-
Thông tin
-
Hỏi đáp
Tổng kết đổi mới từ năm 1986 đến nay - Lịch sử Đảng Cộng Sản Việt Nam| Đại học Kinh Tế Quốc Dân
Đại học Kinh tế Quốc dân với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp các bạn định hướng và họp tập dễ dàng hơn. Mời bạn đọc đón xem. Chúc bạn ôn luyện thật tốt và đạt điểm cao trong kì thi sắp tới.
Môn: Lịch sử Đảng Cộng Sản Việt Nam(LLLSD1101)
Trường: Đại học Kinh Tế Quốc Dân
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
BÀI TẬP NHÓM MÔN LỊCH SỬ ĐẢNG
ĐỀ TÀI: TỔNG KẾT ĐỔI MỚI QUA CÁC KỲ ĐẠI HỘI
TỪ NĂM 1986 ĐẾN NAY Giảng viên
: TS. Nguyễn Thị Thắm Lớp học phần : Kiểm toán CLC 63A Nhóm : 6
Hà Nội, tháng 3 năm 2023
DANH SÁCH THÀNH VIÊN NHÓM 6 STT Họ và tên Mã sinh viên 1 Nguyễn Hoàng Ánh Mai Sao 11215149 2 Trần Như Quỳnh 11215124 3 Phan Thúy Thanh Tâm 11218626 4 Đỗ Lâm Anh 11218302 5 Đặng Nguyễn Trung Anh 11219637 6 Nguyễn Vũ Huyền Anh 11217772 7 Trần Minh Phương 11214891 8 Nguyễn Thùy Dung 11217936 9 Trương Thị Phương Nga 11218746 10 Nguyễn An Bảo Khuê 11219712 1 Mục Lục
A, ĐỔI MỚI QUA CÁC KỲ ĐẠI HỘI TỪ NĂM 1986 ĐẾN NAY.............5
B. THÀNH TỰU SAU HƠN 36 NĂM THỰC HIỆN ĐƯỜNG LỐI ĐỔI
MỚI CỦA ĐẢNG........................................................................................5
1. Kinh tế...................................................................................................5
2. Văn hóa..................................................................................................8
3. Chính trị..............................................................................................10
4. Xã hội...................................................................................................12
5. Đối ngoại..............................................................................................14
6. Quốc phòng an ninh...........................................................................17
C. Hạn chế và nguyên nhân..........................................................................18
1. Kinh tế.................................................................................................18
2. Văn hoá................................................................................................20
3. Chính trị...............................................................................................25
4. Xã hội...................................................................................................29
6. Quốc phòng an ninh............................................................................33
D. Một số giải pháp đề xuất để khắc phục hạn chế....................................35
2. Văn hoá và giáo dục............................................................................37
3. Chính trị...............................................................................................39
4. Xã hội...................................................................................................40
5. Đối ngoại..............................................................................................41
6. Quốc phòng an ninh............................................................................42
E. Bài học kinh nghiệm sau 36 năm đổi mới...............................................43
Tài liệu tham khảo.........................................................................................46 2 LỜI MỞ ĐẦU
Đảng Cộng sản Việt Nam là người tổ chức và lãnh đạo mọi thắng lợi của cách mạng
Việt Nam trên con đường đấu tranh giành độc lập dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã
hội chủ nghĩa, vì dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Đó là một thực tiễn
lịch sử không ai có thể phủ nhận được.
Sự ra đời của Đảng CSVN không chỉ chấm dứt sự khủng hoảng về đường lối cứu nước
mà còn khẳng định vai trò quyết định về sự lãnh đạo của Đảng CSVN đối với cách mạng
Việt Nam trong 90 năm qua. Đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định, muốn làm
cách mạng thì “Trước hết phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân
chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững
cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy”(2). Thực tiễn
thắng lợi của nhân dân ta trong quá trình đấu tranh cách mạng, giải phóng dân tộc, xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc, dưới sự lãnh đạo của Đảng CSVN quang vinh trong hơn 90 năm qua đã
khẳng định: Đảng CSVN là người tổ chức và lãnh đạo mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Trải qua 13 kỳ Đại hội đại biểu toàn quốc, mỗi kỳ đại hội là một mốc son chói lọi phản
ánh sự trưởng thành của Đảng và cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng. Qua từng
kì đại hội, những đổi mới mà Đảng đề ra để đáp ứng nhu cầu của đất nước trong thời kì đổi
mới, hộp nhập quốc tế đã cho thấy hiệu quả tích cực. Từ đó đưa ra những bài học kinh
nghiệm để tiếp tục có những chỉ đạo sát với thực tế, giúp cho đất nước ta ngày một phát triển. 3
A, ĐỔI MỚI QUA CÁC KỲ ĐẠI HỘI TỪ NĂM 1986 ĐẾN NAY.
B. THÀNH TỰU SAU HƠN 36 NĂM THỰC HIỆN ĐƯỜNG LỐI ĐỔI MỚI CỦA ĐẢNG. 1. Kinh tế
Với công cuộc đổi mới từ năm 1986, chỉ đến năm 2000, Việt Nam đã không chỉ đảm
bảo an ninh lương thực quốc gia, mà còn từ nước thiếu lương thực trở thành nước xuất khẩu
gạo lớn thứ hai thế giới. Sản xuất công nghiệp đi dần vào thế phát triển ổn định với tốc độ
tăng bình quân mỗi năm trong thời kỳ 1986 - 2000 đạt 11,09%. Siêu lạm phát từng bước
được kiềm chế và đẩy lùi. Năm 1986, tổng thu nhập bình quân đầu người chỉ đạt 86
USD/năm, đến năm 1990, GDP bình quân đầu người cũng chỉ đạt 98 USD (trong khi cùng
thời điểm, Lào là 186 USD, và Campuchia 191 USD). Tỉ lệ nghèo chung của Việt Nam tính
theo phương pháp của Ngân hàng Thế giới (WB) đến năm 1998 giảm từ mức trên 60% xuống còn 37,4%.
GDP VIỆT NAM TỪ NĂM 1987-2021
Nếu như trong giai đoạn đầu đổi mới (1986-1990) mức tăng trưởng GDP bình quân
hàng năm chỉ đạt 4,4%, thì giai đoạn 1991-1995 GDP bình quân đã tăng gấp đôi, đạt
8,2%/năm; các giai đoạn sau đó đều có mức tăng trưởng khá cao. Liên tiếp trong 4 năm, từ 4
năm 2016 - 2019, Việt Nam đứng trong top 10 nước tăng trưởng cao nhất thế giới, là một
trong 16 nền kinh tế mới nổi thành công nhất. Đặc biệt, trong năm 2020, trong khi phần lớn
các nước có mức tăng trưởng âm hoặc đi vào trạng thái suy thoái do tác động của dịch
COVID-19, kinh tế Việt Nam vẫn tăng trưởng dương 2,91%, góp phần làm cho GDP trong 5
năm qua tăng trung bình 5,9 %/năm, thuộc nhóm nước có tốc độ tăng trưởng cao nhất trong
khu vực và trên thế giới. Quy mô, trình độ nền kinh tế được nâng lên, nếu như năm 1989
mới đạt 6,3 tỷ USD/năm, thì đến năm 2020 đã đạt khoảng 268,4 tỷ USD/năm. Đời sống
nhân dân cả về vật chất và tinh thần được cải thiện rõ rệt, năm 1986 bình quân thu nhập đầu
người mới đạt 86 USD/năm, thì đến năm 2020 đạt khoảng 2.750 USD/năm.
CƠ CẤU GDP THEO KHU VỰC KINH TẾ NĂM 2021
Đến năm 2022, đất nước ta đã đạt được những thành tựu kinh tế sau:
Bất chấp đại dịch Covid-19 bùng phát và gây hậu quả nặng nề trên toàn cầu suốt 3 năm 2020
- 2022, theo Tổng cục Thống kê, năm 2022, kinh tế nước ta phục hồi mạnh mẽ và là năm
đầu tiên trong giai đoạn 3 năm dịch Covid-19 qua, Việt Nam đạt và vượt 13/15 chỉ tiêu kinh
tế kế hoạch đặt ra, với tăng trưởng GDP 8,02%; trong đó, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy
sản tăng 3,36%, chiếm tỉ trọng 11,88%; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 7,78%,
chiếm 38,26%; khu vực dịch vụ tăng 9,99%, chiếm 41,33%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản
phẩm chiếm 8,53%. GDP bình quân đầu người theo giá hiện hành đạt khoảng 95,6 triệu
đồng/người, tương đương 4.110 USD, tăng 393 USD so với năm 2021. Năng suất lao động
của toàn nền kinh tế theo giá hiện hành đạt khoảng 188,1 triệu đồng/lao động (tương đương 5
8.083 USD/lao động, tăng 622 USD so với năm 2021). Theo giá so sánh, năng suất lao động
năm 2022 tăng 4,8% do trình độ của người lao động được cải thiện (tỉ lệ lao động qua đào
tạo có bằng, chứng chỉ năm 2022 đạt 26,2%, cao hơn 0,1 điểm phần trăm so với năm 2021).
Xuất khẩu của Việt Nam nổi lên như điểm sáng về kim ngạch, mức xuất siêu, cơ cấu
hàng xuất và sự phục hồi thị trường: Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa đạt khoảng
732,5 tỉ USD, tăng 9,5% so với năm trước, trong đó xuất khẩu tăng 10,6%; nhập khẩu tăng
8,4%. Cán cân thương mại hàng hóa năm 2022 xuất siêu khoảng 11,2 tỉ USD; có 36 mặt
hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỉ USD, chiếm 94% tổng kim ngạch xuất khẩu (có 8
mặt hàng xuất khẩu trên 10 tỉ USD, chiếm 70,1%); có 46 mặt hàng nhập khẩu đạt trị giá trên
1 tỉ USD, chiếm tỉ trọng 93,3% tổng kim ngạch nhập khẩu (có 6 mặt hàng nhập khẩu trên 10
tỉ USD, chiếm 52,1%). Lần đầu tiên xuất khẩu thủy sản Việt Nam đạt mức 11 tỉ USD, tức về
đích trước hẹn so với mục tiêu Chính phủ đặt ra là đạt 10 tỉ USD vào năm 2025. Tất cả các
thị trường xuất khẩu đều phục hồi so với năm 2021. Trong đó, các thị trường là đối tác ký
kết FTA với Việt Nam có tăng trưởng ở mức cao, như: Liên minh châu Âu (EU) tăng 23,5%;
khu vực Đông Nam Á tăng 23,3%.
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tăng 19,8% so với năm
2021; khách quốc tế đến nước ta đạt 3.661,2 nghìn lượt người, gấp 23,3 lần so với năm 2021.
Vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội theo giá hiện hành năm 2022 đạt khoảng 3.219,8
nghìn tỉ đồng, tăng 11,2% so với năm 2021, mức tăng này phản ánh đà phục hồi mạnh mẽ
của hoạt động sản xuất, kinh doanh. Trong đó, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) thực
hiện tại Việt Nam đạt gần 22,4 tỉ USD, tăng 13,5% so với năm 2021, đạt mức cao nhất từ
năm 2018 đến nay. Huy động vốn của các tổ chức tín dụng tăng 5,99%; tăng trưởng tín dụng
của nền kinh tế đạt 12,87%. Doanh thu phí toàn thị trường bảo hiểm năm 2022 tăng 16,2%
so với năm trước, trong đó, doanh thu phí bảo hiểm lĩnh vực nhân thọ tăng 15,8%; lĩnh vực
bảo hiểm phi nhân thọ tăng 17,3%. Tính đến ngày 30/12/2022, chỉ số VNIndex đạt 1.007,09
điểm, giảm 32,78% so với cuối năm 2021. Mức vốn hóa thị trường giảm khoảng 32% so với
cuối năm 2021. Thu ngân sách nhà nước tăng 15% so với năm 2021.
Năm 2022, cả nước có 148,5 nghìn doanh nghiệp đăng ký thành lập mới, tăng 27,1%
về số doanh nghiệp và tăng 14,9% về số lao động so với năm 2021. Tổng số vốn đăng ký bổ
sung vào nền kinh tế trong năm 2022 là 4.763,5 nghìn tỉ đồng, tăng 15,2% so với năm trước.
