/67
lOMoARcPSD| 61601590
NỘI DUNG 1: MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC
Phần lí luận
֎ Khái niệm
- Theo Lênin: "Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem
lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh
và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác"
- Ý thức: Là sự phản ánh năng động, sáng tạo của thế giới khách quan vào trong bộ não con
người, là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.
֎ Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức:
Vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định rằng, vật chất trước ý thức sau, vật chất quyết định
ý thức; còn ý thức là sự phản ánh vật chất vào trong bộ óc con người.
Cụ thể hơn, trong đời sống xã hội thì nhân tố vật chất quyết định nhân tố ý thức.
Nhân tố vật chất bao gồm: Điều kiện vật chất, hoàn cảnh sống, điều kiện khách quan, quy luật
khách quan, khả năng khách quan.... năng lực thật sự còn bị hạn chế)
Nhân tố ý thức bao gồm: Tư tưởng, quan điểm, luận, đường lối, chính sách, mục tiêu, phương
hướng, giải pháp, biện pháp, cách thức hành động...
Vật chất quyết định ý thức thể hiện ở những nội dung cơ bản:
- Vật chất quyết định nguồn gốc của ý thức: Không có vật chất sẽ không có ý thức.
VD: Ông ta có câu “Có thực mới vực được đạo”, khi con người không được ăn no thì sức khỏe
và não bộ sẽ khó có thể hoạt động và đủ tỉnh táo để hoạt động.
- Vật chất quyết định nội dung của ý thức: Nội dung của ý thức mang nh khách quan, do
thế giới khách quan quy định.
VD: Khi nhìn một con sông, hình ảnh của con sông sẽ được phản ánh vào trong bộ não của chúng
ta một cách trung thực. Đặc điểm hình ảnh con sông trong não bộ do hình ảnh con sông trong thế
giới khách quan quyết định.
- Vật chất quyết định bản chất của ý thức: Bản chất sáng tạo bản chất hội của ý thức
cũng phải dựa trên những tiền đề vật chất nhất định.
VD: Dựa trên những nguyên liệu có sẵn, con người sáng tạo ra những công cụ lao động để hỗ trợ
trong công việc của mình.
- Vật chất quyết định phương thức tồn tại và kết cấu của ý thức: Tri thức và các yếu tố của
tri thức đều dựa trên sự phản ánh vật chất.
lOMoARcPSD| 61601590
VD: Khi nghe một bài hát hay, niềm tin và cảm xúc của con người được hình thành thông qua lắng
nghe một cách chăm chú và có sự phân tích.
Sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất:
- Ý thức ý thức của con người, gắn liền với tính năng động, sáng tạo của nhân tố con
người, nhân tố chủ quan; mặt khác, ý thức là sự phản ánh sáng tạo đối với thế giới.
VD: Cả lớp phải tham gia làm một bài kiểm tra, có bạn sẽ học bài theo hình thức thông thường,
bạn lại chăm chỉ tìm thêm những bài tập thực hành để củng cố kiến thức nhằm chuẩn bị cho bài
kiểm tra ấy.
- Ý thức phản ánh phù hợp với vật chất thì sẽ thúc đẩy các quá trình vật chất phát triển.
Nếu ý thức phản ánh không phù hợp với vật chất thì sẽ kìm hãm sự phát triển của các
quá trình vật chất.
VD: Trước tình hình công ty đang gặp khó khăn về nội dung ý tưởng cho phát hành sản phẩm, ban
lãnh đạo người sẽ xem xét, đánh giá tình hình để tìm ra phương án nhưng cũng có người thấy
khó khăn mà đã bỏ cuộc.
- Muốn có sức mạnh để tác động vào vật chất thì ý thức phải được thâm nhập vào con người
và được tổ chức thực hiện trong thực tiễn.
VD: Khi thấy các em học sinh đang gặp rắc rối với một nội dung ngữ pháp trong Tiếng Anh, giáo
viên ý định thiết kế một đồ duy để giúp các em hiểu hơn. Muốn thế thì người giáo viên
phải thực hiện ý tưởng đó trong thực tế thì mới có thể tháo gỡ khúc mắc của học sinh. Nếu không,
suy nghĩ đó chỉ dừng lại ở mức ý tưởng.
Vì vậy, Ý thức quyết định thành công hay thất bại của con người trong thực tiễn.
֎ Ý nghĩa phương pháp luận của mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
Thứ nhất, vật chất quyết định ý thức nên trong nhận thức cần phải tôn trọng nguyên tắc tính
khách quan; trong hoạt động thực tiễn cần phải xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng và hành
động theo các quy luật khách quan.
Thứ hai, vì ý thức có sự tác động trở lại đối với vật chất nên cần phải phát huy tính năng động chủ
quan, nghĩa là phát huy tính tích cực, năng động, sáng tạo của ý thức.
Thứ ba, cần phải chống lại bệnh chủ quan, duy ý chí, là đã tuyệt đối hóa, thổi phồng tính tích cực,
sáng tạo của ý chí.
Thứ tư, cần phải chống lại bệnh bảo thủ, trì trệ là đã hạ thấp tính tích cực, sáng tạo của ý thức.
Thứ năm, khi xem xét các hiện tượng hội cần phải tính đến cả điều kiện vật chất lẫn nhân tố
tinh thần, cả điều kiện khách quan lẫn nhân tố chủ quan.
Phần vận dụng
lOMoARcPSD| 61601590
1. Vận dụng trong đời sống học tập của sinh viên
Trong cuộc sống: vấn đề quản lý tiền nong, vấn đề sinh sống với bạn trong ký túc xá, vấn đề đi lại,
vấn đề tham gia các hoạt động,...
Trong học tập: đăng học phần, lên thời gian biểu, làm việc nhóm, trao đổi thông tin với giảng
viên và sinh viên,...
Cấu trúc: thực trạng -> tri thc tình cảm niềm tin ý chí thức tự ý thức tiềm thức) ->
giải pháp 🡪 kết quả đạt được
một sinh viên năm nhất của Trường Đại học phạm TPHCM, chúng tôi học theo chế độ tín
chỉ, là lớp người có khả năng tiếp thu những cái mới với nhu cầu mở rộng kiến thức, tự tìm hiểu,
tự học phát triển theo định hướng của bản thân. Điều này được vận dụng trong việc đăng
học phần của sinh viên. Người học mong muốn vận dụng tri thức để chọn lọc những thông tin bổ
ích, nắm các phương thức đăng học phần cũng như xem xét kỹ lưỡng các môn cần học
chủ động lên thời gian biểu phù hợp cho bản thân, từ đó đưa ra quyết định đúng đắn về học phần
mình đã chọn. Người học vận dụng tình cảm để bảo đảm rằng những quyết định của bản thân
sáng suốt, chẳng hạn như người học phải niềm đam mê, sự hứng thú với những môn học
mình đăng ký. Chính niềm đam mê ấy sẽ là chiếc chìa khóa vạn năng mở ra chân trời tri thức trên
hành trình theo đuổi giấc mơ. Sau khi đã xác định ràng những học phần mình chọn, biết được
các tiềm năng cũng như mặt hạn chế của bản thân, người học phải có niềm tin về tính hiệu quả cho
những quyết định của mình. Từ đó, khi vấp phải những khó khăn hay bất cập trong quá trình học
tập, người học phải có ý chí, nghị lực để khắc phục và vượt qua chúng để đạt được mục đích cuối
cùng của bản thân. Nhưng ý thức có sự tác động trở lại đối với vật chất, nên ta phải phát huy tinh
tích cực, năng động, sáng tạo của ý thức. Cụ thể là em đã vận dụng để đưa ra phương án tốt nhất
trong việc đăng học phần đồng thời nâng cao năng suất học tập của bản thân bằng cách chủ
động tìm kiếm kiến thức, tham khảo thêm các cuốn sách chuyên ngành kho kiến thức của thư
viện hoặc kho sách của khoa, các tài liệu trên mạng Internet, m được hứng thú cũng như niềm
vui qua mỗi môn học, cụ thể hóa bằng những kế hoạch phù hợp với thực tế tỉnh táo vượt qua
những cám dỗ.
Bên cạnh đó, sinh viên cần tự ý thức được mình cần chống lại bệnh chủ quan duy ý chí cũng như
bệnh bảo thủ trì trệ.Trong nhịp sống phát triển hiện đại như ngày nay, việc thường xuyên cập nhật
các kiến thức, thông tin mới mẻ một điều hết sức cần thiết đối với mỗi người chúng ta. Ngoài
ra, việc lắng nghe tiếp thu ý kiến đóng góp từ người khác sẽ giúp ta ngày càng phát triển
hoàn thiện bản thân, không nên xem những ý kiến của mình luôn đúng cần phải lắng nghe
từ người khác. Chẳng hạn như trong việc học tập, chúng ta nên luôn cập nhật những thông tin,
kiến thức mới cùng với phương pháp học hiện đại để việc học trở nên dễ dàng hơn.
Cuối cùng khi giải thích các hiện tượng hội cần tính đến các điều kiện vật chất lẫn yếu tố tinh
thần, điều kiện khách quan lẫn nhân tố chủ quan. Hiện nay, sinh viên có xu hướng học vượt nhưng
chưa xem xét kỹ về các nhân tố chủ quan như khả năng, thời gian của bản thân lẫn điều kiện khách
quan như điều kiện tài chính gia đình dẫn đến kết quả học tập chưa như mong đợi. Từ đó cá nhân
nên lượng sức mình xác định đã học môn nào chắc môn đó. Nên nh toán sao cho vừa sức
lOMoARcPSD| 61601590
bởi học vượt đòi hỏi ngoài giờ học lớp, sinh viên phải tự học, tự nghiên cứu, đọc thêm tài liệu
thì mới phát huy hiệu quả học tập.
2. VẬN DỤNG TRONG LĨNH VỰC GIÁO DỤC
Nhìn chung, giáo dục đại học vẫn tụt hậu so với các nước trong khu vực thế giới; phát triển
chưa tương xứng với yêu cầu, nhiệm vụ và chưa đáp ứng nhu cầu học tập của nhân dân.
Đại hội XIII của Đảng nhận định: "Nội dung chương trình, giáo trình, phương pháp giảng dạy
nhiều cơ sở giáo dục đại học còn nặng về lý thuyết, nhẹ thực hành [...] Đào tạo vẫn thiếu gắn kết
với nghiên cứu khoa học, sản xuất, kinh doanh và nhu cầu của thị trường lao động."
Việc đổi mới trong giáo dục luôn là điều cấp thiết, đặc biệt là khi hệ thống giáo dục vẫn còn nhiều
lỗ hổng như hiện nay. Nhận thức về được thực trạng này sẽ là nguồn động lực để người học và các
nhà giáo dục có hoạt động thay đổi, để ý thức phát huy tính năng động sáng tạo. Cải thiện những
cách dạy thuyết khô khan tăng cường hoạt động thực tiễn trong giáo dục, vừa tạo sự hứng
thú, vừa thể áp dụng vào thực tiễn. Điều này tác động đến nhu cầu học tập (người học mong
muốn vận dụng tri thức sẽ tìm tòi phương pháp áp dụng thuyết vào thực tiễn), nhu cầu hội
(các tổ chức sẽ khuyến khích những nhân năng động, sáng tạo qua các cuộc thi), nhu cầu cải
cách giáo dục của nhà nước (thay đổi chương trình học). sau khi xác định ràng phương pháp
cải cách giáo dục, biết được những tiềm năng cũng như các mặt hạn chế, con người sẽ đạt được
niềm tin về tính hiệu quả của các phương pháp học tập mang tính thực tiễn cao, những chính
sách đổi mới sẽ nhận được sự ủng hộ từ xã hội. Từ đó, khi vấp phải những sai lầm trong lúc thực
hiện con người sẽ có ý chí quyết tâm khắc phục để đạt được mục đích đã đề ra ban đầu.
Đồng thời, ta cần chống lại bệnh chủ quan duy ý chí, bảo thủ trì trệ. Bệnh chủ quan duy ý chí
căn bệnh khuynh hướng tuyệt đối hóa vai trò của nhân tố chủ quan, cường điệu tính sáng tạo
của ý thức, của ý chí, xa rời hiện thực. Các nhà giáo dục cần tôn trọng nguyên tắc khách quan. Nếu
không xem xét hiện thực chỉ dựa vào ý thức chủ quan thì ngành giáo dục sẽ bị tình trạng bảo
thủ trì trệ, không tiếp thu cái mới, không xét đến những đòi hỏi khách quan của xã hội
Cuối cùng, khi giải thích các hiện tượng hội, cần xét các điều kiện vật chất lẫn nhân tố tinh
thần, yếu tố khách quan, chủ quan. Một hiện tượng xã hội tồn tại trong lĩnh vực giáo dục hiện nay
là mức độ chênh lệch về giáo dục giữa học sinh thiểu số và mặt bằng chung cả nước.
Vấn đề về trình độ dân trí của học sinh thiểu số cần được xem xét ở khía cạnh về điều kiện vật chất
và các nhân tố chủ quan.
Xét về điều kiện vật chất, cơ sở vật chất, thiết bị dạy học vẫn còn nhiều thiếu thốn, chưa đáp ứng
được yêu cầu về chất lượng giáo dục, chính sách đãi ngộ đối với giáo viên, nhân viên, cán bộ quản
lý giáo dục chưa đem lại được những khuyến khích vật chất và tinh thần.
Đồng thời, ta cần xem xét các yếu tố chủ quan trong thực trạng về trình độ giáo dục giữa các học
sinh đồng bào thiểu số. một số địa phương, nhận thức của một bộ phận người dân về việc học
tập của con em còn hạn chế, chưa quan tâm tạo điều kiện để con em đi học dẫn đến tình trạng bỏ
học, thất học của các em học sinh thiểu số. Ngoài ra, nhiều học sinh mong muốn chăm lo cho
lOMoARcPSD| 61601590
điều kiện kinh tế khó khăn của gia đình không tha thiết chuyện học trở thành nguồn lao
động chính trong nhà.
Sau khi xem xét các yếu tố khách quan, chủ quan, những nhân tố vật chất tinh thần của hiện tượng
này, ta nhận thấy ngoài quan tâm việc đầu tư cơ sở vật chất, thiết bị dạy học phù hợp với tình hình
thực tế của địa phương thì cần tăng cường công tác nâng cao nhận thức về phát triển giáo dục đối
với các dân tộc thiểu số, các cán bộ quản giáo dục địa phương cần can thiệp, giảm thiểu tác
động của các phong tục tập quán lạc hậu như tảo hôn làm ảnh hưởng đến con đường học tập của
các em học sinh dân tộc thiểu số.
3. VẬN DỤNG TRONG CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI ĐẤT NƯỚC
Nhìn chung, bên cạnh những thành tựu nước ta đã đạt được trong công cuộc đổi mới đất nước:
Duy trì được tốc độ tăng trưởng bình quân khá, cơ cấu các ngành kinh tế đã có sự dịch chuyển tích
cực theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập kinh tế quốc tế được đẩy mạnh; trong quá
trình này còn tồn tại nhiều khó khăn như: Kinh tế phát triển chưa bền vững, chuyển dịch cấu
kinh tế bao gồm cả cơ cấu ngành, cơ cấu lao động đã “chững lại” trong nhiều năm nhưng chậm có
sự điều chỉnh phù hợp, sức cạnh tranh nền kinh tế còn thấp, năng suất lao động khoảng cách
lớn so với nhiều nước,...
Đại hội XIII của Đảng nhận định: “Đất nước đang đứng trước nhiều thời cơ và thách thức
đan xen, nhiều vấn đề chiến lược mới đặt ra cần phải giải quyết, từ tình hình quốc tế, khu vực dự
báo tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường đến các thách thức mang tính toàn cầu về biến đổi khí
hậu, thiên tai, dịch bệnh và cả những thành tựu ngoạn mục của tiến bộ khoa học công nghệ đang
tác động, ảnh hưởng mạnh mẽ tới đời sống kinh tế - xã hội của đất nước ta cũng như toàn thế giới.”
Trong quá khứ, những thay đổi của tình hình thế giới, quan hệ với các nước bạn đã tác
động đến công cuộc đổi mới và cuộc khủng hoảng toàn diện, trầm trọng ở Liên các nước xã
hội chủ nghĩa đã đòi hỏi Đảng và Nhà nước ta tiến hành đổi mới. Nhận thức được sự cần thiết của
những thay đổi này, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra những chính sách phù hợp cho công cuộc phát
triển đất nước.
