lOMoARcPSD| 58933639
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
Khoa Đầu tư
BÀI TẬP NHÓM
Học phần: Kinh tế Đầu tư
CHỦ ĐỀ: Vai trò của nguồn vốn ODA đối với sự phát triển kinh tế - xã hội tại các
quốc gia đang phát triển. Phân tích sự thay đổi của nguồn vốn này tại Việt
Nam giai đoạn 2011-2020.
Thành viên : Lê Nhật Linh
Trần Khánh Linh
Ngô Thị Minh Ngọc
Nguyễn Thị Diễm Quỳnh
Lớp tín chỉ : 10
Giáo viên hướng dẫn : ThS. Đinh Thuỳ Dung
Hà Nội, tháng 11 năm 2023
lOMoARcPSD| 58933639
Khái niệm, đặc điểm và vai trò của nguồn vốn ODA với sự phát triển kinh tế xã hội của các nước nhận ODA.
1. Khái niệm nguồn vốn ODA
Nguồn vốn ODA (Official Development Assistance) hay nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức là nguồn
vốn phát triển do các tổ chức quốc tế các Chính phủ nước ngoài cung cấp với mục tiêu trợ giúp các nước
đang phát triển.
2. Phân loại nguồn vốn ODA
ODA bao gồm 2 loại: ODA không hoàn lại và ODA có hoàn lại (ODA cho vay).
Thứ nhất, ODA không hoàn lại là các khoản cho không, nước nhận viện trợ không có nghĩa vụ phải hoàn
lại. Mục đích của nguồn vốn này sẽ được sử dụng để thực hiện các dán cho nước vay theo thoả thuận của
hai nước với điều kiện đó là các nhà thầu dự án sẽ do bên cho vay đảm nhận. Tuy nhiên, có thể xem viện trợ
không hoàn lại như một nguồn thu ngân sách của nhà nước được cấp phát lại theo nhu cầu phát triển kinh tế
xã hội của đất nước.
Thứ hai, ODA có hoàn lại (hay ODA vốn vay) là các khoản vay ưu đãi (tín dụng ưu đãi). Tín dụng ưu đãi
chiếm một tỉ trọng lớn trong tổng số vốn ODA trên thế giới. Nó không được sử dụng cho mục tiêu xã hội, môi
trường. Mà thường được sử dụng cho các dự án về cơ sở hạ tầng thuộc các lĩnh vực giao thông vận tải, nông
nghiệp, thuỷ lợi, năng lượng,...làm nền tảng vững chắc cho ổn định và tăng trưởng kinh tế. Với ODA cho vay
ưu đãi, nước được nhận sẽ không phải hoàn lại ít nhất 25%. Còn với ODA cho vay hỗn hợp gồm 1 phần cho
vay ưu đãi không hoàn lại và 1 phần vay tín dụng thương mại theo các điều kiện của tổ chức hợp tác kinh tế
và phát triển (OECD).
3. Đặc điểm của nguồn vốn ODA
Thứ nhất, ODA mang tính ưu đãi:
Tính ưu đãi được thể hiện ở chỗ chỉ dành cho các nước đang và kém phát triển, mục tiêu phát triển.
Có 2 điều kiện cơ bản nhất để các nước đang và kém phát triển có thể nhận được ODA là:
Một là, GDP bình quân đầu người thấp. Nước có GDP bình quân đầu người càng thấp thì thường được tỷ
lệ viện trợ không hoàn lại của ODA càng lớn khả năng vay với lãi suất thấp thời hạn ưu đãi càng lớn.
Khi các nước này đạt trình độ phát triển nhất định qua ngưỡng đói nghèo thì sự ưu đãi này sẽ giảm đi.
Hai , Mục tiêu sử dụng vốn ODA của nước nhận phải phù hợp với chính sách, phương hướng ưu tiên
xem xét trong mối quan hệ giữa bên cấp và bên nhận.
Tính ưu đãi còn được thể hiện ở lãi suất rất thấp, chỉ dao động từ một vài phần trăm (nếu là ngân hàng thế
giới thì khoản vay là 0% một năm) và thời gian vay dài gần 40 năm với thời gian ân hạn tương đối dài. Vì thế
mà ODA cho vay thường được sử dụng cho các dự án hoàn vốn chậm. Ví dụ, lãi suất vay ODA theo từng
giai đoạn ở Việt Nam.
Giai đoạn trước 2010: lãi suất vay ODA= 0,7%-0,8%, thời gian vay bình quân khoảng 30-40 năm.
Giai đoạn 2011-2015: lãi suất vay ODA= 2-3%, thời gian vay bình quân khoảng 10-25 năm. Từ
tháng 7/2017: lãi suất 2-3,5%.
Thứ hai, ODA mang tính ràng buộc:
Các nước nhận ODA sẽ phải chịu những điều khoản nhất định khi sử dụng ODA để chi tiêu thường sẽ
gắn với lợi ích của nước cho ODA. Các nước viện trợ vừa muốn đạt ảnh hưởng về chính trị, vừa muốn đem
lại lợi nhuận cho chính mình,…Bởi vậy mà những khoản ODA bao giờ cũng có những điều kiện nhất định về
kinh tế, chính trị hay khu vực địa lý.
lOMoARcPSD| 58933639
Ngoài ra, vốn ODA gắn liền với chính trị vàmột trong những phương tiện thực hiện ý đồ chính trị : Viện
trợ của các nước phát triển không chỉ đơn thuần việc trợ giúp hữu nghị, còn một công cụ lợi hại để
thiết lập duy trì lợi ích kinh tế vị thế chính trị cho nước tài trợ. Những nước cấp viện trợ đòi hỏi các
nước tiếp nhận phải thay đổi chính sách phát triển cho phù hợp với lợi ích của bên tài trợ.
Thứ ba, ODA mang tính gây nợ:
Một số nước không sử dụng hiệu quả ODA có thể tạo nên sự tăng trưởng nhất thời nhưng sau một thời gian
lại lâm vào vòng nợ nần do không có khả năng trả nợ. Ngoài ra tác động của yếu tố tỷ giá hối đoái có thể làm
cho giá trị vốn ODA phải hoàn lại tăng lên. Bởi giá trị của các khoản ODA chủ yếu lấy ngoại tệ mạnh như
Đôla Mỹ, Yên Nhật, Euro,… là đơn vị tính toán. Khi các đồng tiền này tăng giá, hoặc đồng tiền của nước tiếp
nhận ODA bị mất giá trong khoảng thời gian sử dụng vốn thì khoản vốn ODA phải hoàn trả sẽ bị tăng lên.
Vốn ODA dễ tiếp nhận mà trách nhiệm của nước vay ODA không cao khiến các dự án trong nước đó có nguy
quản kém hiệu quả, nảy sinh tham nhũng, hối lộ giữa nhà thầu bên đại diện dự án; công trình xây
dựng trì trệ, bị đội vốn, rút ruột, không sinh lãi không mang lại hiệu quả. Những hành vi tiêu cực này sẽ
được hạch toán vào chi phí thực hiện, khiến chi phí công trình bị nhân lên cao. Và cuối cùng gánh nặng nợ sẽ
chi trả bằng tiền thuế của chính người dân đóng góp.
4. Vai trò của nguồn vốn ODA đối với sự phát triển kinh tế hội đối với các nước nhận ODA.
Một là, ODA giúp bổ sung nguồn vốn với ưu đãi cao trong nước đặc biệt quan trọng cho đầu phát triển.
Khối lượng vốn lớn nên có tác dụng nhanh và mạnh đối với việc giải quyết dứt điểm nhu cầu phát triển kinh
tế xã hội đối với các nước được nhận đầu tư. Vốn ODA với đặc tính ưu việt là thời hạn cho vay dài thường là
10-30 năm, lãi suất thấp khoảng 0,25-2%/năm. Chỉ nguồn vốn lớn với điều kiện cho vay ưu đãi nvậy
Chính phủ các nước đang phát triển mới có thể tập trung đầu tư cho các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế
như đường sá, điện, nước, thuỷ lợi và các hạ tầng xã hội như giáo dục, y tế. Những cơ sở hạ tầng kinh tế được
xây dựng mới hoặc cải tạo nhờ ODA là điều kiện quan trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của các nước nghèo
hoặc đang phát triển. những quốc gia chế quản kinh tế tốt, ODA đóng vai trò như nam châm hút
đầu tư tư nhân theo tỉ lệ xấp xỉ 2 USD trên 1 USD viện trợ.
Hai là, ODA cũng giúp các nước nhận tiếp thu khoa học công nghệ hiện đại và phát triển nguồn nhân lực.
Các quốc gia đang phát triển được nâng cao trình độ khoa học công nghtrình độ nhân lực của mình
bằng những hoạt động của các nhà tài trợ, được tăng cơ hội và đa dạng hóa các phương thức đầu tư, nâng cao
chất lượng nguồn lao động và thu nhập của đông đảo người dân, và có nhiều cơ hội được “va chạm”, đào tạo,
bồi dưỡng kiến thức, kinh nghiệm, những kỹ năng qua đó giúp nâng cao trình độ của bản thân nói riêng
chất lượng nguồn nhân lực nói chung.
Ba là, ODA thúc đẩy tăng trưởng đồng thời góp phần cải thiện đời sống xóa đói giảm nghèo cho các
nước được nhận nguồn vốn. Xoá đói giảm nghèo một trong những tôn chỉ đầu tiên được các nhà tài trợ quốc
tế đưa ra khi hình thành phương thức hỗ trợ phát triển chính thức. Mục tiêu này biểu hiện tính nhân đạo của
ODA. Trong bối cảnh sử dụng có hiệu quả, tăng ODA một lượng bằng 1% GDP sẽ làm giảm 1% nghèo khổ,
và giảm 0,9% tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh.
Bốn là, ODA góp phần điều chỉnh cấu kinh tế tăng cường năng lực thể chế. Những dự án ODA
các nhà tài trợ dành cho Việt Nam thường ưu tiên cho phát triển sở hạ tầng kinh tế kỹ thuật, phát triển
nguồn nhân lực, tạo điều kiện cho việc phát triển cân đối giữa các ngành, các vùng khác nhau trên cả nước.
Ngoài ra còn một số dự án giúp Việt Nam cải cách hành chính, hiệu quả hoạt động của các quan quản
lý nhà nước cũng được nâng cao. Tất cả những điều đó đã góp phần đáng kể vào việc điều chỉnh cơ cấu kinh
lOMoARcPSD| 58933639
tế Việt Nam. ODA cũng giúp các nước đang phát triển, ở đây là Việt Nam tăng cường năng lực thể chế thông
qua các chương trình, dự án hỗ trợ công cuộc cải cách pháp luật, cải cách hành chính và xây dựng chính sách
quản lý kinh tế phù hợp với thông lệ quốc tế.
Năm là, ODA cũng tăng khả năng thu hút vốn đầu tư nước ngoài trực tiếp FDI và tạo điều kiện để mở rộng
đầu phát triển trong nước c nước đang chậm phát triển. c nhà đầu nước ngoài khi quyết định
rót vốn đầu vào một nước thì điều đầu tiên họ quan tâm đến đó chính khả năng sinh lợi của vốn đầu
tại quốc gia đó. thế, đầu của Chính phủ vào việc nâng cấp, cải thiện xây mới các cơ sở hạ tầng,
hệ thống tài chính, ngân hàng là điều vô cùng cần thiết giúp cho môi trường đầu tư trở nên hấp dẫn hơn.
II. Phân tích sự thay đổi của nguồn vốn này tại Việt Nam giai đoạn 2011-2020.
1. Quy mô vốn
Bảng 1: Quy mô ký kết và giải ngân vốn ODA giai đoạn 1993-2020 (Đơn vị: Triệu
USD)
Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Bảng 1 cho thấy, trong giai đoạn 2011 - 2020 các nhà tài trợ đã ký kết cung ứng vốn
ODA cho Việt Nam với tổng số vốn 39,9 tỷ USD; số vốn đã giải ngân 35,6 tỷ USD. Trong đó số vốn
được kết giải ngân giai đoạn 2011-2015 gấp từ 2 đến 3 lần so với số vốn giai đoạn 5 năm kế tiếp.
Tuy nhiên tỉ lệ số vốn giải ngân so với kết (D/S) của giai đoạn 2015-2020 lại cao hơn khoảng 23% so với
giai đoạn trước.