Bên cạnh đó, có 59,8 nghìn doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, tăng 38,8% so với năm
2021, nâng tổng số doanh nghiệp thành lập mới và doanh nghiệp quay trở lại hoạt động
trong năm 2022 lên 208,3 nghìn doanh nghiệp, tăng 30,3% so với năm 2021. Bình quân một
tháng có 17,4 nghìn doanh nghiệp thành lập mới và quay trở lại hoạt động; có 11,9 nghìn
doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường. 6
Theo Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO), năm 2022, Việt Nam thuộc nhóm quốc
gia đạt được những tiến bộ lớn nhất trong thập kỷ qua (tăng 20 bậc), xếp vị trí 48/132 quốc
gia về Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu (GII) và xếp vị trí thứ 3 khu vực Đông Nam Á. Việt
Nam dẫn đầu thế giới về nhập khẩu công nghệ cao; xếp hạng về đầu ra thứ 35 so với thứ 38
năm 2021, thuộc nhóm các nền kinh tế thu nhập trung bình có tốc độ tăng trưởng hiệu suất đổi mới nhanh nhất.
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) bình quân cả năm 2022 tăng 3,15% so với năm 2021, đạt
mục tiêu Quốc hội đề ra. Lạm phát cơ bản bình quân năm 2022 tăng 2,59% so với năm 2021. 2. Văn hóa
2.1.Thể thao, du lịch
Công tác bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa được các địa phương quan tâm và
thực hiện. Thể thao thành tích cao đạt được một số kết quả nổi bật, đặc biệt Việt Nam đã
hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ nước chủ nhà đăng cai tổ chức SEA Games 31, xếp thứ nhất toàn đoàn.
Hoạt động thể dục, thể thao quần chúng tiếp tục được đẩy mạnh và nâng cao chất
lượng. Năm 2022 đã tổ chức được 35 hội thi thể thao, giải thi đấu thể thao quần chúng cấp
quốc gia thu hút được gần 12.000 cán bộ, vận động viên tham dự và 16 lớp bồi dưỡng, tập
huấn nghiệp vụ thể dục thể thao cho 2.162 cán bộ, hướng dẫn viên, cộng tác viên thể dục thể thao cơ sở.
Năm 2022, Đoàn thể thao Việt Nam đã xuất sắc giành được 903 huy chương, trong đó:
374 huy chương vàng, 259 huy chương bạc và 270 huy chương đồng. Tại SEA Games 31,
đoàn thể thao Việt Nam đã xếp thứ nhất toàn đoàn, phá 21/41 kỷ lục tại Đại hội. Trong Đại
hội thể thao khuyết tật Đông Nam Á (ASEAN Para Games 11), Đoàn thể thao Việt Nam
tham gia và giành vị trí thứ 3/11 với 65 huy chương vàng, 62 huy chương bạc và 56 huy chương đồng.
Đại hội Thể dục thể thao toàn quốc lần thứ IX năm 2022 diễn ra tại 11 tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương từ ngày 09/12-21/12/2022, tranh tài 933 bộ huy chương ở 43 môn thể
thao với 53 kỷ lục quốc gia, 96 kỷ lục Đại hội được xác lập.
Du lịch Việt Nam ghi nhận sự tăng trưởng mạnh của khách nội địa 2022 khi đạt 101,3
triệu lượt, tăng 168,3% so với kế hoạch, vượt mức trước dịch.
Theo số liệu thống kê từ Tổng cục Du lịch, trước Covid-19, lượng khách nội địa tăng
đều qua các năm và đạt đỉnh vào 2019 với 85 triệu lượt. Năm 2022, sau khi gỡ bỏ mọi hạn 7
chế đi lại, lượng khách nội địa cả năm đã đạt 101,3 triệu lượt, tăng 168,3% so với mục tiêu
60 triệu và vượt con số của 2019. Riêng ba tháng hè, lượng khách đạt hơn 35 triệu. Doanh
thu đạt 495.000 tỷ đồng, vượt 23% kế hoạch. Nhiều chuyên gia khẳng định, đây là năm hồi
sinh của du lịch nội địa. 2.2. Giáo dục
Với chủ đề của năm học 2022-2023 là “Đoàn kết, sáng tạo, ra sức phấn đấu hoàn
thành tốt các nhiệm vụ và mục tiêu đổi mới, củng cố và nâng cao chất lượng giáo dục và
đào tạo”, ngành giáo dục đã tập trung thực hiện nhiều nhiệm vụ trọng tâm về hoàn thiện
thể chế, tăng cường công tác chính trị, tư tưởng, phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ
quản lý giáo dục, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, đẩy mạnh thực hiện các phong
trào thi đua trong toàn ngành đồng thời chủ động phòng, chống và ứng phó hiệu quả với
thiên tai, dịch bệnh.
Năm học 2022-2023, cả nước có 15.329 trường mầm non, tăng 9 trường so với năm
học trước; 26.085 trường phổ thông, giảm 124 trường. Số giáo viên mầm non trực tiếp giảng
dạy là 353,7 nghìn giáo viên, tăng 4 nghìn giáo viên; số giáo viên phổ thông trực tiếp giảng
dạy là 807,5 nghìn giáo viên, giảm 5 nghìn giáo viên. Cũng trong năm học này, cả nước có
gần 4,9 triệu trẻ em bậc mầm non, tăng 7,9% so với năm học 2021-2022 và 18,1 triệu học
sinh phổ thông, tăng 1,2%, bao gồm: 9,2 triệu học sinh tiểu học, tương đương số học sinh
tiểu học của năm học trước; hơn 6 triệu học sinh trung học cơ sở, tăng 2,2% và gần 2,9 triệu
học sinh trung học phổ thông, tăng 2,6%.
Tính đến tháng 12/2022, cả nước có 1.905 cơ sở giáo dục nghề nghiệp, bao gồm 412
trường cao đẳng; 435 trường trung cấp và 1.058 trung tâm giáo dục nghề nghiệp. Đào tạo
nghề năm 2022 đã tuyển mới được 2.430 nghìn người, đạt 116,5% so với kế hoạch đề ra, 8
trong đó trình độ cao đẳng, trung cấp tuyển sinh được 530 nghìn người, đạt 100%; trình độ
sơ cấp và chương trình đào tạo nghề khác tuyển sinh được 1.900 nghìn người, đạt 122,1%.
Ước tính cả năm 2022, số học sinh tốt nghiệp các lớp đào tạo nghề là 2.096 nghìn người, đạt
114,9% mục tiêu đề ra, trong đó trình độ cao đẳng và trung cấp là 346 nghìn người, đạt
100%; trình độ sơ cấp và các chương trình đào tạo khác là 1.750 nghìn người, đạt 118,4%.
Số năm đi học bình quân của Việt Nam là 10,2 năm, đứng thứ hai chỉ sau Singapore
theo xếp hạng của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á. Chỉ số vốn con người của Việt Nam
là 0,69 trên thang cao nhất là 1, xếp hạng cao nhất trong các nền kinh tế có thu nhập trung
bình thấp. (Cập nhật 11/11/2022 - Theo WB)
Trong Báo cáo Phát triển con người (HDR) toàn cầu 2021/2022 được Chương trình
Phát triển Liên hợp quốc (UNDP) tại Việt Nam công bố sáng 9/9. Theo báo cáo, Chỉ số Phát
triển con người (HDI) của Việt Nam là 0,703 vào năm 2021, tăng hai bậc trong bảng xếp
hạng toàn cầu, lên vị trí 115/191 quốc gia. 3. Chính trị
Sau hơn 35 năm đổi mới, với tầm nhìn chiến lược trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta đã kiến tạo một hệ thống lý luận chính trị khá hoàn chỉnh,
lãnh đạo thắng lợi công cuộc đổi mới xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc. Đó là một trong
những nguồn gốc của những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử. Có thể khái quát một số vấn
đề cơ bản về đổi mới tư duy lý luận chính trị sau: 9
Thứ nhất, Đảng ta tiếp tục bổ sung, phát triển lý luận về con đường quá độ lên
CNXH. Mặc dù thế giới có nhiều biến động, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn giữ vững định
hướng xã hội chủ nghĩa trên con đường đi lên CNXH bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa.
Những chủ trương và giải pháp của Đảng theo ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH, qua lịch
sử đã chứng minh tính đúng đắn con đường đã chọn.
Thứ hai, những nội dung lý luận chính trị cơ bản góp phần hoạch định các quyết
sách chính trị của Đảng trong quá trình đổi mới đi lên CNXH ở Việt Nam. Thực tiễn công
cuộc đổi mới đòi hỏi phải xây dựng một bộ máy nhà nước vững mạnh, trong sạch, ngang
tầm với yêu cầu của cách mạng trong thời kỳ mới. Việc xây dựng lý luận nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa là sự phát triển mới về nhận thức chính trị, đồng thời đó là mục tiêu,
nội dung căn bản, bước tiến lớn về thực tiễn đổi mới về chính trị của Đảng ta.
Xây dựng lý luận nền văn hóa Việt Nam dân tộc, hiện đại, con người Việt Nam thời
kỳ mới, Đảng ta khẳng định nền văn hóa Việt Nam mới là mục tiêu, nền tảng, động lực của
công cuộc đổi mới, nhằm đưa nước ta khỏi nước kém phát triển, nâng cao đời sống vật chất
và tinh thần cho nhân dân.
Xây dựng lý luận chủ động, tích cực hội nhập quốc tế. Xuất phát từ nhu cầu thực tiễn
của công cuộc đổi mới và xu thế của thời đại, hơn 30 năm qua, Đảng ta đã chủ động xây
dựng một nền lý luận về ngoại giao Việt Nam của thời kỳ đất nước hội nhập quốc tế trong bối cảnh toàn cầu hóa.
Phát triển lý luận về Đảng cộng sản Việt Nam. Có thể khái quát qua các phương
diện: Quan niệm về cầm quyền, Đảng tiếp tục lãnh đạo sự nghiệp cách mạng trong điều
kiện có quyền lực nhà nước và Đảng lãnh đạo trực tiếp, toàn diện Nhà nước của nhân dân,
do nhân dân, vì nhân dân.
Bên cạnh những thành tựu về đổi mới tư duy lý luận chính trị, một trong những thành
tựu nổi bật về chính trị là Việt Nam được đánh giá cao về “Chỉ số Chính phủ tốt”
"Chỉ số chính phủ tốt Chandler" là chỉ số toàn diện nhất trên thế giới, được sử dụng để
đánh giá hiệu quả hoạt động của chính phủ quốc gia. Chỉ số này cho thấy tầm quan trọng của
việc đầu tư nhằm nâng cao năng lực của công chức và bộ máy mà họ vận hành để xây dựng
một tương lai tốt đẹp và bền vững hơn. Chỉ số này tập trung vào 7 trụ cột: Năng lực lãnh đạo
và tầm nhìn xa; luật pháp và chính sách mạnh mẽ; thể chế mạnh; quản lý tài chính; thị
trường hấp dẫn; tầm ảnh hưởng-danh tiếng toàn cầu và hỗ trợ phát triển con người.
Trong bảng xếp hạng "Chỉ số chính phủ tốt Chandler" (Chandler Good Government
Index-CGGI) năm 2022, Việt Nam đã đạt được mức tăng trưởng mạnh mẽ về chỉ số "Bình
đẳng thu nhập", tăng 33 bậc so với năm 2021, lên vị trí thứ 42. Việt Nam cũng tăng 18 bậc 10
lên vị trí thứ 39 về chỉ số "Thu hút đầu tư"; chỉ số "Sự hài lòng với các dịch vụ công" xếp
thứ 15 và "Bình đẳng giới" thứ 27. 4. Xã hội
- Dân số trung b|nh c}a Viê ~t Nam năm 2022 là 99,46 triê ~u ngư•i. Chất lượng dân
số được cải thiê ~n, m€c sinh giảm thấp nhất trong giai đoạn 2018-2022[27] và duy tr| m€c
sinh thay thế tƒ năm 2005 tr„ lại đây. T|nh h|nh lao đô ~ng, viê ~c làm năm 2022 phục hồi
tích cực nhưng có xu hướng tăng chậm lại trong quý IV/2022. Lực lượng lao động, số
ngư•i có việc làm và thu nhập b|nh quân tháng c}a lao động quý IV/2022 tăng so với
quý trước và cùng kỳ năm trước nhưng tỷ lệ thất nghiệp và tỷ lệ thiếu việc làm c}a lực
lượng lao động trong độ tuổi tăng so với quý trước do một số doanh nghiệp gặp khó
khăn trong sản xuất kinh doanh, các đơn hàng bị cắt giảm vào dịp cuối năm.