Đảng ta nhận định bước phát triển mới của toàn cầu hóa trong những năm tới khi cuộc Cách
mạng công nghiệp 4.0 bùng nổ; từ đó, tính toán sách lược, chiến lược trong tiến trình chủ động
tích cực hội nhập quốc tế. Ngoài ra, sự phát triển lâu dài của đất nước đòi hỏi không chỉ lãnh đạo
của đất nước, các nhà doanh nghiệp cũng phải hết sức nhanh nhạy nắm bắt thông tin, khơi
thông mọi nguồn lực hiện vào công cuộc đổi mới đất nước. Mục tiêu chính vẫn tăng cường
xây dựng, chỉnh đốn Đảng hthống chính trị trong sạch, vững mạnh; tiếp tục đẩy mạnh toàn
diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; xây dựng bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường
lOMoARcPSD| 61601590
hòa bình, ổn định. Trên hết, mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ cuộc sống,
nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm
đích đến; thật sự tin tưởng, tôn trọng phát huy quyền làm chủ của nhân dân, kiên trì thực hiện
phương châm "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng". Có như thế
mới củng cố tăng cường niềm tin của nhân dân đối với những chính sách mà Đảng, Nhà nước
đề ra, cùng với đó các mặt lợi của hội chủ nghĩa. Từ đó, những lúc khủng hoảng, Nhà nước
và dân ta lại càng giữ vững ý chí phát triển quyết tâm cao, nỗ lực lớn, hành động quyết liệt, năng
động, sáng tạo, tích cực của dân tộc trong công cuộc xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa.
Đồng thời, cần phải chống lại bệnh chủ quan, duy ý chí, tức thổi phồng tính tích cực, sáng tạo
của ý thức; cũng như bệnh bảo thủ trì trệ, nghĩa là đang hạ thấp tính tích cực, sáng tạo của ý thức.
Trong những năm vừa qua, đạt được những thành tựu rất quan trọng, rất đáng tự hào, nhưng
đất nước ta vẫn đứng trước nhiều khó khăn, thách thức hạn chế. Đảng Nhà nước cũng đã
xem xét những vấn đề này, từ đó đề ra các chính sách phù hợp, đều có mang tính sáng tạo và tích
cực, trong khi vẫn bám sát vào thực tế khách quan và thực trạng nhà nước lúc bấy giờ. Muốn như
thế thì từ khâu đầu tiên phải nghiêm khắc chỉ ra nguyên nhân chủ quan của tình hình khó khăn là
do những sai lầm khuyết điểm; tự nhận ra khuyết điểm trong việc đánh giá tình hình cụ thể của đất
nước, trong việc xác định mục tiêu của đất nước.
Trong khi xem xét các điều kiện xã hội còn cần phải tính đến cả điều kiện vật chất lẫn nhân tố tinh
thần, cả điều kiện khách quan lẫn nhân tố chủ quan. Năm 2020, trong bối cảnh đại dịch Covid-19
tác động mạnh đến nước ta, gây nhiều thiệt hại về kinh tế - hội, nhưng với sự nỗ lực cố gắng
vượt bậc, đất nước đã đạt được những kết quả, thành tích đặc biệt hơn so với các năm trước. Kinh
tế nước ta đạt mức tăng trưởng 2,91%, một trong những nền kinh tế tốc độ tăng trưởng cao
nhất thế giới trong thời kì này. Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, tính ưu việt của chế
độ hội chủ nghĩa; sự lãnh đạo nhạy bén, đúng đắn của Đảng; sự chỉ đạo, điều hành quyết liệt,
kịp thời của Chính phủ; sự vào cuộc đồng bộ, tích cực của cả hệ thống chính trị; sự đồng tình,
hưởng ứng, ủng hộ mạnh mẽ của nhân dân cả nước và đồng bào ta ở nước ngoài, chúng ta đã kịp
thời khống chế, bản kiểm soát, ngăn chặn được sự lây lan của đại dịch Covid19 trong cộng
đồng; hạn chế tối đa những thiệt hại, tổn thất do dịch bệnh gây ra, bảo đảm an sinh và phúc lợi xã
hội cho nhân dân; từng bước khôi phục sản xuất kinh doanh, nỗ lực hoàn thành mức cao nhất
các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội.
→ Tất cả những nỗ lực này của Đảng, Nhà nước toàn dân đã dẫn đến sự thay đổi tích cực của
vật chất: Năm 2020, với gần 100 triệu dân, thu nhập bình quân đầu người đạt 3.521 USD. Đời
sống nhân dân được nâng cao rệt về vật chất, văn hóa, tinh thần, về mức sống chất lượng
cuộc sống; nhất văn, ở, đi lại, học hành, chữa bệnh, dịch vụ cuộc sống. Hệ thống chính trị
được xây dựng, củng cố vững mạnh, bảo đảm sự ổn định chính trị của đất nước. Quốc phòng, an
lOMoARcPSD| 61601590
ninh được tăng cường, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, biển,
đảo của Tổ quốc. Đối ngoại, hội nhập quốc tế không ngừng mở rộng, kết hợp nội lực với ngoại
lực, nâng cao vị thế của Việt Nam, tạo môi trường hòa bình, hợp tác và phát triển.
ND2: HAI NGUYÊN LÍ CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT
I. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến:
Lý luận:
Quan điểm toàn diện, quan điểm lịch sử cụ thể xuất phát từ nguyên lí về mối liên hệ phổ biến.
Mối liên hệ theo quan điểm siêu hình trước Mác xem xét các sự vật, hiện tượng trong trạng thái
tách rời nhau, cô lập nhau, giữa chúng không có mối liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau, nếu có thì
chỉ là những mối liên hgiản đơn, hời hợt ở bên ngoài. Do đó, quan điểm này đã không thể vạch
ra được bản chất của sự vật, hiện tượng.
Theo quan điểm biện chứng, mối liên hệ là một phạm trù dùng để chỉ sự ràng buộc, phụ thuộc, quy
định lẫn nhau, sự tác động qua lại lẫn nhau giữa các mặt, các yếu tố, các bộ phận cấu thành nên sự
vật, hiện tượng; giữa sự vật, hiện tượng với môi trường; mà trong đó sự biến đổi của sự vật, hiện
tượng này sẽ kéo theo sự biến đổi của sự vật, hiện tượng khác.
Vd: mối liên hệ giữa con người và thức ăn; mối liên hệ giữa mây vàa,...
Tính chất của mối liên hệ bao gồm các yếu tố sau:
- Tính khách quan: sự vật, hiện tượng đa dạng, phong phú như thế nào thì chúng cũng chỉ
những dạng cụ thể khác nhau của một dạng vật chất duy nhất. Mối liên hệ là cái vốn có của bản
thân các sự vật, hiện tượng chứ không phải do sự áp đặt từ bên ngoài, không phụ thuộc vào ý
thức của cong người, dù muốn hay không muốn thì bản thân các sự vật, hiện tượng hay các mặt,
bộ phận của chúng đều luôn chứa đựng các mối liên hệ.
VD: Con người từ khi sinh ra đã chứa đựng mối liên hệ giữa tiêu hóa bài tiết, chính chúng ta
cũng không thể thay đổi được điều này.
- Tính phổ biến: mỗi một sự vật, hiện tượng một hệ thống cấu trúc nội tại. Không s
vật,hiện tượng nào tồn tại một cách lập, biệt lập với các sự vật hiện tượng khác. Mối liên hệ
có trong mọi sự vật, hiện tượng; mọi giai đoạn, mọi quá trình; có cả trong tự nhiên, xã hội và tư
duy con người.
VD: Trong tự nhiên, một cái cây không thể tồn tại một cách biệt lập, muốn tồn tại thì phải trong
sự tác động qua lại với rất nhiều yếu tố như: đất, nước, nhiệt độ, ánh sáng, khí hậu,...
- Tính đa dạng phong phú: xuất phát từ sự đa dạng, muôn hình muôn vẻ của thế giới vật chất. Mỗi
một mối liên hệ lại những đặc điểm riêng, vị trí, vai trò riêng đối với sự tồn tại, vận động, phát
triển riêng của sự vật, hiện tượng.
VD: Đến tuổi dậy thì, nhờ mối liên hệ giữa hoóc-môn sinh dục và cơ thể các bạn thiếu niên bắt
đầu có những sự biến đổi trong chức năng sinh lý để bộc lộ những đặc trưng về mặt giới tính.
lOMoARcPSD| 61601590
Khoa học đã chứng minh rằng:
- Phương thức tồn tại của sự vật, hiện tượng do cách thức liên hệ giữa các yếu tố cấu thành
quyếtđịnh.
VD: Ở người bình thường, có 46 nhiễm sắc thể. Vì một lý do nào đó mà số lượng nhiễm sắc thể bị
thay đổi (thiếu hoặc thừa), cách tổ hợp nhiễm sắc thể thành cặp bị thay đổi sẽ gây ra các hội chứng
bệnh đột biến số lượng nhiễm sắc thể như: Tớc-nơ, Đao,..
- Sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng do sự tác động qua lại giữa các yếu tố cấu thành
quyết định, mà trước hết là do sự tác động qua lại lẫn nhau giữa các mặt đối lập.
VD: Stác động qua lại giữa quá trình đồng a và dị hóa là động lực cho sự phát triển của cơ thể
sinh vật.
Ý nghĩa phương pháp luận: nguyên lí về mối liên hệ phổ biến đòi hỏi trong nhận thức và thực tiễn
cần tuân theo quan điểm toàn diện và quan điểm lịch sử cụ thể.
Quan điểm toàn diện yêu cầu:
- Khi xem xét các sự vật, hiện tượng cần phải xem xét đến tất cả các mặt, các mối liên hệ, kcả
những mắt khâu trung gian trong những điều kiện không gian, thời gian nhất định.
- Trong vàn các mối liên hệ đó, cần rút ra những mối liên hệ bản, chủ yếu (những mối liên
hệ trọng tâm, trọng điểm) để nắm bắt bản chất của các sự vật, hiện tượng.
- Sau khi nắm bắt được bản chất thì cần phải đối chiếu với các mối liên hệ khác để tránh sai lầm
trong nhận thức.
- Cần chống lại cách xem xét phiến diện, chủ quan (chỉ thấy một mặt không thấy nhiều mặt,
chỉ thấy mối liên hệ này mà không thấy mối liên hệ khác).
- Chống lại cách xem xét cào bằng, dàn trải các mối liên hệ (coi mọi mối liên hệ là như nhau)
- Chống lại thuật ngụy biện (quy cái thứ yếu thành cái chủ yếu, quy cái không cơ bản thành cái cơ
bản)
Quan điểm lịch sử - cụ thể yêu cầu:
- Khi xem xét các sự vật, hiện tượng cần phải đặt chúng trong từng hoàn cảnh, lịch sử - cụ thể;
trong điều kiện, môi trường cụ thể; trong từng điều kiện không gian, thời gian nhất định; trong
từng mối liên hệ, quan hệ nhất định; trong từng trường hợp cụ thể nhất định; trong từng hệ tọa
độ nhất định.
- Cần xét đến tính chất đặc thù của đối tượng nhận thức các nh huống khác nhau phải giải
quyết trong thực tiễn.
- Cần xem xét sự vật, hiện tượng trong sự vận động, phát triển ở từng giai đoạn cụ thể nhất định.
Vận dụng:
lOMoARcPSD| 61601590
Công cuộc đổi mới đất nước hiện nay:
Nước ta đã độc lập, thống nhất kể từ năm 1975 nhưng đến năm 1986 thì mới bắt đầu xây dựng cơ
đồ của đất nước, xây dựng chủ nghĩa hội đúng nghĩa; đó sau Đại hội lần thứ VI tháng 12/1986.
Nhìn lại 35 năm đổi mới, tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng (1/2021), Đảng
nhận định rằng. “Đất nước ta chưa bao giờ được đồ, tiềm lực, vị thế uy tín quốc tế như
ngày nay” (Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII)
Trong 35 năm ấy, Đảng và Nhà nước đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng và đáng tự hào trên
nhiều lĩnh vực: Chính trị, xã hội ổn định, đời sống của nhân dân được cải thiện rõ rệt. Các lĩnh vực
an sinh hội, y tế, giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ, bảo vệ môi trường, phát triển văn
hoá, xây dựng con người Việt Nam, v.v... có nhiều chuyển biến tích cực, có mặt khá nổi bật.
Công cuộc đổi mới đất nước phải diễn ra một cách toàn diện, trên mọi lĩnh vực, khía cạnh khác
nhau của đời sống, “đòi hỏi chúng ta phải nhận thức đúng đầy đủ, quán triệt sâu sắc thực
hiện thật tốt, hiệu quả[1,]. Song, Văn kiện Đại hội XIII cũng đã xác định nhiệm vụ chủ yếu
của công cuộc đổi mới hiện nay là “Phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm; xây dựng Đảng là then
chốt; phát triển văn hoá là nền tảng tinh thần; bảo đảm quốc phòng, an ninh trọng yếu, thường
xuyên.” [1,].
Xét về khía cạnh kinh tế, nước ta nhiều sự chuyển đổi khá toàn diện ch cực: “nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục phát triển; kinh tế vĩ mô ổn định, vững chắc hơn,
các cân đối lớn của nền kinh tế bản được bảo đảm, tốc độ tăng trưởng duy trì mức khá cao;
quy mô và tiềm lực nền kinh tế tăng lên, chất lượng tăng trưởng được cải thiện.” [2,]
Giáo dục đào tạo sự vận dụng sáng tạo khoa học, công nghệ nhiều sự đổi mới, phát
triển. Nhưng, “đổi mới giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ chưa thực sự trở thành động
lực then chốt thúc đẩy phát triển kinh tế - hội” [2,]. Vấn đề chung đây công tác giáo dục
vẫn còn thiếu hiệu quả, chưa chú trọng vào phát triển năng lực, phẩm chất của người học.
Khoa học công nghệ có nhiều tiến bộ vượt bậc động lực lớn của quá trình phát triển kinh
tế - hội và nhiều lĩnh vực khác nhau trong đất nước như nông công nghiệp, văn hóa, chính trị,
y tế, quốc phòng, giáo dục,... Nhà nước có nhiều chính sách để quản lý, đầu tư và phát triển tiềm
lực của lĩnh vực này.
Về văn hóa – xã hội, sự chú trọng nhận thức, tiếp thu, phát triển, kế thừa và gìn giữ những
giá trị truyền thống một cách toàn diện hơn, sâu sắc hơn nhằm đáp ứng được nhu cầu văn hóa ngày
càng đa dạng của đất nước. Có nhiều chính sách hỗ trợ, phúc lợi và an sinh xã hội cho người dân.
“Đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt; tỉ lệ hộ nghèo theo chuẩn nghèo đa chiều giảm còn dưới
3%”. [1,].
Ngoài ra, Đảng và Nhà nước còn có sự chú tâm đến những lĩnh vực khác:
- Quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường thích ứng với biến đổi khí hậu được chú trọng,
bước đầu đạt kết quả tích cực.
lOMoARcPSD| 61601590
- Chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được giữ vững và tăng cường; quan hệ đối
ngoại, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, đạt nhiều thành tựu nổi bật.
- Xây dựng Nhà nước pháp quyền hội chủ nghĩa nhiều tiến bộ, tổ chức bộ máy nhà
nước tiếp tục được hoàn thiện, hoạt động hiệu lực hiệu quả hơn; bảo đảm thực hiện đồng bộ
các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính
trị được đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ, quyết liệt, có hiệu quả rõ rệt.
Tóm lại, nhờ vận dụng triệt để quan điểm toàn diện vào quá trình đổi mới đẩt nước, Đảng và Nhà
nước đã có những động thái đúng đắn và phù hợp, không chỉ tập trung xây dựng bộ máy chính trị
mà còn xây dựng, nhiều bước hoàn thiện, cải tiến cho nhiều lĩnh vực khác trong hội. Đó
sự nỗ lực, cố gắng vận dụng, kế thừa, phát huy sáng tạo, hiệu quả những bài học triết học
Mác – Lênin đã để lại qua một quá trình đấu tranh lâu dài, như trong văn kiện đã nhận định rằng
“Đó là sản phẩm kết tinh sức sáng tạo, là kết quả của quá trình phấn đấu liên tục, bền bỉ của toàn
Đảng, toàn dân và toàn quân ta qua nhiều nhiệm kỳ đại hội, góp phần tạo nên những thành tựu to
lớn, có ý nghĩa lịch sử của nước ta qua 35 năm đổi mới”. [1]
[1] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII.
[2] Tài liệu học tập các văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, NXB Chính trị
quốc gia – Sự thật.
II. Nguyên về sự phát triển Quan
điểm biện chứng về sự phát triển:
Khái niệm phát triển:
Phát triển một phạm trù dùng để chỉ quá trình vận động của sự vật, hiện tượng theo khuynh
hướng đi lên, từ trình độ thấp đến trình độ cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến
hoàn thiện hơn.
Tính chất của sự phát triển:
- Thứ nhất, tính khách quan:
Phát triển là thuộc tính vốn có, tất yếu của bản thân các sự vật, hiện tượng, không phụ thuộc vào ý
thức của con người, muốn hay không muốn thì bản thân sự vật, hiện tượng luôn luôn năm trong
quá trình phát triển.
VD:
- Thứ hai, tính phổ biến:
lOMoARcPSD| 61601590
Quá trình phát triển diễn ra trong mọi sự vật, hiện tượng, trong mọi lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư
duy con người. Trong mỗi quá trình vận động đã bao hàm khả năng dẫn đến sự ra đời của cái mới
tiến bộ hơn, phù hợp với quy luật khách quan.
VD:
- Thứ ba, tính đa dạng, phong phú:
Sự phát triển không hoàn toàn giống nhau các sự vật, hiện tượng khác nhau, trong những điều
kiện không gian thời những lĩnh vực hiện thực khác nhau. gian khác nhau, trong những lĩnh
vực hiện thực khác nhau.
