Tóm tắt ôn tập học phần Lịch sử đảng cộng sản Việt Nam | Trường Đại học Quốc tế, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh
Phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa ra đời là nấc thang phát triển cao hơn phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, tất yếu phải xây dựng cho mình một cơ sở vật chất, kỹ thuật hiện đại hơn. Cho đến nay, hầu hết các nước tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc thắng lợi và chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội đều có nền công nghiệp chưa phát triển. Vì vậy, để có nền tảng cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội tất yếu phải thực hiện CNH. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đón xem.
Môn: Lịch sử đảng cộng sản Việt Nam (HCMIU)
Trường: Trường Đại học Quốc tế, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
Tóm tắt: Công nhiệp hóa, hiện đại hóa (CNH,HĐH) là một tất yếu khách quan của bất
cứ quốc gia nào đi lên chủ nghĩa xã hội. Mục tiêu của CNH, HĐH là nhằm xây dựng cơ
sở vật chất kỹ thuật hiện đại; xây dựng một cơ cấu kinh tế hợp lý nhằm mục đích cuối
cùng là xây dựng xã hội “dân giàu nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”
như Đảng ta xác định. Nhận thức của Đảng về CNH là quá trình lâu dài, qua nhiều bước thăng trầm…
1. Mở đầu:
CNH, HĐH là vấn đề lớn, mang tính chiến lược đối với sự phát triển của nước ta giai
đoạn hiện nay, được nhiều tác giả nghiên cứu ở các góc độ khác nhau. Tuy nhiên, trong
quá trình nhận thức không phải ai cũng nắm được logic vấn đề và tường tận về quan điểm của Đảng.
2.1. Tính tất yếu khách quan của công nhiệp hóa (CNH).
Phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa ra đời là nấc thang phát triển cao hơn phương thức
sản xuất tư bản chủ nghĩa, tất yếu phải xây dựng cho mình một cơ sở vật chất, kỹ thuật
hiện đại hơn. Cho đến nay, hầu hết các nước tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc
thắng lợi và chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội đều có nền công nghiệp chưa phát
triển. Vì vậy, để có nền tảng cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội tất yếu phải thực hiện CNH.
Trong bộ Tư bản, C.Mác đã phân tích kỹ sự phát triển của cách mạng công nghiệp và cho
thấy quy luật tất yếu phải thực hiện cuộc cách mạng công nghiệp. Kế thừa quan điểm
cách mạng và khoa học của Mác, khi cách mạng tháng Mười
Nga thành công, V.I.Lênin đã đặc biệt nhấn mạnh vai trò của CNH và sự nghiệp CNH.
Trong quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa, chúng ta phải cải tạo nền kinh tế cũ và xây
dựng nền kinh tế mới, mà xây dựng là nhiệm vụ chủ chốt và lâu dài”. Trên cơ sở nhận
thức sâu sắc và vận dụng lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh
vào thực tế ở nước ta.
2.2. Quá trình nhận thức của Đảng ta về CNH
Thời kỳ trước đổi mới từ năm 1960-1986:
• Vấn đề CNH, HĐH, lần đầu tiên được Đảng ta đề cập vào Đại hội III của Đảng
9.1960. Các Đại hội IV (12.1976), V (2.1982) tiếp tục bàn về vấn đề này. Vì vậy,
Đảng không có điều kiện để tổng kết lại những thành công cũng như hạn chế trong
quá trình thực hiện để rút ra những kinh nghiệm trong giai đoạn sau:
• Đại hội Đảng III xác định rõ mục tiêu cơ bản của công nghiệp hóa xã hội chủ
nghĩa là xây dựng một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa cân đối và hiện đại; Đó là mục
tiêu cơ bản, lâu dài, phải thực hiện qua nhiều giai đoạn. Về cơ cấu kinh tế, Đảng
xác định: kết hợp công nghiệp với nông nghiệp và lấy công nghiệp nặng làm nền tảng.
• Tại Đại hội lần thứ V của Đảng (3-1982) đã xác định trong chặng đường đầu tiên
của thời kỳ quá độ ở nước ta phải lấy nông nghiệp làm mặt trận hàng đầu, ra sức
phát triển công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng; việc xây dựng và phát triển công
nghiệp nặng trong giai đoạn này cần làm có mức độ, vừa sức, nhằm phục vụ thiết
thực, có hiệu quả cho nông nghiệp và công nghiệp nhẹ. Đại hội V coi đó là nội
dung chính của công nghiệp hóa trong chặng đường trước mắt. Đây là bước điều
chỉnh rất đúng đắn, phù hợp với thực tiễn Việt Nam.