Dân số trung bình năm 2022 của cả nước ước tính 99,46 triệu người, tăng 955,5 nghìn
người, tương đương tăng 0,97% so với năm 2021, trong đó: Dân số thành thị 37,09 triệu
người, chiếm 37,3%; dân số nông thôn 62,37 triệu người, chiếm 62,7%; nam 49,61 triệu
người, chiếm 49,9%; nữ 49,85 triệu người, chiếm 50,1%. Tỷ số giới tính của dân số năm
2022 là 99,5 nam/100 nữ. Tuổi thọ trung bình của dân số cả nước năm 2022 là 73,6 tuổi,
trong đó nam là 71,1 tuổi và nữ là 76,4 tuổi.
Lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên của cả nước năm 2022 là 51,7 triệu người, tăng
1,1 triệu người so với năm trước; lực lượng lao động trong độ tuổi lao động là 46 triệu
người, tăng 1,4 triệu người; lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc là 50,6 triệu người.
Tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động cả nước năm 2022 là 2,32%, trong đó khu vực
thành thị là 2,79%; khu vực nông thôn là 2,03%.
Tỷ lệ thiếu việc làm của lao động trong độ tuổi năm 2022 là 2,21%, trong đó tỷ lệ thiếu
việc làm khu vực thành thị là 1,7%; tỷ lệ thiếu việc làm khu vực nông thôn là 2,51%.
- Năm 2022, công tác an sinh xã hội định kỳ và công tác giảm nghèo bền vững tiếp
tục được quan tâm, chỉ đạo, các địa phương đã thực hiện nhiều giải pháp đồng bộ,
chăm lo cho hộ nghèo. Đ•i sống c}a hộ dân cư được cải thiện.
Theo kết quả sơ bộ từ Khảo sát mức sống dân cư năm 2022, ước tính thu nhập bình
quân đầu người đạt 4,6 triệu đồng/người/tháng, tăng 9,5% so với năm 2021. Tỷ lệ nghèo tiếp
cận đa chiều ước khoảng 3,6%, giảm 0,8 điểm phần trăm so với năm 2021.
Theo báo cáo của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, tính đến ngày 30/11/2022 gói
hỗ trợ theo Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 30/01/2022 đã giải ngân khoảng 3,74 nghìn tỷ 11
đồng, hỗ trợ cho gần 123 nghìn lượt doanh nghiệp với gần 5,3 triê Šu lượt lao động. Ngoài ra,
để người dân không bị thiếu đói, tính từ đầu năm đến nay Chính phủ cấp xuất tổng số 24,8
nghìn tấn gạo hỗ trợ cho 492,5 nghìn hộ với 1,6 triệu nhân khẩu.
Trong năm 2022, tổng trị giá tiền và quà hỗ trợ cho các đối tượng là hơn 14,4 nghìn tỷ
đồng. Trong đó, hỗ trợ cho các đối tượng người có công, thân nhân người có công là 4,7
nghìn tỷ đồng, hỗ trợ cho hộ nghèo, hộ cận nghèo là 2,4 nghìn tỷ đồng; hỗ trợ cứu đói các
đối tượng bảo trợ xã hội là hơn 2,7 nghìn tỷ đồng; hỗ trợ tình hình đột biến, bất thường, nổi
bật khác phát sinh tại địa phương là gần 4,6 nghìn tỷ đồng. Có gần 29,8 triệu thẻ bảo hiểm
xã hội/sổ/thẻ khám chữa bệnh miễn phí được phát, tặng cho các đối tượng thụ hưởng.
Theo số liệu của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đến ngày 29/11/2022, trên cả
nước có: 5.869/8.225 xã (chiếm 71,4%) đạt chuẩn nông thôn mới; 937 xã đạt chuẩn nông
thôn mới nâng cao; 110 xã đạt chuẩn nông thôn mới kiểu mẫu; bình quân cả nước đạt 17,1
tiêu chí/xã; 255 đơn vị cấp huyện thuộc 58 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương hoàn
thành nhiệm vụ/đạt chuẩn nông thôn mới (đạt 39,6% số huyện cả nước) và 18 tỉnh có 100%
số xã đạt chuẩn nông thôn mới.
- Dịch Covid-19 trên thế giới tiếp tục diễn biến khó lư•ng. Tổ ch€c y tế thế giới
tiếp tục cảnh báo về sự lưu hành hơn 500 biến thể phụ c}a Omicron. Tại Việt Nam,
dịch Covid-19 được kiểm soát, tiến độ tiêm vắc xin Covid-19 tiếp tục được đẩy nhanh
đảm bảo an toàn, khoa học và hiệu quả. Dịch sốt xuất huyết tăng mạnh.
Từ ngày 08/3/2021 đến ngày 26/12/2022, tổng số liều vắc xin phòng Covid-19 đã được
tiêm là 265,4 triệu liều, trong đó tiêm mũi 1 là 90,4 triệu liều; tiêm mũi 2 85,8 triệu liều; mũi
bổ sung là 14,5 triệu liều; mũi nhắc lại lần 1 là 57,4 triệu liều; mũi nhắc lại lần 2 là 17,3 triệu liều.
Năm 2022, cả nước có hơn 354,3 nghìn trường hợp mắc bệnh sốt xuất huyết (133
trường hợp tử vong); 66,6 nghìn trường hợp mắc bệnh tay chân miệng (03 trường hợp tử
vong); 298 trường hợp mắc bệnh viêm não vi rút (08 trường hợp tử vong); 13 trường hợp
mắc bệnh viêm màng não do não mô cầu (01 trường hợp tử vong); 357 trường hợp sốt phát ban nghi sởi.
Tổng số người nhiễm HIV của cả nước hiện còn sống tính đến thời điểm 18/12/2022 là
222,4 nghìn người và số người tử vong do HIV/AIDS của cả nước tính đến thời điểm trên là 112,6 nghìn người.
Về ngộ độc thực phẩm năm 2022, cả nước xảy ra 54 vụ với 1.359 người bị ngộ độc (18 người tử vong). 12
- Thiên tai, ô nhiễm môi trư•ng và cháy, nổ ảnh hư„ng không nhỏ tới cuộc sống
c}a ngư•i dân „ một số địa phương.
Năm 2022, thiên tai làm 169 người chết và mất tích, 282 người bị thương; 38,2 nghìn
ngôi nhà bị sập đổ và hư hỏng; gần 756 nghìn con gia súc, gia cầm bị chết; 218,1 nghìn ha
lúa và 66,2 nghìn ha hoa màu bị hư hỏng; tổng giá trị thiệt hại về tài sản ước tính hơn 14,2
nghìn tỷ đồng, gấp 2,9 lần năm 2021.
Trong năm nay đã phát hiện 21.122 vụ vi phạm môi trường, trong đó xử lý 18.374 vụ
với tổng số tiền phạt là gần 269 tỷ đồng, tăng 11,7% so với năm trước; trên địa bàn cả nước
xảy ra 1.764 vụ cháy, nổ, làm 122 người chết và 112 người bị thương, thiệt hại ước tính
602,3 tỷ đồng, tăng 60,9% so với năm trước. 5. Đối ngoại
Sau 2 năm gián đoạn do đại dịch Covid-19, trong năm 2022, nhiều chuyến thăm cấp
cao của lãnh đạo Đảng, Nhà nước ta và các chuyến thăm của lãnh đạo các nước tới Việt Nam
cho thấy hoạt động đối ngoại sôi nổi và hiệu quả, góp phần đưa quan hệ hợp tác ngày càng
thực chất và có chiều sâu.
Năm 2022, các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước và Quốc hội đã trực tiếp tham gia
nhiều hoạt động đa phương quan trọng hàng đầu, truyền tải mạnh mẽ thông điệp về một đất
nước Việt Nam yêu chuộng hòa bình, trọng công lý, năng động, đổi mới, sẵn sàng là bạn, là
đối tác tin cậy, có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế.
5.1. Sôi động các hoạt động đối ngoại cấp cao
- Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc tham dự Tuần lễ Cấp cao APEC (tháng
11/2022); Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính tham dự Hội nghị Cấp cao Đặc
biệt ASEAN - Hoa Kỳ (tháng 5/2022), Hội nghị Cấp cao ASEAN lần th€ 40-41
(tháng 11/2022) và Hội nghị Cấp cao ASEAN - EU (tháng 12/2022); Chủ tịch Quốc
hội Vương Đình Huệ tham dự Đại Hội đồng AIPA-43 (tháng 11/2022); Phó Chủ tịch
nước Võ Thị Ánh Xuân tham dự Hội nghị Thượng đỉnh CICA (tháng 10/2022) và
Hội nghị Cấp cao Pháp ngữ lần th€ 18 (tháng 11/2022); Phó Thủ tướng Thường
trực Phạm Bình Minh tham dự Phiên thảo luận chung cấp cao Khóa 77 Đại hội
đồng LHQ (tháng 9/2022).
- Đặc biệt, Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức
Thương mại Thế giới (WTO) từ ngày 11/01/2007. Sự kiện lớn này đã để lại nhiều dấu
ấn tích cực trên hành trình đổi mới và hội nhập quốc tế của Việt Nam.
=> Việc tham gia WTO và hội nhập quốc tế góp phần đổi mới tư duy chính sách
và hoàn thiện chuẩn mực quản lý nhà nước, cũng như quản trị doanh nghiệp, định 13
hình khung khổ pháp lý và các chuẩn mực phát triển các thể chế kinh tế - thương mại,
tạo cơ sở pháp lý vững chắc làm cầu nối và xung lực tích cực để Việt Nam từng bước
mở cửa, mở rộng quy mô thị trường hàng hóa và dịch vụ, cải thiện cơ cấu và nâng cao
hiệu quả hoạt động thương mại quốc tế theo các thỏa thuận đa phương và song
phương mà Việt Nam đã cam kết.
- Đến năm 2022, Việt Nam đã tham gia hơn 500 hiệp định song phương và đa
phương trên nhiều lĩnh vực, trong đó có 17 Hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ
mới; có 30 đối tác chiến lược và đối tác chiến lược toàn diện; có quan hệ ngoại giao
với 190/193 nước (so với 11 nước năm 1954) và quan hệ kinh tế với 160 nước và 70
vùng lãnh thổ; 79 quốc gia đã công nhận Việt Nam là nền kinh tế thị trường. Việt
Nam ngày càng chủ động hoàn thiện khung khổ thể chế phát triển kinh tế thị trường
và tự tin hội nhập toàn cầu ngày càng sâu rộng, đầy đủ và hiệu quả hơn.
5.2. Tiếp tục đảm nhiệm các vị trí quan trọng tại các diễn đàn quốc tế và khu vực
Tổng thư ký Liên hợp quốc António đến chào Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng
- “Liên hợp quốc tự hào khi được là đối tác của Việt Nam” - tổng kết ngắn gọn
của Tổng Thư ký Liên hợp quốc Antonio Guterres trong chuyến thăm Việt Nam hồi
tháng 10 nhân 45 năm Việt Nam gia nhập tổ chức đa phương lớn nhất hành tinh, đã
thể hiện sự ghi nhận những đóng góp chủ động và trách nhiệm của Việt Nam trên trường quốc tế. 14
Việt Nam được bầu làm Phó Chủ tịch Đại hội đồng LHQ Khóa 77
- Tháng 6/2022, Đại hội đồng Liên hợp quốc đồng thuận bỏ phiếu bầu Việt Nam
là một trong những Phó Chủ tịch Đại hội đồng Liên hợp quốc khóa 77 đại diện cho
khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Tháng 10/2022, Việt Nam trúng cử vào Hội đồng
Nhân quyền nhiệm kỳ 2023-2025. Đây là lần thứ hai Việt Nam được bầu làm thành
viên một trong những cơ quan quan trọng bậc nhất của Liên hợp quốc. Trước đó, Việt
Nam đã đảm nhiệm thành công vai trò thành viên Hội đồng Nhân quyền Liên hợp
quốc nhiệm kỳ 2014-2016, góp phần bảo vệ lợi ích quốc gia, nâng cao vị thế, uy tín của đất nước.
- Ngoài ra, Việt Nam đã được cộng đồng quốc tế tín nhiệm bầu vào nhiều cơ chế
quan trọng như Ủy ban liên Chính phủ Công ước UNESCO về Bảo vệ di sản văn hóa
phi vật thể nhiệm kỳ 2022-2026; đồng thời tiếp tục thực hiện trọng trách thành viên
tại Hội đồng Thống đốc Cơ quan Năng lượng nguyên tử quốc tế (IAEA) nhiệm kỳ
2021-2023, Hội đồng Chấp hành UNESCO nhiệm kỳ 2021-2025, Ủy ban Luật pháp
Quốc tế (ILC) nhiệm kỳ 2023-2027, Ủy ban Luật thương mại Quốc tế nhiệm kỳ
2019-2025 và một số cơ quan chuyên ngành khác.