VD:
(Nhìn thêm giáo trình: Tr.95,96) Vận
dụng:
Đặt mục tiêu tương lai ở hiện tại, xác định mục tiêu tương lai, chia thành nhiều giai đoạn để có thể
thực hiện mục tiêu đó. Biện pháp thực hiện trong từng giai đoạn.
Đối với học sinh, sinh viên:
Trong giai đoạn cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 hay thế kỉ XXI, học là việc vô cùng quan trọng
đối với học sinh, sinh viên để phát triển và hoàn thiện bản thân mình. Với sự vận động đi lên của
toàn hội thì sinh viên cần phải biết nắm chắc sở luận của quan điểm phát triển, để từ đó
có thể vận dụng một cách tối ưu, sáng tạo và hợp lý.
Sinh viên phải nhìn tương lai như một chuỗi các gián đoạn phải biết phân chia quá trình phát triển
của sự vật thành từng giai đoạn, từ đó phải học cách vượt qua các gián đoạn cách tác động
phù hợp thúc đẩy sự vật phát triển đó trong hiện tại tương lai. Khuynh hướng chung phát
triển đi lên, tức phải thấy được tính quanh co, phức tạp của sự vật, hiện tượng trong quá trình phát
triển của nó. Có lúc sinh viên sẽ cảm thấy quá trình học tập không có chút tiến triển, dậm chân tại
chỗ thì chúng ta tránh bi quan, tránh những suy nghĩ tiêu cực. Mỗi sinh viên có sự phát triển về trí
tuệ và thể chất khác nhau, sẽ có các phương pháp học tập rèn luyện khác nhau để nâng cao trí tuệ,
cảm xúc. Mỗi người một thước đo cuộc sống khác nhau không thể từ đó áp vào bản thân
mình rồi cảm thấy tự ti, áp lực cùng trang lứa.
Quá trình rèn luyện và học tập là quá trình tích lũy kiến thức lâu dài. Sinh viên không nên chỉ dựa
vào điểm số tức thời đưa ra kết luận quy chụp, cần xem xét cả quá trình phấn đấu, nỗ lực.
Chẳng hạn, sinh viên thành tích không tốt trong một bài kiểm tra đánh giá, nhưng trong quá
trình học tập rèn luyện đã nỗ lực hết mình.
ND3: QUY LUẬT LƯỢNG CHẤT 2.
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA QUY LUẬT LƯỢNG –CHẤT:
2.1 Khái niệm chất:
lOMoARcPSD| 61601590
Chất một phạm trù triết học dùng để chỉ nh quy định khách quan vốn có của sự vật, hiện tượng;
là sự thống nhất hữu cơ của các thuộc tính làm cho sự vật là chính nó chứ không phải là cái khác.
VD: Chất của nhôm là có ánh kim, dễ dát mỏng,..
Lượng một phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn của sự vật vcác
phương diện: số lượng các yếu tố cấu thành, quy của sự tồn tại, tốc độ, nhịp điệu của các quá
trình vận động, phát triển của sự vật.
VD: Có những lượng ta thể đo đếm được chính xác như trọng lượng thể hay chiều cao của
một con người…
2.3 Mối quan hệ biện chứng giữa lượng và chất:
2.3.1. Lượng đổi dẫn đến chất đổi:
- Khi sự vật đang tồn tại, chất và lượng thống nhất với nhau ở một độ nhất định.
- Độ phạm trù triết học dùng để chỉ giới hạn, trong đó sự thay đổi về lượngmcủa sự vật
chưa làm thay đổi căn bản chất của sự vật ấy.
VD: Độ tồn tại của nước nguyên chất ở trạng thái lỏng từ 0C đến 100C.
- Trong giới hạn của một độ nhất định, lượng thường xuyên biến đổi còn chất tương đối ổn
định. Sự thay đổi về lượng của sự vật có thể làm chất thay đổi ngay lập tức nhưng cũng thể làm
thay đổi dần dần chất cũ. Lượng biến đổi đến một giới hạn nhất định có xu hướng tích luỹ đạt tới
điểm nút, nếu có điều kiện sẽ diễn ra bước nhảy làm thay đổi chất của sự vật.
- Điểm nút phạm trù triết học dùng để chỉ thời điểm tại đó, sự thay đổi về lượng đã
làm thay đổi chất của sự vật.
VD: 0C và 100C là điểm nút để nước chuyển sang trạng thái rắn hoặc trạng thái khí (bay hơi)
- Muốn chuyển từ chất cũ sang chất mới phải thông qua bước nhảy. Bước nhảy là một phạm
trù triết học dùng để chỉ sự chuyển hoá về chất của sự vật do những sự thay đổi về lượng trước đó
gây nên.
VD: một cuộc cách mạng, một kỳ thi, một đám cưới,…
- Bước nhảy kết thúc một giai đoạn biến đổi về lượng và mở đầu cho một giaiđoạn phát triển
mới. Đó gián đoạn trong quá trình vận động liên tục của sự vật, đồngthời là một tiền đề cho một
quá trình tích luỹ liên tục về lượng tiếp theo.
VD: Trong xã hội: Sự phát triển của lực lượng sản xuất (lượng đổi) tới khi mâu thuẫn với quan
hệ sản xuất lỗi thời (chất cũ) sẽ dẫn đến đấu tranh giai cấp mà đỉnh cao là cách mạng xã hội (bước
nhảy) làm cho xã hội cũ mất đi, xã hội mới tiến bộ hơn ra đời.
2.3.2. Chất mới ra đời, nó tác động trở lại lượng mới, làm thay đổi kết cấu, quy mô, trình độ nhịp
điệu của sự vận động phát triển của sự vật:
lOMoARcPSD| 61601590
- Như vậy, bất kì sự vật, hiện tượng nào cũng là sự thống nhất biện chứng giữa hai mặt chất
lượng. Sự thay đổi về lượng tới điểm nút sẽ dẫn đến sự thay đổi về chất thông qua bước
nhảy. Chất mới ra đời sẽ tác động trở lại sự thay đổi của lượng mới. Quá trình đó liên tục
diễn ra, tạo thành phương thức phổ biến của các quá trình vận động, phát triển của sự vật,
hiện tượng trong tự nhiên, xã hội, tư duy. 2.5 Ý nghĩa phương pháp luận:
- Một là, bất kì sự vật, hiện tượng nào cũng có phương diện chất và lượng tồn tại trong tính
quy định, tác động làm chuyển hoá lẫn nhau do đó trong thực tiễn nhận phải coi trọng
cả hai phương diện chất và lượng.
- Hai là, những sự thay đổi về lượng sẽ dẫn đến những sự thay đổi về chất trong điều kiện
nhất định và ngược lại do đó cần coi trọng quá trình tích luỹ về lượng để làm thay đổi chất
của sự vật đồng thời phát huy tác động của chất mới để thúc đẩy sự thay đổi về lượng của
sự vật.
- Ba là, sự thay đổi về lượng chỉ làm thay đổi chất khi lượng được tích luỹ đến giới hạn điểm
nút do đó trong thực tiễn cần khắc phục bệnh nôn nóng tả khuynh, bảo thủ trì trệ.
- Bốn là, chống lại bệnh bảo thủ, trì trệ, khi lượng đã biến đổi đến điểm nút nhưng không
chịu thực hiện bước nhảy.
- Năm là, cần phải xác định được bước nhảy, thái độ ủng hộ nước nhảy tạo mọi điều
kiện cho bước nhảy được thực hiện một cách kịp thời.
- Sáu là, trong đời sống XH, cần nhận thức đúng vận dụng một cách phù hợp khi giải
quyết mối quan hệ giữa chất tự nhiên chất XH của sự vật, hiện tượng. Tùy vào từng điều
kiện LS-CT mà có thể nhấn mạnh chất tự nhiên hay chất xã hội lên đầu.
- Bảy là, cần có những biện pháp cụ thể để thay đổi chất của sự vật, hiện tượng:
Thay đổi số lượng các yếu tố cấu thành nên sự vật, hiện tượng.
Thay đổi chất lượng cá yếu tốt cấu thành nên sự vật, hiện tượng
Thay đổi cơ chế tác động giữa cá yếu tốt cấu thành nên sự vật, hiện tượng
Thay đổi trật tự sắp xếp giữa cá yếu tốt cấu thành nên sự vật, hiện tượng
Thay đổi chức năng của cá yếu tốt cấu thành nên sự vật, hiện tượng và chức năng của toàn
bộ sự vật, hiện tượng.
Thay đổi môi trường tồn tại của sự vật hiện tượng
[TUI TRÌNH BÀY]
Vấn đề về xác định phương pháp học tập mới, khoa học (tích lũy về lượng)
Trong quá trình rèn luyện trường học, ch luỹ kiến thức dạng tích y về lượng, khi
đạt đến một lượng kiến thức nhất định, học sinh schuyển sang mức độ mới cao hơn. Như
lOMoARcPSD| 61601590
vậy, thời gian giữa các mức độ học tập gọi độ; bài kiểm tra, bài thi điểm nút; sự
chuyển từ cấp độ cũ sang cấp độ mới là bước nhảy.
Bước nhảy đánh dấu sự ra đời của chất mới: Đầu tiên sự thay đổi từ học sinh (chất cũ)
thành sinh viên (chất mới), chất mới tác động trở lại lượng. Chất mới có sự khác nhau với
chất chỗ quá trình tích lũy kiến thức thông qua quá trình tự học, tìm i nghiên cứu,
tự định hướng ở bậc Đại học thay vì được thầy cô cung cấp như bậc Trung học. Giờ đây,
lượng là sự tích luỹ kiến thức mới lẫn kỹ năng mềm, bên cạnh đó cũng là sự phát triển về
suy nghĩ, nhận thức, hành động, cách tư duy.
Đồng nghĩa với việc sinh viên phải ý thức được sự thay đổi đó, để thể chủ động xác
định được thái độ và phương pháp học tập, phương pháp tư duy phù hợp, tiến bộ hơn thời
THPT. Trong đó, quan trọng là cố gắng tham gia đầy đủ các tiết học; tránh bệnh chủ quan,
lười biếng khi không còn thầy cô, phụ huynh giám sát chặt chẽ như hồi các cấp học thấp
hơn; tìm tòi thêm nhiều nguồn tài liệu học tập; tham gia các hoạt động ngoại khóa;...
Tránh trường hợp không tập trung học, bị xao nhãng bởi những chuyện ngoài lề, làm ảnh
hưởng đến tốc độ học. Tránh để xảy ra tình trạng khi đến gần giai đoạn thi mới bắt đầu học
lại từ đầu,….
Cùng một chương trình học, cùng một khối lượng kiến thức và kỹ năng cần thu nạp và rèn
luyện, một sinh viên tinh thần say học tập đầu óc biết lên kế hoạch ràng,
khoa học một sinh viên lười biếng, chủ quan, giữ nguyên cách tiếp cận bài học, cách
tương tác với thầy cô như thời THPT chắc chắn sẽ cho ra hai kết quả cực kì khác biệt.
Vấn đề về việc tham gia các kỳ thi (ủng hộ bước nhảy; thực hiện bước nhảy)
Lượng ở Đại học khác ở THPT lại tác động trở lại chất. Đòi hỏi sinh viên cần trau
dồi bản thân để còn tạo ra sự khác biệt về chất (một sinh viên ưu hơn, nổi bật hơn bạn
bè đồng trang lứa chẳng hạn).
Cụ thể sau khi chủ động, tích cực tích lũy kiến thức; rèn luyện thêm các kỹ năng; học
hỏi duy học tập tiến bộ thầy định hướng hay bạn gợi ý;...bản thân lúc này đã
được tôi luyện tiến bộ hơn rất nhiều so với trước kia. vậy cần phải tự tin tham gia
các kỳ thi như Nghiên cứu khoa học, Pháp luật, Chứng chỉ ngoại ngữ, Chứng chỉ tin
học,....(thực hiện bước nhảy) để đánh dấu sự thay đổi mới, xây dựng được thương hiệu bản
thân (chất mới ra đời). Chí ít cũng phải ý thức được việc cần cố gắng hết mình trong việc
xung phong trả lời, giải các câu hỏi, bài tập trên lớp; tích cực, tự tin khi thực hiện các bài
thi giữa kỳ, kết thúc học phần,....
Bên cạnh đó, nếu cảm thấy bạn bè xung quanh mình rơi vào trường hợp mặc dù kiến thức,
kỹ năng đã chín muồi còn e dè, tự ti chưa dám bung xõa, đăng tham gia các kỳ thi
thì chính chúng ta cũng nên có thái độ ủng hộ bạn, động viên bạn, đề nghị hỗ trợ bạn trong
khả năng để tạo điều kiện cho bạn; từ đó bạn có thể đạt được một danh hiệu, một sự công
nhận cao hơn (chất mới).
lOMoARcPSD| 61601590
Tóm lại, trau dồi bản thân là một chuyện, còn xây dựng tâm thế tự tin, chủ động tham gia
các hoạt động thể hiện nh, khẳng định mình là một chuyện khác và đòi hỏi sinh viên cần
có thái độ tích cực, tự tạo cơ hội cho chính mình và cho người khác nếu có thể. Cuộc sống
luôn vận động phát triển không ngừng theo thời gian, cùng với đó, con người cũng phải
vận động chạy theo để không bị bỏ lại phía sau. Là một sinh viên thời đại mới phát triển
tiên tiến hơn rất nhiều, chúng ta không thể không ngừng phấn đấu trau dồi bản thân
mình và giúp đỡ người khác.
Vấn đề về nóng vội đốt cháy giai đoạn
Trong quá trình học tập rèn luyện, sinh viên cần tranh tưởng nhảy cấp. Sau khi học
những kiến thức bản, tức khi có sự biến đổi về chất thì sinh viên mới có thể tiếp tục
nghiên cứu những kiến thức khó hơn.
Ngoài ra, có nhiều sinh viên có sức học trung bình nhưng lại muốn đăng kí nhiều môn học
trong cùng một năm hay một học kỳ để được ra trường sớm hơn những người khác, dẫn
đến không có môn học nào được hoàn thiện, mất thêm thời gian và tiền bạc để học lại, thi
lại. Tóm lại, muốn tiếp thu được nhiều kiến thức kết quả cao trong các thi, sinh
viên phải học dần mỗi ngày, từ kiến thức cơ bản đến nâng cao. Từ đó, sự biến đổi về lượng
sẽ dẫn đến sự biến đổi về chất theo hướng tích cực.
[ANH CHỊ TUI TRÌNH BÀY]
Cách làm phần vận dụng
- Trong cuộc sống học tập của sinh viên:
o Cần xác định trong cuộc sống, học tập có những vấn đề gì: quan hệ bạn bè, học tập, thầy
cô... o Xác định điểm nút và bước nhảy của vấn đề đó.
o Từ đó thể hiện sự phát triển và hoàn thiện bản thân cần: phát huy mặt tốt, khắc phục mặt
hạn chế (áp dụng ý nghĩa pp luận).
- Trong công cuộc đổi mới của đất nước ngày nay: o Xác định các vấn đề liên
quan: công nghệ 4.0, công nghiệp hóa, hiện đại hóa… o Xác định độ, điểm nút,
bước nhảy.
o Giải quyết trình bày như sau: Theo Đại hội Đảng lần thứ VI
Giữ vững định hướng XHCN trong quá trình đổi mới, kết hợp sự kiên định về nguyên tắc
chiến lược cách mạng với sự linh hoạt trong sách lược, nhạy cảm nắm bắt cái mớ, trong đó
nhấn mạnh: Đổi mới không phải là thay đổi mục tiêu XHCN mà là làm cho mục tiêu ấy được thực
hiện có kết quả bằng quan điểm đúng đắn về CNXH, bằng những hình thức, bước đi và biện pháp
thích hợp. Điều kiện cốt yếu trong công cuộc đổi mới được định hướng XHCN đi đến thành
công là trong quá trình đổi mới Đảng phải kiên trì và vận dụng sáng tạo Chủ nghĩa Mác – Lê nin,
lOMoARcPSD| 61601590
Tư tưởng HCM, giữ vững vai trò lãnh đạo XH. Đảng phải tự đổi mới và chỉnh đốn, không ngừng
nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của mình.
Trong quá trình đổi mới, phải quan tâm đến dự báo tình hình, kịp thời phát hiện và giải
quyết đúng đắn những vde mới nảy sinh trên tinh thần kiên định thực hiện đường lối đổi mới: tăng
cường tổng kết thực tiễn không ngừng hoàn chỉnh luận về con đường xây dựng CNXH
nước ta, trong đó nhấn mạnh: Công cuộc đổi mới càng đi vào chiều sâu thì càng xuất hiện nhiều
vde mới liên quan đến nhận thức về CNXH con đường xây dựng CNXH. Chỉ tăng cường
tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận thì mới trở thành hoạt động tự giác, chủ động và sáng tạo, bớt
được sai lầm và những bước đi quanh co, phức tạp.
