế - xã hội đã vạch ra nguồn gốc, động lực bên trong
của sự phát triển xã hội, vạch ra cơ sở và những nguyên nhân xuất hiện và biến đổi của các hiện
tượng xã hội, làm cho xã hội học trở thành một khoa học thật sự, khắc phục quan điểm duy tâm về lịch sử.
- Là cơ sở thế giới quan và phương pháp luận để nghiên cứu các hiện tượng xã hội.
- Là cơ sở lý luận cho việc xác định đường lối cách mạng của các Đảng Cộng sản.
- Là cơ sở lý luận để phê phán các quan điểm phi mác xít trong việc phân kỳ sự phát triển của xã hội.
2. Vận dụng học thuyết hình thái kinh tế - xã hội
Từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI. Đảng ta đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện. Đường lối
đó đã từng bước đi vào cuộc sống thể hiện sinh động trên tất cả các mặt và thu được những kết quả
bước đầu rất quan trọng.
Thực hiện công cuộc đổi mới là một quá trình vừa làm vừa học vừa rút kinh nghiệm, bởi vì chưa
bao giờ có sẵn mô hình để căn cứ vào đó mà chủ động vạch ra một chương trình đổi mới cụ thể, chi
tiết trên từng lĩnh vực.
Việc vận dụng học thuyết hình thái kinh tế - xã hội vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta là:
Việc lựa chọn con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa:
- Từ học thuyết hình thái kinh tế - xã hội chúng ta nhận thức được các quy luật vận động và phát
triển xã hội, về tính tất yếu của sự thay thế hình thái kinh tế xã hội cũ bằng hình thái kinh tế xã hội
cao hơn, về xu thế tất yếu của sự ra đời của hình thái cộng sản chủ nghĩa, mà giai đoạn đầu là chủ nghĩa xã hội.
- Thực tế là sự hình thành, phát triển chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô với mô hình kế hoạch hóa tập
trung và cả sự khủng hoảng của mô hình kinh tế này đã giúp chúng ta nhận thức rõ hơn về chủ nghĩa
xã hội và con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội. Vận dụng chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ
thể ở nước ta, Đảng ta khẳng định độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội không tách rời nhau. Đó là
quy luật phát triển của cách mạng Việt Nam, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt đường lối cách mạng của
Đảng. Việc Đảng ta luôn luôn kiên định con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội là phù hợp với xu
hướng của thời đại và điều kiện cụ thể của nước ta.
- Mục tiêu của chúng ta là: “Xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh”.
- “Con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư
bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng
tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế
độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây
dựng nền kinh tế hiện đại.
- Xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tạo ra sự biến đổi về chất của xã
hội trên tất cả các lĩnh vực là sự nghiệp rất khó khăn, phức tạp, cho nên phải trải qua một thời kỳ
quá độ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất quá độ.
Trong các lĩnh vực của đồi sống xã hội diễn ra sự đan xen và đấu tranh giữa cái mới và cái cũ”.
Xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa:
- Trong quá trình xây dựng xã hội ở nước ta, “Đảng và nhà nước ta chủ trương thực hiện nahát
quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế
thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đó chính là nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”
- “Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần
kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể
ngày càng trở thành nền tảng vững chắc”
- Xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vừa phù hợp với xu
hướng phát triển chung của nhân loại, vừa phù hợp với yêu cầu phát triển của lực lượng ở nước ta;
với yêu cầu của quá trình xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ kết hợp với chủ động hội nhập kinh
tế quốc tế. Đảng ta khẳng định: “Mục đích của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
là phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ
nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân. Phát triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn liền với xây
dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp trên cả ba mặt sở hữu, quản lý và phân phối”.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội chủ nghĩa ở nước ta:
- “Con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa của nước ta cần và có thể rút ngắn thời gian, vừa có
những bước tuần tự, vừa có những bước nhảy. Phát huy những lợi thế đất nước, tận dụng mọi khả
năng để đạt trình độ công nghệ tiên tiến, đặc biệt là công nghệ thông tin và công nghệ sinh học,
tranh thủ ứng dụng ngày càng nhiều hơn, ở mức cao hơn và phổ biến hơn những thành tựu mới về
khoa học và công nghệ, từng bước phát triển kinh tế tri thức. Phát huy nguồn lực trí tuệ và sức mạnh
tinh thần cuả người Việt Nam; coi phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ là nền tảng
và đọng lực của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa”.
Kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế và chính trị và các mặt khác của đời sống xã hội:
- Gắn với phát triển kinh tế, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy
mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, phải không ngừng đổi mới hệ thống chính trị, nâng
cao vai trò lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa,
nâng cao vai trò của các tổ chức quần chúng, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
- Đồng thời với phát triển kinh tế, phải phát triển văn hóa, xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm
đà bản sắc dân tộc nhằm không ngừng nâng cao đời sống tinh thàn của nhân dân; phát triển giáo
dục và đào tạo nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài; giải quyết tốt các
vấn đề xã hội, thực hiện công bằng xã hội nằm thực hiện mục tiêu: “dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh”.
Câu 40. Phân tích vai trò sáng tạo lịch sử của quần chúng nhân dân và vai trò của cá nhân trong lịch sử.
1. Khái niệm quần chúng nhân dân, cá nhân trong lịch sử
- Quần chúng nhân dân là cộng đồng xã hội có tổ chức, có chung lợi ích dưới sự lãnh đạo của
những cá nhân hay các tổ chức chính trị xã hội nhất định nhằm giải quyết nhiệm vụ lịch sử trên các
lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa của xã hội – cộng đồng.
- Khái niệm quần chúng nhân dân thay đổi gắn liền với hình thái kinh tế - xã hội nhất định, nhưng
khái niệm quần chúng nhân dân luôn được xác định bởi:
+ Thứ nhất, những người lao động sản xuất ra của cải vật chất và các giá trị tinh thần; đó là hạt
nhân cơ bản trong cộng đồng quần chúng nhân dân.
+ Thứ hai, những bộ phận dân cư chống lại giai cấp thống trị áp bức, bóc lột, đối kháng với cộng đồng nhân dân.
+ Thứ ba, những giai cấp tầng lớp xã hội thúc đẩy sự tiến bộ xã hội thông qua hoạt động của
mình, trực tiếp hoặc gián tiếp trên các lĩnh vực của đời sống xã hội.
- Khái niệm lãnh tụ thường được dùng để chỉ những cá nhân kiệt xuất do phong trào cách mạng
của quần chúng nhân dân tạo nên, gắn bó mật thiết với quần chúng nhân dân.
- Lãnh tụ có những phẩm chất cơ bản sau:
+ Có tri thức khoa học uyên bác, nắm bắt được xu thế vận động, phát triển của lịch sử.
+ Có năng lực tập hợp quần chúng nhân dân, thống nhất ý chí và hành động của quần chúng nhân
dân vào việc giải quyết những nhiệm vụ lịch sử, thúc đẩy sự tiến bộ của lịch sử.
+ Gắn bó mật thiết với quần chúng nhân dân, hy sinh vì lợi ích của quần chúng nhân dân.
- Bất cứ thời kỳ nào, cộng đồng xã hội nào, nếu lịch sử đặt ra những nhiệm vụ cần giải quyết, thì
từ trong phong trào quần chúng nhân dân, tất yếu sẽ xuất hiện những lãnh tụ đáp ứng nhiệm vụ đó.
2. Vai trò sáng tạo của quần chúng nhân dân và vai trò của cá nhân trong lịch sử
a. Vai trò của quần chúng nhân dân
Quần chúng nhân dân là chủ thể sáng tạo chân chính tạo ra lịch sử, là lực lượng quyết định sự
phát triển của lịch sử. Vai trò đó được thể hiện từ các góc độ sau:
+ Thứ nhất, quần chúng nhân dân là lực lượng sản xuất cơ bản của mọi xã hội, trực tiếp sản xuất
ra mọi của cải vật chất đáp ứng nhu cầu tồn tại và phát triển của con người và xã hội.
+ Thứ hai, quần chúng nhân dân là lực lượng trực tiếp hay gián tiếp sáng tạo ra giá trị tinh thần
của xã hội, là lực lượng trực tiếp hay gián tiếp “kiểm chứng” các giá trị tinh thần đã được các thế
hệ và các cá nhân sáng tạo ra trong lịch sử.
+ Thứ ba, quần chúng nhân dân là lực lượng là động lực cơ bản của mọi cuộc cách mạng và các
cuộc cải cách trong lịch sử.
- Vai trò sáng tạo lịch sử của quần chúng nhân dân không bao giờ tách khỏi vai trò cụ thể của
mỗi cá nhân, mà đặc biệt là vai trò của lãnh tụ.
b. Vai trò của vĩ nhân – lãnh tụ
- Lãnh tụ có khả năng sáng lập ra các tổ chức chính trị - xã hội và linh hồn của các tổ chức đó.
- Lãnh tụ là người có thể thúc đẩy nhanh tiến trình cách mạng, mang lại hiệu quả cao nhất cho
quần chúng, định hướng và tập trung quần chúng vào hoạt động theo mục đích nhất định.
- Lãnh tụ mỗi thời đại chỉ có thể hoàn thành những nhiệm vụ mà thời đại đó đặt ra, nếu vượt qua
thời đại đó họ có thể mất đi vai trò tiên phong của mình.