- Đến nay, Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với 189/193 quốc gia thành viên
Liên hợp quốc. Đảng Cộng sản Việt Nam đã thiết lập quan hệ với 247 chính đảng ở
111 quốc gia, Quốc hội Việt Nam có quan hệ với Quốc hội, Nghị viện của hơn 140
nước. Các tổ chức hữu nghị nhân dân có quan hệ với 1.200 tổ chức nhân dân và phi chính phủ nước ngoài. 15
- Trên bình diện đa phương, Việt Nam là thành viên tích cực và có trách nhiệm
của hơn 70 tổ chức, diễn đàn quốc tế quan trọng như Liên hợp quốc, ASEAN, APEC,
ASEM, WTO... Nếu cách đây 30 năm, chúng ta có quan hệ kinh tế-thương mại với
gần 30 nước và vùng lãnh thổ thì đến nay con số này đã được nâng lên thành 230.
6. Quốc phòng an ninh
Trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực và trong nước diễn biến phức tạp, khó
lường; song dưới sự lãnh đạo của Đảng, quân và dân ta đã kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo
vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ lợi ích
quốc gia - dân tộc; bảo vệ Đảng, Nhà nước và nhân dân. Tư duy mới của Đảng ta về quân
sự, quốc phòng ngày càng phát triển. Sau nhiều năm nghiên cứu, trong nhiệm kỳ này, chúng
ta đã ban hành và triển khai thực hiện đồng bộ, toàn diện và hiệu quả: Chiến lược quân sự,
Chiến lược quốc phòng, Chiến lược bảo vệ an ninh quốc gia, Chiến lược bảo vệ biên giới
quốc gia, Chiến lược bảo vệ quốc gia trên không gian mạng.
Liên minh Viễn thông Quốc tế vừa công bố báo cáo xếp hạng an toàn, an ninh mạng
toàn cầu - GCI 2020. Theo đó, trong kỳ đánh giá thứ tư này, Việt Nam đã vươn lên vị trí thứ
25 trong 194 quốc gia, vùng lãnh thổ được xếp hạng, đứng thứ 7 trong khu vực châu Á -
Thái Bình Dương và thứ 4 khu vực ASEAN. Như vậy, so năm 2019, xét trên toàn cầu Việt
Nam tăng 25 bậc vượt qua Thái Lan để xếp thứ 4/11 quốc gia khu vực ASEAN, chỉ xếp sau
Singapore, Malaysia và Indonesia. Cụ thể, Việt Nam đạt tổng điểm 94,59/100, với sự cải
thiện điểm ở cả 5 trụ cột được ITU đánh giá.
Về chỉ số Hoà bình Toàn cầu (GPI) Viện Kinh tế và Hòa bình (IEP) vừa công bố báo
cáo năm 2022. Trong đó, Việt Nam tăng 6 bậc, xếp thứ 44. IEP lập báo cáo GPI đánh giá
mức độ hòa bình hằng năm đối với 163 quốc gia và vùng lãnh thổ độc lập bắt đầu từ năm
2008. Báo cáo này dựa trên 23 chỉ số định tính và định lượng thuộc các tiêu chí như mức độ
an ninh và an toàn xã hội, xung đột trong nước và quốc tế đang diễn ra, mức độ gắn kết xã
hội, ổn định chính trị…
Đồng thời Việt Nam chủ động nghiên cứu, phát hiện, có phương án, đối sách hợp lý,
hiệu quả để ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa; đấu tranh làm thất
bại âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch. Việc
kết hợp giữa củng cố quốc phòng, an ninh với phát triển kinh tế - xã hội trong các chiến
lược, kế hoạch, các ngành, lĩnh vực ngày càng chặt chẽ, hiệu quả. Công nghiệp quốc phòng,
an ninh được Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đặc biệt quan tâm phát triển theo hướng hiện
đại, lưỡng dụng, góp phần trang bị vũ khí, khí tài, phương tiện quân sự cho lực lượng vũ
trang; giảm bớt phần chi ngân sách nhà nước cho quốc phòng, an ninh để dành ngân sách
cho phát triển kinh tế - xã hội. 16
C. Hạn chế và nguyên nhân 1. Kinh tế
Phát triển kinh tế Việt Nam trong những năm qua đạt được nhiều thành tựu đáng kể,
tuy nhiên, vẫn còn có những bất cập, hạn chế chưa được khắc phục một cách triệt để.
- Trong năm 2022, vốn đầu tư nước ngoài điều chỉnh tăng khá (12,2%), tuy
nhiên vẫn chưa có tác động lan tỏa, chưa tạo ra được sự liên doanh liên kết với các
doanh nghiệp nước ngoài. Các doanh nghiệp, công ty được rót vốn đầu tư từ nước
ngoài trong nước ta vẫn chưa có sự hợp tác, chưa liên kết và thỏa thuận để phát sinh hoạt động kinh doanh.
- Hiệu quả đầu tư chưa thực sự cao, vẫn còn có những dự án đầu tư hàm chứa
tiêu cực về môi trường, sinh thái… ảnh hưởng không đến sự phát triển lâu dài của đất
nước. Mục đích hoạt động của các doanh nghiệp là lợi ích tối đa vì đây là nền kinh tế
hướng đến lợi nhuận, vì lợi nhuận nên làm tất cả. Các doanh nghiệp hiện nay đang
lạm dụng tài nguyên của xã hội, làm cạn kiệt nguồn tài nguyên gây ô nhiễm môi
trường sống của con người, do đó hiệu quả kinh tế – xã hội không được đảm bảo.
Lượng chất thải (nước thải, khí thải) xả vào môi trường làm ô nhiễm môi trường nước
(đối với nước thải) và ô nhiễm không khí (đối với khí thải) làm cho Trái Đất nóng dần
lên, thủng tầng ozon gây hại đến sức khỏe con người và các loài động thực vật trên
Trái Đất Việt Nam nằm trong nhóm 10 quốc gia có chất lượng không khí tệ nhất trên
thế giới. Năm 2016 xảy ra các sự việc như nguồn thải lớn từ tổ hợp nhà máy của
Công ty Formosa Hà Tĩnh chứa độc tố tạo thành một dạng phức hợp, di chuyển vào
Nam làm hải sản ở tầng đáy biển chết, hay vụ việc Công ty, Vedan cán bộ của Công
ty Vedan thừa nhận rằng hệ thống đường ống được lắp đặt để xả chất lỏng nguy hại ra
sông Thị Vải đã được vận hành suốt 14 năm gây nên một mức ô nhiễm độc hại rất lớn.
- Kinh tế thị trường phát triển đồng nghĩa với xuất hiện nhiều hơn khuynh
hướng chạy theo lợi nhuận đơn thuần, hay nguy cơ “thương mại hóa” (cái gì có tiền
mới làm, cái gì không có tiền, dù cần cũng không làm). Kinh tế thị trường cũng đã
kéo theo lối sống “tiền trao cháo múc”. Đã có không ít hiện tượng: từ chỗ coi trọng
các giá trị chính trị, xã hội sang tuyệt đối hóa các giá trị vật chất kinh tế. Từ chỗ lấy
con người tập thể, con người xã hội làm mẫu mực (hy sinh vì tập thể, vì cộng đồng) là
đạo đức cao nhất, sang tuyệt đối hóa con người cá nhân, thậm chí là cá nhân ích kỷ,
cá nhân chủ nghĩa. Từ chỗ lấy lý tưởng, đạo đức làm mẫu mực chuyển sang coi
thường đạo đức, phẩm giá; tuyệt đối giá trị thực dụng, tôn sùng tiện nghi vật chất, tôn
sùng đồng tiền, coi tiền là trên hết, lấy đồng tiền làm thước đo giá trị của con người. 17
Những hiện tượng tham ô, hối lộ, móc ngoặc, buôn lậu, lừa đảo, làm hàng giả, mua
quan bán chức, chạy chức chạy quyền bằng tiền… đang diễn ra phức tạp và là nỗi lo
lắng của xã hội. Điều này đối với một số người có thể đánh đổi cho sự phát triển kinh
tế và tiến bộ xã hội, nhưng cũng có những người cho rằng đây là sự đánh đổi quá đắt
để có được những thành công ngắn hạn. Một số vấn đề khác cũng xuất hiện trong
kinh tế thị trường, bao gồm sự bất bình đẳng trong phân bố tài nguyên và cơ hội, sự
tăng trưởng kinh tế không ổn định và sự cạnh tranh quyết liệt giữa các công ty và quốc gia. .
- Năng suất lao động của Việt Nam vẫn còn thấp so với nhiều nước trong khu
vực. Cụ thể, năng suất lao động của Việt Nam năm 2019 theo giá hiện hành đạt 110,5
triệu đồng/lao động (tương đương 4.792 USD/lao động), chỉ bằng 7,64% so với
Singapore; bằng gần 20% của Malaysia; gần 38% của Thái Lan và gần 46% so với
Indonesia theo đánh giá của WB. Tính theo PPP 2017, NSLĐ của Việt Nam năm
2020 đạt 18,4 ngàn USD chỉ bằng 11,3% mức năng suất của Singapore; 59,1% của
Thái Lan; 33,1% của Malaysia. NSLĐ của Việt Nam trong khu vực Đông Nam Á chỉ
cao hơn NSLĐ của Campuchia (gấp 2,4 lần); Myanmar (1,6 lần); Lào (gấp 1,2 lần).
Chênh lệch tuyệt đối mức NSLĐ (PPP 2017) của Singapore và Việt Nam tăng từ
130,4 ngàn USD năm 2011 lên 144,1 ngàn USD năm 2020. Tương tự, Trung Quốc từ
6,1 ngàn USD lên 12,1 ngàn USD; Ấn Độ từ 1,3 ngàn USD lên 1,8 ngàn USD. Điều
này cho thấy khoảng cách và thách thức mà kinh tế Việt Nam phải đối mặt để có thể
bắt kịp mức NSLĐ của các nước có trình độ phát triển hơn là khá lớn.
- Bên cạnh đó, sức cạnh tranh của nền kinh tế, các doanh nghiệp và các sản
phẩm hàng hóa, dịch vụ trong nước vẫn còn yếu so với các nước, kể cả các nước
trong khu vực. Đổi mới mô hình kinh tế, việc sản xuất lương thực nước ta không chỉ
đủ cho tiêu dùng, dự trữ, mà còn tham gia xuất khẩu lương thực trên thị trường thế
giới. Lấy ví dụ như trong lĩnh vực xuất khẩu gạo, chúng ta phải tham gia cạnh tranh
với một số chủ thể kinh tế khác cùng xuất khẩu lương thực như nước ta như: Thái
Lan, Mỹ, Ấn Độ,…Từng có một nhận định rằng :“Gạo Việt Nam đã thua gạo Thái
Lan và Campuchia”, gạo VN có chất lượng thấp hơn so với gạo Thái Lan và
Campuchia do người nông dân VN sử dụng các giống canh tác ngắn ngày. Hai nước
trên chủ yếu là gạo một vụ, chất lượng ngon, an toàn và giá cả cạnh tranh hơn.
- Việc áp dụng khoa học – kỹ thuật trong nhiều ngành nghề vẫn còn hạn chế,
song song đó là tính đồng bộ, gắn kết giữa các lĩnh vực là chưa cao. Vẫn còn xảy ra
tình trạng giống kiểu “mạnh ai người nấy làm” trong kinh tế, nếu làm công nghiệp thì 18
không liên quan đến nông nghiệp, dịch vụ và ngược lại. Do đó xảy ra tình trạng nền
kinh tế Việt Nam thiếu sự liên kết, vẫn còn nhiều lỗ hổng và rời rạc. Việc áp dụng
khoa học - kỹ thuật vào các ngành nghề còn khó khăn do tay nghề, trình độ máy móc
cũng như trình độ của người dân lao động còn thấp.