Vận dụng trong cs, ht của bản thân:
o Sau khi tích lũy đủ lượng kthuc (lượng thay đổi), một học sinh THPT thành công thay đổi
thành chất sinh viên. Trong đó, độ HS THPTtừ lớp 10 đến lớp 12; độ của SV từ năm thứ nhất
ĐH đến năm thứ tư; điểm nút thi tốt nghiệp THPT đỗ, đủ điểm đỗ vào ĐH; bước nhảy kết
thúc giai đoạn HS THPT (sau tốt nghiệp), khởi đầu SV ĐH năm nhất.
o Hiểu rằng trong nhận thức thực tiễn, SV cần phải xem xét toàn diện về sự vật, hiện tượng;
không nên phiến diện chỉ coi trọng lượng, không thực hiện bước nhảy hay chỉ coi trọng chất. Đặt
trong mối QH với nhà trường và thầy cô, thì chất của SV phải là chất SV. Khi đã là “chất SV” thì
đòi hỏi lượng kiến thức SV tiếp thu mỗi tiết học sẽ nhiều hơn, môn học sẽ nhiều hơn…Do đó SV
phải nhanh chóng có kế hoạch cụ thể để học tập.
o Chất chỉ thay đổi khi tích lũy đủ về lượng. Hằng kỳ, hằng năm, số lượng tín chỉ tích lũy
của SV sẽ ngày càng nhiều hơn, lượng kiến thức, kỹ năng nhiều hơn…
o Tuy nhiên, chất SV vẫn chưa biến đổi vì lượng chưa đạt đến điểm nút. SV nhận thức rằng,
chỉ khi lượng (tín chỉ, kỹ năng, kiến thức, thái độ, tinh thần trách nhiệm,…) đạt tới điểm nút (ví
dụ như đạt đủ 135 tín chỉ đối với SV khoa Anh) thì chất CV mới biến đổi thành chất cử nhân.
Trong qtrinh tích lũy về lượng, cần nhận thức tránh khuynh hướng tả khuynh, nóng vội, duy ý chí,
chủ quan; tránh hiện tượng nôn nóng tốt nghiệp đăng kí quá nhiều học phần, quá sức học tập
của bản thân, dẫn đến sự quá tải, kết quả không như mong đợi. Do đó, cần phải đăng ký số lượng
tín chỉ (lượng) phù hợp với năng lực của bản thân.
o Ngược lại, cần chống bệnh bảo thủ hữu khuynh, trì trệ, không nên thụ động trông chờ vào
gia đình mà phải tự nỗ lực để tích lũy về lượng: ra trường sớm hơn hoặc đúng thời hạn. Từ đó tận
dụng những cơ hội phát triển tốt nhất cho bản thân. Vận dụng vào đổi mới nhà nước
o nước ta, lịch sử đặt ra vấn đề lựa chọn con đường phát triển bỏ qua chế độ bản chủ
nghĩa từ những năm 20 của thế kỷ XX, hòa nhập vào xu hướng tiến hóa chung của nhân loại quá
độ lên Chủ nghĩa hội bỏ qua chế độ bản chủ nghĩa để một bước nhảy cách mạng đó
đưa nước Việt Nam sang một chế độ khác, “chất” khác đất nước hội chủ nghĩa. Cương lĩnh
đầu tiên năm 1930 của Đảng đã khẳng định sau khi hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân nước ta sẽ tiến lên CNXH. Đó là lựa lựa chọn đúng đắn của Đảng.
lOMoARcPSD| 61601590
o Cả một quá trình tích lũy về đủ lượng để có một sự biến đổi về chất, chất mới được tạo nên
nhưng đồng thời cũng tạo nên lượng mới. Chúng ta cần một thời kỳ quá độ lên XHCN; trong
thời chúng ta sẽ những thay đổi phát triển về mọi mặt kinh tế, xh, vh, gd. Nhận thức được
điều đó, Đảng ta đã chủ trương xd xhcn bỏ qua chế độ bản chủ nghĩa tạo ra sự biến đổi về
chất của xh cho tất cả lĩnh vực.
o Giữa thập niên 70 với nền kt phổ biến là sx nhỏ tại vị trí chiến tranh kéo dài, tàn phá nặng
nề; bằng việc cải tạo xhcn tổ chức lại sx và mở rộng quy mô hợp tác xã với hi vọng nhanh chóng
nhiều CNXH hơn, Đảng đã đã bộc lộ tưởng chủ quan, nóng vội duy ý chí dẫn đến những
mục tiêu của đại hội IV của Đảng đề ra đều không đạt.
o Trước hoàn cảnh đó, nhà nước thấy không thể duy trì những chính sách cơ chế cũ. Thực
hiện bước nhảy kịp thời: tạo ra sự sáng tạo nhận thức đúng đắn của Đảng, Nhà nước và nhân dân
ta thực hiện công cuộc đổi mới việc đó được nêu rõ trong đại hội thứ VI năm 1986 đó chuyển
đổi nền ktx của nước ta từ hình hóa tập trung quan lieu bao cấp dựa trên chế độ công hữu về
tư liễu sang nền kt thị trưởng có sự quản lí của NN theo định hướng XHCN
o Chính thế, công cuộc đổi mới đất nước đã đạt nhiều thành tựu: Nền kinh tế vượt qua
nhiều khó khăn, thách thức, quy mô và tiềm lực được nâng lên; kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, lạm
phát được kiểm soát; tăng trưởng kinh tế được duy trì mức hợp lí, từ năm 2013 dần phục hồi,
năm sau cao hơn năm trước,…Giáo dục và đào tạo, KH và CN, VH, XH, Y tế có bước phát triển.
An sinh xã hội được quan tâm nhiều hơn và cơ bản được bảo đảm, đời sống của nhân dân tiếp tục
được cải thiện.
ND4: QUY LUẬT THỐNG NHẤT VÀ ĐẤU TRANH GIỮA CÁC MẶT ĐỐI LẬP
I. Lý luận
Quy luật mâu thuẫn vạch ra nguồn gốc, động lực của sự phát triển Nội
dung quy luật:
Mâu thuẫn là một phạm trù dùng để chỉ sự liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau giữa các mặt đối lập
trong cùng một sự vật, hiện tượng
Mặt đối lập là một phạm trù dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính, những khuynh hướng vận
động trái ngược nhau và làm nên chỉnh thể một sự vật, một hiện tượng.
Như vậy, hai mặt đối lập phải thỏa mãn những điều kiện sau đây mới tạo thành mâu thuẫn:
Thứ nhất, có xu hướng vận động trái ngược nhau
Thứ hai, làm nên chỉnh thể của một sự vật, hiện tượng
dụ như sự sản xuất tiêu dùng trong kinh tế- hội, chân sai lầm trong quá trình đấu
tranh nhận thức,…
Tính chất chung của mâu thuẫn:
Thứ nhất, tính khách quan:
lOMoARcPSD| 61601590
- Mâu thuẫn là cái vốn có của bản thân các sự vật, hiện tượng, chứ không phải do sự áp đặt
từ bên ngoài. Bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng đều chứa đựng mâu thuẫn bên trong, mâu thuẫn
này mất đi thì mâu thuẫn khác được hình thành; sự vật, hiện tượng vừa là nó, vừa là cái khác với
bản thân nó.
Ví dụ. Trong con người bất kỳ đều chứa đựng những yếu tố của các mặt đối lập giữa lương thiện
và độc ác, dũng cảm và hèn nhát, trung thực và giả dối,… Thứ hai, tính phổ biến:
- Mâu thuẫn có ở trong mọi sự vật, hiện tượng, mọi giai đoạn, mọi quá trình; mâu thuẫn có
cả trong tự nhiên, xã hội và tư duy, con người.
Ví dụ. Mâu thuẫn giữa lực và phản lực trong sự tương tác giữa các vật thể, mâu thuẫn giữa lực
đẩy lực hút giữa các hạt, phân tử, mâu thuẫn giữa giai cấp sản sản trong hội
bản, mâu thuẫn giữa tầng lớp thống trị tầng lớp bị trị trong hội thời phong kiến,… Thứ
ba, tính đa dạng, phong phú:
- Có rất nhiều loại mâu thuẫn, mỗi loại mâu thuẫn có đặc điểm riêng, vị trí, vai trò riêng, có
cách thức giải quyết riêng. Cụ thể là: mẫu thuẫn bên trong mâu thuẫn bên ngoài, mâu
thuẫn bản – mâu thuẫn không bản, mâu thuẫn chủ yếu mâu thuẫn thứ yếu, có mâu thuẫn
đối kháng – mâu thuẫn không đối kháng… Chẳng hạn, mỗi cá nhân trong xã hội đều có các mâu
thuẫn khác nhau như mâu thuẫn giữa cá đó với các cá nhân khác trong lớp học, gia đình và xã hội
trên phương diện tình cảm, nhận thức, chính trị, văn hóa,…
Mâu thuẫn là một chỉnh thể, trong đó hai mặt đối lập vừa thống nhất vừa đấu tranh với nhau
Sự thống nhất giữa các mặt đối lập: (tr.112 113)
Là sự ràng buộc, phụ thuộc, quy định lẫn nhau, nương tựa vào nhau, đòi hỏi có nhau giữa các mặt
đối lập, mặt này lấy mặt kia làm tiền đề để tồn tại, nếu không có mặt đối lập này sẽ không có mặt
đối lập kia và ngược lại.
Là sự đồng nhất các mặt đối lập, bởi vì các mặt đối lập dù cho khác nhau nhưng bao giờ cũng
có yếu tố giống nhau, tương tự nhau, nghĩa là chúng đồng nhất với nhau.
Là sự tác động ngang nhau của các mặt đối lập khi các mặt đối lập có lực ợng ngang bằng nhau.
dụ: trong hoạt động kinh tế thì sản xuất tiêu dùng phát triển theo những chiều hướng trái
ngược nhau với nhau. Sản xuất chính việc tạo ra của cải vật chất, sản phẩm để thể đáp ứng
được nhu cầu của người tiêu dùng. Còn tiêu dùng là mục đích cuối cùng của việc sản xuất, tất cả
những sản phẩm được sản xuất đều cần người tiêu dùng. Sự không tách rời, đòi hỏi nhau
giữa lực và phản lực cũng là một ví dụ điển hình cho sự thống nhất giữa các mặt đối lập.
Sự đấu tranh của các mặt đối lập:
- sự tác động qua lại lẫn nhau giữa các mặt đối lập. Thực chất của sự đấu tranh của các
mặt đối lập gắn liền với quá trình hình thành, phát triển và giải quyết mâu thuẫn:
+ Giai đoạn hình thành mâu thuẫn:
lOMoARcPSD| 61601590
Đồng nhất nhưng đồng thời bao hàm sự khác nhau
Khác nhau bề ngoài
Khác nhau bản chất, khi ấy mâu thuẫn được hình thành.
+ Giai đoạn phát triển của mâu thuẫn:
Các mặt đối lập xung đột với nhau
Các mặt đối lập xung đột gay gắt với nhau, khi ấy mâu thuẫn phát triển đến đỉnh điểm
+ Giai đoạn giải quyết mâu thuẫn
Sự chuyển hóa của các mặt đối lập, mâu thuẫn…
Ví dụ: -Trong kháng chiến chống Pháp, nhân dân ta có mâu thuẫn gay gắt với thực dân Pháp, khi
mâu thuẫn lên đến đỉnh điểm, tạo cho ta động lực đứng lên đấu tranh và kết quả cuối cùng là nhà
nước Việt Nam độc lập, tự do dân chủ ra đời.
-Trong nhận thức, sở dĩ các tư tưởng con người ngày càng phát triển bởi luôn có sự đấu
tranh giữa nhận thức đúng và nhận thức sai, giữa nhận thức kém sâu sắc và nhận thức sâu sắc hơn.
Mối quan hệ giữa sự thống nhất và sự đấu tranh của các mặt đối lập:
Sự thống nhất và sự đấu tranh giữa các mặt đối lập gắn liền với nhau: Nếu không có thống nhất sẽ
không có đấu tranh, thống nhất tiền đề của đấu tranh; đấu tranh là nguồn gốc, động lực của sự
phát triển.
Sự thống nhất phản ánh trạng thái ổn định, trạng thái đứng im tương đối; còn sự đấu tranh phản
ánh trạng thái vận động tuyệt đối của sự vật, hiện tượng. Nhờ thống nhất, sự vật, hiện tượng
mới tồn tại; còn nhờ đấu tranh, sự vật, hiện tượng mới phát triển.
Tóm lại, mâu thuẫn nguồn gốc, động lực của sự phát triển, hai mặt đối lập vừa thống nhất vừa
đấu tranh với nhau.
Ví dụ: Trong hoạt động kinh tế, mặt sản xuất và tiêu dùng phát triển theo những chiều hướng trái
ngược nhau nhưng nếu không sản xuất thì không sản phẩm để tiêu dùng; ngược lại, nếu
không có tiêu dùng thì sản xuất mất lí do để tồn tại Ý nghĩa phương pháp luận:
Một là, trong nhận thức thực tiễn cần phải tuân theo nguyên tắc “phân đôi cái thống nhất
nhận thức các mặt đối lập của nó”
“Phân đôi” ở đây không phải là phân chia theo kiểu số học thành hai phần bằng nhau, mà là phân
đôi cái chỉnh thể thống nhất thành hai mặt đối lập biện chứng nhận thức các mặt đối lập biện
chứng ấy. Nghĩa là, cần phải xác định mâu thuẫn, phân tích mâu thuẫn, nghiên cứu các mặt đối lập
tạo thành mâu thuẫn.
Hai là, cần phải có những biện pháp phù hợp trong việc giải quyết đối với từng loại mâu thuẫn Ba
là, việc xem xét và giải quyết mâu thuẫn cần phải tuân theo quan điểm lịch sử - cụ thể
lOMoARcPSD| 61601590
Bốn là, cần vận dụng phù hợp khi giải quyết mâu thuẫn tồn tại dưới dạng antinomie
Năm là, trong đời sống hội, cần nhận thức đúng vận dụng một cách phù hợp khi giải quyết
mối quan hệ giữa sự thống nhất và sự đấu tranh giữa các mặt đối lập.
II. Vận dụng:
Mâu thuẫn ở Việt Nam: (Trích tạp chí cộng sản)
- Hiện nay con đường đi lên của nước ta sự quá độ lên chủ nghĩa XH bỏ qua chế độ TBCN.
Vì vậy mâu thuẫn giữa chủ nghĩa tư bản và CNXH trên thế giới được biểu hiện Việt Nam là mâu
thuẫn giữa hai khả năng phát triển: hoặc đi lên CNTB hoặc đi lên CNXH. Suy ra cuộc đấu
tranh giải quyết mâu thuẫn cơ bản ở nước ta hiện nay là cuộc đấu tranh giữa hai con đường nhằm
giải quyết triệt để vấn đề làm thế nào đem lại thắng lợi cho con đường đi lên CNXH.
Tại đại hội IX của Đảng, vấn đề đấu tranh để giải quyết mâu thuẫn tạo động lực cho sự phát triển
tiếp tục thể hiện quy định về mâu thuẫn đồng thời cụ thể hoá thành những mâu thuẫn sau đây:
Loại mâu thuẫn giữa trạng thái KT kém phát triển với yêu cầu xây dựng một XH dân giàu nước
mạnh, XH công bằng, dân chủ, văn minh.
Mâu thuẫn giữa hai khuynh hướng, hai con đường XHCN và TBCN. Mâu thuẫn này phát sinh từ
hai mặt, hai khuynh hướng đối lập: Một mặt từ quá trình cải tạo xây dựng CNXH trên các mặt KT,
chính trị, văn hoá tạo thành khuynh hướng XHCN. Mặt khác bắt nguồn từ nền sản xuất nhỏ, từ
nền KT hàng hoá nhiều thành phần theo chế thị trường làm nảy sinh những nhân tố đôí lập,
khuynh hướng tự phát đi lên tư bản.
Loại mâu thuẫn giữa mục tiêu độc lập dân tộc CNXH với các thế lực cản trở con đường phát
triển của nước ta theo mục tiêu đó (thế lực thù địch trong và ngoài nước, vấn đề tội phạm, tệ nạn
tham nhũng-thế giới xét Việt Nam là một trong số các nước có nạn tham nhũng nặng nhất).
Loại mâu thuẫn giữa mặt nhân tố chủ quan và khách quan trong quá trình đi lên CNXH. Loại mâu
thuẫn này xuất từ yêu cầu nhận thức những quy luật những điều kiện khả năng khách quan với
một bên là trình độ năng lực, nhận thức và hoạt động thực tiễn của đảng, của nhà nước trong quá
trình lãnh đạo… Loại mâu thuẫn này thể hiện trong tư tưởng, lí luận, tổ chức, lãnh đạo chỉ đạo của
nhà nước.
Phương thức giải quyết mâu thuẫn theo Đại hội XI(Trích tạp chí cộng sản)
Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản
Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử.
Đây là một quá trình cách mạng sâu sắc, triệt để, đấu tranh phức tạp giữa cái cũ và cái mới nhằm
tạo ra sự biến đổi về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhất thiết phải trải qua một
thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều bước phát triển, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen.