3. Ý nghĩa phương pháp luận
- Một là, việc lý giải một cách khoa học về vai trò quyết định lịch sử của quần chúng nhân dân
lao động, đã xóa bỏ quan niệm duy tâm về động lực phát triển xã hội loài người, và trang bị phương
pháp luận khoa học, trong việc nghiên cứu, đánh giá vai trò của mỗi cá nhân, vĩ nhân, lãnh tụ trong cộng đồng xã hội.
- Hai là, cung cấp phương pháp luận cho các Đảng Cộng sản, phân tích các lực lượng trong xã
hội, tổ chức xây dựng lực lượng quần chúng nhân dân trong công cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Câu 7: Phân tích quan điểm của Triết học Mác – Lênin về con người và bản chất con người?
Theo anh (chị) chúng ta cần phải làm gì để con người phát triển toàn diện?
Trả lời: Quan điểm của Triết học Mác – Lênin về con người và bản chất con người. Con người là
thực thể sinh học – xã hội Con người là kết quả của sự tiến hóa và phát triển lâu dài của giới tự nhiên,
giới tự nhiên là thân thể vô cơ của con người vì thế con người phải dựa vào giới tự nhiên,gắn bó với
giới tự nhiên, hoà hợp với giới tự nhiên mới có thể tồn tại và phát triển.Con người còn là một thực thể
xã hội có các hoạt dộng xã hội để nảy sinh tính xã hội của họ, trong đó quan trọng nhất là lao động
sản xuất. Tư duy, ý thức của con người chỉ có thể phát triển trong lao động và giao tiếp xã hội với
nhau Con người vừa là sản phẩm của lịch sử và của chính bản thân con người C.Mác khẳng định con
người vừa là sản phẩm của sự phát triển lâu dài của giới tự nhiên, vừa là sản phẩm cua lịch sử xã hội
loài người và của chính bản thân con người qua quá trình lao động. Con người là sản phẩm của lịch sử
và của bản thân con người, nhưng con người khác con vật, không thụ động để lịch sử làm mình thay
đổi, mà con người còn là chủ thể của lịch sử Con người vừa là chủ thể, vừa là sản phẩm của lịch sử
Xã hội sản xuất ra con người như thế nào thì con người cũng sản xuất ra xã hội như thế. Do vậy, phải
xuất phát từ các quan hệ kinh tế để lý giải các hiện tượng lịch sử. Xã hội là sản phẩm của sự tác động
lẫn nhau giữa con người với con người
- Khi các quan hệ xã hội biến đổi và phát triển thì bản chất con người cũng biến đổi và phát triển theo
qua các kình thái kinh tế - xã hội từ thấp đến cao, cuộc sống con người ngày càng văn minh, hiện đại.
Con người tạo ra lịch sử một cách có ý thức Bản chất con người là tổng hoà các quan hệ xã hội Đời
sống xã hội của con người xét về bản chất là có tính thực tiễn. Mọi bí ẩn liên quan đến con người chỉ
có thể lý giải thông qua hoạt động thực tiễn và hiểu biết về hoạt động thực tiễn của họ Trong quá trình
hoạt động thực tiễn, con người sống chủ yếu bằng phương thức xã hội, và chỉ tồn tại, phát triển nhờ
các quan hệ xã hội. Xã hội là biểu hiện tổng số các mối quan hệ và liên hệ cá nhân; chỉ thông qua các
quan hệ xã hội con người mới hoàn thiện và phát triển bản tính của mình
-Để con người phát triển toàn diện chúng ta cần:
- Mỗi cá nhân cần chủ động, tích cực, tự giác rèn luyện, vươn lên không ngừng trong từng điều
kiện và hoàn cảnh cụ thể của mỗi người
- Tích cực tham gia các hoạt động xã hội, hoạt động lao động, qua đó để rèn luyện tư duy, ý thức, năng lực bản thân
- Hiểu rõ những điểm mạnh và điểm yếu của bản thân để phát huy điểm mạnh và khắc phục những
điểm yếu của bản thân, hướng đến sự hoạn thiện bản thân
.- Tự có ý thức trau dồi đạo đức, phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp:tình yêu quê hương đất
nước, tình yêu thương con người không chỉ phạm vi gia đình, nhà trường, quốc gia, mà còn cả quốc tế
- Không những rèn luyện về mặt tri thức mà về mặt thể lực cũng cần phải quan tâm. Thường xuyên
rèn luyện, tăng cường sức khoẻ bản thân để có thể đóng góp công sức mình vào phát triển xã hội
LIÊN HỆ BẢN THÂN TRONG TRIẾT HỌC