- Vai trò của kinh tế tư nhân tuy đã được xác định là một trong những động lực
quan trọng của nền kinh tế nhưng cần có thêm những chính sách cụ thể để phát huy trong thời gian tới. 2. Văn hoá
2.1. Hạn chế về văn hóa
Việt Nam hôm nay là một xã hội đang chứa đựng trong nó không ít mâu thuẫn. Đất
nước hội nhập sâu và phát triển tương đối nhanh, kể cả trong khủng hoảng tài chính trước
đây và trong đại dịch Covid -19 hiện nay. Với những tiến bộ khó phủ nhận, uy tín quốc tế
của Việt Nam trên thực tế ngày càng rộng mở. Nhưng nhìn từ một phía khác, bức tranh giá
trị của xã hội Việt Nam lại có nhiều mảng tối rất đáng quan ngại với một diện mạo không
thiếu những hiện tượng kém giá trị, phi giá trị, thậm chí phản giá trị.
(a) Tội phạm xã hội là dấu hiệu điển hình của tình trạng con người tha hóa, đạo đức xuống cấp
- Trước năm 2020, gần như hằng ngày, tội phạm liên tục xảy ra và điều đáng nói
là mức độ tội phạm hình sự ngày càng nhức nhối hơn. Trong 4 đợt dịch Covid-19, tội
phạm hình sự có giảm bớt, nhưng một vài tội phạm loại khác lại gây sốc đối với xã
hội. Tình trạng này thể hiện rõ trong các báo cáo của Bộ Công an, của Ban Chỉ đạo
phòng chống tham nhũng, của Uỷ ban tư pháp Quốc hội, hay trong các bản tin báo
chí về an ninh trật tự xã hội… Không tách rời hiện tượng gia tăng về tội phạm hình sự
là nạn nghiện hút và buôn bán ma túy.
- Chỉ báo thể hiện rõ nhất mức độ tha hóa con người và xuống cấp đạo đức, là
những trường hợp cán bộ cấp cao của Đảng và Nhà nước vi phạm pháp luật. Từ vài
năm gần đây, khi các vụ đại án được khởi tố, phần lớn người dân không khỏi ngạc
nhiên khi biết rằng, trong số những tội phạm trọng án lại có cả những người đã từng
là tướng công an, tướng quân đội, và cán bộ cấp rất cao của Đảng, Nhà nước như ủy
viên Trung ương Đảng, Ủy viên Bộ Chính trị… Tình huống mới nhất là kết luận của
Ban Bí thư 1/10/2021 xem xét, thi hành kỷ luật 9 cá nhân và Ban Thường vụ Đảng ủy
Cảnh sát biển Việt Nam nhiệm kỳ 2015 - 2020 và Uỷ ban kiểm tra TW 2-4/11/2021
đề nghị kỷ luật một số lãnh đạo Bộ Y tế và Ban cán sự đảng Bộ Y tế nhiệm kỳ 2016 –
2021. Trước đây khó ai dám nghĩ rằng, những người có vị thế và trách nhiệm xã hội 19
đến như thế lại chính là những kẻ tội phạm thao túng trật tự xã hội và sẵn sàng gây hại cho đất nước
(b) Hiện tượng lệch lạc về giá trị ngày càng nhức nhối
- Trong tâm thức cộng đồng, vị trí của một số giá trị đã (vô tình) bị xếp sai, cả
trong đời sống thường nhật và cả trên các phương tiện thông tin đại chúng. Nhiều
danh hiệu được tôn vinh rất xa thực tế; không ít danh hão vẫn được “háo danh”. Giàu
có được sùng bái, nhưng lao động, kể cả lao động làm nên sự giàu có cũng bị xem
nhẹ, rất ít được đánh giá đúng mức. Địa vị được tôn trọng, kể cả địa vị không xứng
đáng, nhưng tài năng gắn liền với địa vị thì không mấy ai thật sự tôn vinh, thậm chí
tài năng còn bị kỳ thị. Được coi là dân tộc trọng tình nghĩa, nhưng thói vô cảm lại rất
phổ biến; lòng vị tha, đức khoan dung ngày càng trở thành của hiếm, nhất là ở cơ
quan công quyền. Đã có quá nhiều trường hợp logic của tiền bạc phá vỡ giá trị của
tình người; vì tiền bạc mà người thân sẵn sàng hãm hại lẫn nhau; tình người chủ yếu
chỉ còn được thấy trong những khi hoạn nạn. Đức khiêm tốn rất ít khi thấy được tôn
vinh, mà thường thấy rất dễ bị bị chèn ép; còn thói phô trương thì có ở khắp nơi, hàng ngày.
(c) Giả dối đã phổ biến đến mức đã được coi là bình thường, làm nản lòng sự trung thực, tử tế.
- Bằng giả, danh hiệu giả, kiến thức giả, công bố (khoa học) quốc tế giả, chất
lượng sản phẩm giả, thuốc chữa bệnh giả, tuổi tác giả, số liệu thống kê giả, thanh toán
với chứng từ giả, biểu quyết giả, đạo đức giả,… gần như có mặt khắp nơi và không
còn là điều xấu hổ nữa. Rất tiếc là xã hội lại thừa nhận bằng cách làm ngơ coi như không thấy.
- Ở không ít công trình, dự án… mục đích ghi trong văn bản thực tế chỉ là giả,
vì đó chẳng qua chỉ là phương tiện, là công cụ cho bòn rút, tham nhũng. Làm bất cứ
việc gì cũng nghĩ đến lách luật. Sẽ không còn động cơ hành động nếu công việc được
tiến hành một cách ngay thẳng, không có lợi ích gì có thể xà xẻo được. Mọi đề án
quốc kế dân sinh đều có nguy cơ đổ vỡ nếu ở đó tham nhũng hay mục đích vụ lợi không thực hiện được
(d) Những hạn chế về các mặt khác của văn hóa
- Chỉ số phát triển con người cao, nhưng con người vẫn tha hóa, đạo đức vẫn
xuống cấp. Kinh tế tăng trưởng, tầng lớp trung lưu tăng, nhưng phân hoá giàu nghèo
lại gay gắt thêm, tỷ lệ nghèo ở vùng sâu vùng xa vẫn cao, nguy cơ tái nghèo rình rập. 20
- Truyền thống được phục hồi, tinh hoa văn hoá thế giới được tiếp thu, nhưng
giá trị lệch lạc, giả dối gần như được coi là bình thường. Chỉ số hạnh phúc tốt lên,
nhưng số người hài lòng với cuộc sống của mình không tăng. Văn hoá du lịch, lễ hội,
showbiz… phát triển, nhưng các hành vi ít văn hoá, phi văn hoá vẫn khá phổ biến.
Đất nước phát triển năng động, nhưng thể chế, cơ chế vẫn tiềm tàng khả năng làm
hỏng con người, làm suy giảm văn hoá. Niềm tin vẫn suy giảm nghiêm trọng…
2.2. Nguyên nhân về hạn chế c}a văn hóa
- Do suy thoái phẩm chất làm người, thói vụ lợi và thực dụng qua sự kích thích
của mặt mặt trái kinh tế thị trường đã làm cho không ít người lầm tưởng rằng “tiền
bạc” và “quan lộc” là giá trị đỉnh cao của đời sống; danh vọng, công lý và uy tín là có
thể mua được.Giả dối đã phổ biến trong nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, thậm chí
giả dối trong không ít trường hợp đã công nhiên lấn át sự tử tế và chân thật.
- Nhìn xa hơn, vấn đề còn là ở chỗ, thể chế kinh tế, cơ chế xã hội từ quá lâu đã
sinh ra tình trạng với hầu hết các công việc, lao động đều không được trả thù lao
tương xứng, đặc biệt ở khu vực nhà nước. Gần như ở khắp nơi, trong mọi dạng lao
động, nếu làm thật, trách nhiệm thật, hưởng thù lao thật… thì chắc chắn là thiệt thòi
hoặc không được thụ hưởng xứng đáng với công sức bỏ ra. Cơ chế này thuộc về thể
chế bóc lột. Xã hội mấy chục năm nay đã tự tìm đường đi cho mình bằng cách tồi tệ
nhất - là giả dối. Đến lượt mình, thói giả dối lại tìm sự bênh vực ở những thể chế có
khiếm khuyết, những kẽ hở của luật pháp, những quy định cứng nhắc hoặc vụ lợi
trong các chính sách… bênh vực cho những cái sai, cái dở trong xã hộ
- Thể chế đã tiếp tay, luật pháp đã tạo kẽ hở, bộ máy công quyền thường quan
liêu, chính sách lại không sâu sát, đội ngũ cán bộ thì không ít người tham lam, vụ
lợi… trong việc cư xử với lẽ phải - nên lẽ phải đã bị coi thường, đôi khi bị chà đạp…
làm cho niềm tin ngày càng bị mai một dần. Trong một số trường hợp, lẽ phải bị đối
xử như là thứ vô nghĩa. Mới rất gần đây, có những vụ việc rất bức xúc nhưng người
có trách nhiệm vẫn ráo hoảnh trả lời công luận rằng “đúng quy trình” - Lẽ phải trong
những trường hợp như vậy hoàn toàn bị xem thường. Niềm tin dù ở dạng nào thì cũng
khó có cơ sở để tiếp tục tồn tại.
2.3. Hạn chế về giáo dục
Bên cạnh những thành tựu, giáo dục Việt Nam vẫn còn những hạn chế. Nhìn chung,
giáo dục vẫn tụt hậu so với các nước trong khu vực và thế giới; phát triển chưa tương xứng
với yêu cầu, nhiệm vụ và chưa đáp ứng nhu cầu học tập của nhân dân. Đại hội XIII của
Đảng nhận định: “Đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao chưa đáp ứng được yêu cầu phát
triển kinh tế, xã hội”. Vấn đề đặt ra hiện nay là, những hạn chế, yếu kém phải được nhận 21
thức sâu sắc để từ đó tìm ra các giải pháp khắc phục nhằm đưa giáo dục đại học Việt Nam lên một tầm cao mới. i.
Chất lượng và hiệu quả giáo dục nói chung còn thấp.
- Nhìn chung chất lượng giáo dục còn thấp. Chất lượng giáo dục thấp và không
đồng đều giữa các vùng, miền; do hậu quả thời gian dài chúng ta quan tâm đến phát
triển số lượng nhiều hơn chất lượng. Hệ thống giáo dục thiếu đồng bộ, chưa liên
thông, mất cân đối giữa các cấp học, ngành học, cơ cấu, trình độ, ngành nghề, vùng,
miền. Việc giáo dục tư tưởng đạo đức, lối sống, về truyền thống văn hoá, lịch sử dân
tộc, về Đảng, về quyền lợi và nghĩa vụ công dân cho học sinh, sinh viên chưa được
chú ý đúng mức cả về nội dung và phương pháp; giáo dục phổ thông mới chỉ quan
tâm nhiều đến "dạy chữ", chưa quan tâm đúng mức đến "dạy người", kỹ năng sống và
"dạy nghề" cho thanh thiếu niên.
- Chất lượng nhân lực chưa đáp ứng yêu cầu của sản xuất. Nhà trường chưa
quan tâm đúng mức hoặc chưa có biện pháp hữu hiệu giáo dục trách nhiệm người
công dân, người lao động chân chính cho học sinh, sinh viên. Chất lượng giáo dục và
đào tạo chưa đáp ứng yêu cầu phát triển, nhất là đào tạo nguồn nhân lực trình độ cao
vẫn còn hạn chế; chưa chuyển mạnh sang đào tạo theo nhu cầu của xã hội. Chưa giải
quyết tốt mối quan hệ giữa tăng số lượng, quy mô với nâng cao chất lượng, giữa dạy chữ và dạy người. ii.
Cơ cấu đầu tư cho giáo dục đào tạo chưa hợp lý, đầu tư cho các bậc học chưa tương x€ng.
Theo số liệu báo cáo chi ngân sách cho giáo dục giữa các bậc học có sự chưa
tương xứng: Chi tiêu dành cho dạy nghề, trung cấp, cao đẳng, đại học, giáo dục
thường xuyên chiếm 30% tổng chi cho giáo dục. Trong đó, chi cho đào tạo cao đẳng
và đại học chiếm trên 12%. Học sinh, sinh viên tốt nghiệp còn hạn chế về tư duy sáng
tạo, kỹ năng thực hành, năng lực vận dụng những kiến thực được học vào giải quyết
các vấn đề thực tiễn, thiếu kiến thức và kỹ năng cần thiết cho hội nhập, khả năng
thích ứng với công việc, ý thức tổ chức kỷ luật còn hạn chế. iii.
Cơ s„ vật chất trư•ng lớp còn gặp nhiều khó khăn, thiếu thốn. Nội dung
giáo dục còn thiếu thiết thực.