Thời kỳ đổi mới từ năm 1986- nay: Đảng ta với tinh thần “nhìn thẳng vào sự thật, nói
rõ sự thật” … đã chỉ ra những hạn chế của CNH trước đây và đưa ra nhận thức mới phù
hợp với thực tiễn và thế giới
• Đại hội VI của Đảng đã cụ thể hóa nội dung chính của công nghiệp hóa xã hội
chủ nghĩa trong chặng đường đầu tiên là thực hiện 3 chương trình lương thực,
thực phẩm; hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu trong những năm còn lại của chặng
đường đầu tiên của thời kỳ quá độ. Như vậy, đường lối chiến lược coi CNH là
nhiệm vụ trọng tâm, xuyên suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là không đổi,
nhưng thay vì dồn sức, tập trung trực diện vào thực hiện CNH như trước đây, Đảng
qua tâm nhiều hơn và trước tiên đến khâu tạo dựng tiền đề, cơ sở của CNH. Đây
là sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Đảng về CNH. Là điểm khởi đầu hết
sức quan trọng cho quá trình đổi mới tư duy về công nghiệp hóa ở Việt Nam.
• Đại hội VII của Đảng (năm 1991) tiếp tục có những nhận thức mới, ngày càng
toàn diện và sâu sắc hơn về công nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa. Nghị quyết Hội
nghị Trung ương 7 khóa VII chính thức đưa ra định nghĩa về Công nghiệp hóa, hiện đại hóa như sau:
“Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản toàn diện các hoạt
động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội, từ sử dụng sức lao động thủ
công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động với công nghệ, phương tiện
và phương pháp tiên tiến hiện đại, dựa trên sự phát triển công nghiệp và tiến bộ khoa
học, công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao”
Định nghĩa đã phản ánh được phạm vi rộng lớn của CNH, HĐH; gắn CNH với HĐH;
xác định được vai trò của khoa học, công nghệ trong quá trình này; chỉ ra cái cốt lõi
của CNH là cải biến lao động thủ công, lạc hậu thành lao động sử dụng kỹ thuật tiên
tiến, hiện đại để đạt năng xuất lao động cao...Định nghĩa trên đã đánh dấu bước phát
triển vượt bậc trong nhận thức của Đảng về CNH trong thời kỳ phát triển mới của đất nước.
• Đại hội VIII của Đảng (năm 1996) nhìn lại đất nước sau 10 năm đổi mới đã
• nhận định: nước ta đã thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, nhiệm vụ đề ra cho
chặng đường đầu của thời kỳ quá độ là chuẩn bị tiền đề cho công nghiệp hóa đã cơ
bản hoàn thành cho phép chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
• Đại hội IX (năm 2001), Đại hội X (năm 2006) và XI (năm 2011) của Đảng, tiếp
tục bổ sung và hoàn thiện nhận thức của Đảng về CNH, HĐH đã đưa ra quan điểm
về CNH, HĐH cụ thể là: CNH gắn với HĐH và CNH, HĐH gắn với phát triển
kinh tế tri thức, bảo vệ môi trường tự nhiên, bảo tồn đa dạng sinh học. CNH, HĐH
gắn với phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh
tế quốc tế. Lấy phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển
nhanh và bền vững. Đảng đề ra nội dung và định hướng CNH, HĐH trong những
năm tiếp theo thiết thực và phù hợp xu thế thời đại, tất cả nhằm mục tiêu vì con
người, vì sự phát triển bền vững, phấn đấu đến năm 2050 nước ta trở thành một
nước công nghiệp hiện đại.
Có thể thấy rằng, tư duy của Đảng về CNH, HĐH thời kỳ đổi mới nhất quán với
đường lối CNH được nêu ra trước đó trên một số vấn đề có tính nguyên tắc: CNH
là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; Mục tiêu của
CNH nhằm chuyển đổi một cách căn bản nền sản xuất xã hội từ lao động thủ công
là chủ yếu sang lao động bằng máy móc, xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp với
tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất ; nâng cao đời sống nhân dân; quốc phòng an ninh vững mạnh.
Nhận thức của Đảng về CNH có sự phát triển so với trước cụ thể là:
CNH thời kỳ trước đổi mới
CNH thời kỳ đổi mới
CNH được đặt trong tổng thể một nền kinh
CNH thiên về phát triển công nghiệp nặng
tế thống nhất,cơ cấu ngành được chuyển
dịch dần phù hợp trình độ, xuất phát điểm của đất nước
CNH trong cơ chế kế hoạch hóa, tập trung,CNH, HĐH trong cơ chế thị trường định bao cấp hướng XHCN
CNH, HĐH là sự nghiệp của toàn dân với sự
Chủ lực thực hiện CNH là Nhà nước và tham gia của mọi thành phần kinh tế trong kinh
tế quốc doanh đó Nhà nước đóng vai trò chủ đạo
Nguồn lực CNH, HĐH là trí tuệ, văn hóa và
Nguồn lực chủ yếu của CNH, HĐH dựa sự tranh thủ nguồn lực đa dạng từ bên vào lợi
thế về lao động, tài nguyên đất đai ngoài, nhất là những thành tựu khoa học của và nguồn
viện trợ của các nước XHCN thế giới.