Chúng ta có nhiều thuận lợi cơ bản: có sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam do
Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập rèn luyện, bản lĩnh chính trị vững vàng dày dạn kinh
nghiệm lãnh đạo; dân tộc ta là một dân tộc anh hùng, có ý chí vươn lên mãnh liệt; nhân dân ta có

Preview text:

lOMoAR cPSD| 61601590
NỘI DUNG 1: MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC Phần lí luận ֎ Khái niệm -
Theo Lênin: "Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem
lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh
và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác" -
Ý thức: Là sự phản ánh năng động, sáng tạo của thế giới khách quan vào trong bộ não con
người, là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. ֎
Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức:
Vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định rằng, vật chất có trước ý thức có sau, vật chất quyết định
ý thức; còn ý thức là sự phản ánh vật chất vào trong bộ óc con người.
Cụ thể hơn, trong đời sống xã hội thì nhân tố vật chất quyết định nhân tố ý thức.
Nhân tố vật chất bao gồm: Điều kiện vật chất, hoàn cảnh sống, điều kiện khách quan, quy luật
khách quan, khả năng khách quan.... năng lực thật sự còn bị hạn chế)
Nhân tố ý thức bao gồm: Tư tưởng, quan điểm, lý luận, đường lối, chính sách, mục tiêu, phương
hướng, giải pháp, biện pháp, cách thức hành động...
Vật chất quyết định ý thức thể hiện ở những nội dung cơ bản: -
Vật chất quyết định nguồn gốc của ý thức: Không có vật chất sẽ không có ý thức.
VD: Ông bà ta có câu “Có thực mới vực được đạo”, khi con người không được ăn no thì sức khỏe
và não bộ sẽ khó có thể hoạt động và đủ tỉnh táo để hoạt động. -
Vật chất quyết định nội dung của ý thức: Nội dung của ý thức mang tính khách quan, do
thế giới khách quan quy định.
VD: Khi nhìn một con sông, hình ảnh của con sông sẽ được phản ánh vào trong bộ não của chúng
ta một cách trung thực. Đặc điểm hình ảnh con sông trong não bộ do hình ảnh con sông trong thế
giới khách quan quyết định. -
Vật chất quyết định bản chất của ý thức: Bản chất sáng tạo và bản chất xã hội của ý thức
cũng phải dựa trên những tiền đề vật chất nhất định.
VD: Dựa trên những nguyên liệu có sẵn, con người sáng tạo ra những công cụ lao động để hỗ trợ
trong công việc của mình. -
Vật chất quyết định phương thức tồn tại và kết cấu của ý thức: Tri thức và các yếu tố của
tri thức đều dựa trên sự phản ánh vật chất. lOMoAR cPSD| 61601590
VD: Khi nghe một bài hát hay, niềm tin và cảm xúc của con người được hình thành thông qua lắng
nghe một cách chăm chú và có sự phân tích.
Sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất: -
Ý thức là ý thức của con người, gắn liền với tính năng động, sáng tạo của nhân tố con
người, nhân tố chủ quan; mặt khác, ý thức là sự phản ánh sáng tạo đối với thế giới.
VD: Cả lớp phải tham gia làm một bài kiểm tra, có bạn sẽ học bài theo hình thức thông thường, có
bạn lại chăm chỉ tìm thêm những bài tập thực hành để củng cố kiến thức nhằm chuẩn bị cho bài kiểm tra ấy. -
Ý thức phản ánh phù hợp với vật chất thì nó sẽ thúc đẩy các quá trình vật chất phát triển.
Nếu ý thức phản ánh không phù hợp với vật chất thì nó sẽ kìm hãm sự phát triển của các quá trình vật chất.
VD: Trước tình hình công ty đang gặp khó khăn về nội dung ý tưởng cho phát hành sản phẩm, ban
lãnh đạo có người sẽ xem xét, đánh giá tình hình để tìm ra phương án nhưng cũng có người vì thấy
khó khăn mà đã bỏ cuộc. -
Muốn có sức mạnh để tác động vào vật chất thì ý thức phải được thâm nhập vào con người
và được tổ chức thực hiện trong thực tiễn.
VD: Khi thấy các em học sinh đang gặp rắc rối với một nội dung ngữ pháp trong Tiếng Anh, giáo
viên có ý định thiết kế một sơ đồ tư duy để giúp các em hiểu hơn. Muốn thế thì người giáo viên
phải thực hiện ý tưởng đó trong thực tế thì mới có thể tháo gỡ khúc mắc của học sinh. Nếu không,
suy nghĩ đó chỉ dừng lại ở mức ý tưởng.
Vì vậy, Ý thức quyết định thành công hay thất bại của con người trong thực tiễn.
֎ Ý nghĩa phương pháp luận của mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
Thứ nhất, vì vật chất quyết định ý thức nên trong nhận thức cần phải tôn trọng nguyên tắc tính
khách quan; trong hoạt động thực tiễn cần phải xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng và hành
động theo các quy luật khách quan.
Thứ hai, vì ý thức có sự tác động trở lại đối với vật chất nên cần phải phát huy tính năng động chủ
quan, nghĩa là phát huy tính tích cực, năng động, sáng tạo của ý thức.
Thứ ba, cần phải chống lại bệnh chủ quan, duy ý chí, là đã tuyệt đối hóa, thổi phồng tính tích cực, sáng tạo của ý chí.
Thứ tư, cần phải chống lại bệnh bảo thủ, trì trệ là đã hạ thấp tính tích cực, sáng tạo của ý thức.
Thứ năm, khi xem xét các hiện tượng xã hội cần phải tính đến cả điều kiện vật chất lẫn nhân tố
tinh thần, cả điều kiện khách quan lẫn nhân tố chủ quan. Phần vận dụng lOMoAR cPSD| 61601590
1. Vận dụng trong đời sống học tập của sinh viên
Trong cuộc sống: vấn đề quản lý tiền nong, vấn đề sinh sống với bạn trong ký túc xá, vấn đề đi lại,
vấn đề tham gia các hoạt động,...
Trong học tập: đăng kí học phần, lên thời gian biểu, làm việc nhóm, trao đổi thông tin với giảng viên và sinh viên,...
Cấu trúc: thực trạng -> tri thức – tình cảm – niềm tin – ý chí (ý thức – tự ý thức – tiềm thức) ->
giải pháp 🡪 kết quả đạt được
Là một sinh viên năm nhất của Trường Đại học Sư phạm TPHCM, chúng tôi học theo chế độ tín
chỉ, là lớp người có khả năng tiếp thu những cái mới với nhu cầu mở rộng kiến thức, tự tìm hiểu,
tự học và phát triển theo định hướng của bản thân. Điều này được vận dụng trong việc đăng ký
học phần của sinh viên. Người học mong muốn vận dụng tri thức để chọn lọc những thông tin bổ
ích, nắm rõ các phương thức đăng ký học phần cũng như xem xét kỹ lưỡng các môn cần học và
chủ động lên thời gian biểu phù hợp cho bản thân, từ đó đưa ra quyết định đúng đắn về học phần
mình đã chọn. Người học vận dụng tình cảm để bảo đảm rằng những quyết định của bản thân là
sáng suốt, chẳng hạn như người học phải có niềm đam mê, sự hứng thú với những môn học mà
mình đăng ký. Chính niềm đam mê ấy sẽ là chiếc chìa khóa vạn năng mở ra chân trời tri thức trên
hành trình theo đuổi giấc mơ. Sau khi đã xác định rõ ràng những học phần mình chọn, biết được
các tiềm năng cũng như mặt hạn chế của bản thân, người học phải có niềm tin về tính hiệu quả cho
những quyết định của mình. Từ đó, khi vấp phải những khó khăn hay bất cập trong quá trình học
tập, người học phải có ý chí, nghị lực để khắc phục và vượt qua chúng để đạt được mục đích cuối
cùng của bản thân. Nhưng ý thức có sự tác động trở lại đối với vật chất, nên ta phải phát huy tinh
tích cực, năng động, sáng tạo của ý thức. Cụ thể là em đã vận dụng để đưa ra phương án tốt nhất
trong việc đăng ký học phần đồng thời nâng cao năng suất học tập của bản thân bằng cách chủ
động tìm kiếm kiến thức, tham khảo thêm các cuốn sách chuyên ngành ở kho kiến thức của thư
viện hoặc kho sách của khoa, các tài liệu trên mạng Internet, tìm được hứng thú cũng như niềm
vui qua mỗi môn học, cụ thể hóa bằng những kế hoạch phù hợp với thực tế và tỉnh táo vượt qua những cám dỗ.
Bên cạnh đó, sinh viên cần tự ý thức được mình cần chống lại bệnh chủ quan duy ý chí cũng như
bệnh bảo thủ trì trệ.Trong nhịp sống phát triển hiện đại như ngày nay, việc thường xuyên cập nhật
các kiến thức, thông tin mới mẻ là một điều hết sức cần thiết đối với mỗi người chúng ta. Ngoài
ra, việc lắng nghe và tiếp thu ý kiến đóng góp từ người khác sẽ giúp ta ngày càng phát triển và
hoàn thiện bản thân, không nên xem những ý kiến của mình là luôn đúng mà cần phải lắng nghe
từ người khác. Chẳng hạn như trong việc học tập, chúng ta nên luôn cập nhật những thông tin,
kiến thức mới cùng với phương pháp học hiện đại để việc học trở nên dễ dàng hơn.
Cuối cùng khi giải thích các hiện tượng xã hội cần tính đến các điều kiện vật chất lẫn yếu tố tinh
thần, điều kiện khách quan lẫn nhân tố chủ quan. Hiện nay, sinh viên có xu hướng học vượt nhưng
chưa xem xét kỹ về các nhân tố chủ quan như khả năng, thời gian của bản thân lẫn điều kiện khách
quan như điều kiện tài chính gia đình dẫn đến kết quả học tập chưa như mong đợi. Từ đó cá nhân
nên lượng sức mình và xác định đã học môn nào là chắc môn đó. Nên tính toán sao cho vừa sức lOMoAR cPSD| 61601590
bởi học vượt đòi hỏi ngoài giờ học ở lớp, sinh viên phải tự học, tự nghiên cứu, đọc thêm tài liệu
thì mới phát huy hiệu quả học tập.
2. VẬN DỤNG TRONG LĨNH VỰC GIÁO DỤC
Nhìn chung, giáo dục đại học vẫn tụt hậu so với các nước trong khu vực và thế giới; phát triển
chưa tương xứng với yêu cầu, nhiệm vụ và chưa đáp ứng nhu cầu học tập của nhân dân.
Đại hội XIII của Đảng nhận định: "Nội dung chương trình, giáo trình, phương pháp giảng dạy ở
nhiều cơ sở giáo dục đại học còn nặng về lý thuyết, nhẹ thực hành [...] Đào tạo vẫn thiếu gắn kết
với nghiên cứu khoa học, sản xuất, kinh doanh và nhu cầu của thị trường lao động."
Việc đổi mới trong giáo dục luôn là điều cấp thiết, đặc biệt là khi hệ thống giáo dục vẫn còn nhiều
lỗ hổng như hiện nay. Nhận thức về được thực trạng này sẽ là nguồn động lực để người học và các
nhà giáo dục có hoạt động thay đổi, để ý thức phát huy tính năng động sáng tạo. Cải thiện những
cách dạy lý thuyết khô khan và tăng cường hoạt động thực tiễn trong giáo dục, vừa tạo sự hứng
thú, vừa có thể áp dụng vào thực tiễn. Điều này tác động đến nhu cầu học tập (người học mong
muốn vận dụng tri thức sẽ tìm tòi phương pháp áp dụng lý thuyết vào thực tiễn), nhu cầu xã hội
(các tổ chức sẽ khuyến khích những cá nhân năng động, sáng tạo qua các cuộc thi), nhu cầu cải
cách giáo dục của nhà nước (thay đổi chương trình học). sau khi xác định rõ ràng phương pháp
cải cách giáo dục, biết được những tiềm năng cũng như các mặt hạn chế, con người sẽ đạt được
có niềm tin về tính hiệu quả của các phương pháp học tập mang tính thực tiễn cao, những chính
sách đổi mới sẽ nhận được sự ủng hộ từ xã hội. Từ đó, khi vấp phải những sai lầm trong lúc thực
hiện con người sẽ có ý chí quyết tâm khắc phục để đạt được mục đích đã đề ra ban đầu.
Đồng thời, ta cần chống lại bệnh chủ quan duy ý chí, bảo thủ trì trệ. Bệnh chủ quan duy ý chí là
căn bệnh có khuynh hướng tuyệt đối hóa vai trò của nhân tố chủ quan, cường điệu tính sáng tạo
của ý thức, của ý chí, xa rời hiện thực. Các nhà giáo dục cần tôn trọng nguyên tắc khách quan. Nếu
không xem xét hiện thực mà chỉ dựa vào ý thức chủ quan thì ngành giáo dục sẽ bị tình trạng bảo
thủ trì trệ, không tiếp thu cái mới, không xét đến những đòi hỏi khách quan của xã hội
Cuối cùng, khi giải thích các hiện tượng xã hội, cần xét các điều kiện vật chất lẫn nhân tố tinh
thần, yếu tố khách quan, chủ quan. Một hiện tượng xã hội tồn tại trong lĩnh vực giáo dục hiện nay
là mức độ chênh lệch về giáo dục giữa học sinh thiểu số và mặt bằng chung cả nước.
Vấn đề về trình độ dân trí của học sinh thiểu số cần được xem xét ở khía cạnh về điều kiện vật chất
và các nhân tố chủ quan.
Xét về điều kiện vật chất, cơ sở vật chất, thiết bị dạy học vẫn còn nhiều thiếu thốn, chưa đáp ứng
được yêu cầu về chất lượng giáo dục, chính sách đãi ngộ đối với giáo viên, nhân viên, cán bộ quản
lý giáo dục chưa đem lại được những khuyến khích vật chất và tinh thần.
Đồng thời, ta cần xem xét các yếu tố chủ quan trong thực trạng về trình độ giáo dục giữa các học
sinh đồng bào thiểu số. Ở một số địa phương, nhận thức của một bộ phận người dân về việc học
tập của con em còn hạn chế, chưa quan tâm tạo điều kiện để con em đi học dẫn đến tình trạng bỏ
học, thất học của các em học sinh thiểu số. Ngoài ra, nhiều học sinh vì mong muốn chăm lo cho lOMoAR cPSD| 61601590
điều kiện kinh tế khó khăn của gia đình mà không tha thiết chuyện học mà trở thành nguồn lao động chính trong nhà.
Sau khi xem xét các yếu tố khách quan, chủ quan, những nhân tố vật chất tinh thần của hiện tượng
này, ta nhận thấy ngoài quan tâm việc đầu tư cơ sở vật chất, thiết bị dạy học phù hợp với tình hình
thực tế của địa phương thì cần tăng cường công tác nâng cao nhận thức về phát triển giáo dục đối
với các dân tộc thiểu số, các cán bộ quản lý giáo dục địa phương cần can thiệp, giảm thiểu tác
động của các phong tục tập quán lạc hậu như tảo hôn làm ảnh hưởng đến con đường học tập của
các em học sinh dân tộc thiểu số.
3. VẬN DỤNG TRONG CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI ĐẤT NƯỚC
Nhìn chung, bên cạnh những thành tựu nước ta đã đạt được trong công cuộc đổi mới đất nước:
Duy trì được tốc độ tăng trưởng bình quân khá, cơ cấu các ngành kinh tế đã có sự dịch chuyển tích
cực theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập kinh tế quốc tế được đẩy mạnh; trong quá
trình này còn tồn tại nhiều khó khăn như: Kinh tế phát triển chưa bền vững, chuyển dịch cơ cấu
kinh tế bao gồm cả cơ cấu ngành, cơ cấu lao động đã “chững lại” trong nhiều năm nhưng chậm có
sự điều chỉnh phù hợp, sức cạnh tranh nền kinh tế còn thấp, năng suất lao động có khoảng cách
lớn so với nhiều nước,...
Đại hội XIII của Đảng nhận định: “Đất nước đang đứng trước nhiều thời cơ và thách thức
đan xen, nhiều vấn đề chiến lược mới đặt ra cần phải giải quyết, từ tình hình quốc tế, khu vực dự
báo tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường đến các thách thức mang tính toàn cầu về biến đổi khí
hậu, thiên tai, dịch bệnh và cả những thành tựu ngoạn mục của tiến bộ khoa học công nghệ đang
tác động, ảnh hưởng mạnh mẽ tới đời sống kinh tế - xã hội của đất nước ta cũng như toàn thế giới.”
Trong quá khứ, những thay đổi của tình hình thế giới, quan hệ với các nước bạn đã tác
động đến công cuộc đổi mới và cuộc khủng hoảng toàn diện, trầm trọng ở Liên Xô và các nước xã
hội chủ nghĩa đã đòi hỏi Đảng và Nhà nước ta tiến hành đổi mới. Nhận thức được sự cần thiết của
những thay đổi này, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra những chính sách phù hợp cho công cuộc phát triển đất nước.