- Nhìn tổng thể các ngành có thể khẳng định cơ sở vật chất của ngành giáo dục
vẫn còn trong tình trạng nghèo nàn, lạc hậu. Trang thiết bị, phòng thí nghiệp phục vụ
giảng dạy và học tập còn thiếu thốn, tình trạng dạy chay còn phổ biến. Số lượng máy
tính còn ít, ở các vùng khó khăn, nhiều học sinh không có đủ sách giáo khoa. 22
- Điều kiện phục vụ việc dạy và học của các trường học còn kém, rất ít trường
đạt chuẩn so với yêu cầu của một nhà trường. Cơ sở vật chất nhằm đáp ứng yêu cầu
đảm bảo chất lượng đào tạo còn nhiều bức xúc và cần có chương trình mục tiêu đầu tư để giải quyết.
- Chương trình giáo dục còn nặng nề, chưa bám sát yêu cầu của cuộc sống năng
động. Nhiều phần trong chương trình đào tạo đại học và chuyên nghiệp đã lạc hậu.
Phương tiện giảng dạy, thí nghiệm, thực tập, nghiên cứu thiếu thốn và cũ kỹ. Chương
trình, giáo trình, phương pháp giáo dục chậm đổi mới, chậm hiện đại hoá; nhà trường
chưa gắn chặt với đời sống xã hội và lao động nghề nghiệp, chưa chú trọng phát huy
tính sáng tạo, năng lực thực hành của học sinh, sinh viên; thi cử còn nặng nề, tốn
kém, một số tỉnh thành còn để xảy ra sai phạm trong các kỳ thi cấp quốc gia, điển
hình là sai phạm về gian lận khâu chấm thi tại kỳ thi tốt nghiệp THPT năm 2018 tại
Hà Giang, Hòa Bình, Sơn La. Phổ cập giáo dục trung học cơ sở nhiều nơi chưa ổn định.
2.4. Nguyên nhân về hạn chế c}a giáo dục
- Thiếu đầu tư: Giáo dục vẫn chưa được đầu tư đúng mức, đặc biệt là ở các vùng
sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số. Các trường học, đặc biệt là ở các vùng nông
thôn, thường thiếu trang thiết bị, cơ sở vật chất, phương tiện học tập, giáo viên và
chương trình đào tạo chất lượng.
- Không đáp ứng yêu cầu thực tiễn: Giáo dục vẫn đang giảng dạy theo kiểu
truyền thống, học sinh được học nhiều kiến thức lý thuyết nhưng không có cơ hội
thực hành và áp dụng vào cuộc sống. Do đó, học sinh không thể đáp ứng được yêu
cầu thực tế của xã hội.
- Hệ thống đánh giá chưa thực sự công bằng: Hệ thống đánh giá và xếp loại học
sinh vẫn chưa thực sự công bằng và đúng năng lực của học sinh. Học sinh được đánh
giá nhiều dựa trên kết quả thi cử, thiếu sự đa dạng và khuyến khích sự sáng tạo của học sinh.
- Lương thấp không đủ sống, chưa tạo được động lực thu hút giáo viên dạy giỏi.
Tại những khu công nghiệp có sự chênh lệch lương quá lớn giữa giáo viên và công
nhân lao động. Lương giáo viên mầm non mới ra trường chỉ trên dưới 3,5 triệu
đồng/tháng, trong khi lương một công nhân làm việc cùng khu lại được 7-8 triệu
đồng. Cùng địa bàn, cùng phải chi phí sinh hoạt như nhau, nhưng giáo viên có thu
nhập thấp chỉ bằng một nửa ngành nghề lao động khác.
- Áp lực của công việc, môi trường làm việc ít thân thiện, chưa động viên, giữ
chân nhà giáo. Áp lực của giáo viên, thông thường có áp lực vô hình từ bản thân 23
trong ngành tạo ra và từ ngoài ngành, ngoài xã hội tác động vào. Đồng lương chưa
tương xứng với lao động nghề giáo nên giáo viên mong có thời gian, thêm cơ hội tìm
việc làm để tăng thêm thu nhập. Nhiều cơ sở giáo dục không nhận thức được tính cấp
thiết và thấu hiểu những khó khăn của đồng nghiệp để mạnh dạn thay đổi cách quản
lý cũ kỹ, hình thức, kém hiệu quả của mình.
- Mặt trái của thị trường khiến phụ huynh tự coi mình là khách hàng, thượng đế.
Sự can thiệp của phụ huynh vào nhà trường, giáo viên rất nhiều và bằng nhiều kênh
khác nhau. Không chỉ có vậy, giáo viên còn phải chịu áp lực từ mạng xã hội. Bất cứ
một hành vi nào của giáo viên trong nhà trường, có khi chỉ là phạt học sinh vì không
tuân thủ đúng quy định của trường, lớp cũng bị phụ huynh đưa lên mạng xã hội. Thực
tế, có những giáo viên bỏ ngành chỉ vì nghiêm khắc với học sinh và bị phụ huynh
phản ứng không tốt, thêu dệt câu chuyện rồi đưa lên mạng xã hội và gặp phải chuyện
không hay. Có ý kiến cho rằng, nghề giáo được xếp vào một trong những nghề nguy
hiểm. Nhiều giáo viên cảm thấy không đủ sức để chịu đựng những sức ép đó và đã rời
khỏi môi trường giáo dục. 3. Chính trị
Thứ nhất, hạn chế, bất cập trong nhận thức lý luận về đảng cầm quyền, nội dung,
phương thức cầm quyền của Đảng.
Mặc dù Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo sự nghiệp cách mạng hơn 91 năm, trong
đó có hơn 75 năm cầm quyền; tuy nhiên, khái niệm về đảng cầm quyền, nội dung, phương
thức cầm quyền của Đảng dường như vẫn là vấn đề còn mới mẻ, thậm chí trong một thời
gian dài, vấn đề này không được đặt ra nghiên cứu một cách bài bản, đúng mức. Đến Đại hội
XII, Đảng ta nhấn mạnh: “Tiếp tục tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận về đảng cầm
quyền, xác định rõ mục đích cầm quyền, phương thức cầm quyền, nội dung cầm quyền, điều
kiện cầm quyền; vấn đề phát huy dân chủ trong điều kiện một đảng duy nhất cầm quyền; các
nguy cơ cần phải phòng ngừa đối với đảng cầm quyền”. Đại hội XIII của Đảng tiếp tục chỉ
rõ “Tiếp tục tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận về đổi mới nội dung, phương thức lãnh
đạo, cầm quyền của Đảng trong điều kiện mới”.
Hiện nay, trong Đảng vẫn có những ý kiến khác nhau về chức năng lãnh đạo và cầm
quyền của Đảng. Có ý kiến cho rằng, lãnh đạo là nói đến chức năng, nhiệm vụ xuyên suốt
của Đảng. Đảng lãnh đạo cả trong thời kỳ đấu tranh giành chính quyền và cả sau khi giành
được chính quyền. Theo đó, nội hàm khái niệm “Đảng lãnh đạo” rộng hơn nội hàm khái
niệm “Đảng cầm quyền”. Có ý kiến khác lại cho rằng, khái niệm “Đảng lãnh đạo” không
gắn với quyền lực chính trị, đó chỉ là sự tác động, định hướng, tuyên truyền, vận động,
thuyết phục, tạo ảnh hưởng của Đảng đối với hệ thống chính trị và quần chúng nhân dân. Có 24
ý kiến đi sâu hơn về học thuật thì cho rằng, nói “Đảng cầm quyền” là đề cập đến quyền lực
chính trị của Đảng sau khi giành được chính quyền, nghĩa là vai trò lãnh đạo, kỹ năng lãnh
đạo của Đảng đối với chính quyền nhà nước. Vì vậy, sau khi giành được chính quyền, cần
nhấn mạnh một cách cụ thể vai trò, trách nhiệm và các cách thức để Đảng kiểm soát, điều
hành bộ máy chính quyền nhà nước. Nếu chỉ nhấn mạnh vai trò lãnh đạo chung, thì chưa thể
hiện hết vai trò, trách nhiệm cầm quyền của Đảng.
Vậy, vấn đề đặt ra là “Đảng lãnh đạo” và “Đảng cầm quyền” có phải là hai khái niệm
đồng nhất? Trong điều kiện một đảng duy nhất cầm quyền, phải chăng phương thức lãnh đạo
cũng là phương thức cầm quyền của Đảng? Theo đó, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đồng
nghĩa với nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng? Những bất cập trong nhận thức này dẫn
đến những hạn chế nhất định về xác định nội dung, phương thức lãnh đạo cũng như nội
dung, phương thức cầm quyền; hạn chế trong việc xác định chủ trương, đường lối, giải pháp
lãnh đạo và cầm quyền của Đảng. Vì thế, những vấn đề như: Là một đảng lãnh đạo trong
điều kiện có chính quyền, Đảng phải làm gì? Đảng phải lãnh đạo như thế nào? Là một đảng
duy nhất cầm quyền, Đảng cần phải “cầm”, “nắm” những gì? Đảng cầm quyền bằng những
phương pháp, cách thức nào? Làm thế nào để nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả cầm
quyền của Đảng?... đều cần có sự phân định và luận giải tường minh.
Thứ hai, hạn chế, bất cập trong xây dựng chủ trương, nghị quyết của Đảng.
Mục đích tối thượng, cao nhất của Đảng Cộng sản chân chính cầm quyền là vì hạnh
phúc, lợi ích của nhân dân. Đảng ta đã xác định, ngoài lợi ích của nhân dân, Đảng không có
lợi ích nào khác. Theo đó, mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước đều phải xuất phát từ đòi hỏi của thực tiễn, từ nhu cầu, nguyện vọng chính đáng
của nhân dân. Một trong những cách lãnh đạo mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lưu ý cán bộ,
đảng viên cần luôn tâm niệm là: “Sự lãnh đạo trong mọi công tác thiết thực của Đảng, ắt
phải từ trong quần chúng ra, trở lại nơi quần chúng”. Tuy nhiên, trong việc hoạch định chủ
trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước vẫn còn có những bất cập
so với yêu cầu này. Một số chủ trương, nghị quyết của các cấp ủy do các cơ quan tham mưu
đề xuất chưa thực sự được nghiên cứu, tổng kết thực tiễn kỹ lưỡng; chưa đánh giá, dự báo
những tác động, ảnh hưởng một cách đầy đủ, khoa học. Hiện nay, chưa có quy định cụ thể
về việc lấy ý kiến của nhân dân tham gia đóng góp xây dựng các chủ trương, nghị quyết.
Tương tự như vậy, một số chính sách công mới chỉ được ban hành dựa trên những nhận thức
và mong muốn chủ quan của các cơ quan quản lý nhà nước, sự tham gia đề xuất và góp ý
của người dân và doanh nghiệp với tư cách là đối tượng thụ hưởng, chịu sự tác động của
chính sách còn rất hạn chế; vì vậy, khó tránh khỏi tình trạng “vừa đá bóng, vừa thổi còi”,
“lợi ích nhóm”, cục bộ. Trình độ, năng lực của một số cán bộ, công chức trực tiếp tham gia
xây dựng, hoạch định chính sách, pháp luật còn hạn chế. Bên cạnh đó, do tầm nhìn và ý chí 25
chủ quan, nên có chính sách đưa vào thực thi đã nảy sinh nhiều bất cập hoặc hiệu lực, hiệu
quả thực thi không cao. Một số dự thảo luật đưa ra Quốc hội thảo luận chưa tạo được sự
đồng tình, thống nhất cao.
Thứ ba, hạn chế, bất cập trong công tác tư tưởng, lý luận của Đảng.
Lịch sử lãnh đạo và cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam đã cho thấy tầm quan
trọng và sức mạnh to lớn của công tác tư tưởng của Đảng, trong cách mạng giải phóng dân
tộc cũng như trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tuy nhiên, trước bối cảnh, tình
hình mới có nhiều biến đổi mau lẹ, khó lường, sự phát triển của khoa học - công nghệ, đặc
biệt là công nghệ thông tin, xu thế mở cửa và hội nhập quốc tế, trình độ dân trí và dân chủ
ngày càng được nâng cao, đòi hỏi công tác tư tưởng, lý luận của Đảng cần phải được đổi
mới mạnh mẽ. Các văn kiện của Đảng những năm gần đây đã thẳng thắn chỉ ra những hạn
chế, yếu kém, bất cập của công tác tư tưởng, lý luận nói chung, việc nghiên cứu lý luận, tổng
kết thực tiễn nói riêng. Văn kiện Đại hội IX của Đảng nhận định: “Công tác lý luận chưa
theo kịp sự phát triển của thực tiễn và yêu cầu của cách mạng, chưa làm sáng tỏ nhiều vấn đề
quan trọng trong công cuộc đổi mới để phục vụ việc hoạch định chiến lược, chủ trương,
chính sách của Đảng, tăng cường sự nhất trí về chính trị, tư tưởng trong xã hội”. Văn kiện
Đại hội X của Đảng chỉ rõ: “Công tác lý luận chưa làm sáng tỏ được một số vấn đề quan
trọng trong công cuộc đổi mới”. Văn kiện Đại hội XI của Đảng nhấn mạnh: “Công tác
nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn chưa làm sáng tỏ được một số vấn đề về đảng cầm
quyền, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta”. Tiếp đến, Văn
kiện Đại hội XII của Đảng tiếp tục chỉ rõ: “Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận
còn bất cập, chưa làm rõ được một số vấn đề đặt ra trong quá trình đổi mới để định hướng
trong thực tiễn, cung cấp cơ sở khoa học cho hoạch định đường lối của Đảng, chính sách và
pháp luật của Nhà nước”. Văn kiện Đại hội XII của Đảng còn nhấn mạnh: “Chất lượng và
hiệu quả công tác tư tưởng, lý luận chưa cao. Chậm khắc phục có hiệu quả những hạn chế
của công tác tư tưởng như thiếu sắc bén, chưa thuyết phục... Công tác tổng kết thực tiễn,
nghiên cứu lý luận chưa đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới”. Đại hội XIII của Đảng
tiếp tục nhấn mạnh những hạn chế, bất cập này.
Thứ tư, hạn chế, bất cập về cán bộ và công tác cán bộ, đảng viên của Đảng.
Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ của cả hệ thống
chính trị được xác định là một phương thức lãnh đạo đặc biệt quan trọng; đồng thời, cũng là
cách thức cầm quyền tất yếu của Đảng. Đội ngũ cán bộ, nhất là những cán bộ lãnh đạo, quản
lý chủ chốt các cấp, các ngành vừa thực hiện chức trách, nhiệm vụ theo chức danh, chức vụ,
vị trí việc làm được pháp luật quy định; nhưng với tư cách là cán bộ, đảng viên của Đảng,
vừa có trách nhiệm quán triệt, tổ chức thực hiện Cương lĩnh, đường lối, chủ trương, nghị quyết của Đảng. 26
Tuy nhiên, như Nghị quyết số 26-NQ/TW, ngày 19-5-2018, của Ban Chấp hành Trung
ương khóa XII, “Về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ
phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ”, đã nhận định: “nhìn tổng thể, đội ngũ
cán bộ đông nhưng chưa mạnh; tình trạng vừa thừa, vừa thiếu cán bộ xảy ra ở nhiều nơi; sự
liên thông giữa các cấp, các ngành còn hạn chế… Thiếu những cán bộ lãnh đạo, quản lý giỏi,
những nhà khoa học và chuyên gia đầu ngành trên nhiều lĩnh vực. Năng lực của đội ngũ cán
bộ chưa đồng đều, có mặt còn hạn chế, yếu kém; nhiều cán bộ, trong đó có cả cán bộ cấp cao
thiếu tính chuyên nghiệp;... trình độ ngoại ngữ, kỹ năng giao tiếp và khả năng làm việc trong
môi trường quốc tế còn nhiều hạn chế. Không ít cán bộ trẻ thiếu bản lĩnh, ngại rèn luyện.
Một bộ phận không nhỏ cán bộ phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí, làm việc hời hợt, ngại
khó, ngại khổ, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, có biểu hiện “tự diễn biến”,
“tự chuyển hóa”. Một số cán bộ lãnh đạo, quản lý, trong đó có cả cán bộ cấp chiến lược,
thiếu gương mẫu, uy tín thấp, năng lực, phẩm chất chưa ngang tầm nhiệm vụ, quan liêu, xa
dân, cá nhân chủ nghĩa, vướng vào tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, “lợi ích nhóm”. Không ít
cán bộ quản lý doanh nghiệp nhà nước thiếu tu dưỡng, rèn luyện, thiếu tính Đảng, lợi dụng
sơ hở trong cơ chế, chính sách, pháp luật, cố ý làm trái, trục lợi, làm thất thoát vốn, tài sản
của Nhà nước, gây hậu quả nghiêm trọng, bị xử lý kỷ luật đảng và xử lý theo pháp luật. Tình
trạng chạy chức, chạy quyền, chạy tuổi, chạy quy hoạch, chạy luân chuyển, chạy bằng cấp,
chạy khen thưởng, chạy danh hiệu, chạy tội,... trong đó có cả cán bộ cao cấp, chậm được ngăn chặn, đẩy lùi.
Nghị quyết số 26-NQ/TW còn nhấn mạnh: Sự trưởng thành, lớn mạnh và phát triển của
đội ngũ cán bộ 20 năm qua là nhân tố then chốt, quyết định làm nên những thành tựu to lớn,
có ý nghĩa lịch sử của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Song, những khuyết
điểm, yếu kém của một bộ phận không nhỏ cán bộ và những hạn chế, bất cập trong công tác
cán bộ cũng là một nguyên nhân chủ yếu làm cho đất nước phát triển chưa tương xứng với
tiềm năng, thế mạnh và mong muốn của chúng ta, làm suy giảm niềm tin của nhân dân đối
với Đảng và Nhà nước.
Cùng với những bất cập như trên trong công tác cán bộ và đội ngũ cán bộ, công tác
đảng viên và đội ngũ đảng viên của Đảng cũng có những hạn chế, bất cập, tạo nguy cơ đe
dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ. Đó là, vấn đề suy thoái về tư tưởng chính trị, phai nhạt
lý tưởng, niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng; động cơ vào Đảng không đúng đắn, ý thức
chấp hành kỷ luật đảng không nghiêm; việc nêu gương, tính tiền phong gương mẫu của đảng
viên trước quần chúng còn hạn chế. Còn có những biểu hiện cá nhân chủ nghĩa, tư tưởng cơ
hội, thực dụng trong các tổ chức đảng cần được nhanh chóng nhận diện rõ và có giải pháp khắc phục kịp thời. 27
Thứ năm, hạn chế, bất cập trong công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật của Đảng.
Trong những năm gần đây, Đảng ta đã rất coi trọng công tác kiểm tra, giám sát và thi
hành kỷ luật đảng. Công tác này đã đạt được những kết quả rất quan trọng, từ việc xây dựng,
ban hành các quy chế, quy định và tổ chức thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát và kỷ luật
đảng, được đảng viên và nhân dân đồng tình, đánh giá cao. Mặc dù vậy, Đại hội XIII của
Đảng nhận định, công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu
trong tình hình mới; chất lượng, hiệu quả chưa đồng đều ở các cấp. Công tác kiểm tra ở một
số nơi thiếu trọng tâm, trọng điểm; việc tự kiểm tra, phát hiện và xử lý vi phạm của nhiều
cấp ủy, tổ chức đảng vẫn là khâu yếu; công tác kiểm tra, giám sát của các cơ quan tham
mưu, giúp việc của cấp ủy chưa đi vào nề nếp. Công tác giám sát ở các cấp chưa thường
xuyên, có nơi, có lúc chưa thực chất, phạm vi, đối tượng còn hẹp; hiệu quả phát hiện, cảnh
báo, phòng ngừa vi phạm còn hạn chế. Việc thi hành kỷ luật đảng ở một số nơi chưa nghiêm,
còn hiện tượng nể nang, né tránh, ngại va chạm. Việc giải quyết khiếu nại, tố cáo còn chậm.
Có thể khẳng định, những hạn chế, bất cập trong phương thức lãnh đạo, cầm quyền của
Đảng nêu trên, ở các mức độ khác nhau đã ảnh hưởng không nhỏ đến năng lực, hiệu quả
lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế - xã hội, đến uy tín của
Đảng, niềm tin của nhân dân đối với Đảng. Bởi vậy, cùng với việc nhận diện những hạn chế,
bất cập, việc nghiên cứu, tìm kiếm, đề xuất những giải pháp để khắc phục, nâng cao năng
lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng trong điều kiện hiện nay là vấn đề rất quan trọng và cấp
bách, đòi hỏi phải phát huy nhiều hơn nữa vai trò, trách nhiệm, trí tuệ của các cấp ủy, tổ
chức đảng, của tất cả cán bộ, đảng viên trong toàn Đảng. 4. Xã hội
4.1. Công tác thực hiện chính sách xã hội „ nước ta còn một số hạn chế, bất cập.
Thứ nhất, Chính sách xã hội còn thiếu tính bao trùm, liên kết trong hỗ trợ đối tượng và
chưa bao phủ hết đối tượng, chưa có sự tương trợ, kết nối của các trụ cột chính sách trong
tổ chức thực hiện; chênh lệch mức sống giữa vùng miền, nhóm đối tượng còn lớn. Tăng
trưởng kinh tế liên tục trong nhiều năm nhưng đầu tư cho chính sách xã hội chưa tương
xứng. Chuẩn trợ cấp xã hội thấp so với nhu cầu sống tối thiểu và chậm điều chỉnh. Các trụ
cột chính sách được thiết kế và triển khai thực hiện hầu hết theo ngành dọc, chưa phân định
rõ chức năng quản lý nhà nước và chức năng cung cấp dịch vụ; thiếu cơ chế, chính sách
khuyến khích khu vực ngoài nhà nước tham gia vào cung cấp dịch vụ công.
Bất bình đẳng về thu nhập có xu hướng tăng ở những vùng kém phát triển. Tỷ lệ
nghèo giảm nhưng chênh lệch giàu nghèo không giảm nhiều. Nhóm dân tộc thiểu số có mức 28
thu nhập bình quân đầu người thấp hơn đáng kể và tỷ lệ hộ nghèo cao hơn nhiều so với
nhóm Kinh/Hoa. Số lượng và chất lượng dịch vụ xã hội cơ bản tại các vùng sâu, vùng xa,
vùng đồng bào dân tộc thiểu số còn thấp hơn đáng kể so với các vùng khác, còn nhiều khó
khăn cho người dân tiếp cận và thụ hưởng.
Thứ hai, Quá trình tổ chức triển khai thực hiện chính sách xã hội chưa đồng bộ, thiếu
đồng đều giữa các địa phương. Kết quả giảm nghèo chưa đồng đều và còn hiện tượng tái
nghèo. Các chính sách, chương trình thị trường lao động đã được thực thi song hiệu quả
chưa cao, đặc biệt còn bỏ sót nhóm lao động ở khu vực phi chính thức. Thiếu cơ chế, chính
sách hỗ trợ người lao động ứng phó với các cú sốc trên diện rộng khi xảy ra khủng hoảng
như dịch bệnh, thiên tai, ứng dụng công nghệ cao - tự động hóa…
Phát triển đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội chưa đạt được so với tiềm năng của
nhóm dân số mục tiêu. Độ bao phủ bảo hiểm xã hội còn thấp, bảo hiểm xã hội tự nguyện
chưa thực sự hấp dẫn người lao động tham gia, dẫn đến nguy cơ một tỷ lệ lớn người cao tuổi
không có lương hưu trong bối cảnh già hoá dân số đang diễn ra nhanh chóng; chính sách bảo
hiểm thất nghiệp chưa bao phủ tới lao động trong khu vực phi chính thức; chậm và trốn đóng
bảo hiểm xã hội vẫn còn kéo dài; lạm dụng, trục lợi quỹ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất
nghiệp vẫn còn diễn biến phức tạp. Phạm vi bao phủ của trợ giúp xã hội còn hẹp, trợ cấp hưu
trí xã hội mới áp dụng cho người từ 80 tuổi trở lên, nhóm dân số từ hết tuổi lao động đến
dưới 80 tuổi không có lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội, không thuộc diện hưởng trợ cấp
xã hội chưa được hưởng chính sách; mức chuẩn trợ cấp còn thấp.
Tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em chậm được cải thiện; chất lượng dịch vụ y tế cơ sở chưa
đáp ứng yêu cầu; tỷ lệ người dân nông thôn được tiếp cận nước sạch theo tiêu chuẩn Quốc
gia còn thấp; chương trình phát triển nhà ở xã hội mới đạt
41% so với mục tiêu đến năm 2020 do thiếu nguồn lực thực hiện và thiếu quỹ đất phát
triển nhà ở xã hội. Bạo lực gia đình, bạo hành, đuối nước, xâm hại trẻ em diễn biến phức tạp, gây bức xúc xã hội.