Việt Nam là nước tiếp nhận nguồn vốn ODA nhiều nhất trong các nước ASEAN, với
37% (3,9 tỷ USD) tổng vốn ODA vào khu vực ASEAN năm 2015 với tỷ trọng ODA/GDP mức cao,
khoảng 2% GDP từ 2011 đến 2015 (so với chưa đến 1% GDP ở các nước ASEAN khác).
Biểu đồ 1: Quy mô ký kết và giải ngân vốn ODA giai đoạn 1993-2020 (Đơn vị: Triệu
lOMoARcPSD| 58933639
USD)
Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Về diễn biến quy vốn ODA trong giai đoạn 2011 - 2020, biểu đồ 1 cho thấy, từ năm 2011 đến 2014 số
vốn ODA kết giải ngân xu hướng tăng dần qua các năm. Thời kỳ 2011-2014, số vốn kết giải
ngân đạt đỉnh trong khoảng hơn 30 năm trở lại đây, riêng năm 2014 số vốn giải ngân lên đến 5 tỷ USD, cao
nhất trong suốt các thời kỳ.
Từ năm 2015 đến 2020 vốn ODA xu hướng giảm dần, năm 2019 giải ngân 1,654 tỷ USD và đến 2020
giải ngân 0,424 tỷ USD, mức rất thấp so với những năm trước đó.
2. Lãi suất và thời hạn cho vay
Giai đoạn
Lãi suất vay
Thời hạn vay bình quân
2011-2015
2-3%
10-25 năm
Từ tháng 7/2017
2-3.5%
< 10 năm
Giai đoạn 2011- 2015, lãi suất vay ODA của Việt Nam khoảng từ 2% đến 3 %. Thời gian vay nh quân
trong giai đoạn này từ 10 cho đến 25 năm. Sau đó từ tháng 7/2017 đến nay, lãi suất vay ODA cho nước ta
được điều chỉnh tăng lên từ 2% đến 3,5%. Thời hạn vay lại bị rút ngắn xuống chỉ còn dưới 10 năm.
3. Hình thức vốn ODA
Bảng 2: Tổng hợp kết quả ký kết ODA của Việt Nam giai đoạn 2010 - 2019 (Đơn vị:
lOMoARcPSD| 58933639
Triệu USD)
Nguồn: Tạp chí Kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương số 586 năm 2021
Nhìn vào bảng số liệu có thể thấy các khoản viện trợ tăng trong giai đoạn 2011 - 2012. Tuy nhiên điều đáng
chú ý là, các khoản ODA không hoàn lại này - một nguồn tài chính quan trọng cho các hoạt động trợ giúp kỹ
thuật, tăng cường năng lực và tư vấn chính sách, mặc dù chỉ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ là 1% tổng nguồn ODA
- đã giảm đáng ktừ khoảng 400 triệu USD năm 2012 xuống còn chưa đến USD 60 triệu năm 2015 sau
năm 2017 thì không có khoản viện trợ nào.
Trong khi đó các khoản ODA cho vay như vay ưu đãi và vốn vay ODA dù giảm về lượng nhưng ngày càng
chiếm tỉ trọng lớn so với khoản ODA viện trợ. Nếu trong giai đoạn 2011-2012, tỉ trọng của ODA viện trợ
trung bình vào khoảng 5% thì đến giai đoạn 2018-2019 thì tỉ trọng này giảm xuống còn 0%. Tương ứng với
đó, tỉ trọng ODA cho vay khoảng 95% trong giai đoạn 2011-2012 ng lên 100% vào hai năm 2018-
2019.
Không được thống trong bảng 2, tuy nhiên năm 2020 chứng kiến việc tăng trở lại của các khoản viện trợ
cho Việt Nam trong bối cảnh nền kinh tế thế giới chịu ảnh hưởng nghiêm trọng của dịch bệnh Covid-19
tình hình lũ lụt tại miền Trung. Việt Nam được tiếp nhận các khoản viện trợ nhằm ứng phó với đại dịch Covid-
19 và ảnh hưởng của lũ lụt từ một số nguồn như Hoa Kỳ, Ngân hàng thế giới, Ngân hàng phát triển Châu Á.
Tuy vậy, việc tăng trở lại của năm 2020 không thể coi là một xu hướng do những điều kiện đặc biệt trong đại
dịch và thiên tai.
Cơ cấu phân theo ngành kinh tế Biểu đồ 2: Cơ cấu vốn ODA thời kỳ 2011-2015 và 2016-2020
lOMoARcPSD| 58933639
Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Tổng quan trong cả giai đoạn 2011-2020, các lĩnh vực thu hút được nhiều vốn ODA nhất là giao thông vận
tải khoảng 33 %; môi trường phát triển đô thị khoảng 23 %; năng lượng công nghiệp khoảng 14,5%.
Theo sau đó là các ngành như nông nghiệp và phát triển nông thôn, xóa đói giảm nghèo khoảng 10,2 %; các
ngành y tế, xã hội, giáo dục đào tạo khoảng 9% và còn lại 10% được dành cho đầu tư vào các ngành khác.
Về xu hướng biến động trong thời kì, biểu đồ cho thấy, lượng vốn ODA trong giai đoạn 2016 - 2020 dùng
trong một số lĩnh vực như y tế, giáo dục, môi trường, nông nghiệp có sự sụt giảm so với giai đoạn 2011 - 2015
khoảng 1%, riêng lĩnh vực môi trường phát triển đô thị sụt giảm đến gần 7%. Ngược lại, một số ngành
được đầu tư bằng vốn ODA nhiều hơn, như năng lượng và công nghiệp (tăng khoảng 6%), giao thông vận tải
(tăng khoảng 4%) và một số ngành khác (tăng khoảng 2%).
Dẫu những sự biến động giữa hai thời 2011-2015 2016-2020 nhưng nhìn chung vốn ODA được
đầu tư chủ yếu vào các ngành giao thông vận tải, môi trường và phát triển đô thị, năng lượng và công nghiệp,
nông nghiệp và phát triển nông thôn, xóa đói giảm nghèo. Kết quả này được đánh giá là tương đối sát các mục
tiêu, nguyên tắc và các lĩnh vực ưu tiên đề ra tại Quyết định số 251/QĐ-TTg ngày 17/02/2016 của Thủ tướng
Chính phủ về phê duyệt Đề án “Định hướng thu hút, quản lý sử dụng nguồn vốn ODA vốn vay ưu đãi
của các nhà tài trợ nước ngoài thời kỳ 2016 - 2020” và
Quyết định số 1489/QĐ-TTg ngày 06/11/2018 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt “Định hướng thu hút,
quản lý và sử dụng nguồn vốn ODA và vốn vay ưu đãi của các nhà tài trợ nước ngoài giai đoạn 2018 - 2020,
tầm nhìn 2021-2025”.
4. Nguyên nhân của sự thay đổi
Thứ nhất, do Việt Nam đã trở thành nước thu nhập trung bình. Các nhà tài trợ vậy cần có sự điều chỉnh
chính sách cung cấp vốn đối với nước ta, đặc biệt là vốn vay ODA và viện trợ không hoàn lại.
Bắt đầu từ 01/7/2017, Việt Nam đã chính thức tốt nghiệp ODA theo tiêu chuẩn của Ngân hàng Thế giới
(WB). Điều đó nghĩa Việt Nam không còn nhận được các khoản vay vốn ưu đãi từ Hiệp hội Phát triển
quốc tế (IDA) của WB phải chịu các khoản vay kém ưu đãi, dần tiến tới vay theo điều kiện thị trường.
Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) cũng xếp Việt Nam vào nhóm B, nhóm đối tượng vay hỗn hợp chứ không
thuộc diện chỉ nhận được các khoản vay ưu đãi.
Thứ hai, chất lượng hiệu quả vốn ODA của Việt Nam chưa cao khiến cho khả năng thu hút vốn ODA
giảm.
Tỷ lệ giải ngân thấp dưới mức cam kết với các nhà tài trợ và thấp hơn rất nhiều so với mức giải ngân trung
bình của khu vực. Các chương trình, dự án đầu ODA thường bị kéo dài tiến độ xây dựng, tỷ lệ giải ngân
thấp, nên hiệu quả đầu tư không đảm bảo và uy tín tiếp nhận vốn ODA giảm sút. Tổng số vốn ODA chưa giải
ngân của các chương trình, dự án đã ký kết chuyển tiếp từ thời kỳ 2011– 2015 sang thời kỳ 2016 – 2020 còn
khá lớn, gần 22 tỷ USD.
Tổ chức quản lý dự án thiếu tính chuyên nghiệp. Năng lực và trình độ chuyên môn của đội ngũ cán bộ tham
gia quản lý dự án còn hạn chế, nhất c địa phương. Nhân sự các ban quản dự án thường không ổn định
và kiêm nhiệm. Công tác đào tạo quản lý dự án chưa thực hiện thường xuyên, có hệ thống và bài bản. Ngoài
lOMoARcPSD| 58933639
ra, hầu hết các dự án đều kéo dài thời gian thực hiện từ 2 đến 3 năm hoặc một vài dự án không khả năng
trả nợ.
Bên cạnh đó, công tác kiểm tra, theo dõi, đánh giá, báo cáo sử dụng vốn ODA đôi lúc chưa được thực hiện
nghiêm túc, còn để xảy ra một số trường hợp lãng phí, tham nhũng, tiêu cực như vụ PMU 18, sập cầu Cần
Thơ…
Thứ ba, nợ công của Việt Nam, trong đó vay nợ nước ngoài đã tăng nhanh trước đó, gây áp lực về huy
động vốn vay và trả nợ vay nước ngoài.
Nguồn: Tổng hợp từ các Bản tin nợ công của Bộ Tài chính (2019)
Từ bảng trên thể thấy, nợ công nợ nước ngoài nhìn chung xu hướng tăng trong giai đoạn 20112019.
Vấn đề này đến từ việc trong giai đoạn 2011-2015, Việt Nam chưa kế hoạch đầu công trung hạn, kế
hoạch tài chính trung hạn, chủ yếu điều hành theo kế hoạch hằng năm và thường xuyên điều chỉnh nên không
thể quản lý nợ theo trung hạn. Ngoài ra còn do một số nguyên nhân như khác biệt trong vấn đề pháp lí gây bất
lợi trong đàm phán vay nợ, sự thiếu hụt đội ngũ cán bộ có chuyên môn,... Câu 5: Tác động tiêu cực, tích cực
của nguồn vốn ODA, liên hệ VN.
Tác động tích cực của nguồn vốn ODA đến Việt Nam:
Với những ưu điểm của mình, ODA đã rất nhiều tác động tích cực đến kinh tế, hội… Việt Nam
như :
- Giúp tiếp thu khoa học công nghệ hiện đại và phát triển nguồn nhân lực
Thông qua các dự án ODA, nước ta thể nâng cao trình độ KHCN và trình độ nhân lực của mình
bằng những hoạt động của các nhà tài trợ.
Tăng cường hội đa dạng hoá phương thức đầu tư, cải thiện chất lượng nguồn nhân lực thu
nhập của đông đảo người dân.
Thông qua quá trình tham gia đầu gián tiếp này, các nhà đầu tư trong nước và người dân sẽ được
dịp “cọ xát”, rèn luyện bồi dưỡng kiến thức, kinh nghiệm, kỹ năng, giúp nâng cao trình độ bản thân nói
riêng, chất lượng nguồn nhân lực nói chung.
- Thúc đẩy tăng trưởng , cải thiện đời sống, góp phần xóa đói giảm nghèo
Bằng những khoản cho vay hay đầu không hoàn lại của mình, các nước đầu đã góp phần vào
việc bổ sung ngân sách nhà nước của nước ta. Tạo điều kiện cho việc đầu tư phát triển kinh tế, xã hội….
Nguồn vốn này đã đóng vai trò quan trọng trong chiến lược tăng trưởng, giảm nghèo, chuyển dịch
cấu kinh tế, cải cách thể chế, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của nước ta. Nguồn vốn ODA đã đóng góp
cho sự thành công của một số chương trình quốc gia ý nghĩa sâu rộng như Chương trình dân số phát
triển, tiêm chủng mở rộng, dinh dưỡng trẻ em...
Ví dụ: - ODA đầu tư các dự án về giáo dục như: dự án “Tăng cường khả năng sẵn sàng đi học cho trẻ mầm
non”- Dự án ODA đầu tiên dành cho sự phát triển mầm non…vv..
- Việc đầu tư vào Công nghiệp hay dịch vụ sẽ sử dụng nhiều lao động nước ta, từ đó giúp nguòn lao động dư
thừa của nước ta có việc làm, mang lại thu nhập ổn định, từ đó đời sống nhân dân được cải thiện, tổng thu
nhập quốc dân tăng
lOMoARcPSD| 58933639
=> thúc đẩy tăng trưởng
- Góp phần điều chỉnh cơ cấu kinh tế
Các dự án ODA mà các nhà tài trợ đầu tư vào Việt Nam chủ yếu vào các lĩnh vực cơ sở hạ tầng, kinh
tế kỹ thuật, phát triển nhân lực.. tạo điều kiên cho việc cân đối giữa các ngành trong cả nước .
dụ: Rất nhiều dự án sở hạ tầng, giao thông lớn trên cả nước đều xây dựng nhờ vào nguồn ODA như:
Cầu Bãi Cháy, Hầm Kim Liên, Cầu Thanh T
- Mở rộng đầu tư phát triển và thu hút đầu tư trực tiếp FDI
Để thu hút đầu tư của các nước phát triển, chắc chắn nước ta phải xem xét về các mặt như sở hạ
tầng của mình . Vấn đề các nhà đầu nước ngoài khi quyết định đầu tư vào một nước, thì việc đầu tiên
họ quan tâm sẽ lợi nhuận. vậy một nước sở hạ tầng, hệ thống giao thông hay phương tiện liên
lạc…vv… yếu kém sẽ khó có thể thu hút đc ODA
=> Nhà nước sẽ phải mở rộng đầu tư phát triển để cải thiện những vấn đề còn yếu kém.
Khi vốn đầu gián tiếp nước ngoài gia tăng sẽ làm phát sinh hệ quả tích cực gia tăng dây chuyền
đến dòng vốn đầu trực tiếp trong nước. Nói cách khác, các nhà đầu trong ngoài nước sẽ “nhìn ơng”
các nhà đầu gián tiếp nước ngoài và tăng động lực bỏ vốn đầu tư của mình, kết quả tổng đầu tư trực tiếp
xã hội sẽ tăng lên.
- Thiết lập và cải thiện các mối quan hệ quốc tế ….vv….
Hiện nay nước ta nhận được ngồn vốn ODA từ nhiều quố gia khác nhau trên thế giới, việc đầu tư của
các nước bạn này đã giúp mối quan hệ ngoại giao của nước ta và nước đầu tư trở nên thân mật, gắn bó hơn…
từ đó, mở rộng mối quan hệ quốc tế.
Tuy nhiên, có thể thấy tác động tích cực rõ rệt nhất chính là: ODA là nguồn vốn bổ sung quan trọng cho đầu
tư và phát triển.
Trong sự nghiệp công nghiện hóa - hiện đại hóa đất nước của các nước đang phát triển nói chung và
Việt Nam nói riêng, phải đòi hỏi một lượng vốn đầu tư vô cùng lớn, mà nếu chỉ huy động vốn trong nước thì
không thể đủ, vì thế việc nhận sự hỗ trợ từ ODA là vô cùng cần thiết.
Ví dụ: Sau 20 năm. Cộng đồng các nhà tài trợ quốc tế đã cam kết hỗ trợ Việt Nam khoản vốn ODA lên tới gần
80 tỉ USD. Khoản tiền này được ví như “chất xúc tác” góp phần làm thay đổi bộ mặt đất nước .
Hoạt động sản xuất của công ty Mabuchi motor Việt Nam ( 100% vốn ODA Nhật Bản)
hình dự án xây dựng đường cao tốc Bắc - Nam (đoạn Bến Lức - Long Thành (do Nhật Bản đầu vốn
ODA)
Cầu Nhật Tân được xây dựng từ vốn ODA của Nhật Bản
Tác động tiêu cực của ODA
Các tác động tiêu cực của ODA đến Việt Nam: Tăng khoảng cách giàu nghèo, tạo ra sự phụ thuộc của các
nước đi vay vào các nước cho vay và đặc biệt nhất là ODA đã làm trầm trọng cán cân thanh toán của nước
ta .
lOMoARcPSD| 58933639
- ODA đã làm gia tăng nợ quốc gia: Việc ODA không ngừng tăng cao giúp cải thiện tình hình kinh tế , xã hội
nhưng cũng góp phần làm tăng cao nguồn nợ quốc gia:
Bản tin về nợ công của Bộ Tài chính vừa công bố cho thấy nợ công của Việt Nam năm 2021 43,1% GDP.
Với quy GDP năm 2021 đạt hơn 8,47 triệu tỉ đồng (tương đương hơn 366 tỉ USD), thì nợ công của cả
nước khoảng 3,65 triệu tỉ đồng (gần 156 tỉ USD).
- ODA làm gia tăng lạm phát :
+ Nợ =>vay nợ mới => tăng nợ => tăng vay ….vòng xoáy này sẽ dẫn con nợ đến sự vỡ nợ hoặc vòng xoáy
lạm phát: Nợ => tăng nghĩa vụ nợ => thâm hụt ngân sách => tăng lạm phát . Lúc này nợ sngốn hết các
khoản chi ngân sách cho phát triển và ổn định xã hội , làm căng thẳng them trạng thái khát vốn, hỗn loạn xã
hội
+ Hơn nữa việc “thắt lưng buộc bụng” để trả nợ dẫn đến việc hạn chế nhập, tăng xuất, trong đó có cả hàng
tiêu dung mà trong nước còn thiếu hụt làm mất cân đối hàng tiền, tăng giá, tăng lạm phát
Câu 30: Mối quan hệ giữa ODA và FDI. Liên hệ việt nam
lOMoARcPSD| 58933639
1.3. Nguồn vốn ODA đóng vai trò định hướng cho nguồn vốn FDI đầu tư vào ngành, những
vùng cần thiết
lOMoARcPSD| 58933639
lOMoARcPSD| 58933639
III. So sánh với quốc gia đang phát triển khác.
Biểu đồ 3: So sánh lượng vốn ODA nhận được giữa Việt Nam và Indonesia
So sánh giữa hai nước Việt Nam và Indonesia:
Lượng vốn ODA Việt Nam nhận được hơn Indonesia rất nhiều, khoảng cách lớn nhất lên đến 4,6 tỷ
USD. Lượng vốn ODA nhận được của Việt Nam tuy giảm nhanh và giảm nhiều, tuy nhiên vẫn còn dương, và
cao hơn của Indonesia đáng kể. Nhưng đến năm 2020, sự chênh lệch này bị rút ngắn chỉ còn 0,03 tỷ USD.
Nhận xét:
Ta thể thấy được lượng vốn ODA thu hút vào Indonesia chiếm tỷ trọng rất nhỏ hay nói cách khác
Indonesia không thói quen vay viện trợ phát triển chính thức (ODA) để chi tiêu ngân sách. Năm 2011 nước
này chỉ nhận ODA có 0,38 tỷ USD, trong khi Việt Nam nhận 2,95 tỷ USD (gấp gần 8 lần).
Trong những năm tiếp theo ODA của Việt Nam có xu hướng tăng cao còn của Indonesia có xu hướng giảm
mạnh vì ta có thể nhận thấy rằng ODA có hai tác dụng tích cực:
Một , lấp được khoảng thiếu hụt vốn để đầu tư. Do nhu cầu đầu xây dựng hạ tầng rất lớn nhưng tiết
kiệm trong nước còn nhỏ. Bởi thu nhập đầu người còn thấp nên các nước này phải đối mặt với khoảng
chênh lệch giữa đầu tư và tiết kiệm.
Hai là, lấp được khoảng thiếu hụt ngoại tệ vì khả năng xuất khẩu còn kém nhưng nhu cầu nhập khẩu máy
móc, thiết bị, vật để đầu lớn. ODA nguồn cung cấp ngoại tệ, do đó tác dụng yểm trợ mặt
nhập khẩu để xúc tiến đầu tư, đẩy mạnh phát triển kinh tế.
Sau ba thế kỷ rưỡi dưới ách đô hộ của thực dân Hà Lan, Indonesia đã giành được độc lập vào ngày
17/8/1945. Indonesia bắt đầu công cuộc xây dựng kinh tế từ nghèo đói lạc hậu. Ngay từ giai đoạn 19651998,
Indonesia đã nhận được các khoản đầu lớn của các nhà đầu nước ngoài và khoản vay lớn từ cộng đồng
quốc tế. Tuy nhiên, việc quản lý và sử dụng nguồn vốn ODA tại Indonesia bị đánh giá không hiệu quả. Điển
hình việc sử dụng quản ODA trong lĩnh vực hạ tầng. Mặc chiếm phần lớn tổng vốn ODA vào
Indonesia, nhưng đến nay, kết cấu hạ tầng Indonesia vẫn còn yếu kém. Một nguyên nhân không thể không
nói tới là nạn tham nhũng hoành hành ở Indonesia.
Để thay đổi tình hình, khắc phục được hạn chế, từ đầu những năm 2000, Indonesia cũng điều chỉnh về quy
trình thu hút, sử dụng quản ODA như sau. Nước này chỉ vay ODA cho các dự án thật sự cần thiết,
mục tiêu đã được xác định ưu tiên ngân sách trong nước không huy động được. Mặt khác, cần tăng cường
năng lực các quan của Chính phủ trong việc quản các nguồn ODA, tkhâu thu hút đến khâu sử dụng,
tuyệt đối tránh tham nhũng, lãng phí, bởi ODA cũng một nguồn của ngân sách nhà nước. Bên cạnh đó,
Chính phủ cũng nhấn mạnh nguyên tắc, vay ODA phải đảm bảo độ an toàn cao. Đối với các dự án ODA có sử
dụng vốn lớn, yêu cầu phải chuyên gia vấn điều kiện tiên quyết nhằm đảm bảo tính hiệu quả của dự
án.
Việt Nam:
Tỷ lệ vốn ODA trên tổng thu nhập quốc dân luôn dương và khá cao.
Giai đoạn 2011-2012, tỷ lệ vốn ODA trên tổng thu nhập quốc dân giữ ở mức cao và tăng nhẹ.
Nhận xét:
lOMoARcPSD| 58933639
Chính phủ Việt Nam nhiều lúc cho thấy thiếu thận trọng trong việc chọn lựa các dự án đầu tư, không xét
đến khả năng trả nợ và hiệu quả tăng sức cạnh tranh của nền kinh tế. Chẳng hạn kế hoạch xây dựng đường sắt
cao tốc (với dự toán kinh phí lên tới 56 tỷ đô la Mỹ) được đưa ra năm 2010 đã gây bức xúc trong giới trí thức
trong và ngoài nước Tỷ trọng của ODA trên Gross net income còn khá cao, tại Việt Nam dao động từ 2.5%
vào năm 2011 xu hướng giảm dần xuống còn 0.44 % vào năm 2019 do đó chúng ta thể thấy được
chiến lược của nhà nước Việt Nam trong việc giảm phụ thuộc vào nguồn vốn ODA từ các quốc gia khác.
Do sự lãng phí nguồn lực thiếu thận trọng trong việc lựa chọn dự án đầu nên Việt Nam phải nhận
nhiều ODA (trên đầu người). Trong khi đó Indonesia con số đó thường âm hoặc dao động gần 0 hầu
như Indonesia sẽ sử dụng ODA trong thời gian ngắn hạn hoặc không sử dụng vốn ODA từ nước ngoài.
thay vào đó họ có thể huy động nguồn vốn từ các công ty trong nước hay là việc thu thuế. Việc một quốc gia
phụ thuộc lâu dài vào ODA được xem như sự thất bại của chiến lược phát triển, do vậy, Việt Nam cần
chính sách đúng hướng để là giảm đi sự phụ thuộc vào vốn ODA. Kết luận:
Từ các biểu đồ và phân tích trên, có thể thấy rằng Việt Nam đang chủ động cắt giảm nguồn vốn ODA theo
thời gian. Việc phải giảm nguồn viện trợ từ các đối tác phát triển sẽ gây ra không ít khó khăn, tuy nhiên nước
ta cũng đã tính toán và chuẩn bị tâm thế để đón nhận những tác động có thể xảy đến. Mặc dù vậy, ngoài những
tác động tiêu cực sẽ là cơ hội để Việt Nam tìm thấy giải pháp phát huy tốt hơn trong bối cảnh này. Xét về lâu
về dài, khi nguồn vốn ODA bị cắt giảm, nước ta sẽ buộc phải độc lập trong hoạt động huy động vốn và hoạt
động kinh doanh. Thay lệ thuộc vào viện trợ nước ngoài, Việt Nam sẽ phải tự lực vươn lên, phát huy đến
mức tối đa năng lực nội tại của nền kinh tế. Không chỉ vậy, thất thoát hay lãng phí cũng sẽ được giảm bớt
đảm bảo tốt hơn khi những nguồn vốn giá rẻ trở nên khan hiếm, người sử dụng vốn sẽ phải khắt khe hơn
với mỗi sự lựa chọn để đạt được hiệu quả tốt nhất.
IV. Đề xuất một số giải pháp
1. Giải pháp để gia tăng, thu hút và sử dụng hiệu quả nguồn vốn ODA
a. mục tiêu sử dụng vốn ODA phù hợp chính sách, phương hướng ưu tiên của nhà tài trợ. Thông
thường, các nước cung cấp ODA đều những chính sách ưu tiên riêng của mình, tập trung vào một số lĩnh
vực họ quan tâm hay lĩnh vực họ có khả năng kỹ thuật vấn ( công nghệ , kinh nghiệm quản lý;…).
Chẳng hạn, Việt Nam sử dụng vốn ODA trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng; giáo dục và môi trường. Nếu quốc
gia viện trợ như Nhật Bản, Hoa Kỳ mà họ thấy mục tiêu của chúng ta phù hợp với họ thì họ sẽ cung cấp cho
Việt Nam nguồn vốn ODA này. b. Mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế với quốc gia viện trợ
Mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế với quốc gia viện trợ bởi ODA phụ thuộc rất nhiều vào mối quan hệ chính
trị giữa các quốc gia. Nếu quan hệ hợp tác tốt thì bên viện trợ sẽ ưu tiên các nước đang phát triển hơn từ
đó sẽ gia tăng được vốn ODA. dụ, Việt Nam vui mừng nhận thấy quan hệ hợp tác với Pháp đang phát
triển tốt đẹp. Năm 2023 Việt Nam sẽ kỷ niệm 10 năm xây dựng quan hệ đối tác chiến lược với Pháp 50
năm thiết lập quan hệ ngoại giao Pháp -Việt, Cũng nhờ mối quan hệ đó thì Pháp cũng là ntài trợ Châu Âu
song phương ODA hàng đầu cho Việt Nam nước ta đứng thứ 2 trong số các nước hưởng ODA của Pháp tại
Châu Á. Điều đó cho thấy rằng quan hệ hợp tác đóng vai trò rất to lớn trong thu hút vốn ODA này. c. Cần
nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn ODA Để nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn ODA cần:
Thứ nhất, tập trung ưu tiên sử dụng ODA chi đầu tư phát triển, không vay cho chi thường xuyên. Tăng
cường trách nhiệm của quan chủ quản, người ra quyết định đầu tư, chủ dự án, người sử dụng vốn, các
quan trách nhiệm soát các chương trình, dự án đã ký kết hiệu lực, đang triển khai thực hiện, cắt
giảm các khoản chi mang tính chất quản hành chính như mua sắm xe ô tô, thiết bị văn phòng; nâng cao
lOMoARcPSD| 58933639
năng lực, quản lý dự án, đảm bảo hiệu quả, tiết kiệm trên cơ sở thống nhất với nhà tài trợ. Không gia hạn
thời gian thực hiện đối với cấu phần chi thường xuyên của các chương trình, dự án ODA đang triển khai thực
hiện.
Đối với các dự án vay mới, các dự án đang trong giai đoạn chuẩn bị đàm phán ký kết Hiệp định vay thì các
quan phụ trách không sử dụng vốn vay cho chi thường xuyên, chỉ đề xuất sử dụng vốn vay theo các tiêu
chí: ưu tiên sử dụng vốn vay cho khoản chi bằng ngoại tệ (chi nhập khẩu/mua sắm hàng hóa, dịch vụ, tư vấn
nước ngoài); khoản chi cho cấu phần xây lắp trong tổng mức đầu tư; khoản chi có liên quan đến chuyển giao
công nghệ
Không sử dụng vốn vay để mua sắm ô tô, thiết bị văn phòng, vật tư, thiết bị dự phòng cho quá trình vận
hành sau khi dự án hoàn thành, chi đào tạo, hội thảo.
Thứ hai, cải tiến chế quản . Cần nâng cao trình độ năng lực của quan cán bộ thẩm định dự án
của các bộ/ ngành, địa phương đặc biệt về chuyên môn nghiệp vụ, pháp luật ngoại ngữ cũng như kinh
nghiệm quản lý .Công việc quản lý các dự án ODA đòi hỏi các cán bộ dự án phía tiếp nhận phải chủ động và
linh hoạt. Trong đó trình độ chuyên môn và quản lý của cán bộ dự án dù đã được cải thiện song vẫn chưa đáp
ứng được yêu cầu thực tiễn. Chính vì vậy , cần đào tạo các cán bộ về các kỹ năng xây dựng; đánh giá và quản
các dự án một cách thường xuyên; hỗ trợ tăng cường năng lực cán bộ cấp tỉnh để đảm bảo khả năng tham
gia tốt hơn vào quá trình quản lý các dự án cấp cơ sở
Thứ ba, cần tập trung và sử dụng vốn ODA cho các dự án phát triển kinh tế xã hội có khả năng tự hoàn vốn
nhanh; ưu tiên sử dụng ODA cho các chương trình dự án đầu tư công quan trọng khó có khả năng thu hút đầu
tư của khu vực tư nhân và nguồn vốn vay thương mại
Thứ tư, hợp tác công tư (PPP): Hướng đi mới để thu hút đầu tư và sử dụng nguồn vốn ODA một cách hiệu
quả. Do đó nên khuyến khích tư nhân cùng tham gia đầu tư vào dự án dịch vụ hoặc công trình công cộng của
Nhà nước sử dụng vốn ODA làm hạt nhân thực hiện. Việc các thành phần kinh tế , các doanh nghiệp
nhân tham gia vào các dự án sử dụng nguồn vốn ODA sẽ phát huy được hơn nữa hiệu quả nguồn vốn này. Từ
việc sử dụng hiệu quả vốn ODA thì bên nước cho vay sẽ tài trợ cho chúng ta nhiều tiền hơn; chúng ta sẽ
khả năng trả được các khoản nợ này và có khả năng được vay nợ tiếp.
2. Đề xuất kiến nghị: Nguồn vốn sẽ thay thế / bổ sung cho sự sụt giảm của vốn ODA
Nguồn ngoại tệ bổ sung khi ODA ngày càng sụt giảm đó chính nguồn Kiều hối. Kiều hối được hiểu
khoản tài chính hoặc hiện vật do người di chuyển về cho gia đình, người thân, bạn quê hương. Kiều
hối đem lại nhiều lợi ích cho người dân, cũng như nền kinh tế của nước sở tại, đặc biệt là tại các quốc gia đang
phát triển (Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế, 2016).
Ngân hàng Thế giới (WB) cho biết, bất chấp những khó khăn về kinh tế mô trên phạm vi toàn cầu, lượng
kiều hối đổ về các quốc gia có thu nhập thấp và trung bình trong năm 2022 sẽ tăng 5% so với năm ngoái, lên
626 tỷ USD (năm 2021 tăng khoảng 9%, đạt mức 589 tỷ USD).
Kiều hối như một “cứu cánh quan trọng” cho các quốc gia để bổ sung vào nguồn ngân sách hạn chế trong
nước, góp phần duy trì nền kinh tế và hệ thống bảo trợ xã hội. Để tăng cường thu hút nguồn kiều hối, Chính
phủ các nước đang phát triển cần: Thứ nhất, xây dựng hệ thống thông tin cho nhà đầu tư: chẳng hạn như
cẩm nang các cơ chế chính sách; cẩm nang các dự án kêu gọi đầu tư hàng năm;…. Để có được cẩm nang này
phải sự phối hợp chặt chẽ với các cơ quan ngoại giao nước ngoài xây dựng hệ thống thông tin đầu tư cho
nhà đầu tư kiều bào cho họ thấy được thông tin mà họ quan tâm và đồng thời cho họ biết được dự án cần thu
hút vốn.
Thứ hai, cần phải tiếp tục ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát, thay đổi môi trường đầu tư theo hướng
tích cực, đặc biệt hạn chế thay đổi đột ngột các quy định trong hoạt động đầu tư, nới lỏng các quy định,
điều khoản đầu tư kinh doanh, đơn giản hóa các thủ tục chứng nhận đầu tư ở tất cả các cấp, nhất là khâu thực
thi ở các địa phương để tạo điều kiện thuận lợi cho kiều bào đầu tư về nước. Bên cạnh đó, cần xóa bỏ những
lOMoARcPSD| 58933639
rào cản “vô hình” đối với các lĩnh vực đầu mới như năng lượng, y tế, khoa học công nghệ, nông nghiệp
công nghệ cao.
Thứ ba, các chính sách không nên mang tính hình thức hoặc những can thiệp hành chính nên theo
hướng tạo lập môi trường đầu thuận lợi về sở hạ tầng như giao thông, điện nước, viễn thông, cải cách
thủ tục hành chính… sẽ có tác động tích cực hơn trong việc thu hút kiều hối vào các hoạt động đầu tư có hiệu
quả. Bên cạnh đó, việc tạo lập một hạ tầng tài chính vững mạnh với các tổ chức tài chính hoạt động an toàn
hiệu quả, cung cấp đa dạng các dịch vụ tài chính cũng có ý nghĩa rất quan trọng trong việc thu hút và sử dụng
có hiệu quả các dòng kiều hối.
Thứ tư, các tổ chức tài chính tăng cường các hoạt động thỏa thuận ký kết về dịch vụ tài chính, đa dạng hình
thức chuyển tiền tại các thị trường tiềm năng lớn để “kéo” nguồn kiều hối tiếp tục về đầu tư trong nước. Kết
hợp việc mở rộng kênh dịch vụ đồng đều khắp cả nước tạo điều kiện để kiều bào, người lao động thuận lợi
chuyển kiều hối về nước.
Thứ năm, tích cực đổi mới nội dung, hình thức công tác thông tin, tuyên truyền đối với người dân ở nước
ngoài; nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ làm công tác thông tin đối ngoại, bảo đảm đường lối, chính sách của
Chính phủ, nhất chính sách đối ngoại, chính sách thu hút đầu được kiều bào tiếp nhận nhanh nhất, kịp
thời và chính xác nhất. Từ đó để họ hiểu sâu và an tâm khi về nước đầu tư sản xuất, kinh doanh. Thứ sáu,
tạo môi trường bình đẳng và thuận lợi về các chế chính sách đầu tư. Chúng ta không thể ưu tiên lĩnh vực
tốt như công nghệ xây dựng cho mỗi nhà đầu trong nước mà còn phải mở ra cho những kiều bào nhà
đầu tư nước ngoài và đồng thời mở rộng thêm các lĩnh vực thu hút đầu tư ra không chỉ bó hẹp ở mỗi lĩnh vực
công nghiệp xây dựng nữa mà mở ra lĩnh vực giáo dục đào tạo; chăm sóc sức khỏe; ngân hàng tài chính,công
nghệ sinh học;…. cũng thu hút được đầu tư kiều bào. Ngoài các giải pháp trên, để tiếp tục thu hút kiều hối
giai đoạn này các ngân hàng thương mại trong nước cũng cần chính sách hỗ trợ việc giảm chi phí về chuyển
tiền, thực hiện đơn giản hóa quy trình để đảm bảo chuyển tiền nhanh, thuận lợi cho người gửi tiền người
nhận kiều hối cũng an tâm hơn. Hiện nay, chi phí gửi tiền qua các kênh chính thức còn khá cao. Đồng thời,
các công ty chuyển tiền, ngân hàng thương mại cần nâng cao giới thiệu, phổ biến, áp dụng các nền tảng kỹ
thuật số của chuyển tiền trực tuyến và dịch vụ ngân hàng cho những người dân nhập cư cũng như các hộ gia
đình, tạo thuận lợi trong quá trình chuyển kiều hối về nước.

Preview text:

lOMoAR cPSD| 58933639
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN Khoa Đầu tư BÀI TẬP NHÓM
Học phần: Kinh tế Đầu tư
CHỦ ĐỀ: Vai trò của nguồn vốn ODA đối với sự phát triển kinh tế - xã hội tại các
quốc gia đang phát triển. Phân tích sự thay đổi của nguồn vốn này tại Việt Nam giai đoạn 2011-2020. Thành viên : Lê Nhật Linh Trần Khánh Linh Ngô Thị Minh Ngọc Nguyễn Thị Diễm Quỳnh Lớp tín chỉ : 10
Giáo viên hướng dẫn : ThS. Đinh Thuỳ Dung
Hà Nội, tháng 11 năm 2023 lOMoAR cPSD| 58933639
Khái niệm, đặc điểm và vai trò của nguồn vốn ODA với sự phát triển kinh tế xã hội của các nước nhận ODA.
1. Khái niệm nguồn vốn ODA
Nguồn vốn ODA (Official Development Assistance) hay nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức là nguồn
vốn phát triển do các tổ chức quốc tế và các Chính phủ nước ngoài cung cấp với mục tiêu trợ giúp các nước đang phát triển.
2. Phân loại nguồn vốn ODA
ODA bao gồm 2 loại: ODA không hoàn lại và ODA có hoàn lại (ODA cho vay).
Thứ nhất, ODA không hoàn lại là các khoản cho không, nước nhận viện trợ không có nghĩa vụ phải hoàn
lại. Mục đích của nguồn vốn này sẽ được sử dụng để thực hiện các dự án cho nước vay theo thoả thuận của
hai nước với điều kiện đó là các nhà thầu dự án sẽ do bên cho vay đảm nhận. Tuy nhiên, có thể xem viện trợ
không hoàn lại như một nguồn thu ngân sách của nhà nước được cấp phát lại theo nhu cầu phát triển kinh tế
xã hội của đất nước.
Thứ hai, ODA có hoàn lại (hay ODA vốn vay) là các khoản vay ưu đãi (tín dụng ưu đãi). Tín dụng ưu đãi
chiếm một tỉ trọng lớn trong tổng số vốn ODA trên thế giới. Nó không được sử dụng cho mục tiêu xã hội, môi
trường. Mà thường được sử dụng cho các dự án về cơ sở hạ tầng thuộc các lĩnh vực giao thông vận tải, nông
nghiệp, thuỷ lợi, năng lượng,...làm nền tảng vững chắc cho ổn định và tăng trưởng kinh tế. Với ODA cho vay
ưu đãi, nước được nhận sẽ không phải hoàn lại ít nhất 25%. Còn với ODA cho vay hỗn hợp gồm 1 phần cho
vay ưu đãi không hoàn lại và 1 phần vay tín dụng thương mại theo các điều kiện của tổ chức hợp tác kinh tế và phát triển (OECD).
3. Đặc điểm của nguồn vốn ODA
Thứ nhất, ODA mang tính ưu đãi:
Tính ưu đãi được thể hiện ở chỗ nó chỉ dành cho các nước đang và kém phát triển, vì mục tiêu phát triển.
Có 2 điều kiện cơ bản nhất để các nước đang và kém phát triển có thể nhận được ODA là:
Một là, GDP bình quân đầu người thấp. Nước có GDP bình quân đầu người càng thấp thì thường được tỷ
lệ viện trợ không hoàn lại của ODA càng lớn và khả năng vay với lãi suất thấp và thời hạn ưu đãi càng lớn.
Khi các nước này đạt trình độ phát triển nhất định qua ngưỡng đói nghèo thì sự ưu đãi này sẽ giảm đi.
Hai là, Mục tiêu sử dụng vốn ODA của nước nhận phải phù hợp với chính sách, phương hướng ưu tiên
xem xét trong mối quan hệ giữa bên cấp và bên nhận.
Tính ưu đãi còn được thể hiện ở lãi suất rất thấp, chỉ dao động từ một vài phần trăm (nếu là ngân hàng thế
giới thì khoản vay là 0% một năm) và thời gian vay dài gần 40 năm với thời gian ân hạn tương đối dài. Vì thế
mà ODA cho vay thường được sử dụng cho các dự án hoàn vốn chậm. Ví dụ, lãi suất vay ODA theo từng giai đoạn ở Việt Nam.
Giai đoạn trước 2010: lãi suất vay ODA= 0,7%-0,8%, thời gian vay bình quân khoảng 30-40 năm.
Giai đoạn 2011-2015: lãi suất vay ODA= 2-3%, thời gian vay bình quân khoảng 10-25 năm. Từ
tháng 7/2017: lãi suất 2-3,5%.
Thứ hai, ODA mang tính ràng buộc:
Các nước nhận ODA sẽ phải chịu những điều khoản nhất định khi sử dụng ODA để chi tiêu và thường sẽ
gắn với lợi ích của nước cho ODA. Các nước viện trợ vừa muốn đạt ảnh hưởng về chính trị, vừa muốn đem
lại lợi nhuận cho chính mình,…Bởi vậy mà những khoản ODA bao giờ cũng có những điều kiện nhất định về
kinh tế, chính trị hay khu vực địa lý. lOMoAR cPSD| 58933639
Ngoài ra, vốn ODA gắn liền với chính trị và là một trong những phương tiện thực hiện ý đồ chính trị : Viện
trợ của các nước phát triển không chỉ đơn thuần là việc trợ giúp hữu nghị, mà còn là một công cụ lợi hại để
thiết lập và duy trì lợi ích kinh tế và vị thế chính trị cho nước tài trợ. Những nước cấp viện trợ đòi hỏi các
nước tiếp nhận phải thay đổi chính sách phát triển cho phù hợp với lợi ích của bên tài trợ.
Thứ ba, ODA mang tính gây nợ:
Một số nước không sử dụng hiệu quả ODA có thể tạo nên sự tăng trưởng nhất thời nhưng sau một thời gian
lại lâm vào vòng nợ nần do không có khả năng trả nợ. Ngoài ra tác động của yếu tố tỷ giá hối đoái có thể làm
cho giá trị vốn ODA phải hoàn lại tăng lên. Bởi giá trị của các khoản ODA chủ yếu lấy ngoại tệ mạnh như
Đôla Mỹ, Yên Nhật, Euro,… là đơn vị tính toán. Khi các đồng tiền này tăng giá, hoặc đồng tiền của nước tiếp
nhận ODA bị mất giá trong khoảng thời gian sử dụng vốn thì khoản vốn ODA phải hoàn trả sẽ bị tăng lên.
Vốn ODA dễ tiếp nhận mà trách nhiệm của nước vay ODA không cao khiến các dự án trong nước đó có nguy
cơ quản lý kém hiệu quả, nảy sinh tham nhũng, hối lộ giữa nhà thầu và bên đại diện dự án; công trình xây
dựng trì trệ, bị đội vốn, rút ruột, không sinh lãi và không mang lại hiệu quả. Những hành vi tiêu cực này sẽ
được hạch toán vào chi phí thực hiện, khiến chi phí công trình bị nhân lên cao. Và cuối cùng gánh nặng nợ sẽ
chi trả bằng tiền thuế của chính người dân đóng góp.
4. Vai trò của nguồn vốn ODA đối với sự phát triển kinh tế xã hội đối với các nước nhận ODA.
Một là, ODA giúp bổ sung nguồn vốn với ưu đãi cao trong nước đặc biệt quan trọng cho đầu tư phát triển.
Khối lượng vốn lớn nên có tác dụng nhanh và mạnh đối với việc giải quyết dứt điểm nhu cầu phát triển kinh
tế xã hội đối với các nước được nhận đầu tư. Vốn ODA với đặc tính ưu việt là thời hạn cho vay dài thường là
10-30 năm, lãi suất thấp khoảng 0,25-2%/năm. Chỉ có nguồn vốn lớn với điều kiện cho vay ưu đãi như vậy
Chính phủ các nước đang phát triển mới có thể tập trung đầu tư cho các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế
như đường sá, điện, nước, thuỷ lợi và các hạ tầng xã hội như giáo dục, y tế. Những cơ sở hạ tầng kinh tế được
xây dựng mới hoặc cải tạo nhờ ODA là điều kiện quan trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của các nước nghèo
hoặc đang phát triển. Ở những quốc gia có cơ chế quản lý kinh tế tốt, ODA đóng vai trò như nam châm hút
đầu tư tư nhân theo tỉ lệ xấp xỉ 2 USD trên 1 USD viện trợ.
Hai là, ODA cũng giúp các nước nhận tiếp thu khoa học công nghệ hiện đại và phát triển nguồn nhân lực.
Các quốc gia đang phát triển được nâng cao trình độ khoa học – công nghệ và trình độ nhân lực của mình
bằng những hoạt động của các nhà tài trợ, được tăng cơ hội và đa dạng hóa các phương thức đầu tư, nâng cao
chất lượng nguồn lao động và thu nhập của đông đảo người dân, và có nhiều cơ hội được “va chạm”, đào tạo,
bồi dưỡng kiến thức, kinh nghiệm, những kỹ năng qua đó giúp nâng cao trình độ của bản thân nói riêng và
chất lượng nguồn nhân lực nói chung.
Ba là, ODA thúc đẩy tăng trưởng đồng thời góp phần cải thiện đời sống và xóa đói giảm nghèo cho các
nước được nhận nguồn vốn. Xoá đói giảm nghèo là một trong những tôn chỉ đầu tiên được các nhà tài trợ quốc
tế đưa ra khi hình thành phương thức hỗ trợ phát triển chính thức. Mục tiêu này biểu hiện tính nhân đạo của
ODA. Trong bối cảnh sử dụng có hiệu quả, tăng ODA một lượng bằng 1% GDP sẽ làm giảm 1% nghèo khổ,
và giảm 0,9% tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh.
Bốn là, ODA góp phần điều chỉnh cơ cấu kinh tế và tăng cường năng lực thể chế. Những dự án ODA mà
các nhà tài trợ dành cho Việt Nam thường ưu tiên cho phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế kỹ thuật, phát triển
nguồn nhân lực, tạo điều kiện cho việc phát triển cân đối giữa các ngành, các vùng khác nhau trên cả nước.
Ngoài ra còn có một số dự án giúp Việt Nam cải cách hành chính, hiệu quả hoạt động của các cơ quan quản
lý nhà nước cũng được nâng cao. Tất cả những điều đó đã góp phần đáng kể vào việc điều chỉnh cơ cấu kinh lOMoAR cPSD| 58933639
tế Việt Nam. ODA cũng giúp các nước đang phát triển, ở đây là Việt Nam tăng cường năng lực thể chế thông
qua các chương trình, dự án hỗ trợ công cuộc cải cách pháp luật, cải cách hành chính và xây dựng chính sách
quản lý kinh tế phù hợp với thông lệ quốc tế.
Năm là, ODA cũng tăng khả năng thu hút vốn đầu tư nước ngoài trực tiếp FDI và tạo điều kiện để mở rộng
đầu tư phát triển trong nước ở các nước đang và chậm phát triển. Các nhà đầu tư nước ngoài khi quyết định
rót vốn đầu tư vào một nước thì điều đầu tiên họ quan tâm đến đó chính là khả năng sinh lợi của vốn đầu tư
tại quốc gia đó. Vì thế, mà đầu tư của Chính phủ vào việc nâng cấp, cải thiện và xây mới các cơ sở hạ tầng,
hệ thống tài chính, ngân hàng là điều vô cùng cần thiết giúp cho môi trường đầu tư trở nên hấp dẫn hơn.
II. Phân tích sự thay đổi của nguồn vốn này tại Việt Nam giai đoạn 2011-2020. 1. Quy mô vốn
Bảng 1: Quy mô ký kết và giải ngân vốn ODA giai đoạn 1993-2020 (Đơn vị: Triệu USD)
Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Bảng 1 cho thấy, trong giai đoạn 2011 - 2020 các nhà tài trợ đã ký kết cung ứng vốn
ODA cho Việt Nam với tổng số vốn là 39,9 tỷ USD; số vốn đã giải ngân là 35,6 tỷ USD. Trong đó số vốn
được kí kết và giải ngân ở giai đoạn 2011-2015 gấp từ 2 đến 3 lần so với số vốn ở giai đoạn 5 năm kế tiếp.
Tuy nhiên tỉ lệ số vốn giải ngân so với kí kết (D/S) của giai đoạn 2015-2020 lại cao hơn khoảng 23% so với giai đoạn trước.
Việt Nam là nước tiếp nhận nguồn vốn ODA nhiều nhất trong các nước ASEAN, với
37% (3,9 tỷ USD) tổng vốn ODA vào khu vực ASEAN năm 2015 và với tỷ trọng ODA/GDP ở mức cao,
khoảng 2% GDP từ 2011 đến 2015 (so với chưa đến 1% GDP ở các nước ASEAN khác).
Biểu đồ 1: Quy mô ký kết và giải ngân vốn ODA giai đoạn 1993-2020 (Đơn vị: Triệu lOMoAR cPSD| 58933639 USD)
Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Về diễn biến quy mô vốn ODA trong giai đoạn 2011 - 2020, biểu đồ 1 cho thấy, từ năm 2011 đến 2014 số
vốn ODA ký kết và giải ngân có xu hướng tăng dần qua các năm. Thời kỳ 2011-2014, số vốn ký kết và giải
ngân đạt đỉnh trong khoảng hơn 30 năm trở lại đây, riêng năm 2014 số vốn giải ngân lên đến 5 tỷ USD, cao
nhất trong suốt các thời kỳ.
Từ năm 2015 đến 2020 vốn ODA có xu hướng giảm dần, năm 2019 giải ngân 1,654 tỷ USD và đến 2020
giải ngân 0,424 tỷ USD, mức rất thấp so với những năm trước đó.
2. Lãi suất và thời hạn cho vay Giai đoạn Lãi suất vay
Thời hạn vay bình quân 2011-2015 2-3% 10-25 năm 2-3.5% Từ tháng 7/2017 < 10 năm
Giai đoạn 2011- 2015, lãi suất vay ODA của Việt Nam khoảng từ 2% đến 3 %. Thời gian vay bình quân
trong giai đoạn này từ 10 cho đến 25 năm. Sau đó từ tháng 7/2017 đến nay, lãi suất vay ODA cho nước ta
được điều chỉnh tăng lên từ 2% đến 3,5%. Thời hạn vay lại bị rút ngắn xuống chỉ còn dưới 10 năm.
3. Hình thức vốn ODA
Bảng 2: Tổng hợp kết quả ký kết ODA của Việt Nam giai đoạn 2010 - 2019 (Đơn vị: lOMoAR cPSD| 58933639 Triệu USD)
Nguồn: Tạp chí Kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương số 586 năm 2021
Nhìn vào bảng số liệu có thể thấy các khoản viện trợ tăng trong giai đoạn 2011 - 2012. Tuy nhiên điều đáng
chú ý là, các khoản ODA không hoàn lại này - một nguồn tài chính quan trọng cho các hoạt động trợ giúp kỹ
thuật, tăng cường năng lực và tư vấn chính sách, mặc dù chỉ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ là 1% tổng nguồn ODA
- đã giảm đáng kể từ khoảng 400 triệu USD năm 2012 xuống còn chưa đến USD 60 triệu năm 2015 và sau
năm 2017 thì không có khoản viện trợ nào.
Trong khi đó các khoản ODA cho vay như vay ưu đãi và vốn vay ODA dù giảm về lượng nhưng ngày càng
chiếm tỉ trọng lớn so với khoản ODA viện trợ. Nếu trong giai đoạn 2011-2012, tỉ trọng của ODA viện trợ
trung bình vào khoảng 5% thì đến giai đoạn 2018-2019 thì tỉ trọng này giảm xuống còn 0%. Tương ứng với
đó, tỉ trọng ODA cho vay là khoảng 95% trong giai đoạn 2011-2012 và tăng lên 100% vào hai năm 2018- 2019.
Không được thống kê trong bảng 2, tuy nhiên năm 2020 chứng kiến việc tăng trở lại của các khoản viện trợ
cho Việt Nam trong bối cảnh nền kinh tế thế giới chịu ảnh hưởng nghiêm trọng của dịch bệnh Covid-19 và
tình hình lũ lụt tại miền Trung. Việt Nam được tiếp nhận các khoản viện trợ nhằm ứng phó với đại dịch Covid-
19 và ảnh hưởng của lũ lụt từ một số nguồn như Hoa Kỳ, Ngân hàng thế giới, Ngân hàng phát triển Châu Á.
Tuy vậy, việc tăng trở lại của năm 2020 không thể coi là một xu hướng do những điều kiện đặc biệt trong đại dịch và thiên tai.
Cơ cấu phân theo ngành kinh tế Biểu đồ 2: Cơ cấu vốn ODA thời kỳ 2011-2015 và 2016-2020 lOMoAR cPSD| 58933639
Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Tổng quan trong cả giai đoạn 2011-2020, các lĩnh vực thu hút được nhiều vốn ODA nhất là giao thông vận
tải khoảng 33 %; môi trường và phát triển đô thị khoảng 23 %; năng lượng và công nghiệp khoảng 14,5%.
Theo sau đó là các ngành như nông nghiệp và phát triển nông thôn, xóa đói giảm nghèo khoảng 10,2 %; các
ngành y tế, xã hội, giáo dục đào tạo khoảng 9% và còn lại 10% được dành cho đầu tư vào các ngành khác.
Về xu hướng biến động trong thời kì, biểu đồ cho thấy, lượng vốn ODA trong giai đoạn 2016 - 2020 dùng
trong một số lĩnh vực như y tế, giáo dục, môi trường, nông nghiệp có sự sụt giảm so với giai đoạn 2011 - 2015
khoảng 1%, riêng lĩnh vực môi trường và phát triển đô thị sụt giảm đến gần 7%. Ngược lại, một số ngành
được đầu tư bằng vốn ODA nhiều hơn, như năng lượng và công nghiệp (tăng khoảng 6%), giao thông vận tải
(tăng khoảng 4%) và một số ngành khác (tăng khoảng 2%).
Dẫu có những sự biến động giữa hai thời kì 2011-2015 và 2016-2020 nhưng nhìn chung vốn ODA được
đầu tư chủ yếu vào các ngành giao thông vận tải, môi trường và phát triển đô thị, năng lượng và công nghiệp,
nông nghiệp và phát triển nông thôn, xóa đói giảm nghèo. Kết quả này được đánh giá là tương đối sát các mục
tiêu, nguyên tắc và các lĩnh vực ưu tiên đề ra tại Quyết định số 251/QĐ-TTg ngày 17/02/2016 của Thủ tướng
Chính phủ về phê duyệt Đề án “Định hướng thu hút, quản lý và sử dụng nguồn vốn ODA và vốn vay ưu đãi
của các nhà tài trợ nước ngoài thời kỳ 2016 - 2020” và
Quyết định số 1489/QĐ-TTg ngày 06/11/2018 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt “Định hướng thu hút,
quản lý và sử dụng nguồn vốn ODA và vốn vay ưu đãi của các nhà tài trợ nước ngoài giai đoạn 2018 - 2020, tầm nhìn 2021-2025”.
4. Nguyên nhân của sự thay đổi
Thứ nhất, do Việt Nam đã trở thành nước thu nhập trung bình. Các nhà tài trợ vì vậy cần có sự điều chỉnh
chính sách cung cấp vốn đối với nước ta, đặc biệt là vốn vay ODA và viện trợ không hoàn lại.
Bắt đầu từ 01/7/2017, Việt Nam đã chính thức tốt nghiệp ODA theo tiêu chuẩn của Ngân hàng Thế giới
(WB). Điều đó có nghĩa là Việt Nam không còn nhận được các khoản vay vốn ưu đãi từ Hiệp hội Phát triển
quốc tế (IDA) của WB mà phải chịu các khoản vay kém ưu đãi, dần tiến tới vay theo điều kiện thị trường.
Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) cũng xếp Việt Nam vào nhóm B, nhóm đối tượng vay hỗn hợp chứ không
thuộc diện chỉ nhận được các khoản vay ưu đãi.
Thứ hai, chất lượng và hiệu quả vốn ODA của Việt Nam chưa cao khiến cho khả năng thu hút vốn ODA giảm.
Tỷ lệ giải ngân thấp dưới mức cam kết với các nhà tài trợ và thấp hơn rất nhiều so với mức giải ngân trung
bình của khu vực. Các chương trình, dự án đầu tư ODA thường bị kéo dài tiến độ xây dựng, tỷ lệ giải ngân
thấp, nên hiệu quả đầu tư không đảm bảo và uy tín tiếp nhận vốn ODA giảm sút. Tổng số vốn ODA chưa giải
ngân của các chương trình, dự án đã ký kết chuyển tiếp từ thời kỳ 2011– 2015 sang thời kỳ 2016 – 2020 còn
khá lớn, gần 22 tỷ USD.
Tổ chức quản lý dự án thiếu tính chuyên nghiệp. Năng lực và trình độ chuyên môn của đội ngũ cán bộ tham
gia quản lý dự án còn hạn chế, nhất là ở các địa phương. Nhân sự các ban quản lý dự án thường không ổn định
và kiêm nhiệm. Công tác đào tạo quản lý dự án chưa thực hiện thường xuyên, có hệ thống và bài bản. Ngoài lOMoAR cPSD| 58933639
ra, hầu hết các dự án đều kéo dài thời gian thực hiện từ 2 đến 3 năm hoặc một vài dự án không có khả năng trả nợ.
Bên cạnh đó, công tác kiểm tra, theo dõi, đánh giá, báo cáo sử dụng vốn ODA đôi lúc chưa được thực hiện
nghiêm túc, còn để xảy ra một số trường hợp lãng phí, tham nhũng, tiêu cực như vụ PMU 18, sập cầu Cần Thơ…
Thứ ba, nợ công của Việt Nam, trong đó có vay nợ nước ngoài đã tăng nhanh trước đó, gây áp lực về huy
động vốn vay và trả nợ vay nước ngoài.
Nguồn: Tổng hợp từ các Bản tin nợ công của Bộ Tài chính (2019)
Từ bảng trên có thể thấy, nợ công và nợ nước ngoài nhìn chung có xu hướng tăng trong giai đoạn 20112019.
Vấn đề này đến từ việc trong giai đoạn 2011-2015, Việt Nam chưa có kế hoạch đầu tư công trung hạn, kế
hoạch tài chính trung hạn, chủ yếu điều hành theo kế hoạch hằng năm và thường xuyên điều chỉnh nên không
thể quản lý nợ theo trung hạn. Ngoài ra còn do một số nguyên nhân như khác biệt trong vấn đề pháp lí gây bất
lợi trong đàm phán vay nợ, sự thiếu hụt đội ngũ cán bộ có chuyên môn,... Câu 5: Tác động tiêu cực, tích cực
của nguồn vốn ODA, liên hệ VN.
Tác động tích cực của nguồn vốn ODA đến Việt Nam:
Với những ưu điểm của mình, ODA đã có rất nhiều tác động tích cực đến kinh tế, xã hội… ở Việt Nam như :
- Giúp tiếp thu khoa học công nghệ hiện đại và phát triển nguồn nhân lực
Thông qua các dự án ODA, nước ta có thể nâng cao trình độ KHCN và trình độ nhân lực của mình
bằng những hoạt động của các nhà tài trợ.
Tăng cường cơ hội và đa dạng hoá phương thức đầu tư, cải thiện chất lượng nguồn nhân lực và thu
nhập của đông đảo người dân.
Thông qua quá trình tham gia đầu tư gián tiếp này, các nhà đầu tư trong nước và người dân sẽ được
dịp “cọ xát”, rèn luyện và bồi dưỡng kiến thức, kinh nghiệm, kỹ năng, giúp nâng cao trình độ bản thân nói
riêng, chất lượng nguồn nhân lực nói chung.

- Thúc đẩy tăng trưởng , cải thiện đời sống, góp phần xóa đói giảm nghèo
Bằng những khoản cho vay hay đầu tư không hoàn lại của mình, các nước đầu tư đã góp phần vào
việc bổ sung ngân sách nhà nước của nước ta. Tạo điều kiện cho việc đầu tư phát triển kinh tế, xã hội….
Nguồn vốn này đã đóng vai trò quan trọng trong chiến lược tăng trưởng, giảm nghèo, chuyển dịch cơ
cấu kinh tế, cải cách thể chế, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của nước ta. Nguồn vốn ODA đã đóng góp
cho sự thành công của một số chương trình quốc gia có ý nghĩa sâu rộng như Chương trình dân số và phát
triển, tiêm chủng mở rộng, dinh dưỡng trẻ em...

Ví dụ: - ODA đầu tư các dự án về giáo dục như: dự án “Tăng cường khả năng sẵn sàng đi học cho trẻ mầm
non”- Dự án ODA đầu tiên dành cho sự phát triển mầm non…vv..
- Việc đầu tư vào Công nghiệp hay dịch vụ sẽ sử dụng nhiều lao động nước ta, từ đó giúp nguòn lao động dư
thừa của nước ta có việc làm, mang lại thu nhập ổn định, từ đó đời sống nhân dân được cải thiện, tổng thu nhập quốc dân tăng lOMoAR cPSD| 58933639
=> thúc đẩy tăng trưởng
- Góp phần điều chỉnh cơ cấu kinh tế
Các dự án ODA mà các nhà tài trợ đầu tư vào Việt Nam chủ yếu vào các lĩnh vực cơ sở hạ tầng, kinh
tế kỹ thuật, phát triển nhân lực.. tạo điều kiên cho việc cân đối giữa các ngành trong cả nước .
Ví dụ: Rất nhiều dự án cơ sở hạ tầng, giao thông lớn trên cả nước đều xây dựng nhờ vào nguồn ODA như:
Cầu Bãi Cháy, Hầm Kim Liên, Cầu Thanh Trì
- Mở rộng đầu tư phát triển và thu hút đầu tư trực tiếp FDI
Để thu hút đầu tư của các nước phát triển, chắc chắn nước ta phải xem xét về các mặt như sơ sở hạ
tầng của mình . Vấn đề là các nhà đầu tư nước ngoài khi quyết định đầu tư vào một nước, thì việc đầu tiên
họ quan tâm sẽ là lợi nhuận. Vì vậy một nước có cơ sở hạ tầng, hệ thống giao thông hay phương tiện liên
lạc…vv… yếu kém sẽ khó có thể thu hút đc ODA

=> Nhà nước sẽ phải mở rộng đầu tư phát triển để cải thiện những vấn đề còn yếu kém.
Khi vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài gia tăng sẽ làm phát sinh hệ quả tích cực gia tăng dây chuyền
đến dòng vốn đầu tư trực tiếp trong nước. Nói cách khác, các nhà đầu tư trong và ngoài nước sẽ “nhìn gương”
các nhà đầu tư gián tiếp nước ngoài và tăng động lực bỏ vốn đầu tư của mình, kết quả tổng đầu tư trực tiếp
xã hội sẽ tăng lên.

- Thiết lập và cải thiện các mối quan hệ quốc tế ….vv….
Hiện nay nước ta nhận được ngồn vốn ODA từ nhiều quố gia khác nhau trên thế giới, việc đầu tư của
các nước bạn này đã giúp mối quan hệ ngoại giao của nước ta và nước đầu tư trở nên thân mật, gắn bó hơn…
từ đó, mở rộng mối quan hệ quốc tế.

Tuy nhiên, có thể thấy tác động tích cực rõ rệt nhất chính là: ODA là nguồn vốn bổ sung quan trọng cho đầu tư và phát triển.
Trong sự nghiệp công nghiện hóa - hiện đại hóa đất nước của các nước đang phát triển nói chung và
Việt Nam nói riêng, phải đòi hỏi một lượng vốn đầu tư vô cùng lớn, mà nếu chỉ huy động vốn trong nước thì
không thể đủ, vì thế việc nhận sự hỗ trợ từ ODA là vô cùng cần thiết.

Ví dụ: Sau 20 năm. Cộng đồng các nhà tài trợ quốc tế đã cam kết hỗ trợ Việt Nam khoản vốn ODA lên tới gần
80 tỉ USD. Khoản tiền này được ví như “chất xúc tác” góp phần làm thay đổi bộ mặt đất nước .
Hoạt động sản xuất của công ty Mabuchi motor Việt Nam ( 100% vốn ODA Nhật Bản)
Mô hình dự án xây dựng đường cao tốc Bắc - Nam (đoạn Bến Lức - Long Thành (do Nhật Bản đầu tư vốn ODA)
Cầu Nhật Tân được xây dựng từ vốn ODA của Nhật Bản
Tác động tiêu cực của ODA
Các tác động tiêu cực của ODA đến Việt Nam: Tăng khoảng cách giàu nghèo, tạo ra sự phụ thuộc của các
nước đi vay vào các nước cho vay và đặc biệt nhất là ODA đã làm trầm trọng cán cân thanh toán của nước ta . lOMoAR cPSD| 58933639
- ODA đã làm gia tăng nợ quốc gia: Việc ODA không ngừng tăng cao giúp cải thiện tình hình kinh tế , xã hội
nhưng cũng góp phần làm tăng cao nguồn nợ quốc gia:
Bản tin về nợ công của Bộ Tài chính vừa công bố cho thấy nợ công của Việt Nam năm 2021 là 43,1% GDP.
Với quy mô GDP năm 2021 đạt hơn 8,47 triệu tỉ đồng (tương đương hơn 366 tỉ USD), thì nợ công của cả
nước khoảng 3,65 triệu tỉ đồng (gần 156 tỉ USD).

- ODA làm gia tăng lạm phát :
+ Nợ =>vay nợ mới => tăng nợ => tăng vay ….vòng xoáy này sẽ dẫn con nợ đến sự vỡ nợ hoặc vòng xoáy
lạm phát: Nợ => tăng nghĩa vụ nợ => thâm hụt ngân sách => tăng lạm phát . Lúc này nợ sẽ ngốn hết các
khoản chi ngân sách cho phát triển và ổn định xã hội , làm căng thẳng them trạng thái khát vốn, hỗn loạn xã hội

+ Hơn nữa việc “thắt lưng buộc bụng” để trả nợ dẫn đến việc hạn chế nhập, tăng xuất, trong đó có cả hàng
tiêu dung mà trong nước còn thiếu hụt làm mất cân đối hàng tiền, tăng giá, tăng lạm phát
Câu 30: Mối quan hệ giữa ODA và FDI. Liên hệ việt nam lOMoAR cPSD| 58933639
1.3. Nguồn vốn ODA đóng vai trò định hướng cho nguồn vốn FDI đầu tư vào ngành, những
vùng cần thiết lOMoAR cPSD| 58933639 lOMoAR cPSD| 58933639
III. So sánh với quốc gia đang phát triển khác.
Biểu đồ 3: So sánh lượng vốn ODA nhận được giữa Việt Nam và Indonesia
So sánh giữa hai nước Việt Nam và Indonesia:
Lượng vốn ODA mà Việt Nam nhận được hơn Indonesia rất nhiều, khoảng cách lớn nhất lên đến 4,6 tỷ
USD. Lượng vốn ODA nhận được của Việt Nam tuy giảm nhanh và giảm nhiều, tuy nhiên vẫn còn dương, và
cao hơn của Indonesia đáng kể. Nhưng đến năm 2020, sự chênh lệch này bị rút ngắn chỉ còn 0,03 tỷ USD. Nhận xét:
Ta có thể thấy được lượng vốn ODA thu hút vào Indonesia chiếm tỷ trọng rất nhỏ hay nói cách khác là
Indonesia không có thói quen vay viện trợ phát triển chính thức (ODA) để chi tiêu ngân sách. Năm 2011 nước
này chỉ nhận ODA có 0,38 tỷ USD, trong khi Việt Nam nhận 2,95 tỷ USD (gấp gần 8 lần).
Trong những năm tiếp theo ODA của Việt Nam có xu hướng tăng cao còn của Indonesia có xu hướng giảm
mạnh vì ta có thể nhận thấy rằng ODA có hai tác dụng tích cực:
Một là, lấp được khoảng thiếu hụt vốn để đầu tư. Do nhu cầu đầu tư xây dựng hạ tầng rất lớn nhưng tiết
kiệm trong nước còn nhỏ. Bởi vì thu nhập đầu người còn thấp nên các nước này phải đối mặt với khoảng
chênh lệch giữa đầu tư và tiết kiệm.
Hai là, lấp được khoảng thiếu hụt ngoại tệ vì khả năng xuất khẩu còn kém nhưng nhu cầu nhập khẩu máy
móc, thiết bị, vật tư để đầu tư là lớn. Mà ODA là nguồn cung cấp ngoại tệ, do đó có tác dụng yểm trợ mặt
nhập khẩu để xúc tiến đầu tư, đẩy mạnh phát triển kinh tế.
Sau ba thế kỷ rưỡi dưới ách đô hộ của thực dân Hà Lan, Indonesia đã giành được độc lập vào ngày
17/8/1945. Indonesia bắt đầu công cuộc xây dựng kinh tế từ nghèo đói và lạc hậu. Ngay từ giai đoạn 19651998,
Indonesia đã nhận được các khoản đầu tư lớn của các nhà đầu tư nước ngoài và khoản vay lớn từ cộng đồng
quốc tế. Tuy nhiên, việc quản lý và sử dụng nguồn vốn ODA tại Indonesia bị đánh giá là không hiệu quả. Điển
hình là việc sử dụng và quản lý ODA trong lĩnh vực hạ tầng. Mặc dù chiếm phần lớn tổng vốn ODA vào
Indonesia, nhưng đến nay, kết cấu hạ tầng ở Indonesia vẫn còn yếu kém. Một nguyên nhân không thể không
nói tới là nạn tham nhũng hoành hành ở Indonesia.
Để thay đổi tình hình, khắc phục được hạn chế, từ đầu những năm 2000, Indonesia cũng điều chỉnh về quy
trình thu hút, sử dụng và quản lý ODA như sau. Nước này chỉ vay ODA cho các dự án thật sự cần thiết, có
mục tiêu đã được xác định là ưu tiên và ngân sách trong nước không huy động được. Mặt khác, cần tăng cường
năng lực các cơ quan của Chính phủ trong việc quản lý các nguồn ODA, từ khâu thu hút đến khâu sử dụng,
tuyệt đối tránh tham nhũng, lãng phí, bởi ODA cũng là một nguồn của ngân sách nhà nước. Bên cạnh đó,
Chính phủ cũng nhấn mạnh nguyên tắc, vay ODA phải đảm bảo độ an toàn cao. Đối với các dự án ODA có sử
dụng vốn lớn, yêu cầu phải có chuyên gia tư vấn là điều kiện tiên quyết nhằm đảm bảo tính hiệu quả của dự án. Việt Nam:
Tỷ lệ vốn ODA trên tổng thu nhập quốc dân luôn dương và khá cao.
Giai đoạn 2011-2012, tỷ lệ vốn ODA trên tổng thu nhập quốc dân giữ ở mức cao và tăng nhẹ. Nhận xét: lOMoAR cPSD| 58933639
Chính phủ Việt Nam nhiều lúc cho thấy thiếu thận trọng trong việc chọn lựa các dự án đầu tư, không xét
đến khả năng trả nợ và hiệu quả tăng sức cạnh tranh của nền kinh tế. Chẳng hạn kế hoạch xây dựng đường sắt
cao tốc (với dự toán kinh phí lên tới 56 tỷ đô la Mỹ) được đưa ra năm 2010 đã gây bức xúc trong giới trí thức
trong và ngoài nước Tỷ trọng của ODA trên Gross net income còn khá cao, tại Việt Nam dao động từ 2.5%
vào năm 2011 và có xu hướng giảm dần xuống còn 0.44 % vào năm 2019 do đó chúng ta có thể thấy được
chiến lược của nhà nước Việt Nam trong việc giảm phụ thuộc vào nguồn vốn ODA từ các quốc gia khác.
Do sự lãng phí nguồn lực và thiếu thận trọng trong việc lựa chọn dự án đầu tư nên Việt Nam phải nhận
nhiều ODA (trên đầu người). Trong khi đó ở Indonesia con số đó thường là âm hoặc dao động gần 0 vì hầu
như Indonesia sẽ sử dụng ODA trong thời gian ngắn hạn hoặc không sử dụng vốn ODA từ nước ngoài. Và
thay vào đó họ có thể huy động nguồn vốn từ các công ty trong nước hay là việc thu thuế. Việc một quốc gia
phụ thuộc lâu dài vào ODA được xem như là sự thất bại của chiến lược phát triển, do vậy, Việt Nam cần có
chính sách đúng hướng để là giảm đi sự phụ thuộc vào vốn ODA. Kết luận:
Từ các biểu đồ và phân tích trên, có thể thấy rằng Việt Nam đang chủ động cắt giảm nguồn vốn ODA theo
thời gian. Việc phải giảm nguồn viện trợ từ các đối tác phát triển sẽ gây ra không ít khó khăn, tuy nhiên nước
ta cũng đã tính toán và chuẩn bị tâm thế để đón nhận những tác động có thể xảy đến. Mặc dù vậy, ngoài những
tác động tiêu cực sẽ là cơ hội để Việt Nam tìm thấy giải pháp phát huy tốt hơn trong bối cảnh này. Xét về lâu
về dài, khi nguồn vốn ODA bị cắt giảm, nước ta sẽ buộc phải độc lập trong hoạt động huy động vốn và hoạt
động kinh doanh. Thay vì lệ thuộc vào viện trợ nước ngoài, Việt Nam sẽ phải tự lực vươn lên, phát huy đến
mức tối đa năng lực nội tại của nền kinh tế. Không chỉ vậy, thất thoát hay lãng phí cũng sẽ được giảm bớt và
đảm bảo tốt hơn vì khi những nguồn vốn giá rẻ trở nên khan hiếm, người sử dụng vốn sẽ phải khắt khe hơn
với mỗi sự lựa chọn để đạt được hiệu quả tốt nhất.
IV. Đề xuất một số giải pháp
1. Giải pháp để gia tăng, thu hút và sử dụng hiệu quả nguồn vốn ODA
a. Có mục tiêu sử dụng vốn ODA phù hợp chính sách, phương hướng ưu tiên của nhà tài trợ. Thông
thường, các nước cung cấp ODA đều có những chính sách ưu tiên riêng của mình, tập trung vào một số lĩnh
vực mà họ quan tâm hay lĩnh vực mà họ có khả năng kỹ thuật và tư vấn ( công nghệ , kinh nghiệm quản lý;…).
Chẳng hạn, Việt Nam sử dụng vốn ODA trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng; giáo dục và môi trường. Nếu quốc
gia viện trợ như Nhật Bản, Hoa Kỳ mà họ thấy mục tiêu của chúng ta phù hợp với họ thì họ sẽ cung cấp cho
Việt Nam nguồn vốn ODA này. b. Mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế với quốc gia viện trợ
Mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế với quốc gia viện trợ bởi ODA phụ thuộc rất nhiều vào mối quan hệ chính
trị giữa các quốc gia. Nếu quan hệ hợp tác tốt thì bên viện trợ sẽ ưu tiên các nước đang phát triển hơn và từ
đó sẽ gia tăng được vốn ODA. Ví dụ, Việt Nam vui mừng nhận thấy quan hệ hợp tác với Pháp đang phát
triển tốt đẹp. Năm 2023 Việt Nam sẽ kỷ niệm 10 năm xây dựng quan hệ đối tác chiến lược với Pháp và 50
năm thiết lập quan hệ ngoại giao Pháp -Việt, Cũng nhờ mối quan hệ đó thì Pháp cũng là nhà tài trợ Châu Âu
song phương ODA hàng đầu cho Việt Nam và nước ta đứng thứ 2 trong số các nước hưởng ODA của Pháp tại
Châu Á. Điều đó cho thấy rằng quan hệ hợp tác đóng vai trò rất to lớn trong thu hút vốn ODA này. c. Cần
nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn ODA
Để nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn ODA cần:
Thứ nhất, tập trung ưu tiên sử dụng ODA chi đầu tư phát triển, không vay cho chi thường xuyên. Tăng
cường trách nhiệm của cơ quan chủ quản, người ra quyết định đầu tư, chủ dự án, người sử dụng vốn, các cơ
quan có trách nhiệm rà soát các chương trình, dự án đã ký kết và có hiệu lực, đang triển khai thực hiện, cắt
giảm các khoản chi mang tính chất quản lý hành chính như mua sắm xe ô tô, thiết bị văn phòng; nâng cao lOMoAR cPSD| 58933639
năng lực, quản lý dự án, đảm bảo hiệu quả, tiết kiệm trên cơ sở thống nhất với nhà tài trợ. Không gia hạn
thời gian thực hiện đối với cấu phần chi thường xuyên của các chương trình, dự án ODA đang triển khai thực hiện.
Đối với các dự án vay mới, các dự án đang trong giai đoạn chuẩn bị đàm phán ký kết Hiệp định vay thì các
cơ quan phụ trách không sử dụng vốn vay cho chi thường xuyên, chỉ đề xuất sử dụng vốn vay theo các tiêu
chí: ưu tiên sử dụng vốn vay cho khoản chi bằng ngoại tệ (chi nhập khẩu/mua sắm hàng hóa, dịch vụ, tư vấn
nước ngoài); khoản chi cho cấu phần xây lắp trong tổng mức đầu tư; khoản chi có liên quan đến chuyển giao công nghệ
Không sử dụng vốn vay để mua sắm ô tô, thiết bị văn phòng, vật tư, thiết bị dự phòng cho quá trình vận
hành sau khi dự án hoàn thành, chi đào tạo, hội thảo.
Thứ hai, cải tiến cơ chế quản lý. Cần nâng cao trình độ năng lực của cơ quan và cán bộ thẩm định dự án
của các bộ/ ngành, địa phương đặc biệt là về chuyên môn nghiệp vụ, pháp luật và ngoại ngữ cũng như kinh
nghiệm quản lý .Công việc quản lý các dự án ODA đòi hỏi các cán bộ dự án phía tiếp nhận phải chủ động và
linh hoạt. Trong đó trình độ chuyên môn và quản lý của cán bộ dự án dù đã được cải thiện song vẫn chưa đáp
ứng được yêu cầu thực tiễn. Chính vì vậy , cần đào tạo các cán bộ về các kỹ năng xây dựng; đánh giá và quản
lý các dự án một cách thường xuyên; hỗ trợ tăng cường năng lực cán bộ cấp tỉnh để đảm bảo khả năng tham
gia tốt hơn vào quá trình quản lý các dự án cấp cơ sở
Thứ ba, cần tập trung và sử dụng vốn ODA cho các dự án phát triển kinh tế xã hội có khả năng tự hoàn vốn
nhanh; ưu tiên sử dụng ODA cho các chương trình dự án đầu tư công quan trọng khó có khả năng thu hút đầu
tư của khu vực tư nhân và nguồn vốn vay thương mại
Thứ tư, hợp tác công tư (PPP): Hướng đi mới để thu hút đầu tư và sử dụng nguồn vốn ODA một cách hiệu
quả. Do đó nên khuyến khích tư nhân cùng tham gia đầu tư vào dự án dịch vụ hoặc công trình công cộng của
Nhà nước có sử dụng vốn ODA làm hạt nhân thực hiện. Việc các thành phần kinh tế , các doanh nghiệp tư
nhân tham gia vào các dự án sử dụng nguồn vốn ODA sẽ phát huy được hơn nữa hiệu quả nguồn vốn này. Từ
việc sử dụng hiệu quả vốn ODA thì bên nước cho vay sẽ tài trợ cho chúng ta nhiều tiền hơn; chúng ta sẽ có
khả năng trả được các khoản nợ này và có khả năng được vay nợ tiếp. 2.
Đề xuất kiến nghị: Nguồn vốn sẽ thay thế / bổ sung cho sự sụt giảm của vốn ODA
Nguồn ngoại tệ bổ sung khi ODA ngày càng sụt giảm đó chính là nguồn Kiều hối. Kiều hối được hiểu là
khoản tài chính hoặc hiện vật do người di cư chuyển về cho gia đình, người thân, bạn bè ở quê hương. Kiều
hối đem lại nhiều lợi ích cho người dân, cũng như nền kinh tế của nước sở tại, đặc biệt là tại các quốc gia đang
phát triển (Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế, 2016).
Ngân hàng Thế giới (WB) cho biết, bất chấp những khó khăn về kinh tế vĩ mô trên phạm vi toàn cầu, lượng
kiều hối đổ về các quốc gia có thu nhập thấp và trung bình trong năm 2022 sẽ tăng 5% so với năm ngoái, lên
626 tỷ USD (năm 2021 tăng khoảng 9%, đạt mức 589 tỷ USD).
Kiều hối như là một “cứu cánh quan trọng” cho các quốc gia để bổ sung vào nguồn ngân sách hạn chế trong
nước, góp phần duy trì nền kinh tế và hệ thống bảo trợ xã hội. Để tăng cường thu hút nguồn kiều hối, Chính
phủ các nước đang phát triển cần: Thứ nhất, xây dựng hệ thống thông tin cho nhà đầu tư: chẳng hạn như
cẩm nang các cơ chế chính sách; cẩm nang các dự án kêu gọi đầu tư hàng năm;…. Để có được cẩm nang này
phải có sự phối hợp chặt chẽ với các cơ quan ngoại giao ở nước ngoài xây dựng hệ thống thông tin đầu tư cho
nhà đầu tư kiều bào cho họ thấy được thông tin mà họ quan tâm và đồng thời cho họ biết được dự án cần thu hút vốn.
Thứ hai, cần phải tiếp tục ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát, thay đổi môi trường đầu tư theo hướng
tích cực, đặc biệt là hạn chế thay đổi đột ngột các quy định trong hoạt động đầu tư, nới lỏng các quy định,
điều khoản đầu tư kinh doanh, đơn giản hóa các thủ tục chứng nhận đầu tư ở tất cả các cấp, nhất là khâu thực
thi ở các địa phương để tạo điều kiện thuận lợi cho kiều bào đầu tư về nước. Bên cạnh đó, cần xóa bỏ những lOMoAR cPSD| 58933639
rào cản “vô hình” đối với các lĩnh vực đầu tư mới như năng lượng, y tế, khoa học công nghệ, nông nghiệp công nghệ cao.
Thứ ba, các chính sách không nên mang tính hình thức hoặc có những can thiệp hành chính mà nên theo
hướng tạo lập môi trường đầu tư thuận lợi về cơ sở hạ tầng như giao thông, điện nước, viễn thông, cải cách
thủ tục hành chính… sẽ có tác động tích cực hơn trong việc thu hút kiều hối vào các hoạt động đầu tư có hiệu
quả. Bên cạnh đó, việc tạo lập một hạ tầng tài chính vững mạnh với các tổ chức tài chính hoạt động an toàn
hiệu quả, cung cấp đa dạng các dịch vụ tài chính cũng có ý nghĩa rất quan trọng trong việc thu hút và sử dụng
có hiệu quả các dòng kiều hối.
Thứ tư, các tổ chức tài chính tăng cường các hoạt động thỏa thuận ký kết về dịch vụ tài chính, đa dạng hình
thức chuyển tiền tại các thị trường tiềm năng lớn để “kéo” nguồn kiều hối tiếp tục về đầu tư trong nước. Kết
hợp việc mở rộng kênh dịch vụ đồng đều khắp cả nước tạo điều kiện để kiều bào, người lao động thuận lợi
chuyển kiều hối về nước.
Thứ năm, tích cực đổi mới nội dung, hình thức công tác thông tin, tuyên truyền đối với người dân ở nước
ngoài; nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ làm công tác thông tin đối ngoại, bảo đảm đường lối, chính sách của
Chính phủ, nhất là chính sách đối ngoại, chính sách thu hút đầu tư được kiều bào tiếp nhận nhanh nhất, kịp
thời và chính xác nhất. Từ đó để họ hiểu sâu và an tâm khi về nước đầu tư sản xuất, kinh doanh. Thứ sáu,
tạo môi trường bình đẳng và thuận lợi về các cơ chế chính sách đầu tư. Chúng ta không thể ưu tiên lĩnh vực
tốt như công nghệ xây dựng cho mỗi nhà đầu tư trong nước mà còn phải mở ra cho những kiều bào và nhà
đầu tư nước ngoài và đồng thời mở rộng thêm các lĩnh vực thu hút đầu tư ra không chỉ bó hẹp ở mỗi lĩnh vực
công nghiệp xây dựng nữa mà mở ra lĩnh vực giáo dục đào tạo; chăm sóc sức khỏe; ngân hàng tài chính,công
nghệ sinh học;…. cũng thu hút được đầu tư kiều bào. Ngoài các giải pháp trên, để tiếp tục thu hút kiều hối
giai đoạn này các ngân hàng thương mại trong nước cũng cần có chính sách hỗ trợ việc giảm chi phí về chuyển
tiền, thực hiện đơn giản hóa quy trình để đảm bảo chuyển tiền nhanh, thuận lợi cho người gửi tiền và người
nhận kiều hối cũng an tâm hơn. Hiện nay, chi phí gửi tiền qua các kênh chính thức còn khá cao. Đồng thời,
các công ty chuyển tiền, ngân hàng thương mại cần nâng cao giới thiệu, phổ biến, áp dụng các nền tảng kỹ
thuật số của chuyển tiền trực tuyến và dịch vụ ngân hàng cho những người dân nhập cư cũng như các hộ gia
đình, tạo thuận lợi trong quá trình chuyển kiều hối về nước.