Đảng ta nhận định rõ bước phát triển mới của toàn cầu hóa trong những năm tới khi cuộc Cách
mạng công nghiệp 4.0 bùng nổ; từ đó, tính toán sách lược, chiến lược trong tiến trình chủ động và
tích cực hội nhập quốc tế. Ngoài ra, sự phát triển lâu dài của đất nước đòi hỏi không chỉ lãnh đạo
của đất nước, mà các nhà doanh nghiệp cũng phải hết sức nhanh nhạy nắm bắt thông tin, khơi
thông mọi nguồn lực hiện có vào công cuộc đổi mới đất nước. Mục tiêu chính vẫn là tăng cường
xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; tiếp tục đẩy mạnh toàn
diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường lOMoAR cPSD| 61601590
hòa bình, ổn định. Trên hết, mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ cuộc sống,
nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm
đích đến; thật sự tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, kiên trì thực hiện
phương châm "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng". Có như thế
mới củng cố và tăng cường niềm tin của nhân dân đối với những chính sách mà Đảng, Nhà nước
đề ra, cùng với đó là các mặt lợi của xã hội chủ nghĩa. Từ đó, những lúc khủng hoảng, Nhà nước
và dân ta lại càng giữ vững ý chí phát triển quyết tâm cao, nỗ lực lớn, hành động quyết liệt, năng
động, sáng tạo, tích cực của dân tộc trong công cuộc xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Đồng thời, cần phải chống lại bệnh chủ quan, duy ý chí, tức là thổi phồng tính tích cực, sáng tạo
của ý thức; cũng như bệnh bảo thủ trì trệ, nghĩa là đang hạ thấp tính tích cực, sáng tạo của ý thức.
Trong những năm vừa qua, dù đạt được những thành tựu rất quan trọng, rất đáng tự hào, nhưng
đất nước ta vẫn đứng trước nhiều khó khăn, thách thức và hạn chế. Đảng và Nhà nước cũng đã
xem xét những vấn đề này, từ đó đề ra các chính sách phù hợp, đều có mang tính sáng tạo và tích
cực, trong khi vẫn bám sát vào thực tế khách quan và thực trạng nhà nước lúc bấy giờ. Muốn như
thế thì từ khâu đầu tiên phải nghiêm khắc chỉ ra nguyên nhân chủ quan của tình hình khó khăn là
do những sai lầm khuyết điểm; tự nhận ra khuyết điểm trong việc đánh giá tình hình cụ thể của đất
nước, trong việc xác định mục tiêu của đất nước.
Trong khi xem xét các điều kiện xã hội còn cần phải tính đến cả điều kiện vật chất lẫn nhân tố tinh
thần, cả điều kiện khách quan lẫn nhân tố chủ quan. Năm 2020, trong bối cảnh đại dịch Covid-19
tác động mạnh đến nước ta, gây nhiều thiệt hại về kinh tế - xã hội, nhưng với sự nỗ lực cố gắng
vượt bậc, đất nước đã đạt được những kết quả, thành tích đặc biệt hơn so với các năm trước. Kinh
tế nước ta đạt mức tăng trưởng 2,91%, là một trong những nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao
nhất thế giới trong thời kì này. Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, tính ưu việt của chế
độ xã hội chủ nghĩa; sự lãnh đạo nhạy bén, đúng đắn của Đảng; sự chỉ đạo, điều hành quyết liệt,
kịp thời của Chính phủ; sự vào cuộc đồng bộ, tích cực của cả hệ thống chính trị; sự đồng tình,
hưởng ứng, ủng hộ mạnh mẽ của nhân dân cả nước và đồng bào ta ở nước ngoài, chúng ta đã kịp
thời khống chế, cơ bản kiểm soát, ngăn chặn được sự lây lan của đại dịch Covid19 trong cộng
đồng; hạn chế tối đa những thiệt hại, tổn thất do dịch bệnh gây ra, bảo đảm an sinh và phúc lợi xã
hội cho nhân dân; từng bước khôi phục sản xuất kinh doanh, nỗ lực hoàn thành ở mức cao nhất
các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội.
→ Tất cả những nỗ lực này của Đảng, Nhà nước và toàn dân đã dẫn đến sự thay đổi tích cực của
vật chất: Năm 2020, với gần 100 triệu dân, thu nhập bình quân đầu người đạt 3.521 USD. Đời
sống nhân dân được nâng cao rõ rệt về vật chất, văn hóa, tinh thần, về mức sống và chất lượng
cuộc sống; nhất là về ăn, ở, đi lại, học hành, chữa bệnh, dịch vụ cuộc sống. Hệ thống chính trị
được xây dựng, củng cố vững mạnh, bảo đảm sự ổn định chính trị của đất nước. Quốc phòng, an lOMoAR cPSD| 61601590
ninh được tăng cường, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, biển,
đảo của Tổ quốc. Đối ngoại, hội nhập quốc tế không ngừng mở rộng, kết hợp nội lực với ngoại
lực, nâng cao vị thế của Việt Nam, tạo môi trường hòa bình, hợp tác và phát triển.
ND2: HAI NGUYÊN LÍ CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT
I. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến: Lý luận:
Quan điểm toàn diện, quan điểm lịch sử cụ thể xuất phát từ nguyên lí về mối liên hệ phổ biến.
Mối liên hệ theo quan điểm siêu hình trước Mác xem xét các sự vật, hiện tượng trong trạng thái
tách rời nhau, cô lập nhau, giữa chúng không có mối liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau, nếu có thì
chỉ là những mối liên hệ giản đơn, hời hợt ở bên ngoài. Do đó, quan điểm này đã không thể vạch
ra được bản chất của sự vật, hiện tượng.
Theo quan điểm biện chứng, mối liên hệ là một phạm trù dùng để chỉ sự ràng buộc, phụ thuộc, quy
định lẫn nhau, sự tác động qua lại lẫn nhau giữa các mặt, các yếu tố, các bộ phận cấu thành nên sự
vật, hiện tượng; giữa sự vật, hiện tượng với môi trường; mà trong đó sự biến đổi của sự vật, hiện
tượng này sẽ kéo theo sự biến đổi của sự vật, hiện tượng khác.
Vd: mối liên hệ giữa con người và thức ăn; mối liên hệ giữa mây và mưa,...
Tính chất của mối liên hệ bao gồm các yếu tố sau:
- Tính khách quan: sự vật, hiện tượng dù đa dạng, phong phú như thế nào thì chúng cũng chỉ là
những dạng cụ thể khác nhau của một dạng vật chất duy nhất. Mối liên hệ là cái vốn có của bản
thân các sự vật, hiện tượng chứ không phải do sự áp đặt từ bên ngoài, không phụ thuộc vào ý
thức của cong người, dù muốn hay không muốn thì bản thân các sự vật, hiện tượng hay các mặt,
bộ phận của chúng đều luôn chứa đựng các mối liên hệ.
VD: Con người từ khi sinh ra đã chứa đựng mối liên hệ giữa tiêu hóa và bài tiết, chính chúng ta
cũng không thể thay đổi được điều này.
- Tính phổ biến: mỗi một sự vật, hiện tượng là một hệ thống có cấu trúc nội tại. Không có sự
vật,hiện tượng nào tồn tại một cách cô lập, biệt lập với các sự vật hiện tượng khác. Mối liên hệ
có trong mọi sự vật, hiện tượng; mọi giai đoạn, mọi quá trình; có cả trong tự nhiên, xã hội và tư duy con người.
VD: Trong tự nhiên, một cái cây không thể tồn tại một cách biệt lập, muốn tồn tại thì nó phải trong
sự tác động qua lại với rất nhiều yếu tố như: đất, nước, nhiệt độ, ánh sáng, khí hậu,...
- Tính đa dạng phong phú: xuất phát từ sự đa dạng, muôn hình muôn vẻ của thế giới vật chất. Mỗi
một mối liên hệ lại có những đặc điểm riêng, vị trí, vai trò riêng đối với sự tồn tại, vận động, phát
triển riêng của sự vật, hiện tượng.
VD: Đến tuổi dậy thì, nhờ mối liên hệ giữa hoóc-môn sinh dục và cơ thể mà các bạn thiếu niên bắt
đầu có những sự biến đổi trong chức năng sinh lý để bộc lộ những đặc trưng về mặt giới tính. lOMoAR cPSD| 61601590
Khoa học đã chứng minh rằng:
- Phương thức tồn tại của sự vật, hiện tượng do cách thức liên hệ giữa các yếu tố cấu thành quyếtđịnh.
VD: Ở người bình thường, có 46 nhiễm sắc thể. Vì một lý do nào đó mà số lượng nhiễm sắc thể bị
thay đổi (thiếu hoặc thừa), cách tổ hợp nhiễm sắc thể thành cặp bị thay đổi sẽ gây ra các hội chứng
bệnh đột biến số lượng nhiễm sắc thể như: Tớc-nơ, Đao,..
- Sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng do sự tác động qua lại giữa các yếu tố cấu thành
quyết định, mà trước hết là do sự tác động qua lại lẫn nhau giữa các mặt đối lập.
VD: Sự tác động qua lại giữa quá trình đồng hóa và dị hóa là động lực cho sự phát triển của cơ thể sinh vật.
Ý nghĩa phương pháp luận: nguyên lí về mối liên hệ phổ biến đòi hỏi trong nhận thức và thực tiễn
cần tuân theo quan điểm toàn diện và quan điểm lịch sử cụ thể.
Quan điểm toàn diện yêu cầu:
- Khi xem xét các sự vật, hiện tượng cần phải xem xét đến tất cả các mặt, các mối liên hệ, kể cả
những mắt khâu trung gian trong những điều kiện không gian, thời gian nhất định.
- Trong vô vàn các mối liên hệ đó, cần rút ra những mối liên hệ cơ bản, chủ yếu (những mối liên
hệ trọng tâm, trọng điểm) để nắm bắt bản chất của các sự vật, hiện tượng.
- Sau khi nắm bắt được bản chất thì cần phải đối chiếu với các mối liên hệ khác để tránh sai lầm trong nhận thức.
- Cần chống lại cách xem xét phiến diện, chủ quan (chỉ thấy một mặt mà không thấy nhiều mặt,
chỉ thấy mối liên hệ này mà không thấy mối liên hệ khác).
- Chống lại cách xem xét cào bằng, dàn trải các mối liên hệ (coi mọi mối liên hệ là như nhau)
- Chống lại thuật ngụy biện (quy cái thứ yếu thành cái chủ yếu, quy cái không cơ bản thành cái cơ bản)
Quan điểm lịch sử - cụ thể yêu cầu:
- Khi xem xét các sự vật, hiện tượng cần phải đặt chúng trong từng hoàn cảnh, lịch sử - cụ thể;
trong điều kiện, môi trường cụ thể; trong từng điều kiện không gian, thời gian nhất định; trong
từng mối liên hệ, quan hệ nhất định; trong từng trường hợp cụ thể nhất định; trong từng hệ tọa độ nhất định.
- Cần xét đến tính chất đặc thù của đối tượng nhận thức và các tình huống khác nhau phải giải quyết trong thực tiễn.
- Cần xem xét sự vật, hiện tượng trong sự vận động, phát triển ở từng giai đoạn cụ thể nhất định. Vận dụng: lOMoAR cPSD| 61601590
Công cuộc đổi mới đất nước hiện nay:
Nước ta đã độc lập, thống nhất kể từ năm 1975 nhưng đến năm 1986 thì mới bắt đầu xây dựng cơ
đồ của đất nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội đúng nghĩa; đó là sau Đại hội lần thứ VI tháng 12/1986.
Nhìn lại 35 năm đổi mới, tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng (1/2021), Đảng
nhận định rằng. “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như
ngày nay” (Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII)
Trong 35 năm ấy, Đảng và Nhà nước đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng và đáng tự hào trên
nhiều lĩnh vực: Chính trị, xã hội ổn định, đời sống của nhân dân được cải thiện rõ rệt. Các lĩnh vực
an sinh xã hội, y tế, giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ, bảo vệ môi trường, phát triển văn
hoá, xây dựng con người Việt Nam, v.v... có nhiều chuyển biến tích cực, có mặt khá nổi bật.
Công cuộc đổi mới đất nước phải diễn ra một cách toàn diện, trên mọi lĩnh vực, khía cạnh khác
nhau của đời sống, “đòi hỏi chúng ta phải nhận thức đúng và đầy đủ, quán triệt sâu sắc và thực
hiện thật tốt, có hiệu quả” [1,]. Song, Văn kiện Đại hội XIII cũng đã xác định nhiệm vụ chủ yếu
của công cuộc đổi mới hiện nay là “Phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm; xây dựng Đảng là then
chốt; phát triển văn hoá là nền tảng tinh thần; bảo đảm quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên.” [1,].
Xét về khía cạnh kinh tế, nước ta có nhiều sự chuyển đổi khá toàn diện và tích cực: “nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục phát triển; kinh tế vĩ mô ổn định, vững chắc hơn,
các cân đối lớn của nền kinh tế cơ bản được bảo đảm, tốc độ tăng trưởng duy trì ở mức khá cao;
quy mô và tiềm lực nền kinh tế tăng lên, chất lượng tăng trưởng được cải thiện.” [2,]
Giáo dục và đào tạo có sự vận dụng sáng tạo khoa học, công nghệ và có nhiều sự đổi mới, phát
triển. Nhưng, “đổi mới giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ chưa thực sự trở thành động
lực then chốt thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội” [2,]. Vấn đề chung ở đây là công tác giáo dục
vẫn còn thiếu hiệu quả, chưa chú trọng vào phát triển năng lực, phẩm chất của người học.
Khoa học – công nghệ có nhiều tiến bộ vượt bậc và là động lực lớn của quá trình phát triển kinh
tế - xã hội và nhiều lĩnh vực khác nhau trong đất nước như nông công nghiệp, văn hóa, chính trị,
y tế, quốc phòng, giáo dục,... Nhà nước có nhiều chính sách để quản lý, đầu tư và phát triển tiềm lực của lĩnh vực này.
Về văn hóa – xã hội, có sự chú trọng và nhận thức, tiếp thu, phát triển, kế thừa và gìn giữ những
giá trị truyền thống một cách toàn diện hơn, sâu sắc hơn nhằm đáp ứng được nhu cầu văn hóa ngày
càng đa dạng của đất nước. Có nhiều chính sách hỗ trợ, phúc lợi và an sinh xã hội cho người dân.
“Đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt; tỉ lệ hộ nghèo theo chuẩn nghèo đa chiều giảm còn dưới 3%”. [1,].
Ngoài ra, Đảng và Nhà nước còn có sự chú tâm đến những lĩnh vực khác: -
Quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường và thích ứng với biến đổi khí hậu được chú trọng,
bước đầu đạt kết quả tích cực. lOMoAR cPSD| 61601590 -
Chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được giữ vững và tăng cường; quan hệ đối
ngoại, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, đạt nhiều thành tựu nổi bật. -
Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa có nhiều tiến bộ, tổ chức bộ máy nhà
nước tiếp tục được hoàn thiện, hoạt động hiệu lực và hiệu quả hơn; bảo đảm thực hiện đồng bộ
các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính
trị được đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ, quyết liệt, có hiệu quả rõ rệt.
Tóm lại, nhờ vận dụng triệt để quan điểm toàn diện vào quá trình đổi mới đẩt nước, Đảng và Nhà
nước đã có những động thái đúng đắn và phù hợp, không chỉ tập trung xây dựng bộ máy chính trị
mà còn xây dựng, có nhiều bước hoàn thiện, cải tiến cho nhiều lĩnh vực khác trong xã hội. Đó là
sự nỗ lực, cố gắng và vận dụng, kế thừa, phát huy sáng tạo, hiệu quả những bài học mà triết học
Mác – Lênin đã để lại qua một quá trình đấu tranh lâu dài, như trong văn kiện đã nhận định rằng
“Đó là sản phẩm kết tinh sức sáng tạo, là kết quả của quá trình phấn đấu liên tục, bền bỉ của toàn
Đảng, toàn dân và toàn quân ta qua nhiều nhiệm kỳ đại hội, góp phần tạo nên những thành tựu to
lớn, có ý nghĩa lịch sử của nước ta qua 35 năm đổi mới”. [1]
[1] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII.
[2] Tài liệu học tập các văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, NXB Chính trị quốc gia – Sự thật. II.
Nguyên lý về sự phát triển Quan
điểm biện chứng về sự phát triển: Khái niệm phát triển:
Phát triển là một phạm trù dùng để chỉ quá trình vận động của sự vật, hiện tượng theo khuynh
hướng đi lên, từ trình độ thấp đến trình độ cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn.
Tính chất của sự phát triển:
- Thứ nhất, tính khách quan:
Phát triển là thuộc tính vốn có, tất yếu của bản thân các sự vật, hiện tượng, không phụ thuộc vào ý
thức của con người, dù muốn hay không muốn thì bản thân sự vật, hiện tượng luôn luôn năm trong quá trình phát triển. VD:
- Thứ hai, tính phổ biến: lOMoAR cPSD| 61601590
Quá trình phát triển diễn ra trong mọi sự vật, hiện tượng, trong mọi lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư
duy con người. Trong mỗi quá trình vận động đã bao hàm khả năng dẫn đến sự ra đời của cái mới
tiến bộ hơn, phù hợp với quy luật khách quan. VD:
- Thứ ba, tính đa dạng, phong phú:
Sự phát triển không hoàn toàn giống nhau ở các sự vật, hiện tượng khác nhau, trong những điều
kiện không gian và thời những lĩnh vực hiện thực khác nhau. gian khác nhau, trong những lĩnh
vực hiện thực khác nhau. VD:
(Nhìn thêm giáo trình: Tr.95,96) Vận dụng:
Đặt mục tiêu tương lai ở hiện tại, xác định mục tiêu tương lai, chia thành nhiều giai đoạn để có thể
thực hiện mục tiêu đó. Biện pháp thực hiện trong từng giai đoạn.
Đối với học sinh, sinh viên:
Trong giai đoạn cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 hay thế kỉ XXI, học là việc vô cùng quan trọng
đối với học sinh, sinh viên để phát triển và hoàn thiện bản thân mình. Với sự vận động đi lên của
toàn xã hội thì sinh viên cần phải biết nắm chắc cơ sở lý luận của quan điểm phát triển, để từ đó
có thể vận dụng một cách tối ưu, sáng tạo và hợp lý.
Sinh viên phải nhìn tương lai như một chuỗi các gián đoạn phải biết phân chia quá trình phát triển
của sự vật thành từng giai đoạn, từ đó phải học cách vượt qua các gián đoạn và có cách tác động
phù hợp thúc đẩy sự vật phát triển đó trong hiện tại và tương lai. Khuynh hướng chung là phát
triển đi lên, tức phải thấy được tính quanh co, phức tạp của sự vật, hiện tượng trong quá trình phát
triển của nó. Có lúc sinh viên sẽ cảm thấy quá trình học tập không có chút tiến triển, dậm chân tại
chỗ thì chúng ta tránh bi quan, tránh những suy nghĩ tiêu cực. Mỗi sinh viên có sự phát triển về trí
tuệ và thể chất khác nhau, sẽ có các phương pháp học tập rèn luyện khác nhau để nâng cao trí tuệ,
cảm xúc. Mỗi người có một thước đo cuộc sống khác nhau không thể từ đó mà áp vào bản thân
mình rồi cảm thấy tự ti, áp lực cùng trang lứa.
Quá trình rèn luyện và học tập là quá trình tích lũy kiến thức lâu dài. Sinh viên không nên chỉ dựa
vào điểm số tức thời mà đưa ra kết luận quy chụp, cần xem xét cả quá trình phấn đấu, nỗ lực.
Chẳng hạn, sinh viên có thành tích không tốt trong một bài kiểm tra đánh giá, nhưng trong quá
trình học tập rèn luyện đã nỗ lực hết mình.
ND3: QUY LUẬT LƯỢNG – CHẤT 2.
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA QUY LUẬT LƯỢNG –CHẤT: 2.1 Khái niệm chất: lOMoAR cPSD| 61601590
Chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật, hiện tượng;
là sự thống nhất hữu cơ của các thuộc tính làm cho sự vật là chính nó chứ không phải là cái khác.
VD: Chất của nhôm là có ánh kim, dễ dát mỏng,..
Lượng là một phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật về các
phương diện: số lượng các yếu tố cấu thành, quy mô của sự tồn tại, tốc độ, nhịp điệu của các quá
trình vận động, phát triển của sự vật.
VD: Có những lượng ta có thể đo đếm được chính xác như trọng lượng cơ thể hay chiều cao của một con người…
2.3 Mối quan hệ biện chứng giữa lượng và chất:
2.3.1. Lượng đổi dẫn đến chất đổi: -
Khi sự vật đang tồn tại, chất và lượng thống nhất với nhau ở một độ nhất định. -
Độ là phạm trù triết học dùng để chỉ giới hạn, trong đó sự thay đổi về lượngmcủa sự vật
chưa làm thay đổi căn bản chất của sự vật ấy.
VD: Độ tồn tại của nước nguyên chất ở trạng thái lỏng từ 0C đến 100C. -
Trong giới hạn của một độ nhất định, lượng thường xuyên biến đổi còn chất tương đối ổn
định. Sự thay đổi về lượng của sự vật có thể làm chất thay đổi ngay lập tức nhưng cũng có thể làm
thay đổi dần dần chất cũ. Lượng biến đổi đến một giới hạn nhất định có xu hướng tích luỹ đạt tới
điểm nút, nếu có điều kiện sẽ diễn ra bước nhảy làm thay đổi chất của sự vật. -
Điểm nút là phạm trù triết học dùng để chỉ thời điểm mà tại đó, sự thay đổi về lượng đã
làm thay đổi chất của sự vật.
VD: 0C và 100C là điểm nút để nước chuyển sang trạng thái rắn hoặc trạng thái khí (bay hơi) -
Muốn chuyển từ chất cũ sang chất mới phải thông qua bước nhảy. Bước nhảy là một phạm
trù triết học dùng để chỉ sự chuyển hoá về chất của sự vật do những sự thay đổi về lượng trước đó gây nên.
VD: một cuộc cách mạng, một kỳ thi, một đám cưới,… -
Bước nhảy kết thúc một giai đoạn biến đổi về lượng và mở đầu cho một giaiđoạn phát triển
mới. Đó là gián đoạn trong quá trình vận động liên tục của sự vật, đồngthời là một tiền đề cho một
quá trình tích luỹ liên tục về lượng tiếp theo.
VD: Trong xã hội: Sự phát triển của lực lượng sản xuất (lượng đổi) tới khi mâu thuẫn với quan
hệ sản xuất lỗi thời (chất cũ) sẽ dẫn đến đấu tranh giai cấp mà đỉnh cao là cách mạng xã hội (bước
nhảy) làm cho xã hội cũ mất đi, xã hội mới tiến bộ hơn ra đời.
2.3.2. Chất mới ra đời, nó tác động trở lại lượng mới, làm thay đổi kết cấu, quy mô, trình độ nhịp
điệu của sự vận động phát triển của sự vật: lOMoAR cPSD| 61601590 -
Như vậy, bất kì sự vật, hiện tượng nào cũng là sự thống nhất biện chứng giữa hai mặt chất
và lượng. Sự thay đổi về lượng tới điểm nút sẽ dẫn đến sự thay đổi về chất thông qua bước
nhảy. Chất mới ra đời sẽ tác động trở lại sự thay đổi của lượng mới. Quá trình đó liên tục
diễn ra, tạo thành phương thức phổ biến của các quá trình vận động, phát triển của sự vật,
hiện tượng trong tự nhiên, xã hội, tư duy. 2.5 Ý nghĩa phương pháp luận: -
Một là, bất kì sự vật, hiện tượng nào cũng có phương diện chất và lượng tồn tại trong tính
quy định, tác động và làm chuyển hoá lẫn nhau do đó trong thực tiễn và nhận phải coi trọng
cả hai phương diện chất và lượng. -
Hai là, những sự thay đổi về lượng sẽ dẫn đến những sự thay đổi về chất trong điều kiện
nhất định và ngược lại do đó cần coi trọng quá trình tích luỹ về lượng để làm thay đổi chất
của sự vật đồng thời phát huy tác động của chất mới để thúc đẩy sự thay đổi về lượng của sự vật. -
Ba là, sự thay đổi về lượng chỉ làm thay đổi chất khi lượng được tích luỹ đến giới hạn điểm
nút do đó trong thực tiễn cần khắc phục bệnh nôn nóng tả khuynh, bảo thủ trì trệ. -
Bốn là, chống lại bệnh bảo thủ, trì trệ, khi lượng đã biến đổi đến điểm nút nhưng không
chịu thực hiện bước nhảy. -
Năm là, cần phải xác định được bước nhảy, có thái độ ủng hộ nước nhảy và tạo mọi điều
kiện cho bước nhảy được thực hiện một cách kịp thời. -
Sáu là, trong đời sống XH, cần nhận thức đúng và vận dụng một cách phù hợp khi giải
quyết mối quan hệ giữa chất tự nhiên và chất XH của sự vật, hiện tượng. Tùy vào từng điều
kiện LS-CT mà có thể nhấn mạnh chất tự nhiên hay chất xã hội lên đầu. -
Bảy là, cần có những biện pháp cụ thể để thay đổi chất của sự vật, hiện tượng: •
Thay đổi số lượng các yếu tố cấu thành nên sự vật, hiện tượng. •
Thay đổi chất lượng cá yếu tốt cấu thành nên sự vật, hiện tượng •
Thay đổi cơ chế tác động giữa cá yếu tốt cấu thành nên sự vật, hiện tượng •
Thay đổi trật tự sắp xếp giữa cá yếu tốt cấu thành nên sự vật, hiện tượng •
Thay đổi chức năng của cá yếu tốt cấu thành nên sự vật, hiện tượng và chức năng của toàn
bộ sự vật, hiện tượng. •
Thay đổi môi trường tồn tại của sự vật hiện tượng [TUI TRÌNH BÀY]
Vấn đề về xác định phương pháp học tập mới, khoa học (tích lũy về lượng) •
Trong quá trình rèn luyện ở trường học, tích luỹ kiến thức là dạng tích lũy về lượng, khi
đạt đến một lượng kiến thức nhất định, học sinh sẽ chuyển sang mức độ mới cao hơn. Như lOMoAR cPSD| 61601590
vậy, thời gian giữa các mức độ học tập gọi là độ; bài kiểm tra, bài thi là điểm nút; và sự
chuyển từ cấp độ cũ sang cấp độ mới là bước nhảy. •
Bước nhảy đánh dấu sự ra đời của chất mới: Đầu tiên là sự thay đổi từ học sinh (chất cũ)
thành sinh viên (chất mới), chất mới tác động trở lại lượng. Chất mới có sự khác nhau với
chất cũ ở chỗ quá trình tích lũy kiến thức thông qua quá trình tự học, tìm tòi nghiên cứu,
tự định hướng ở bậc Đại học thay vì là được thầy cô cung cấp như bậc Trung học. Giờ đây,
lượng là sự tích luỹ kiến thức mới lẫn kỹ năng mềm, bên cạnh đó cũng là sự phát triển về
suy nghĩ, nhận thức, hành động, cách tư duy. •
Đồng nghĩa với việc sinh viên phải ý thức được sự thay đổi đó, để có thể chủ động xác
định được thái độ và phương pháp học tập, phương pháp tư duy phù hợp, tiến bộ hơn thời
THPT. Trong đó, quan trọng là cố gắng tham gia đầy đủ các tiết học; tránh bệnh chủ quan,
lười biếng khi không còn thầy cô, phụ huynh giám sát chặt chẽ như hồi các cấp học thấp
hơn; tìm tòi thêm nhiều nguồn tài liệu học tập; tham gia các hoạt động ngoại khóa;... •
Tránh trường hợp không tập trung học, bị xao nhãng bởi những chuyện ngoài lề, làm ảnh
hưởng đến tốc độ học. Tránh để xảy ra tình trạng khi đến gần giai đoạn thi mới bắt đầu học lại từ đầu,…. •
Cùng một chương trình học, cùng một khối lượng kiến thức và kỹ năng cần thu nạp và rèn
luyện, một sinh viên có tinh thần say mê học tập và có đầu óc biết lên kế hoạch rõ ràng,
khoa học và một sinh viên lười biếng, chủ quan, giữ nguyên cách tiếp cận bài học, cách
tương tác với thầy cô như thời THPT chắc chắn sẽ cho ra hai kết quả cực kì khác biệt.
Vấn đề về việc tham gia các kỳ thi (ủng hộ bước nhảy; thực hiện bước nhảy) •
Lượng ở Đại học khác ở THPT và nó lại tác động trở lại chất. Đòi hỏi sinh viên cần trau
dồi bản thân để còn tạo ra sự khác biệt về chất (một sinh viên ưu tú hơn, nổi bật hơn bạn
bè đồng trang lứa chẳng hạn). •
Cụ thể là sau khi chủ động, tích cực tích lũy kiến thức; rèn luyện thêm các kỹ năng; học
hỏi tư duy học tập tiến bộ mà thầy cô định hướng hay bạn bè gợi ý;...bản thân lúc này đã
được tôi luyện và tiến bộ hơn rất nhiều so với trước kia. Vì vậy cần phải tự tin tham gia
các kỳ thi như Nghiên cứu khoa học, Pháp luật, Chứng chỉ ngoại ngữ, Chứng chỉ tin
học,....(thực hiện bước nhảy) để đánh dấu sự thay đổi mới, xây dựng được thương hiệu bản
thân (chất mới ra đời). Chí ít cũng phải ý thức được việc cần cố gắng hết mình trong việc
xung phong trả lời, giải các câu hỏi, bài tập trên lớp; tích cực, tự tin khi thực hiện các bài
thi giữa kỳ, kết thúc học phần,.... •
Bên cạnh đó, nếu cảm thấy bạn bè xung quanh mình rơi vào trường hợp mặc dù kiến thức,
kỹ năng đã chín muồi mà còn e dè, tự ti chưa dám bung xõa, đăng ký tham gia các kỳ thi
thì chính chúng ta cũng nên có thái độ ủng hộ bạn, động viên bạn, đề nghị hỗ trợ bạn trong
khả năng để tạo điều kiện cho bạn; từ đó bạn có thể đạt được một danh hiệu, một sự công
nhận cao hơn (chất mới). lOMoAR cPSD| 61601590 •
Tóm lại, trau dồi bản thân là một chuyện, còn xây dựng tâm thế tự tin, chủ động tham gia
các hoạt động thể hiện mình, khẳng định mình là một chuyện khác và đòi hỏi sinh viên cần
có thái độ tích cực, tự tạo cơ hội cho chính mình và cho người khác nếu có thể. Cuộc sống
luôn vận động và phát triển không ngừng theo thời gian, cùng với đó, con người cũng phải
vận động chạy theo nó để không bị bỏ lại phía sau. Là một sinh viên thời đại mới phát triển
và tiên tiến hơn rất nhiều, chúng ta không thể không ngừng phấn đấu trau dồi bản thân
mình và giúp đỡ người khác.
Vấn đề về nóng vội đốt cháy giai đoạn •
Trong quá trình học tập và rèn luyện, sinh viên cần tranh tư tưởng nhảy cấp. Sau khi học
những kiến thức cơ bản, tức là khi có sự biến đổi về chất thì sinh viên mới có thể tiếp tục
nghiên cứu những kiến thức khó hơn. •
Ngoài ra, có nhiều sinh viên có sức học trung bình nhưng lại muốn đăng kí nhiều môn học
trong cùng một năm hay một học kỳ để được ra trường sớm hơn những người khác, dẫn
đến không có môn học nào được hoàn thiện, mất thêm thời gian và tiền bạc để học lại, thi
lại. Tóm lại, muốn tiếp thu được nhiều kiến thức và có kết quả cao trong các kì thi, sinh
viên phải học dần mỗi ngày, từ kiến thức cơ bản đến nâng cao. Từ đó, sự biến đổi về lượng
sẽ dẫn đến sự biến đổi về chất theo hướng tích cực.
[ANH CHỊ TUI TRÌNH BÀY]
Cách làm phần vận dụng -
Trong cuộc sống học tập của sinh viên: o
Cần xác định trong cuộc sống, học tập có những vấn đề gì: quan hệ bạn bè, học tập, thầy
cô... o Xác định điểm nút và bước nhảy của vấn đề đó. o
Từ đó thể hiện sự phát triển và hoàn thiện bản thân cần: phát huy mặt tốt, khắc phục mặt
hạn chế (áp dụng ý nghĩa pp luận). -
Trong công cuộc đổi mới của đất nước ngày nay: o Xác định các vấn đề liên
quan: công nghệ 4.0, công nghiệp hóa, hiện đại hóa… o
Xác định độ, điểm nút, bước nhảy. o
Giải quyết trình bày như sau: Theo Đại hội Đảng lần thứ VI 
Giữ vững định hướng XHCN trong quá trình đổi mới, kết hợp sự kiên định về nguyên tắc
và chiến lược cách mạng với sự linh hoạt trong sách lược, nhạy cảm nắm bắt cái mớ, trong đó
nhấn mạnh: Đổi mới không phải là thay đổi mục tiêu XHCN mà là làm cho mục tiêu ấy được thực
hiện có kết quả bằng quan điểm đúng đắn về CNXH, bằng những hình thức, bước đi và biện pháp
thích hợp. Điều kiện cốt yếu trong công cuộc đổi mới được định hướng XHCN và đi đến thành
công là trong quá trình đổi mới Đảng phải kiên trì và vận dụng sáng tạo Chủ nghĩa Mác – Lê nin, lOMoAR cPSD| 61601590
Tư tưởng HCM, giữ vững vai trò lãnh đạo XH. Đảng phải tự đổi mới và chỉnh đốn, không ngừng
nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của mình. 
Trong quá trình đổi mới, phải quan tâm đến dự báo tình hình, kịp thời phát hiện và giải
quyết đúng đắn những vde mới nảy sinh trên tinh thần kiên định thực hiện đường lối đổi mới: tăng
cường tổng kết thực tiễn và không ngừng hoàn chỉnh lý luận về con đường xây dựng CNXH ở
nước ta, trong đó nhấn mạnh: Công cuộc đổi mới càng đi vào chiều sâu thì càng xuất hiện nhiều
vde mới liên quan đến nhận thức về CNXH và con đường xây dựng CNXH. Chỉ có tăng cường
tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận thì mới trở thành hoạt động tự giác, chủ động và sáng tạo, bớt
được sai lầm và những bước đi quanh co, phức tạp.
Vận dụng trong cs, ht của bản thân: o
Sau khi tích lũy đủ lượng kthuc (lượng thay đổi), một học sinh THPT thành công thay đổi
thành chất sinh viên. Trong đó, độ HS THPT là từ lớp 10 đến lớp 12; độ của SV là từ năm thứ nhất
ĐH đến năm thứ tư; điểm nút là thi tốt nghiệp THPT đỗ, đủ điểm đỗ vào ĐH; bước nhảy là kết
thúc giai đoạn HS THPT (sau tốt nghiệp), khởi đầu SV ĐH năm nhất. o
Hiểu rằng trong nhận thức thực tiễn, SV cần phải xem xét toàn diện về sự vật, hiện tượng;
không nên phiến diện chỉ coi trọng lượng, không thực hiện bước nhảy hay chỉ coi trọng chất. Đặt
trong mối QH với nhà trường và thầy cô, thì chất của SV phải là chất SV. Khi đã là “chất SV” thì
đòi hỏi lượng kiến thức SV tiếp thu mỗi tiết học sẽ nhiều hơn, môn học sẽ nhiều hơn…Do đó SV
phải nhanh chóng có kế hoạch cụ thể để học tập. o
Chất chỉ thay đổi khi tích lũy đủ về lượng. Hằng kỳ, hằng năm, số lượng tín chỉ tích lũy
của SV sẽ ngày càng nhiều hơn, lượng kiến thức, kỹ năng nhiều hơn… o
Tuy nhiên, chất SV vẫn chưa biến đổi vì lượng chưa đạt đến điểm nút. SV nhận thức rằng,
chỉ khi lượng (tín chỉ, kỹ năng, kiến thức, thái độ, tinh thần trách nhiệm,…) đạt tới điểm nút (ví
dụ như đạt đủ 135 tín chỉ đối với SV khoa Anh) thì chất CV mới biến đổi thành chất cử nhân.
Trong qtrinh tích lũy về lượng, cần nhận thức tránh khuynh hướng tả khuynh, nóng vội, duy ý chí,
chủ quan; tránh hiện tượng nôn nóng tốt nghiệp mà đăng kí quá nhiều học phần, quá sức học tập
của bản thân, dẫn đến sự quá tải, kết quả không như mong đợi. Do đó, cần phải đăng ký số lượng
tín chỉ (lượng) phù hợp với năng lực của bản thân. o
Ngược lại, cần chống bệnh bảo thủ hữu khuynh, trì trệ, không nên thụ động trông chờ vào
gia đình mà phải tự nỗ lực để tích lũy về lượng: ra trường sớm hơn hoặc đúng thời hạn. Từ đó tận
dụng những cơ hội phát triển tốt nhất cho bản thân. Vận dụng vào đổi mới nhà nước o
Ở nước ta, lịch sử đặt ra vấn đề lựa chọn con đường phát triển bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa từ những năm 20 của thế kỷ XX, hòa nhập vào xu hướng tiến hóa chung của nhân loại quá
độ lên Chủ nghĩa Xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa để có một bước nhảy cách mạng đó là
đưa nước Việt Nam sang một chế độ khác, “chất” khác là đất nước xã hội chủ nghĩa. Cương lĩnh
đầu tiên năm 1930 của Đảng đã khẳng định sau khi hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân nước ta sẽ tiến lên CNXH. Đó là lựa lựa chọn đúng đắn của Đảng. lOMoAR cPSD| 61601590 o
Cả một quá trình tích lũy về đủ lượng để có một sự biến đổi về chất, chất mới được tạo nên
nhưng đồng thời nó cũng tạo nên lượng mới. Chúng ta cần một thời kỳ quá độ lên XHCN; trong
thời kì chúng ta sẽ có những thay đổi phát triển về mọi mặt kinh tế, xh, vh, gd. Nhận thức được
điều đó, Đảng ta đã có chủ trương xd xhcn bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa tạo ra sự biến đổi về
chất của xh cho tất cả lĩnh vực. o
Giữa thập niên 70 với nền kt phổ biến là sx nhỏ tại vị trí chiến tranh kéo dài, tàn phá nặng
nề; bằng việc cải tạo xhcn tổ chức lại sx và mở rộng quy mô hợp tác xã với hi vọng nhanh chóng
có nhiều CNXH hơn, Đảng đã đã bộc lộ tư tưởng chủ quan, nóng vội duy ý chí dẫn đến những
mục tiêu của đại hội IV của Đảng đề ra đều không đạt. o
Trước hoàn cảnh đó, nhà nước thấy không thể duy trì những chính sách cơ chế cũ. Thực
hiện bước nhảy kịp thời: tạo ra sự sáng tạo nhận thức đúng đắn của Đảng, Nhà nước và nhân dân
ta thực hiện công cuộc đổi mới việc đó được nêu rõ trong đại hội thứ VI năm 1986 đó là chuyển
đổi nền ktx của nước ta từ mô hình hóa tập trung quan lieu bao cấp dựa trên chế độ công hữu về
tư liễu sang nền kt thị trưởng có sự quản lí của NN theo định hướng XHCN o
Chính vì thế, công cuộc đổi mới đất nước đã đạt nhiều thành tựu: Nền kinh tế vượt qua
nhiều khó khăn, thách thức, quy mô và tiềm lực được nâng lên; kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, lạm
phát được kiểm soát; tăng trưởng kinh tế được duy trì ở mức hợp lí, từ năm 2013 dần phục hồi,
năm sau cao hơn năm trước,…Giáo dục và đào tạo, KH và CN, VH, XH, Y tế có bước phát triển.
An sinh xã hội được quan tâm nhiều hơn và cơ bản được bảo đảm, đời sống của nhân dân tiếp tục được cải thiện.
ND4: QUY LUẬT THỐNG NHẤT VÀ ĐẤU TRANH GIỮA CÁC MẶT ĐỐI LẬP I. Lý luận
Quy luật mâu thuẫn vạch ra nguồn gốc, động lực của sự phát triển Nội dung quy luật:
Mâu thuẫn là một phạm trù dùng để chỉ sự liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau giữa các mặt đối lập
trong cùng một sự vật, hiện tượng
Mặt đối lập là một phạm trù dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính, những khuynh hướng vận
động trái ngược nhau và làm nên chỉnh thể một sự vật, một hiện tượng.
Như vậy, hai mặt đối lập phải thỏa mãn những điều kiện sau đây mới tạo thành mâu thuẫn:
Thứ nhất, có xu hướng vận động trái ngược nhau
Thứ hai, làm nên chỉnh thể của một sự vật, hiện tượng
Ví dụ như sự sản xuất và tiêu dùng trong kinh tế- xã hội, chân lý và sai lầm trong quá trình đấu tranh nhận thức,…
Tính chất chung của mâu thuẫn:
Thứ nhất, tính khách quan: lOMoAR cPSD| 61601590 -
Mâu thuẫn là cái vốn có của bản thân các sự vật, hiện tượng, chứ không phải do sự áp đặt
từ bên ngoài. Bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng đều chứa đựng mâu thuẫn bên trong, mâu thuẫn
này mất đi thì mâu thuẫn khác được hình thành; sự vật, hiện tượng vừa là nó, vừa là cái khác với bản thân nó.
Ví dụ. Trong con người bất kỳ đều chứa đựng những yếu tố của các mặt đối lập giữa lương thiện
và độc ác, dũng cảm và hèn nhát, trung thực và giả dối,… Thứ hai, tính phổ biến: -
Mâu thuẫn có ở trong mọi sự vật, hiện tượng, mọi giai đoạn, mọi quá trình; mâu thuẫn có
cả trong tự nhiên, xã hội và tư duy, con người.
Ví dụ. Mâu thuẫn giữa lực và phản lực trong sự tương tác giữa các vật thể, mâu thuẫn giữa lực
đẩy và lực hút giữa các hạt, phân tử, mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản và vô sản trong xã hội tư
bản, mâu thuẫn giữa tầng lớp thống trị và tầng lớp bị trị trong xã hội thời phong kiến,… Thứ
ba, tính đa dạng, phong phú: -
Có rất nhiều loại mâu thuẫn, mỗi loại mâu thuẫn có đặc điểm riêng, vị trí, vai trò riêng, có
cách thức giải quyết riêng. Cụ thể là: Có mẫu thuẫn bên trong – mâu thuẫn bên ngoài, có mâu
thuẫn cơ bản – mâu thuẫn không cơ bản, có mâu thuẫn chủ yếu – mâu thuẫn thứ yếu, có mâu thuẫn
đối kháng – mâu thuẫn không đối kháng… Chẳng hạn, mỗi cá nhân trong xã hội đều có các mâu
thuẫn khác nhau như mâu thuẫn giữa cá đó với các cá nhân khác trong lớp học, gia đình và xã hội
trên phương diện tình cảm, nhận thức, chính trị, văn hóa,…
Mâu thuẫn là một chỉnh thể, trong đó hai mặt đối lập vừa thống nhất vừa đấu tranh với nhau
Sự thống nhất giữa các mặt đối lập: (tr.112 113)
Là sự ràng buộc, phụ thuộc, quy định lẫn nhau, nương tựa vào nhau, đòi hỏi có nhau giữa các mặt
đối lập, mặt này lấy mặt kia làm tiền đề để tồn tại, nếu không có mặt đối lập này sẽ không có mặt
đối lập kia và ngược lại.
Là sự đồng nhất các mặt đối lập, bởi vì các mặt đối lập dù cho có khác nhau nhưng bao giờ cũng
có yếu tố giống nhau, tương tự nhau, nghĩa là chúng đồng nhất với nhau.
Là sự tác động ngang nhau của các mặt đối lập khi các mặt đối lập có lực lượng ngang bằng nhau.
Ví dụ: trong hoạt động kinh tế thì sản xuất và tiêu dùng phát triển theo những chiều hướng trái
ngược nhau với nhau. Sản xuất chính là việc tạo ra của cải vật chất, sản phẩm để có thể đáp ứng
được nhu cầu của người tiêu dùng. Còn tiêu dùng là mục đích cuối cùng của việc sản xuất, tất cả
những sản phẩm được sản xuất đều cần có người tiêu dùng. Sự không tách rời, đòi hỏi có nhau
giữa lực và phản lực cũng là một ví dụ điển hình cho sự thống nhất giữa các mặt đối lập.
Sự đấu tranh của các mặt đối lập: -
Là sự tác động qua lại lẫn nhau giữa các mặt đối lập. Thực chất của sự đấu tranh của các
mặt đối lập gắn liền với quá trình hình thành, phát triển và giải quyết mâu thuẫn:
+ Giai đoạn hình thành mâu thuẫn: lOMoAR cPSD| 61601590
Đồng nhất nhưng đồng thời bao hàm sự khác nhau Khác nhau bề ngoài
Khác nhau bản chất, khi ấy mâu thuẫn được hình thành.
+ Giai đoạn phát triển của mâu thuẫn:
Các mặt đối lập xung đột với nhau
Các mặt đối lập xung đột gay gắt với nhau, khi ấy mâu thuẫn phát triển đến đỉnh điểm
+ Giai đoạn giải quyết mâu thuẫn
Sự chuyển hóa của các mặt đối lập, mâu thuẫn…
Ví dụ: -Trong kháng chiến chống Pháp, nhân dân ta có mâu thuẫn gay gắt với thực dân Pháp, khi
mâu thuẫn lên đến đỉnh điểm, tạo cho ta động lực đứng lên đấu tranh và kết quả cuối cùng là nhà
nước Việt Nam độc lập, tự do dân chủ ra đời.
-Trong nhận thức, sở dĩ các tư tưởng con người ngày càng phát triển bởi luôn có sự đấu
tranh giữa nhận thức đúng và nhận thức sai, giữa nhận thức kém sâu sắc và nhận thức sâu sắc hơn.
Mối quan hệ giữa sự thống nhất và sự đấu tranh của các mặt đối lập:
Sự thống nhất và sự đấu tranh giữa các mặt đối lập gắn liền với nhau: Nếu không có thống nhất sẽ
không có đấu tranh, thống nhất là tiền đề của đấu tranh; đấu tranh là nguồn gốc, động lực của sự phát triển.
Sự thống nhất phản ánh trạng thái ổn định, trạng thái đứng im tương đối; còn sự đấu tranh phản
ánh trạng thái vận động tuyệt đối của sự vật, hiện tượng. Nhờ có thống nhất, sự vật, hiện tượng
mới tồn tại; còn nhờ đấu tranh, sự vật, hiện tượng mới phát triển.
Tóm lại, mâu thuẫn là nguồn gốc, động lực của sự phát triển, hai mặt đối lập vừa thống nhất vừa đấu tranh với nhau.
Ví dụ: Trong hoạt động kinh tế, mặt sản xuất và tiêu dùng phát triển theo những chiều hướng trái
ngược nhau nhưng nếu không có sản xuất thì không có sản phẩm để tiêu dùng; ngược lại, nếu
không có tiêu dùng thì sản xuất mất lí do để tồn tại Ý nghĩa phương pháp luận:
Một là, trong nhận thức và thực tiễn cần phải tuân theo nguyên tắc “phân đôi cái thống nhất và
nhận thức các mặt đối lập của nó”
“Phân đôi” ở đây không phải là phân chia theo kiểu số học thành hai phần bằng nhau, mà là phân
đôi cái chỉnh thể thống nhất thành hai mặt đối lập biện chứng và nhận thức các mặt đối lập biện
chứng ấy. Nghĩa là, cần phải xác định mâu thuẫn, phân tích mâu thuẫn, nghiên cứu các mặt đối lập tạo thành mâu thuẫn.
Hai là, cần phải có những biện pháp phù hợp trong việc giải quyết đối với từng loại mâu thuẫn Ba
là, việc xem xét và giải quyết mâu thuẫn cần phải tuân theo quan điểm lịch sử - cụ thể lOMoAR cPSD| 61601590
Bốn là, cần vận dụng phù hợp khi giải quyết mâu thuẫn tồn tại dưới dạng antinomie
Năm là, trong đời sống xã hội, cần nhận thức đúng và vận dụng một cách phù hợp khi giải quyết
mối quan hệ giữa sự thống nhất và sự đấu tranh giữa các mặt đối lập. II. Vận dụng:
Mâu thuẫn ở Việt Nam: (Trích tạp chí cộng sản) -
Hiện nay con đường đi lên của nước ta sự quá độ lên chủ nghĩa XH bỏ qua chế độ TBCN.
Vì vậy mâu thuẫn giữa chủ nghĩa tư bản và CNXH trên thế giới được biểu hiện ở Việt Nam là mâu
thuẫn giữa hai khả năng phát triển: hoặc là đi lên CNTB hoặc là đi lên CNXH. Suy ra cuộc đấu
tranh giải quyết mâu thuẫn cơ bản ở nước ta hiện nay là cuộc đấu tranh giữa hai con đường nhằm
giải quyết triệt để vấn đề làm thế nào đem lại thắng lợi cho con đường đi lên CNXH.
Tại đại hội IX của Đảng, vấn đề đấu tranh để giải quyết mâu thuẫn tạo động lực cho sự phát triển
tiếp tục thể hiện quy định về mâu thuẫn đồng thời cụ thể hoá thành những mâu thuẫn sau đây:
Loại mâu thuẫn giữa trạng thái KT kém phát triển với yêu cầu xây dựng một XH dân giàu nước
mạnh, XH công bằng, dân chủ, văn minh.
Mâu thuẫn giữa hai khuynh hướng, hai con đường XHCN và TBCN. Mâu thuẫn này phát sinh từ
hai mặt, hai khuynh hướng đối lập: Một mặt từ quá trình cải tạo xây dựng CNXH trên các mặt KT,
chính trị, văn hoá tạo thành khuynh hướng XHCN. Mặt khác bắt nguồn từ nền sản xuất nhỏ, từ
nền KT hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường làm nảy sinh những nhân tố đôí lập,
khuynh hướng tự phát đi lên tư bản.
Loại mâu thuẫn giữa mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH với các thế lực cản trở con đường phát
triển của nước ta theo mục tiêu đó (thế lực thù địch trong và ngoài nước, vấn đề tội phạm, tệ nạn
tham nhũng-thế giới xét Việt Nam là một trong số các nước có nạn tham nhũng nặng nhất).
Loại mâu thuẫn giữa mặt nhân tố chủ quan và khách quan trong quá trình đi lên CNXH. Loại mâu
thuẫn này xuất từ yêu cầu nhận thức những quy luật những điều kiện khả năng khách quan với
một bên là trình độ năng lực, nhận thức và hoạt động thực tiễn của đảng, của nhà nước trong quá
trình lãnh đạo… Loại mâu thuẫn này thể hiện trong tư tưởng, lí luận, tổ chức, lãnh đạo chỉ đạo của nhà nước.
Phương thức giải quyết mâu thuẫn theo Đại hội XI(Trích tạp chí cộng sản)
Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản
Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử.
Đây là một quá trình cách mạng sâu sắc, triệt để, đấu tranh phức tạp giữa cái cũ và cái mới nhằm
tạo ra sự biến đổi về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhất thiết phải trải qua một
thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều bước phát triển, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen.
Chúng ta có nhiều thuận lợi cơ bản: có sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam do
Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, có bản lĩnh chính trị vững vàng và dày dạn kinh
nghiệm lãnh đạo; dân tộc ta là một dân tộc anh hùng, có ý chí vươn lên mãnh liệt; nhân dân ta có