CNH theo mô hình kinh tế khép kín,
CNH theo mô hình kinh tế mở, hội nhập.
hướng nội và hướng về công nghiệp nặng
Tư duy lãnh đạo nóng vội, giản đơn, chủTư duy lãnh đạo: với sự cân nhắc, lộ trình quan
duy ý chí, ham làm nhanh, làm lớn,phù hợp trên cơ sở chuẩn bị kỹ các điều kiện không
quan tâm đến hiệu quả kinh tế xãtiền đề; vừa tuần tự, vừa nhảy vọt ở một số hội. điểm,
lĩnh vực để rút ngắn thời gian.
2.3 Thực trạng và một số giải pháp Thực trạng
Đường lối CNH, HĐH được Đảng ta hoạch định qua 28 năm đổi mới là đúng đắn,
toàn diện và ngày càng sáng tỏ cả về quan điểm chỉ đạo, mục tiêu, bước đi... Đây là
cơ sở lý luận cho quá trình đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, tạo
dựng những tiền đề để đẩy mạnh CNH, HĐH và bước đầu thực hiện CNH, HĐH đạt
những kết quả quan trọng. Tuy nhiên, vẫn còn những hạn chế trong việc hoàn thiện
và tổ chức thực hiện đường lối CNH, HĐH. -
Vùng kinh trọng điểm chưa phát huy được thế mạnh, chưa có sự liên kết chặt
chẽ.- Cơ cấu thành phần kinh tế chưa tương xứng với tiềm năng, môi trường đầu tư,
cạnh tranh chưa bình đẳng. -
Công tác quy hoạch chất lượng còn thấp, cơ chế thị trường chậm hoàn hiện
Nhiềuchính sách chưa đủ mạnh để huy động các nguồn lực.... Giải Pháp
Thứ nhất, làm tốt công tác lãnh đạo của Bộ chính trị, Ban bí thư và quản lý, điều hành
của nhà nước trong xử lý các mối quan hệ. Sự phát triển của khoa học, công nghệ là điều
kiện cần để hình thành và phát triển kinh tế tri thức. Công nghệ thông tin là chìa khoá để
đi vào kinh tế tri thức. Muốn rút ngắn quá trình CNH, HĐH, rút ngắn khoảng cách với
các nước, phải khắc phục khoảng cách về công nghệ thông tin.
Thứ hai, nâng cao năng lực nghiên cứu khoa học, đào tạo nhân lực cho kinh tế tri thức.
Thứ ba, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hướng đến
việc phát huy vai trò của khoa học, công nghệ, hướng đến kinh tế tri thức. Thứ tư, tái cấu
trúc nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế từ chiều rộng sang kết hợp hợp
lý giữa tăng trưởng theo chiều rộng với chiều sâu. 3. Kết luận:
CNH, HĐH đất nước là một vấn đề có phạm vi nghiên cứu rộng, trong bài viết tác giả đề
cập chủ yếu đến quá trình nhận thức của Đảng, so sánh nhận thức về vấn đề này giai đoạn
trước và sau đổi mới và bước đầu nêu ra một số giải pháp nhằm khắc phục hạn chế trong
thực hiện CNH, HĐH của Đảng. Lãnh đạo sự nghiệp CNH, HĐH là quá trình khó khăn,
lâu dài đòi hỏi Đảng luôn tổng kết thực tiễn, học hỏi kinh nghiệm của các nước... để bổ
sung cho lý luận và vận dụng vào thực tiễn, sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp năm 2020.
Giới thiệu (khoảng 2 phút):
1/ Giới thiệu về tính quan trọng của công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong quá trình phát triển xã hội.
Tính tất yếu khách quan của công nghiệp hóa (khoảng 8 phút):
2/ Giải thích về quan điểm rằng công nghiệp hóa là một yếu tố tất yếu trong quá trình
xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa.
3/ Trình bày về việc cần phải xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật hiện đại hơn để phát
triển từ chủ nghĩa tư bản đến chủ nghĩa xã hội.
4/ Cung cấp ví dụ về các nước đã thực hiện công nghiệp hóa trong quá trình cách mạng
giải phóng dân tộc và đạt được thành công.
Quá trình nhận thức của Đảng về công nghiệp hóa (khoảng 8 phút):
5/ Trình bày về quá trình nhận thức của Đảng về công nghiệp hóa từ thời kỳ trước đổi mới đến năm 1986.
6/ Đề cập đến mục tiêu cơ bản của công nghiệp hóa và tầm quan trọng của việc kết hợp
công nghiệp với nông nghiệp.
7/ Trích dẫn những câu nói của các nhà lãnh đạo như Chủ tịch Hồ Chí Minh để thể hiện
nhận thức về công nghiệp hóa.
Kết luận (khoảng 2 phút):
8/Tóm tắt lại các điểm chính đã trình bày trong thuyết trình.
Nhấn mạnh tầm quan trọng của công nghiệp hóa trong quá trình xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa.