Tồn tại xã hội và ý thức xã hội | Đại học sư phạm Hà nội
Tồn tại xã hội và ý thức xã hội TT môn Triết học Mác -Lênin | Đại học sư phạm Hà nội với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp sinh viên tham khảo, ôn luyện và phục vụ nhu cầu học tập của mình cụ thể là có định hướng, ôn tập, nắm vững kiến thức môn học và làm bài tốt trong những bài kiểm tra, bài tiểu luận, bài tập kết thúc học phần, từ đó học tập tốt và có kết quả cao cũng như có thể vận dụng tốt những kiến thức mình đã học vào thực tiễn cuộc sống. Mời bạn đọc đón xem!
Preview text:
lOMoAR cPSD| 39651089 TỒN TẠI XÃ HỘI DẪN DẮT VÀO BÀI:
Trước khi tìm hiểu nội dung bài học hôm nay nhóm mình có một câu hỏi muốn đặt
ra cho cả lớp: “Theo bạn, đời sống xã hội gồm mấy lĩnh vực? Đó là những lĩnh vực
nào?” (Gọi trả lời). Trước khi chúng mình đưa ra đáp án cho câu hỏi, chúng mình
muốn nghe ý kiến của mọi người rằng: chúng ta bắt gặp rất nhiều “đời sống” như
là: đời sống văn hóa, đời sống pháp luật, đời sống văn học, đời sống nghệ thuật, đời
sống chính trị, đời sống tôn giáo; đời sống sản xuất; đời sống sinh hoạt; v.v. Vậy thì
đó có phải là những lĩnh vực khác ngoài 2 lĩnh vực mà (bạn trả lời) đã nêu trên không ?
Nếu các bạn trả lời là Có (hoặc không) thì Thật ra thì (Đúng vậy):
+Đời sống văn hóa, đời sống pháp luật, đời sống văn học, đời sống nghệ thuật, đời
sống chính trị, đời sống tôn giáo (tâm linh), đời sống đạo đức….>>tất cả đều thuộc vào lĩnh vực tinh thần.
+Đời sống sản xuất, đời sống sinh hoạt,…>>thuộc vào lĩnh vực vật chất.
Như vậy câu trả lời của nhóm mình chính là: đời sống xã hội gồm hai lĩnh vực. Đó
là lĩnh vực vật chất và lĩnh vực tinh thần.
Và đi sâu tìm hiểu vào lĩnh vực vật chất chính là yếu tố tồn tại xã hội mà chúng ta
sẽ tìm hiểu trong bài thuyết trình của nhóm ngày hôm nay. Bài thuyết trình gồm hai
phần : Khái niệm tồn tại xã hội và những yếu tố cơ bản của tồn tại xã hội.
Trước hết là tìm hiểu về KHÁI NIỆM tồn tại xã hội
- Tồn tại xã hội là một phạm trù triết học dùng để chỉ toàn bộ sinh hoạt vật chất và
những điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội trong những giai đoạn lịch sử nhất định. VD:
Trong điều kiện địa lý tự nhiên nhiệt đới, gió mùa, nhiều sông ngòi,... tất yếu làm
hình thành nên phương thức canh tác lúa nước là thích hợp nhất đối với người Việt
Nam trong suốt chiều dài lịch sử hàng nghìn năm qua. Để tiến hành được phương lOMoAR cPSD| 39651089
thức đó, người Việt buộc phải co cụm lại thành tổ chức dân cư làng, xã, có tính ổn định bền vững,...
Ở phương Tây, bao gồm toàn bộ châu Âu, do điều kiện khí hậu lạnh khô, địa hình
chủ yếu là thảo nguyên, xứ sở của những đồng cỏ, thích hợp chăn nuôi hình thành
phương thức sản xuất truyền thống của cư dân phương Tây cổ xưa vàvăn hóa gốc du mục. - (Giải thích)
+ Khi đề cập đến tồn tại xã hội là đề cập tới đời sống vật chất. Nói tới đời sống vật
chất của xã hội trước hết chính là hoạt động sống của con người trong sản xuất và
tiểu dùng của cải của vật chất của xã hội nhằm đáp ứng nhu cầu cho con người.
Như vậy trước hết là phải nói tới hoạt động sản xuất vật chất của con người (là
những hoạt động ăn, mặc, ở, đi lại,…) và tiêu dùng các của cải vật chất mà người
ta đã sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt cho con người.
Chúng ta dã được tìm hiểu phần này qua bài sản xuất vật chất và vai trò của sản
xuất vật chất. Mác đã nói rằng: Người ta có thể làm khoa học, làm nghệ thuật, làm
tôn giáo và làm nhiều cái khác nhưng trước hết người ta phải thỏa mãn được những
nhu cầu vật chất tối thiểu (ăn, mặc, ở, đi lại,..). Và ta cũng biết được rằng sản xuất
xã hội có 3 loại hình cơ bản: sản xuất vật chất, sản xuất tinh thần và sản xuất ra chính
bản thân con người. Trong đó sản xuất vật chất đóng vai trò quyết định, quan trọng nhất.
+ Tồn tại xã hội là quá trình tái sinh và không ngừng mở rộng các quan hệ vật chất
của con người. Gồm hai quan hệ chính
Thứ nhất là quan hệ giữa con người với tự nhiên. Thiên nhiên không thể đáp ứng
hết tất cả các nhu cầu phong phú của con người nên con người luôn luôn phải chinh
phục tự nhiên. Cách con người nhận thức và cải tạo tự nhiên ở mỗi giai đoạn lịch sử
là khác nhau. Mối quan hệ giữa con người và tự nhiên thực chất chính là LLSX
Thứ hai là quan hệ giữa con người với con người, là quan hệ sở hữu về tư liệu sản
xuất, quan hệ về tổ chức quản lí và quan hệ phân phối sản phẩm. Đó chính là quan
hệ sản xuất hay nói cách khác là quan hệ kinh tế - vật chất. lOMoAR cPSD| 39651089
DẪN DẮT SANG CÁC YÊU TỐ CƠ BẢN CỦA TỒN TẠI XÃ HỘI
Sau khi dã tìm hiểu được tồn tại xã hội là gì vậy thì các bạn có biết các xã hội trong
lịch sử muốn tồn tại và phát triển thì cần phải làm gì ?
(Trả lời): Các xã hội trong lịch sử muốn tồn tại và phát triển thì cần phải lao động
sản xuất để làm ra của cải vật chất nuôi sống xã hội. Muốn lao động sản xuất, xã hội
cần phải có một số người nhất định (dân số) thì mới có nguồn lực lao động, và con
người phải gắn với môi trường tự nhiên, tác động vào tự nhiên để tạo ra của cải vật
chất. Trong quá trình sản xuất ấy bao giờ con người cũng phải tiến hành theo một
cách thức nào đó (phương thức sản xuất vật chất). Như vậy, môi trường tự nhiên,
dân số và PTSX vật chất chính là 3 yếu tố không thể thiếu của tồn tại xã hội
CÁC YẾU TỐ CƠ BẢN CỦA TỒN TẠI XÃ HỘI
a, Môi trường tự nhiên
Môi trường tự nhiên bao gồm:
· Những điều kiện địa lí tự nhiên: đất đai, rừng núi, sông ngòi, khí hậu,...
· Của cải trong thiên nhiên: tài nguyên, khoáng sản, thú rừng, hải sản,...
· Những nguồn năng lượng tự nhiên: sức gió, sức nước, ánh sáng mặt trời,...
(Vai trò): Môi trường tự nhiên là điều kiện sinh sống tất yếu và thường xuyên của
sự tồn tại và phát triển xã hội.
Nó có thể tạo điều kiện thuận lợi hoặc gây ra những khó khăn cho quá trình sản
xuất của con người .Thật vậy những nơi có môi trường tự nhiên đa dạng phong phú
thì nơi đó có con người gặp thuận lợi trong việc phát triển kinh tế nâng cao đời sống
.Ngược lại ,ở những nơi hoàn cảnh địa lí khắc nghiệt thì chẳng những nơi đó khó
phát triển ngành nghề phân công lao động xã hội ,mà hao phí trong quá trình sản xuất cũng tăng lên.
VD: Ở miền Trung Bộ Việt Nam:
Mùa mưa lũ: lượng mưa chiếm 68 - 75% lượng mưa trong năm, cùng với điều kiện
địa hình hiểm trở nên thường phát sinh lũ lụt lớn, gây thiệt hại đến sản xuất, tài sản,
tính mạng con người, tác động tiêu cực tới môi trường sinh thái.
(Video về đợt lũ ở miền Trung tháng 10/2021)
Mùa ít mưa: nước không đủ cung cấp cho sinh thái và sản xuất của một số địa phương trong vùng. lOMoAR cPSD| 39651089
=> Như vậy, môi trường tự nhiên có ảnh hưởng quan trọng đến đời sống của con
người và sự tiến bộ của xã hội ,nhưng mức ảnh hưởng của nó đến đâu lại phụ thuộc
vào trình độ văn hóa ,khoa học kĩ thuật của con người ,tùy thuộc vào tính chất của các chế độ xã hội
Sự tác động trở lại của con người vào tự nhiên có thể làm cho tự nhiên biến
đổi theo hai hướng
+ Nếu con người tác động vào tự nhiên 1 cách hợp lí =>sẽ làm cho tự nhiên ngày càng phong phú
+ Ngược lại ,nếu con người chỉ biết khai thác 1 cách tùy tiện ,không biết cải tạo thế
giới tự nhiên =>sẽ làm cho nó ngày 1 nghèo nàn ,cạn kiệt ,sự cân bằng sinh thái bị
phá vỡ gây hiểm họa cho cuộc sống của con người
Câu hỏi: Trên thế giới có những nước rất khan hiếm tài nguyên, khoáng sản nhưng
lại có nền kinh tế phát triển, theo bạn tại sao?
Khách quan nhìn nhận, lý do những nước khan hiếm tài nguyên, khoáng sản lại
sở hữu nền kinh tế vượt bậc, là bởi: “Con người là nhân tố ảnh hưởng đến sự phát
triển đất nước”.
Thực tế đã chứng minh cho chúng ta thấy: Nhật Bản từ một quốc gia đông dân,
nền kinh tế bị tàn phá trong Chiến tranh thế giới thứ 2, lại nghèo nàn về tài nguyên
và phải thường xuyên phải hứng chịu thảm họa thiên nhiên; thế nhưng 30 năm sau,
đất nước ấy đã thành công viết nên câu chuyện “Thần kì Nhật Bản” bằng “tinh thần
Bushido”. Bởi vậy, với mệnh danh “Đất nước mặt trời mọc”, năm 2019, Nhật Bản
được đánh giá là nền kinh tế lớn thứ 3 trên thế giới với GDP ước tính đạt 5.154 tỷ
USD. Và còn rất rất nhiều thành tựu đáng ngưỡng mộ của “Xứ sở hoa anh đào” đã
đạt được nhờ nhân tố con người tự lực tự cường. b, Dân số -
(Khái niệm)Dân số là tập hợp của những con người đang sống ở một
vùng địa lý hoặc một không gian nhất định, là nguồn lao động quý báu cho sự
phát triển kinh tế – xã hội, thường được đo bằng cuộc điều tra dân số và biểu
hiện bằng tháp dân số. lOMoAR cPSD| 39651089 -
(Các phương diện cơ bản của dân số)Dân số gồm ba phương diện cơ bản,
phổ biến nhất là quy mô dân số, phân bố dân số và cơ cấu dân số. Trong đó quy mô
dân số là tổng số dân sinh sống (cư trú) trong những vùng lãnh thổ nhất định vào
những thời điểm xác định. Phân bố dân số là sự sắp xếp số dân trên một vùng lãnh
thổ phù hợp với điều kiện sống của người dân và với các yêu cầu nhất định của xã
hội. Còn cơ cấu dân cư được chia làm hai nhóm chính là cơ cấu dân số theo giới:
biểu thị tương quan giữa giới nam so với giới nữ hoặc so với tổng số dân và cơ cấu
dân số theo độ tuổi: từ 0-14t, 15-59t và từ 60t trở lên, qua đó cho chúng ta biết được
rằng quốc gia đó đang trong giai đoạn cơ cấu dân số trẻ, hay cơ cấu dân số già. -
(Vai trò) Dân số là điều kiện tất yếu và thường xuyên của sự tồn tại và phát
triển của xã hội. Dân số góp phần vào việc thúc đẩy sự phát triển kinh tế của các
quốc gia nhất là trong độ tuổi lao động, bên cạnh đó người dân còn có vai trò quan
trọng trong việc bảo vệ đất nước nhất là bảo vệ chủ quyền trên đất liền cũng như hải
đảo. Dân số và tốc độ phát triển dân số của mỗi nước có ảnh hưởng rất lớn đến sự
phát triển mọi mặt của nước đó. Ở những nước có điều kiện tự nhiên tương tự nhau
nhưng số lượng và chất lượng dân số khác nhau sẽ có ảnh hưởng khác nhau đến sự
phát triển của xã hội.
Câu hỏi: Theo bạn có phải những nước đông dân số, xã hội sẽ phát triển cao và
ngược lại hay không? Tại sao?
Không hoàn toàn đúng. Bởi vì, con người tuy đóng vai trò quan trọng, vượt trội hơn
các yếu tố khác vì con người là mục tiêu và động lực của phát triển nhưng con người
không phải là nhân tố quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội mà để xã hội phát
triển cần nhiều yếu tố khác như: sự sẵn có của tư liệu sản xuất, khả năng tiếp cận
giáo dục và dịch vụ y tế, thiết chế truyền thống và quản trị địa phương,.... Muốn có
được sự phát triển thì phải đảm bảo kết hợp được tất cả các yếu tố một cách phù hợp.
Trái lại, nếu như dân số đông đi kèm với sự phát triển giáo dục trí tuệ và cải thiện
được năng suất lao động thì nó cũng sẽ thúc đẩy xã hội phát triển
VD: + Cộng hòa nhân dân Congo với số dân hơn 90 triệu người (đứng thứ 16 thế
giới) nhưng kinh tế lại nằm trong số nghèo nhất thế giới.
+ Ngược lại, Trung Quốc với số dân đông nhất thế giới thì hiện nay đã vươn
lên với vị trí đứng đầu cả về kinh tế. lOMoAR cPSD| 39651089
DẪN DẮT SANG PHẦN PHƯƠNG THỨC SẢN XUẤT VẬT CHẤT
Như vậy, tuy môi trường tự nhiên và dân cư đều là những điều kiện tất yếu của tồn
tại xã hội nhưng không phải là nhân tố quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội.
Và chỉ còn lại một yếu tố cuối cùng cấu thành nên tồn tại xã hội chính là phương
thức sản xuất vật chất – cũng chính là yếu tố cơ bản nhất, chi phối các yếu tố còn lại
và quyết định sự tồn tại của xã hội
c, Phương thức sản xuất vật chất
- (Khái lược lại về PTSX)
(Khái niệm)Như đã được học, PTSX là cách thức con người tiến hành quá trình sản
xuất vật chất ở những giai đoạn lịch sử nhất định của xã hội loài người. (Cấu trúc)
Phương thức sản xuất là sự thống nhất giữa lực lượng sản xuất với một trình độ nhất
định và quan hệ sản xuất tương ứng.
Con người tác động vào tự nhiên tạo ra của cải vật chất – quan hệ này được biểu
hiện ở lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất bao gồm người lao động và tư liệu
sản xuất. Trong đó người lao động là yếu tố quan trọng của llsx ở đó được nói đến
là sức lao động, tay nghề, kĩ năng, trình độ. Và tư liệu sản xuất thì bao gồm 2 yếu
tố là tư liệu lao động và đối tượng lao động. Trong đó tư liệu lao động bao gồm có
công cụ lao động (như công cụ, máy móc, hệ thống bình chứa.,…) và phương tiện
lao động (kết cấu hạ tầng giao thông, cầu đường, trạm xá,…). Đối tượng lao động
là các yếu tố có sẵn trong tự nhiên (đất trồng, quặng kim loại, than,..). Ở đây ta thấy
được sự thống nhất giữa người sản xuất và tư liệu sản xuất để tạo ra của cải vật chất ấy.
Đồng thời con người cũng phải kết hợp với nhau để hoạt động chung và trao đổi
hoạt động với nhau – biểu hiện ở quan hệ sản xuất. Quan hệ sản xuất là quan hệ
giữa người với người trong quá trình sản xuất là ra của cải vật chất, bao gồm các
quan hệ sở hữu, quản lí và phân phối.
Mác gọi đây là mối quan hệ “song trùng”: mối quan hệ giữa con người với tự nhiên,
quan hệ giữa con người với con người luôn tồn tại gắn bó với nhau tạo thành PTSX.
Trong phương thức sản xuất thì lực lượng sản xuất là mặt luôn phát triển, quan hệ lOMoAR cPSD| 39651089
sản xuất thay đổi chậm hơn. Mâu thuẫn xẩy ra khi lực lượng sản xuất phát triển và
quan hệ sản xuất cũ không còn phù hợp với nó. Để giải quyết mâu thuẫn là sự chấm
dứt phương thức sản xuất cũ đã lỗi thời và thay thế bằng phương thức sản xuất mới,
phương thức sản xuất mới ra đời khi quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất, trình
độ của lực lượng sản xuất
Mời cô và các bạn xem Sơ đồ mà nhóm em đãf tóm tắt mối quan hệ các giữa
lực lượng sản xuất và qua hệ sản xuất trong PTSX:
- Tại sao lại nói rằng PTSX là yếu tố cơ bản, quyết định nhất ?
+ Thứ nhất, trong các yếu tố của tồn tại xã hội thì PTSX vật chất là yêu tố quyết
định, chi phối các yếu tố còn lại.
Vì các yếu tố tự nhiên và điều kiện dân cư đều là những yếu tố tiền đề cho việc
xác lập một PTSX nhất định, đồng thời những yếu tố đó cũng biến đổi theo yêu cầu
khách quan của sự vận động, phát triển của các PTSX trong lịch sử.
Khi PTSX có sự phát triển nhờ những tiến bộ về kĩ thuật, công nghệ sản xuất; tất
yếu sẽ dẫn tới biến đổi trong việc sử dụng nguồn lực tự nhiên và cả sự biến đổi trong
cơ cấu phân bố dân cư để đảm bảo quá trình xác lập PTSX mới.
VD: Xuất phát từ tính chất đặc thù về điều kiện tự nhiên của đất nước, người Việt
Nam trong lịch sử đã tiến hành quá trình sản xuất theo phương thức canh nông lúa
nước. Để tiến hành quá trình đó nhất định con người phải liên kết lại dưới hình thức lOMoAR cPSD| 39651089
tổ chức lao động gia đình và tổ chức dân cư theo mô hình làng xã ổn định, bền vững.
Sự kết hợp giữa ba yếu tố cơ bản đó tạo thành điều kiện khách quan cho sự sinh tồn
và phát triển của người Việt Nam. Đó cũng chính là cơ sở hiện thực quy định những
nội dung và tính chất cơ bản nhất trong đời sống tinh thần, truyền thống của người
Việt Nam. Tuy nhiên, quá trình công nghệ hóa, hiện đại hóa trong sản xuất nông
nghiệp hiện nay tất yếu dẫn tới sự biến đổi trong việc sử dụng các nguồn lực tự nhiên
truyền thống và làm thay đổi cấu trúc nông thôn Việt Nam sang một hình thức mới,
trên cơ sở đó dẫn tới sự biến đổi, phát triển đời sống văn hóa – tinh thần của nông
thôn mới và con người mới.
+ Thứ hai, PTSX vật chất quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội
Trong mỗi xã hội, phương thức sản xuất thống trị như thế nào thì tính chất của chế
độ xã hội như thế ấy; kết cấu giai cấp và tính chất của các mối quan hệ giữa các giai
cấp, cũng như các quan điểm về chính trị, pháp quyền, đạo đức, triết học v.v.., đều
do phương thức sản xuất quyết định.
Phương thức sản xuất quyết định sự chuyển biến của xã hội loài người qua các giai
đoạn lịch sử. Khi một phương thức sản xuất mới ra đời, thay thế phương thức sản
xuất cũ đã lỗi thời thì mọi mặt của đời sống xã hội cũng có sự thay đổi căn bản từ
kết cấu kinh tế đến kết cấu giai cấp, từ các quan điểm tư tưởng xã hội đến các tổ
chức xã hội. Lịch sử xã hội loài người đã biết đến năm phương thức sản xuất kế tiếp
nhau từ thấp lên cao, tương ứng với nó có năm xã hội cụ thể: cộng sản nguyên thuỷ,
nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa (mà chủ nghĩa xã hội là
giai đoạn thấp). Do đó, lịch sử xã hội loài người trước hết là lịch sử của sản xuất,
lịch sử của các phương sản xuất kế tiếp nhau trong quá trình phát triển.
Phương thức sản xuất là yếu tố cơ bản và trực tiếp quy định sự sinh tồn, phát triển
của mỗi con người cũng như của toàn bộ cộng đồng xã hội, quy định trực tiếp phương
thức hoạt động vật chất của mỗi xã hội. Phương thức sản xuất nào cũng có hai
phương diện, đó là mặt vật chất – kĩ thuật của quá trình sản xuất (biểu hiện tập trung
ở trình độ phát triển phương thức kĩ thuật, công nghệ) và mặt kinh tế - xã hội của
quá trình ấy (thể hiện tiêu biểu ở trình độ phát triển của phương thức tổ chức kinh
tế). Trong hai mặt đó, mặt kinh tế - xã hội phụ thuộc tất yếu vào trình độ phát triển
của mặt vật chất – kĩ thuật; nó trực tiếp quy định tính chất và trình độ phát triển của
một tồn tại xã hội nhất định. lOMoAR cPSD| 39651089
Ví như: Từ một đảo quốc hầu như không có tài nguyên thiên nhiên, nguồn nguyên
liệu đều phải nhập từ bên ngoài, Singapore đã có bước phát triển ngoạn mục trong
hơn 50 năm qua, trở thành một trong những quốc gia có GDP bình quân đầu người
cao nhất thế giới. Sự phát triển của Singapore là kết quả của chính sách xây dựng
nền kinh tế tri thức, sử dụng kiến thức để tạo ra hàng hóa và dịch vụ với phần lớn
lao động có kỹ năng. Và từ đấy, những phương thức sản xuất hiện đại được áp dụng
để đem lại bước tiến mới cho nhiều ngành kinh tế (từ nông nghiệp đến dịch vụ
thương mại,…), đi kèm theo là chính sách cải cách hệ thống giáo dục. Chính vì thế,
dù các yếu tố tự nhiên bị hạn chế, nhưng nền kinh tế vẫn có những bước phát triển
nhảy vọt, còn bởi: những phương thức sản xuất vật chất tân tiến, hợp lí, kết hợp với
nền tri thức hiện đại của con người.
(HAI KHẲNG ĐỊNH CỦA MÁC VÀ PH.ĂNGGHEN)
Thật vậy, trong Lời tựa cuốn “Góp phần phê phán khoa kinh tế chính trị” C. Mác
viết: “ Phương thức sản xuất đời sống vật chất quyết định các quá trình sinh hoạt xã
hội, chính trị và tinh thần nói chung. Không phải ý thức của con người quyết định
tồn tại của họ; trái lại, tồn tại xã hội của họ quyết định ý thức của họ”.
Với khẳng định này C. Mác đã khắc phục triệt để chủ nghĩa duy tâm, xây dựng
quan điểm duy vật lịch sử về mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, về
vai trò quyết định của tồn tại xã hội đối với ý thức xã hội.
Tương tự như vậy, trong “ Hệ tư tưởng Đức, C. Mác và Ph Awngghen đã đi đến kết
luận rằng, toàn bộ gốc rễ của sự phát triển xã hội loài người, kể cả ý thức con người,
đều nằm trong và bị quy định bởi sự phát triển của các điều kiện kinh tế- xã hội,
nghĩa là “ không pharii ý thức quyết định đời sống mà chính đời sống quyết định ý
thức”, “ do đó ngay từ đầu, ý thức đã là một sản phẩm xã hội, và vẫn là như vậy
chừng nào con người còn tồn tại”.
Đây chính là điểm cốt lõi của nguyên lý tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội.
Tồn tại xã hội không chỉ quyết định sự hình thành của ý thức xã hội mà còn quyết
định cả nội dung và hình thức biểu hiện của nó. Mỗi yếu tố của tồn tại xã hội có thể
được các hình thái ý thức xã hội khác nhau phản ánh từ các góc độ khác nhau theo
những cách thức khác nhau. Tuy nhiên, đến lượt mình, các hình thái ý thức này cũng
sẽ tác động, ảnh hưởng ngược trở lại tồn tại xã hội. Đó chính là tính độc lập tương lOMoAR cPSD| 39651089
đối của ý thức xã hội. Và mối quan hệ biện chứng này sẽ được làm rõ hơn ở những bài học sau. Ý THỨC XÃ HỘI I. KHÁI NIỆM
-Ý thức xã hội là toàn bộ đời sống tinh thần của xã hội bao gồm những tư tưởng,
quan điểm, tình cảm, tâm trạng, thói quen, truyền thống … nảy sinh từ tồn tại xã
hội và phản ánh tồn tại xã hội trong từng giai đoạn phát triển nhất định.
(Ta cần thấy rõ sự khác nhau tương đối giữa ý thức xã hội và ý thức cá nhân)
-Ý thức cá nhân là thế giới tinh thần của những con người riêng biệt, cụ thể. Ý thức
của các cá nhân đều phản ánh tồn tại xã hội với những mức độ khác nhau do đó nó
hiển nhiên là mang tính xã hội. Song ý thức cá nhân không phải bao giờ cũng thể
hiện quan điểm, tư tưởng, tình cảm phổ biến của một cộng đồng, một tập đoàn xã
hội, một thời đại xã hội nhất định.
Ý thức xã hội và ý thức cá nhân tồn tại trong mối liên hệ hữu cơ, biện chứng với
nhau, thâm nhập vào nhau và làm phong phú cho nhau. (Ý thức xã hội gồm những
hiện tượng tinh thần, những bộ phận, những hình thái khác nhau phản ánh tồn tại
xã hội bằng những phương thức khác nhau.
VD: - Ý thức xã hội: Truyền thống yêu nước của dân tộc Việt Nam
- Ý thức cá nhân: Sự gần gũi gắn bó, lòng yêu quê hương, đất nước của mỗi cá nhân, công dân Việt
=> Mối quan hệ hữu cơ, biện chứng giữa Ý thức cá nhân và Ý thức xã hội dù
thuộc về hai trình độ khác nhau
II. KẾT CẤU CỦA Ý THỨC XÃ HỘI
(Tùy theo góc độ xem xét ta có thể phân loại ý thức xã hội thành các loại sau đây) lOMoAR cPSD| 39651089
1.Ý thức xã hội thông thường và ý thức lý luận
*Ý thức xã hội thông thường là những tri thức, những quan niệm của con người
hình thành một cách trực tiếp trong hoạt động thực tiễn hàng ngày, chưa được hệ
thống hóa, khái quát hóa.
VD:Thời xa xưa khi chưa có những kĩ thuật, công cụ quan sát thiên văn, khí tượng,
dân gian đúc kết một số câu ca dao về thời tiết dựa trên sự quan sát thực tiễn như:
1.Chuồn chuồn bay thấp thì mưa Bay
cao thì nắng, bay vừa thì râm.
2.Sao dày thì mưa, sao thưa thì nắng.
3.Ráng mỡ gà, có nhà thì giữ.
Câu tục ngữ là môt kinh nghiệ m quý báu về dự báo thời tiết. Ráng mỡ gà là ráng ̣
vàng tươi óng ánh. Có ráng mỡ gà xuất hiên ở trên bầu trời, nhân dân ta biết trờị sắp
nói gió to, sắp bão, cần phải chuẩn bị giữ gìn, chằng buôc, chống đỡ, nhất là ̣ nhà gianh vách.
*Ý thức lý luận là những tư tưởng, quan điểm được hệ thống hóa, khái quát hóa
thành các học thuyết xã hội, được trình bày dưới dạng những khái nieemj, phạm trù, quy luật,...
(Ý thức xã hội thông thường phản ánh sinh động, trực tiếp nhiều mặt cuộc sống
hàng ngày, thường xuyên chi phối cuộc sống đó. Trình độ ý thức thông thường tuy
thấp hơn ý thức lý luận nhưng tri thức kinh nghiệm phong phú của nó là tiền đề
quan trọng trong việc hình thành các lý thuyết khoa học. Ý thức lý luận lý luận
khoa học có khả năng phản ánh hiện thực khách quan một cách khái quát, sâu sắc
và chính xác vạch ra mối liên hệ bản chất của các sự vật và hiện tượng.)
VD: Khi nghiên cứu về một số quy luật trong sinh thái học, có một quy luật là quy
luật tác động qua lại giữa sinh vật và môi trường Trong mối quan hệ tương hỗ giữa
quần thể, quần xã sinh vật với môi trường, không những các yếu tố sinh thái của
môi trường tác động lên chúng, mà các sinh vật cũng có ảnh hưởng đến các yếu tố
sinh thái của môi trường và có thể làm thay đổi tính chất của các yếu tố sinh thái đó. lOMoAR cPSD| 39651089 2.Tâm lý xã hội a.Khái niệm:
-Tâm lý xã hội là khái niệm chỉ toàn bộ tình cảm, ước muốn, thói quen, tập
quán...của con người, của một bộ phận xã hội hoặc của toàn xã hội hình thành dưới
ảnh hưởng trực tiếp của đời sống hàng ngày của họ và phản ánh đời sống đó.
VD: Tâm trạng hân hoan của học sinh khi được trở lại trường sau dịch, phong tục ăn
trầu của người Việt Nam, thói quen tập thể dục buổi sáng ,v.v...
b.Đặc điểm của tâm lý xã hội
*Phản ánh một cách trực tiếp điều kiện sống hàng ngày của con người
*Là sự phản ánh có tính tự phát, thường ghi lại những mặt bề ngoài của tồn tại xã hội
*Không có khả năng vạch ra đầy đủ, rõ ràng, sâu sắc bản chất các mối quan hệ xã hội của con người
*Còn mang tính kinh nghiệm, chưa được thể hiện về mặt lý luận, còn yếu tố trí tuệ
thì đan xen với yếu tố tình cảm
(Tuy nhiên không thể phủ nhận vai trò quan trọng của tâm lý xã hội trong sự phát
triển của ý thức xã hội. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin rất coi trọng
nghiên cứu trạng thái tâm lý xã hội của nhân dân để hiểu nhân dân, giáo dục nhân lOMoAR cPSD| 39651089
dân, đưa nhân dân tham gia tích cực, tự giác vào cuộc đấu tranh cho một xã hội tốt đẹp hơn.) 3.Hệ tư tưởng a.Khái niệm:
-Hệ tư tưởng là khái niệm chỉ trình độ cao ý thức xã hội, được hình thành khi con
người nhận thức sâu sắc về những điều kiện sinh hoạt vật chất của mình. Ví dụ :
hệ tư tưởng phong kiến, hệ tư tưởng chính trị, hệ tư tưởng giai cấp,…
b.Đặc điểm của hệ tư tưởng
-Được hình thành khi con người nhận thức sâu sắc về sự vật, hiện tượng
-Có khả năng đi sâu vào bản chất các mối quan hệ xã hội
-Được hình thành tự giác bởi các nhà tư tưởng của những giai cấp nhất định và truyền bá trong xã hội
-Hệ tư tưởng là nhận thức lý luận về tồn tại xã hội, là hệ thống những quan điểm, tư
tưởng, kết quả sự khái quát hóa những kinh nghiệm xã hội.
c.Cần phân biệt hệ tư tưởng khoa học và hệ tư tưởng không khoa học, thậm chí phản động.
(Hệ tư tưởng không khoa học tuy cũng phản ánh những mối vật chất của xã hội
nhưng dưới một hình thức sai lầm, hư ảo, xuyên tạc với tính cách là một bộ phận
của ý thức xã hội) Hệ tư tưởng ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của khoa học.
Ví dụ: Hệ tư tưởng Mác - Lenin không trực tiếp ra đời từ tâm lý xã hội của giai đoạn
giai cấp công nhân lúc đó đang tự phát đấu tranh chống giai cấp tư sản, mà là từ các
tri thức của nhân loại, từ những kinh nghiệm của cuộc đấu tranh của giai cấp công
nhân, và kế thừa trực tiếp của học tập kinh tế, xã hội và tri thức học vào cuối thể kỷ
18, đầu thế kỷ 19, hệ tư tưởng này đã phản ánh các mối quan hệ, các quá trình, hiện
tượng xã hội một cách khách quan, chính xác. Cũng do đó mà Đảng và nhà nước ta
đã coi hệ tư tưởng này là kim chỉ nam cho mọi hành động các mạng. (Các khoa học lOMoAR cPSD| 39651089
tự nhiên đã cho thấy tác dụng quan trọng của hệ tư tưởng đặc biệt là hệ tư tưởng triết
học đối với quá trình khái quát những tài liệu khoa học)
Ví dụ: Hệ tư tưởng phong kiến. Cũng như ở nhiều nước khác, giai cấp phong kiến
Việt Nam là giai cấp đã giữ vai trò thống trị xã hội hàng bao nhiêu thế kỷ. Hệ tư
tưởng chính thống của nó là Nho giáo, du nhập từ Trung Quốc sang, cùng với lực
lượng xâm lược từ phương Bắc tới. Tuy là một học thuyết triết học - chính trị nhưng
nó được xem như một thứ tôn giáo và mang cái tên là Nho giáo. Chính vì hệ tư tưởng
này cổ hủ, lạc hậu này đã kìm hãm sự phát triển của nước ta về nhiều mặt ở thời kì đó.
4.Mối quan hệ giữa tâm lí xã hội và hệ tư tưởng
-(Tuy là 2 trình độ 2 phương thức phản ánh khác nhau của ý thức xã hội
nhưng)Tâm lý xẫ hội và hệ tư tưởng có mối liên hệ tác động qua lại với nhau.
Chúng có chung nguồn gốc là tồn tại xã hội, đều phản ánh tồn tại xã hội.
-Tâm lý xã hội có thể tạo điều kiện thuận lợi hoặc cản trở cho sự hình thành, truyền
bá, sự tiếp thu của con người đối với một hệ tư tưởng nhất định.
-(Mối liên hệ chặt chẽ giữa tư tưởng đặc biệt là hệ tư tưởng khoa học tiến bộ với
tâm lý xã hội, với thực tiễn cuộc sống hết sức sinh động và phong phú sẽ giúp cho
hệ tư tưởng xã hội cho lý luận bớt sơ cứng, bớt sai lầm) Trái lại, hệ tư tưởng, lý
luận xã hội làm gia tăng yếu tố trí tuệ cho tâm lý xã hội. (Hệ tư tưởng khoa học
thúc đẩy tâm lý xã hội phát triển theo chiều hướng đúng đắn, lành mạnh, có lợi cho tiến bộ xã hội.)
-(Hệ tư tưởng phản động, kích động những yếu tố tiêu cực của tâm lý xã hội) Tuy
nhiên hệ tư tưởng không ra đời trực tiếp từ tâm lý xã hôi, không phải là sự biểu
hiện trực tiếp của tâm lý xã hội.
-(Không phải sự biểu hiện trục tiếp của tâm lý xã hội) Bất kỳ tư tưởng nào khi phản
ánh các mối quan hệ đương thời thì đồng thời cũng kế thừa những học thuyết xã
hội, những tư tưởng và quan điểm đã tồn tại trước đó.
Ví dụ: Hệ tư tưởng Mác – Lênin không trực tiếp ra đời từ tâm lý xã hội của giai
cấp công nhân lúc đó đang tự phát đấu tranh chống giai cấp tư sản, mà là sự khái lOMoAR cPSD| 39651089
quát lý luận từ tổng số những tri thức của nhân loại, từ những kinh nghiệm của
cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân, và kế thừa trực tiếp các học thuyết kinh tế,
xã hội và triết học vào cuối thể kỷ 18, đầu thế kỷ 19
Như vậy, hệ tưởng liên hệ hữu cơ với tâm lý xã hội, chịu sự tác động của tâm lý xã
hội, nhưng nó không phải đơn giản là sự “cô đặc” của tâm lý xã hội.
III. TÍNH GIAI CẤP CỦA Ý THỨC XÃ HỘI -
Trong xã hội, các giai cấp có những điều kiện sinh hoạt vật chất khác nhau,
những lợi ích khác nhau do địa vị xã hội mỗi giai cấp quy định. Vì vậy ý thức xã hội
của các giai cấp có nội dung và hình thức phát triển khác nhau hoặc đối lập nhau. -
Tính giai cấp của ý thức xã hội biểu hiện ở tâm lý xã hội, cũng như (là) ở hệ tư tưởng xã hội. -
Những tư tưởng thống trị của một thời đại bao giờ cũng là tư tưởng của giai
cấp thống trị về kinh tế và chính trị ở thời đại đó. -
(Theo) chủ nghĩa Mác – Lênin, là hệ tư tưởng khoa học và cách mạng của giai
cấp công nhân, ngọn cờ giải phóng của quần chúng bị áp bức, bóc lột. -
Hiện nay các thế lực thù địch đang không ngừng tấn công vào chủ nghĩa Mác
– Lênin, muốn phủ nhận, xóa bỏ nó. -
Do vậy, bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin trong điều kiện thế giới
ngày nay là một nhiệm vụ quan trọng của cuộc đấu tranh vì mục tiêu độc lập, dân
tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. -
Chủ nghĩa duy vật lịch sử cho rằng, ý thức của các giai cấp trong xã hội có sự
tác động qua lại với nhau. -
Giai cấp bị trị chịu ảnh hưởng tư tưởng của giai cấp thống trị. Tuy nhiên (lại)
có tác động ngược trở lại.
< Dẫn: Sau đây là ví dụ: …. >
VD: Ví dụ 1. Trong xã hội phong kiến lOMoAR cPSD| 39651089
+Giai cấp địa chủ là giai cấp thống trị nên có điều kiện vật chất tốt, giàu có,chiếm
đoạt nhiều ruộng đất, có quyền lực, sống sang trọng, ngại lao động chân tay.
+Giai cấp nông dân là giai cấp bị trị, bị mất ruộng đất trở nên nghèo túng, sống chân
chất,làm thuê ruộng của địa chủ , yêu lao động.
>>> Giai cấp nông dân hoàn toàn chịu ảnh hưởng của thế lực thống trị
Ví dụ 2. Trong xã hội tư bản chủ nghĩa,giai cấp tư sản và giai cấp vô sản do khác
nhau về vị trí,vai trò trong hệ thống sản xuất xã hội,dẫn đến đối lập nhau về địa vị
trong chế độ kinh tế-xã hội trở thành hai giai cấp thống trị-bị trị. Ví dụ 3.
Trong xã hội TBCN, cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản (công nhân) - giai cấp bị trị
và giai cấp tư sản - giai cấp thống trị dâng cao. Trong hoàn cảnh đó, Mác và Ănghen
là những người xuất thân từ tầng lớp trên nhưng nhờ tư tưởng tiến bộ, hai ông đã
hiểu sâu sắc cuộc sống khốn khổ của giai cấp công nhân và nhân dân lao động nên
hai ông đã quyết định đứng trên lợi ích của giai cấp công nhân, xây dựng hệ thống
lí luận để cung cấp cho giai cấp công nhân : 1 công cụ sắc bén để nhận thức và cải
tạo thế giới đưa họ thoát khỏi sự áp bức bất công.
- Trong xã hội có phân chia giai cấp thì ý thức cá nhân về bản chất, là biểu hiện mức
độ này hay mức độ khác ý thức giai cấp.
- Tuy nhiên, nếu quá nhấn mạnh điều kiện sinh hoạt của cá nhân, sẽ dẫn tới hiểu
saibản chất của ý thức cá nhân.
- Trong ý thức xã hội, ngoài tâm lý và hệ tư tưởng của xã hội giai cấp, còn bao gồm
tâm lý dân tộc, tình cảm, ước muốn, tập quán, thói quen, tính cách,… của dân tộc,
truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác tạo thành truyền thống dân tộc.
- Tâm lý dân tộc có mối liên hệ hữu cơ với ý thức giai cấp.
- Giai cấp công nhân được vũ trang bằng hệ tư tưởng Mác – Lênin luôn luôn quan
tâm sâu sắc đến việc bảo vệ và phát triển những truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
< Dẫn: Tiếp theo đến phần Hình thái chủ yếu của ý thức xã hội, … > lOMoAR cPSD| 39651089
IV. CÁC HÌNH THÁI Ý THỨC XÃ HỘI
Ý thức xã hội tồn tại dưới nhiều hình thái khác nhau nhưng những hình thái chủ yếu
của ý thức xã hội bao gồm ý thức chính trị, ý thức pháp quyền, ý thức đạo đức, ý
thức nghệ thuật (hay còn gọi là ý thức thẩm mỹ), ý thức tôn giáo, ý thức ý luận (hay
còn gọi là ý thức khoa học) và ý thức triết học. Tính phong phú đa dạng của các hình
thái ý thức xã hội phản ánh tính phong phú, đa dạng của bản thân đời sống xã hội.
Trong các hình thái ý thức xã hội có những hình thái gần với cơ sở kinh tế của tồn
tại xã hội hơn, có những hình thái ý thức xã hội xa cơ sở kinh tế hơn so với các hình
thái ý thức xã hội khác. Vì vậy các hình thái ý thức chính trị và ý thức pháp quyền
gần gũi với cơ sở kinh tế hơn cả. 1. Ý thức chính trị
Đầu tiên là hình thái ý thức chính trị. Hình thái ý thức chính trị là hình thái ý thức
chỉ xuất hiện và tồn tại trong các xã hội có giai cấp và nhà nước. Nó phản ánh các
quan hệ chính trị, kinh tế, xã hội giữa các giai cấp, các dân tộc và các quốc gia cũng
như thái độ của các giai cấp đối với quyền lực nhà nước. Ý thức chính trị thực tiễn
thông thường hình thành từ trực tiếp từ các hoạt động thực tiễn trong môi trường
chính trị của xã hội. Ở trạng thái tâm lí xã hội, những cảm xúc và tâm trạng về chính
trị của quần chúng cảm xúc và tâm trạng về chính trị của quần chúng thường thiếu
bền vững và không ổn định. Song, những trạng thái tâm lí xã hội như vậy lại đóng
vai trò to lớn và trực tiếp đối với hành vi chính trị của quần chúng đông đảo. Thông
qua đó hệ tư tưởng chính trị tác động vào đời sống chính trị của xã hội. Hệ tư tưởng
của một giai cấp chính trị nhất định phản ánh trực tiếp tập trung lợi ích giai cấp của
giai cấp ấy. Ý thức chính trị được thể hiện trong đường lối, cương lĩnh chính trị của
các chính đảng của các giai cấp khác nhau cũng như trong luật pháp chính sách nhà
nước – công cụ của giai cấp thống trị, hệ tư tưởng chính trị được hình thành một
cách tự giác. Nó được các nhà tư tưởng của giai cấp xây dựng và truyền bá. Hệ tư
tưởng chính trị gắn với các tổ chức chính trị, thông qua các tổ chức chính trị mà một
giai cấp nào đó tiến hành cuộc đấu tranh giành ý thức. Vì lợi ích của giai cấp của
mình, ý thức chính trị đặc biệt là hệ tư tưởng chính trị có vai trò rất quan trọng đối
với sự phát triển xã hội. Thông qua tổ chức nhà nước nó tác động trở lại cơ sở kinh
tế và có thể trong những giới hạn nhất định làm thay đổi cơ sở kinh tế. Hệ tư tưởng
chính trị cũng giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần của xã hội, nó thâm nhập
vào các hình thái ý thức xã hội khác, tác động tích cực hoặc tiêu cực của hệ tư tưởng
chính trị cũng như ý thức chính trị nói chung phụ thuộc vào tính tiến bộ, cách mạng
hoặc phản tiến bộ, phản cách mạng của giai cấp mang hệ tư tưởng đó. Khi giai cấp lOMoAR cPSD| 39651089
đó tiến bộ, cách mạng tiêu biểu làm cho xu thế phát triển đi lên của lịch sử thì hệ tư
tưởng chính trị của nó có tác động tích cực đến sự phát triển xã hội. Khi giai cấp đó
trở thành lạc hậu, phản cách động thì hệ tư tưởng chính trị của nó có tác động tiêu
cực, kìm hãm sự phát triển của xã hội Ví dụ:
Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim
chỉ nam hoạt động của Đảng và cách mạng Việt Nam. Chủ nghĩa Mác-
Lênin là khoa học về các quy luật phát triển của tự nhiên và xã hội, khoa
học về cách mạng của quần chúng bị áp bức và bị bóc lột, khoa học về sự
thắng lợi của chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Đảng ta, khẳng định
lấy chủ nghĩa Mác-Lênin làm kim chỉ nam cho hành động và nêu cao tư
tuởng Hồ Chí Minh. Nội dung cốt lõi của chủ nghĩa MácLênin là tư tưởng
về sự giải phóng con người khỏi chế độ bóc lột người. Vì vậy, trong sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội của nhân dân ta tất nhiên phải lấy chủ
nghĩa Mác- Lênin làm kim chỉ nam cho hoạt động của Đảng và cách mạng
Việt Nam. Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-
Lênin vào hoàn cảnh điều kiện cụ thể của nước ta; mà cốt lõi là sự kết hợp
chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và chủ nghĩa yêu nước của nhân dân ta.
2. Ý thức pháp quyền
Tiếp theo đó là ý thức pháp quyền. Ý thức pháp quyền là toàn bộ các tư tưởng, quan
điểm của một giai cấp về bản chất và vai trò của pháp luật, về quyền và nghĩa vụ của
nhà nước, các tổ chức xã hội và công dân, về tính hợp pháp và không hợp pháp của
hành vi con người trong xã hội, cùng với nhận thức và tình cảm của con người trong
việc thực thi pháp luật của Nhà nước.
Cũng như ý thức chính trị, ý thức pháp quyền ra đời cùng với nhà nước. Giữa hai
hình thái này có sự gần nhau về cả nội dung và hình thức. Ý thức pháp quyền phản
ánh trực tiếp các quan hệ kinh tế của xã hội, trước hết là các quan hệ sản xuất được
thể hiện trong hệ thống pháp luật. Pháp luật là ý chí của giai cấp thống trị được thể
hiện thành luật lệ do đó Pháp luật là ý chí của giai cấp thống trị được thể hiện thành
luật lệ, do đó mỗi chế độ xã hội, mỗi nhà nước chỉ có một hệ thống pháp luật của
giai cấp nắm chính quyền. Nhưng trong xã hội có các giai cấp đối kháng, các giai
cấp khác nhau lại có những ý thức khác nhau về pháp luật, phản ánh lợi ích của giai
cấp mình. Do đó, hiệu lực của pháp luật không những phụ thuộc vào sức mạnh cưỡng lOMoAR cPSD| 39651089
chế của nhà nước mà còn phụ thuộc vào trình độ hiểu biết và tâm lí pháp luật của xã hội. VD:
Ở Việt Nam hiện nay, ý thức pháp quyền của xã hội ta là ý thức pháp quyền
xã hội chủ nghĩa. Sự thống nhất cao về mặt lợi ích cơ bản giữa giai cấp công
nhân và nhân dân lao động đã tạo nên hệ thống pháp luật do Nhà nước ban
hành. Việc thể hiện ý chí của giai cấp công nhân cũng đồng thời phản ảnh
và thể hiện lợi ích dân tộc trong công cuộc đối mới tiến hành công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam của
nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
3. Ý thức đạo đức
Thứ 3 là ý thức đạo đức. Ý thức đạo đức là toàn bộ những quan niệm, tri thức và các
trạng thái cảm xúc, tâm lí chung của các cộng đồng người về các giá trị thiện, ác,
lương tâm, trách nhiệm, hạnh phúc, công bằng, v.v… và về những quy tắc đánh giá,
những chuẩn mực hành vi cùng cách ứng xử giữa các cá nhân với nhau và giữa các cá nhân với xã hội.
Ý thức đạo đức là một trong các hình thái ý thức ra đời từ rất sớm. Trong lịch sử,
ngay từ xã hội nguyên thủy sự ý thức về lương tâm, danh dự và lòng tự trọng phản
ánh khả năng tự chủ của con người là sức mạnh đặc biệt của đạo đức, là nét cơ bản
quy định gương mặt đạo đức của con người, cũng là biểu hiện bản chất của con người.
Từ ý nghĩa đó, sự phát triển đạo đức là nhân tố biểu hiện tiến bộ xã hội. Trong ý thức
đạo đức, yếu tố tình cảm đạo đức là yếu tố đặc biệt quan trọng. Nếu thiếu nó thì
những khái niệm, phạm trù đạo đức và mọi tri thức đạo đức thu nhận được bằng con
đường lí tính không thể chuyển hóa thành hành vi đạo đức. Trong tiến trình phát
triển của xã hội đã hình thành những giá trị đạo đức mang tính toàn nhân loại, tồn
tại trong mọi xã hội và ở các hệ thống đạo đức khác nhau. Đó là những quy tắc ứng
xử đơn giản nhằm điều chỉnh hành vi và các sinh hoạt thường ngày của con người
trong cộng đồng xã hội. lOMoAR cPSD| 39651089
Tuy nhiên, trong một xã hội có sự phân chia giai cấp thì nội dung chủ yếu của đạo
đức phản ánh quan hệ giai cấp nên nó có tính giai cấp. Trong các phạm trù đạo đức
luôn luôn phản ánh địa vị và lợi ích của giai cấp. Mỗi giai cấp trong những giai đoạn
phát triển nhất định của lịch sử xã hội đều có những quan niệm đạo đức của riêng
mình. Giai cấp tiêu biểu cho sự phát triển đi lên của xã hội thì đại diện cho một nền
đạo đức tiến bộ. Còn các giai cấp phản động thì đại diện cho một đạo đức suy thoái
Vd: Từ xa xưa, ông cha ta đã đúc rút ra những bài học về đạo đức để răn dạy con
người, thể hiện qua những câu ca dao, tục ngữ như: +Về đạo làm con:
Cá không ăn muối cá ươn
Con cãi cha mẹ trăm đường con hư. Công cha nghĩa mẹ ơn thầy,
Ngày sau khôn lớn ơn dày biển sâu.
Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Một lòng thờ mẹ kính cha Cho
tròn chữ hiếu mới là đạo con.
+Về quy tắc ăn nói, giao tiếp, cư xử:
Kính trên, nhường dưới
Lời nói chẳng mất tiền mua Lựa lời
mà nói cho vừa lòng nhau.
Ăn ngay nói thật, mọi tật mọi lành.
Một điều nhịn, chín điều lành lOMoAR cPSD| 39651089
4. Ý thức khoa học
Tiếp đến là phần 4 – Ý thức khoa học. Ý thức khoa học vừa là một hình thái ý thức
xã hội vừa là một hiện tượng xã hội đặc biệt. Xem xét khoa học như một hình thái ý
thức xã hội không thể tách rời, xem xét nó như một hiện tượng xã hội. Ý thức khoa
học với tính chất là một hình thái xã hội là hệ thống phản ánh tri thức chân thực dưới
dạng logic trừu tượng về thế giới đã được kiểm nghiệm thông qua thực tiễn. Đối
tượng phản ánh của ý thức khoa học bao quát mọi lĩnh vực của tự nhiên, xã hội và
tư duy trong khi các hình thái ý thức xã hội khác chỉ phản ánh một mặt một khía
cạnh nào đó của đời sống xã hội mà thôi. Đó là một trong những điểm khác biệt của
ý thức khoa học với các hình thái ý thức xã hội khác. Khoa học có thể tồn tại dưới
dạng hệ thống lý luận chung nhất hoặc dưới dạng cụ thể là các tri thức chuyên ngành.
Hình thức biểu hiện chủ yếu của ý thức khoa học là các phạm trù, định luật, quy luật
và là ngôn ngữ chuyên môn hoá, là công cụ của tư duy khoa học.
Tri thức khoa học thâm nhập vào các hình thái ý thức xã hội khác, hình thành các
khoa học tương ứng từng hình thái ý thức đó. (ví dụ như ý thức chính trị và chính trị
học, ý thức đạo đức và đạo đức học, ý thức nghệ thuật và nghệ thuật học, v.v…).
Nhờ tri thức khoa học mà con người không ngừng vươn tới cái mới để tạo ra một
thế giới mới và ngày càng thể hiện rõ vị thế làm chủ tự nhiên, làm chủ xã hội và làm chủ bản thân mình.
Xét về đối tượng, khoa học chia thành khoa học tự nhiên – kỹ thuật nghiên cứu các
quy luật của tự nhiên, các phương thức chinh phục và cải tạo tự nhiên và khoa học
xã hội nghiên cứu những hiện tượng xã hội khác nhau, các quy luật vận động, phát
triển của chúng và có cả bản thân con người như là một thực thể xã hội. Triết học
cũng được coi là một khoa học bởi nó nghiên cứu những quy luật chung nhất của
mọi tồn tại trong tự nhiên, xã hội và tư duy, xây dựng nên phương pháp luận chung
cho việc nghiên cứu tự nhiên, xã hội và tư duy.
Trong mỗi khoa học có thể phân chia thành các cấp độ kinh nghiệm và lý luận (hay
lí thuyết). Cấp độ kinh nghiệm là những tư liệu hiện thực đã tích lũy được qua sự
tổng hợp quan sát, thí nghiệm; lý luận là sự khái quát kinh nghiệm thể hiện trong
những lý thuyết về quy luật và nguyên lý tương ứng. Cấp độ lý luận của các khoa
học cụ thể kết hợp với nhau trong sự giải thích các nguyên lý và quy luật chung được
phát hiện ở tầm nghiên cứu triết học, hình thành thế giới quan và phương pháp luận
của toàn bộ nhận thức khoa học. lOMoAR cPSD| 39651089
Nguồn gốc sâu xa của khoa học là do nhu cầu phát triển sản xuất. Cùng với sự phát
triển của sản xuất và thực tiễn xã hội, khoa học cũng không ngừng phát triển. Trong
quá trình đó, vai trò của khoa học trong đời sống xã hội ngày càng tăng lên. Ngày
nay, trong sự tự động hóa sản xuất, tri thức khoa học được kết tinh trong mọi nhân
tố của lực lượng sản xuất - trong đối tượng lao động, kỹ thuật, quá trình công nghệ
và cả trong những hình thức tổ chức tương ứng của sản xuất; người lao động không
còn là nhân tố thao tác trực tiếp trong hệ thống kỹ thuật mà chủ yếu là vận dụng tri
thức khoa học để điều khiển quá trình sản xuất; khoa học cho phép hoàn thiện các
phương pháp sản xuất, hoàn thiện việc quản lý kinh tế. Hơn nữa khoa học còn trở
thành một ngành hoạt động sản xuất với quy mô ngày càng lớn, bao hàm hàng loạt
các viện, phòng thí nghiệm, trạm, trại, xí nghiệp với số cán bộ khoa học ngày càng
tăng, vốn đầu tư ngày càng lớn, hiệu quả đầu tư ngày càng cao. Do những biến đổi
căn bản về vai trò của khoa học đối với sản xuất mà khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp.
VD: Các định luật của Newton về chuyển động là tập hợp của 3 định luật cơ học
phát biểu bởi nhà bác học Isaac Newton, đặt nền tảng cho cơ học cổ điển (còn gọi
là cơ học Newton). Nội dung 3 định luật:
• Định luật 1 Newton: Nếu một vật không chịu tác dụng của lực nào hoặc chịu
tác dụng của các lực có hợp lực bằng không thì nó giữ nguyên trạng thái
đứng yên hoặc chuyển động thẳng đều.
• Định luật 2 Newton: Gia tốc của một vật cùng hướng với lực tác dụng lên
vật. Độ lớn của gia tốc tỉ lệ thuận với độ lớn của lực và tỉ lệ nghịch với khối lượng của vật.
• Định luật 3 Newton: Trong mọi trường hợp, khi vật A tác dụng lên vật B một
lực, thì vật B cũng tác dụng lại vật A một lực. Hai lực này có cùng giá trị,
cùng độ lớn, nhưng ngược chiều.
5. Ý thức thẩm mĩ
Đối với phần ý thức thẩm mĩ, thì đây là sự phản ánh hiện thực vào ý thức con người
trong quan hệ với nhu cầu thưởng thức và sáng tạo cái Đẹp. Trong các hoạt động
thưởng thức và sáng tạo cái đẹp nghệ thuật là biểu hiện cao nhất của ý thức thẩm mĩ.
Ví dụ: với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, khi phản ánh về con người nói
chung, khoa học chỉ quan tâm về những gì mà nó vốn có (cấu tạo cơ thể con người
gồm những bộ phận nào; chức năng cụ thể của từng bộ phận này ra sao; ….) còn các lOMoAR cPSD| 39651089
nghệ sĩ thì lại quan tâm phản ánh đến đời sống tâm hồn, tâm tư tình cảm con người;
đặc biệt là đi sâu tìm tòi phát hiện ra những vẻ đẹp tiềm ẩn từ sâu bên trong những
con người bình dị, đời thường
Nghệ thuật ra đời từ rất sớm, ngay từ khi xã hội chưa phân chia thành giai cấp, quá
trình hình thành nghệ thuật gắn liền với lao động của con người, với thực tiễn xã hội.
Những dấu vết đầu tiên của nghệ thuật thuộc về thời kì khi con người biết sản xuất
ra những công cụ bằng đá, bằng xương, bằng sừng.
Cũng như các hình thái ý thức xã hội khác, ý thức thẩm mĩ bắt nguồn từ tồn tại xã
hội. Khác với khoa học và triết học – phản ánh thế giới bằng khái niệm, phạm trù,
quy luật; nghệ thuật phản ánh thế giới phản ánh thế giới một cách sinh động, cụ thể,
bằng những hình tượng nghệ thuật. Hình tượng nghệ thuật tuy phản ánh cái bản chất
của đời sống hiện thực nhưng phản ánh thông qua cái cá biệt, cụ thể - cảm tính, sinh
động. Hình tượng nghệ thuật cũng nhận thức cái chung trong cái riêng, cái bản chất
trong cái hiện tượng, nhận thức cái phổ biến trong cái cá biệt. Song cái cá biệt trong
nghệ thuật phải là cái điển hình. Và nếu nhà nghệ thuật tạo ra cái điển hình thì phải
là cái điển hình đã được cá biệt hóa.
Sự phát triển của nghệ thuật về cả nội dung và hình thức không thể tách khỏi sự phát
triển của tồn tại xã hội nhưng nghệ thuật có tính độc lập tương đối rất rõ nét trong
sự phát triển của mình. Không phải bao giờ nghệ thuật cũng phản ánh tồn tại một
cách trực tiếp, dễ thấy. Do đó, Mác đã viết: “Đối với nghệ thuật, người ta biết rằng
những thời kỳ hưng thịnh nhất của nó hoàn toàn không tương ứng với sự phát triển
chung của xã hội, do đó cũng không tương ứng với sự phát triển của cơ sở vật chất
của xã hội, cơ sở này dường như cấu thành cái xương sống của tổ chức xã hội” .
Và nghệ thuật chân chính bao giờ cũng gắn bó mật thiết với đời sống hiện thực
của nhân dân, có tác dụng thúc đẩy mạnh mẽ tiến bộ xã hội, đáp ứng ngày càng
cao nhu cầu thẩm mỹ của con nguời: quan niệm “Nghệ thuật vị nhân sinh”,
“Chao ôi, nghệ thuật không cần phải là ánh trăng lừa dối, và cũng không
nên là ánh trăng lừa dối; nghệ thuật chỉ có thể là tiếng đau khổ kia, thoát ra từ
những kiếp lầm than…” (trích tác phẩm “Trăng sáng” của Nam Cao)
Khi phản ánh thế giới hiện thực trong các hình tượng nghệ thuật chân thực và có giá
trị thẩm mĩ cao, nghệ thuật đã tác động đến lí trí và tình cảm của con người, kích lOMoAR cPSD| 39651089
thích tính tích cực của con người, sẽ nuôi dưỡng cho con người những hành vi đạo đức tốt đẹp.
Trong xã hội có sự phân chia giai cấp, bao giờ nghệ thuật cũng mang tính giai cấp.
Tính giai cấp của nghệ thuật biểu hiện trước hết ở chỗ nó không thể không chịu sự
tác động của thế giới quan, các quan điểm chính trị của một giai cấp, không thể đứng
ngoài chính trị và các quan hệ kinh tế. Trong xã hội chia thành các giai cấp mà phủ
nhận mối liên hệ của nghệ thuật với chính trị thì hoàn toàn sai lầm. Khi nhấn mạnh
tính giai cấp của nghệ thuật, trong xã hội có giai cấp, quan điểm của chủ nghĩa Mác-
Lênin không phủ nhận tính nhân loại chung của nó, không ít tác phẩm nghệ thuật
mà giá trị của chúng được lưu truyền khắp thế giới qua các thời đại mặc dù tác giả
là đại biểu của một giai cấp nhất định. Có những nền nghệ thuật của một dân tộc
nhất định nhưng đã trở thành những giá trị văn hóa tiểu biểu của cả nhân loại. Tính
giai cấp của nghệ thuật, cách mạng và tiến bộ không những không mâu thuẫn với
tính nhân loại mà ngược lại còn làm rõ sâu sắc giá trị toàn nhân loại.
VD: Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn đánh giá cao vai
trò của văn nghệ, của các văn nghệ sĩ, đồng thời cũng đòi hỏi ở văn nghệ và văn
nghệ sĩ tinh thần trách nhiệm cao cả đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
6. Ý thức tôn giáo
Phần tiếp theo đó chính là ý thức tôn giáo. Nói về bản chất của tôn giáo, Ăng ghen
viết: “Tất cả mọi tôn giáo chẳng qua chỉ là sự phản ánh hư ảo vào trong đầu óc con
người – của những lực lượng bên ngoài chi phối cuộc sống hàng ngày của họ, chỉ
là sự phản ánh trong đó những lực lượng ở trần thế đã mang những hình thức siêu trần thế”.
Nguồn gốc của tôn giáo phải tìm trong tồn tại xã hội, trong quan hệ giữa con người
với tự nhiên lẫn trong các quan hệ xã hội của con người. Khi những công cụ lao
động và phương tiện sản xuất còn kém phát triển, con người dễ cảm thấy yếu đuối
bất lực trước giới tự nhiên. Sự bất lực và sợ hãi của con người trước những sức mạnh
của giới tự nhiên là một trong những nguồn gốc của tôn giáo. Nguồn gốc của tôn
giáo còn nằm trong những mối quan hệ xã hội. Trong điều kiện xã hội có áp bức giai
cấp và có tính tự phát còn là những đặc trưng của sự phát triển xã hội. Những quy
luật xã hội biểu hiện như những thế lực mù quáng, trói buộc con người và thường lOMoAR cPSD| 39651089
xuyên quyết định đến số phận của họ khiến con người sợ hãi đó là một trong những
nguồn gốc của tôn giáo
Ý thức tôn giáo với tính cách là hình thái xã hội gồm có tâm lí tôn giáo và hệ tư
tưởng tôn giáo. Tâm lý tôn giáo là toàn bộ những biểu tượng, tình cảm, tâm trạng
thói quen của quần chúng về tín ngưỡng tôn giáo. Hệ tư tưởng tôn giáo là hệ thống
giáo lý do các giáo sĩ, các nhà thần học tạo ra và truyền bá trong xã hội. Đứng về
mặt lịch sử, tâm lí tôn giáo và hệ tư tưởng tôn giáo là hai giai đoạn phát triển của ý
thức tôn giáo nhưng chúng liên hệ tác động qua lại và bổ sung nhau. Tâm lí tôn giáo
đem lại cho hệ tư tưởng tôn giáo một tính chất đặc trưng, một sắc thái tình cảm riêng.
Hệ tư tưởng tôn giáo thuyết minh những hiện tượng tâm lí tôn giáo, khái quát chúng
và làm cho chúng biến đổi theo một chiều hướng nhất định. Ý thức tôn giáo là một
hình thái ý thức xã hội thực hiện chủ yếu chức năng chủ yếu của mình là chức năng
đền bù – hư ảo trong một xã hội cần đến sự đền bù – hư ảo. Chức năng đó làm cho
ý thức tôn giáo có một đời sống lâu dài, một vị trí đặc biệt trong xã hội. Chức năng
đền bù hư ảo nói lên chức khả năng của tôn giáo có thể bù đắp, bổ sung một cách hư
ảo cái hiện thực mà trong đó con người bất lực trước sức mạnh của tự nhiên và những
điều kiện khách quan của đời sống xã hội. Những mâu thuẫn của đời sống hiện thực,
những bất lực trong thực tiễn của con người được giải quyết một cách hư ảo trong ý
thức của họ. Vì vậy tôn giáo luôn được các giai cấp thống trị sử dụng như một công
cụ áp bức tinh thần, một phương tiện củng cố địa vị thống trị của họ.
Nếu như ý thức tôn giáo hướng con người vào thế giới những ảo tưởng, siêu tự nhiên
thì trái lại, ý thức khoa học lại mang một nhiệm vụ cao cả là hướng con người và
việc biến đổi hiện thực, cải tạo thế giới để để phục vụ nhu cầu cuộc sống ngày nhiều
mặt và ngày càng tốt hơn, cao hơn của con người. Chủ nghĩa MácLênin cho rằng
điều kiện tiên quyết để khắc phục tôn giáo như một hình thái ý thức có tính chất tiêu
cực là phải xóa bỏ nguồn gốc xã hội của nó, nghĩa là phải tiến hành một cuộc cách
mạng xã hội triệt để nhằm cải tạo cả tồn tại xã hội lẫn ý thức xã hội. Bằng hoạt động
cách mạng tích cực của mình, quần chúng không những cải tạo xã hội mà còn cải
tạo bản thân, giải phóng ý thức mình khỏi những quan niệm sai lầm; kể cả những quan niệm tôn giáo.
VD: Nội dung cơ bản của đạo Bà la môn - đạo Hindu
+Thừa nhận thế giới do thần tạo ra và sự bất tử của linh hồn .Thừa nhận Thuyết luân hồi lOMoAR cPSD| 39651089
+ Cho rằng một thực thể tinh thần tối cao tồn tại vĩnh viễn là Braman. Linh hồn cá
thể là Át man là một bộ phận của Braman
+ Con người có sống chết nhưng linh hồn thì tồn tại mãi và luôn hồi qua nhiều kiếp
khác nhau chỉ khi nào Át man hoà nhập với Braman thì mới chấm dứt được thuyết luân hồi
7. Ý thức triết học
Cuối cùng đó chính là ý thức Triết học. Đây là loại ý thức đặc biệt và cao nhất của
tri thức cũng như của các ý thức xã hội. Triết học nhất là Triết học Mác-Lênin cung
cấp cho con người tri thức về thế giới như một chỉnh thể thông qua việc tổng kết
toàn bộ lịch sử phát triển của khoa học và chính bản thân triết học. Khi đánh giá mối
liên hệ của tinh thần với triết học, Hêghen khẳng định: “Xét từ góc độ tinh thần,
chúng ta có thể gọi Triết học là cái cần thiết nhất.” Với Mác thì “mọi triết học chân
chính đều là tinh hoa về mặt tinh thần của thời đại mình” nên nhất định sẽ có thời kì
mà triết học, không chỉ về bên trong, theo nội dung của nó mà về cả bên ngoài, theo
sự biểu hiện của nó, sẽ tiếp xúc và tác động qua lại với thế giới hiện thực của thời
đại mình. “Lúc đó triết học sẽ khong còn là một hệ thống nhất định đối với các hệ
thống nhất định khác, nó trở thành triết học nói chung đối với thế giới, trở thành triết
học của thế giới hiện đại. Những biểu hiện bên ngoài chứng minh rằng triết học đã
có ý nghĩa khiến cho nó trở thành linh hồn sống của văn hóa…”
Đồng thời, với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, triết học nói chung và nhất là
triết học duy vật biện chứng nói riêng, có sứ mệnh trở thành thế giới quan, mà cơ sở
và hạt nhân của thế giới quan đó là tri thức. Chính thế giới quan đó giúp con người
trả lời cho các câu hỏi được nhân loại từ xưa tới nay thường xuyên đặt ra cho mình.
Chẳng hạn, thế giới xung quan ta là gì? Thế giới ấy có điểm bắt đầu và điểm kết thúc
hay không? Sức mạnh nào chi phối sự tồn tại và sự biến đổi đó? Con người là gì và
sinh ra từ đâu và có quan hệ như thế nào với thế giới ấy? Cuộc sống của con người
có ý nghĩa gì? Con người có vị trí nào trong thế giới đó? v.v… Như vậy, thế giới
quan triết học bao hàm trong nó cả nhân sinh quan. Trong thời đại hiện nay, thế giới
quan khoa học chân chính nhất là thế giới quan triết học duy vật biện chứng. Triết
học duy vật biện chứng có vai trò to lớn để nhận thức đúng đắn ý nghĩa và vai trò
của các hình thái ý thức xã hội khác; để xác định đúng đắn vị trí của những hình thái lOMoAR cPSD| 39651089
ấy trong cuộc sống và trong xã hội để nhận thức tính quy luật cùng những đặc điểm
và sự phát triển của chúng.
VD: Ý thức được sự vận động phát triển của xã hội việt nam từ chế độ phong kiến lên chủ nghĩa xã hội.
Ý thức được mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong
xã hội. Như trong quá trình khai thác than, nếu mỗi người làm việc tách biệt nhau,
không có sự phối hợp giữa các cá nhân, không nghe lời chỉ đạo…tức không tồn tại
mqh giữa những con người (qhsx) thì không thể khai thác than hiệu quả.