Thứ ba, Chất lượng dịch vụ xã hội còn hạn chế. Hệ thống cung cấp dịch vụ xã hội,
chăm sóc xã hội còn nhiều yếu kém chưa đáp ứng được các yêu cầu về đổi mới theo hướng
chuyên nghiệp hóa. Hệ thống cơ sở cung cấp dịch vụ trợ giúp xã hội chủ yếu là chăm sóc nội
trú, cơ sở vật chất chưa đáp ứng được yêu cầu, chưa quản lý theo trường hợp và công tác
chăm sóc, trợ giúp đối tượng tại gia đình, cộng đồng; năng lực của đội ngũ cán bộ còn yếu.
Các dịch vụ hỗ trợ người bị bạo lực tại cộng đồng, hỗ trợ hòa nhập xã hội đối với nhóm
người nghiện ma túy, người bán dâm, nạn nhân bị mua bán trở về…chưa được bao phủ toàn
diện. Các dịch vụ hỗ trợ cũng chưa được quan tâm, tiếp cận trên cơ sở giới. Hệ thống dịch
vụ bảo vệ trẻ em chưa được quan tâm đầu tư thỏa đáng. Hệ thống trường mầm non, tiểu học, 29
trung học cơ sở, trạm y tế xã, hệ thống cung cấp nước sinh hoạt nhiều nơi còn thấp, nhất là ở
vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số; đội ngũ cán bộ y tế, giáo viên thiếu về số lượng, yếu về chất lượng.
Thứ tư, Hệ thống quản trị còn bất cập, chưa hiện đại. Quản lý nhà nước còn nhiều bất
cập, chồng chéo; quá trình tổ chức triển khai thực hiện chính sách, pháp luật của một số tổ
chức, cá nhân tính tuân thủ chưa cao dẫn đến hiệu quả thấp. Sự phối hợp giữa các bộ, ngành,
địa phương chưa chặt chẽ, công tác thanh tra, kiểm tra ở nhiều nơi chưa được coi trọng. Quá
trình hiện đại hóa, ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý, tổ chức thực hiện chính sách
xã hội còn chậm; cơ sở dữ liệu chuyên ngành chưa được kết nối, liên thông với cơ sở dữ liệu
quốc gia. Bước đầu thực hiện ứng dụng công nghệ thông tin vào quản lý nhưng chưa đồng
bộ, thống nhất giữa các bộ/ngành, giữa trung ương và địa phương; thiếu cơ chế quản lý, cập
nhật, khai thác, chia sẻ dữ liệu và thông tin. Hệ thống tổ chức thực hiện chưa hoàn thiện,
việc theo dõi, quản lý các đối tượng thuộc diện chính sách xã hội chưa đảm bảo tính liên tục,
liên thông và theo dõi được biến động của đối tượng theo thời gian và địa bàn. Cơ chế thực
thi chưa hiệu quả; mức độ tuân thủ pháp luật chưa cao trong khi chế tài chưa đủ mạnh. Công
tác quản lý đối tượng còn phân mảng; phối hợp, trao đổi thông tin giữa các cơ quan, ban
ngành chức năng liên quan, giữa trung ương và địa phương đôi lúc còn chưa kịp thời dẫn
đến chậm trễ trong giải quyết, xử lý các vụ việc. Tại một số địa phương vẫn còn hiện tượng
lạm dụng chính sách, bỏ sót đối tượng, hoặc hưởng trùng chính sách.
Thứ năm, Nguồn lực còn hạn chế và thiếu chủ động. Nguồn vốn chi cho chính sách xã
hội chủ yếu là từ ngân sách nhà nước và còn tương đối thấp: giai đoạn 2012-2020 đạt 8,2%
ngân sách, tương đương 2,7% GDP, trong khi mức trung bình của thế giới là khoảng 13%
Các chính sách xã hội thường gắn với bảo đảm từ ngân sách nhà nước, vì vậy việc thực hiện
nhiều chính sách xã hội (nhất là các chính sách trợ giúp xã hội, chính sách đối với người
nghèo, người có công với cách mạng....), phụ thuộc rất lớn vào khả năng cân đối ngân sách
nhà nước; chưa tạo được cơ chế đầy đủ động viên, thu hút được nhiều sự tham gia của xã hội
và khuyến khích người thụ hưởng chính sách tự vươn lên. Chưa liên kết được các nguồn lực
của chính sách xã hội, an sinh xã hội, phúc lợi xã hội và nguồn lực xã hội hóa để đáp ứng
một cách linh hoạt, kịp thời, hiệu quả nhu cầu đảm bảo an sinh xã hội của người dân; chưa
có cơ chế điều phối linh hoạt để thích ứng với các biến động lớn như dịch bệnh, thiên tai trên diện rộng. 4.2. Nguyên nhân: - Khách quan
+Thiên tai, thời tiết cực đoan, dịch bệnh, biến đổi khí hậu và nước biển dâng tác động
tiêu cực đến kết quả sản xuất kinh doanh, sinh kế của người dân, thành quả của công tác 30
giảm nghèo; xu hướng hội nhập, toàn cầu hóa cũng ảnh hưởng đến tình hình việc làm, thu
nhập và đời sống của một bộ phận người dân.
- Tuy nhiên, các nguyên nhân chủ quan tác động đến quá trình thực hiện chính sách xã
hội được coi là chủ yếu, bao gồm:
+Nhận thức của một số cấp ủy đảng, chính quyền, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị
xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp về vai trò, vị trí của chính sách xã hội chưa phù hợp với
thực tiễn và chưa theo kịp xu hướng phát triển và hội nhập quốc tế.
+Hệ thống chính sách pháp luật được ban hành nhiều nhưng tích hợp chậm, sửa đổi và
hoàn thiện hệ thống pháp luật chưa kịp thời, thiếu nhất quán trong triển khai thực hiện; chế
tài xử lý sai phạm chưa đủ mạnh.
+Tổ chức bộ máy, nhân lực chưa đồng bộ và chưa đáp ứng yêu cầu ngày càng cao
trong tình hình mới; phương thức quản lý, quản trị nhà nước trong các lĩnh vực xã hội chưa
hiện đại, chậm được hiện đại hóa, chưa bảo đảm tính liên thông, linh hoạt và kịp thời; một số
lĩnh vực phân cấp, phân quyền chưa tạo điều kiện để các địa phương chủ động xử lý chính sách.
+Nghiên cứu, thống kê cơ bản trong quản lý và phát triển xã hội chưa có nhiều đột phá,
ứng dụng công nghệ chậm; thiếu các dự báo dài hạn. Chưa phân định rõ vai trò quản lý, điều
hành của nhà nước, trách nhiệm của xã hội và sự tham gia của người dân. 5. Đối ngoại 5.1. Hạn chế
- Trong một số vấn đề, ở một số thời điểm nhận thức của chúng ta không theo kịp tình
hình, không lường hết được những diễn biến phức tạp, nhanh chóng trong chính sách và
quan hệ của các nước lớn, nhất là của Mỹ và quan hệ Mỹ - Trung..
- Việc triển khai đường lối và chính sách đối ngoại trong thực tiễn vẫn chưa mạnh mẽ, đồng bộ và toàn diện.
- Việc tạo đan xen lợi ích, đưa quan hệ đi vào chiều sâu, xây dựng các khuôn khổ quan
hệ thực chất và hiệu quả, triển khai các thỏa thuận đã ký kết thực chất, tham gia và tận dụng
các thể chế đa phương, nhất là ASEAN để bảo vệ tốt hơn lợi ích của Việt Nam vẫn còn chưa được như mong muốn.
- Sự tham gia của các bộ ngành và địa phương vào công tác đối ngoại còn chưa đồng đều.
- Về đối ngoại nhân dân: 31
+ Chất lượng và hiệu quả quan hệ với một số đối tác chưa cao. Nhiều tổ chức đoàn thể
nhân dân còn thụ động, chưa tích cực kết nối, phát triển quan hệ với các đối tác truyền
thống, nghiên cứu mở rộng hợp tác với đối tác mới. Một số hoạt động đối ngoại nhân dân
còn thiếu chiều sâu, nội dung và hình thức chưa đổi mới, sáng tạo, các yếu tố chính trị, đối
ngoại chưa được quan tâm đúng mức.
+ Sự phối hợp liên ngành giữa các kênh đối ngoại, giữa Mặt trận Tổ quốc, các đoàn
thể, các tổ chức nhân dân, giữa Trung ương và địa phương chưa thực sự chủ động, thường
xuyên, chưa phát huy được sức mạnh tổng hợp của các lực lượng làm đối ngoại nhân dân.
+ Năng lực nghiên cứu tham mưu chiến lược còn hạn chế. Thông tin đối ngoại chưa có
nhiều sản phẩm thông tin đối ngoại hấp dẫn, đáp ứng nhu cầu thông tin của các đối tượng,
chưa khai thác hiệu quả các phương tiện truyền thông mới.
+ Công tác vận động người Việt Nam ở nước ngoài còn hạn chế, chưa thu hút được sự
tham gia đông đảo của bà con người Việt Nam vào các hoạt động đối ngoại nhân dân. 5.2. Nguyên nhân: - Nguyên nhân khách quan:
+ Do tình hình thế giới, khu vực biến động rất phức tạp, khó lường. Những diễn biến
mới của tình hình thế giới tác động lớn tới mục tiêu, ưu tiên, phương thức hoạt động của các
tổ chức nhân dân trên thế giới, xuất hiện các hình thức tập hợp lực lượng nhân dân mới với
xu thế chính trị đa dạng, linh hoạt, dựa trên lợi ích.
+ Trong bối cảnh kinh tế gặp nhiều khó khăn, nguồn lực quốc tế dành cho hoạt động
của các tổ chức phi chính phủ, hỗ trợ quốc tế ngày càng trở nên eo hẹp và phụ thuộc nhiều
hơn vào định hướng của các nhà tài trợ. - Nguyên nhân chủ quan:
+ Nguyên nhân của tình hình này bao gồm: chưa có nhận thức rõ và đầy đủ về một số
vấn đề đối ngoại; chưa huy động được toàn bộ hệ thống tham gia công tác đối ngoại, nhất là
trong chủ trương hội nhập quốc tế và đối ngoại đa phương, một phần do khác biệt về lợi ích;
cơ chế thống nhất quản lý đối ngoại chưa tối ưu; các nguồn lực dành cho công tác đối ngoại,
cả về vật chất và nhân sự còn hạn hẹp.
+ Đầu tư nguồn lực cho đối ngoại nhân dân cả về tài chính và nhân lực chưa tương
xứng với yêu cầu nhiệm vụ, thiếu cơ chế, chính sách phù hợp, đặc biệt là chính sách cán bộ.
Các tổ chức nhân dân còn thiếu chủ động, sáng tạo trong việc huy động nguồn lực xã hội để triển khai hoạt động 32
+ Nhiều tổ chức nhân dân ở cả Trung ương và địa phương còn thiếu chủ động, chậm
đổi mới trong xây dựng kế hoạch, triển khai thực hiện nhiệm vụ đối ngoại nhân dân.
6. Quốc phòng an ninh 6.1.Hạn chế -
Công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về Quốc phòng, an ninh
cho các tầng lớp nhân dân chưa được duy trì thường xuyên, chưa có chiều sâu do đó một
bộ phận nhân dân nhận thức còn hạn chế, nhất là về âm mưu thủ đoạn “diễn biến hoà
bình”,bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch; cán bộ cốt cán ở một số thôn, xóm, xã có
thời điểm hoạt động hiệu quả thấp, khó khăn trong tuyên truyền, vận động thực hiện các
chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước; một bộ phận bị kẻ xấu lợi dụng kích động,
lôi kéo tham gia các hoạt động tụ tập gây rối an ninh trật tự -
Công tác quản lý lực lượng dân quân tự vệ, dự phòng động viên gặp nhiều khó
khăn, quân số rời khỏi địa phương đi làm ăn xa nhiều; công tác phối hợp, huy động lực
lượng ở cơ sở trong xử lý một số tình huống phức tạp về an ninh trật tự có thời điểm
chưa kịp thời, hiệu quả chưa cao. -
Phong trào toàn dân bảo vệ an ninh tổ quốc tại một số cơ quan, tổ chức, doanh
nghiệp còn yếu, chưa phát huy vai trò trong công tác tố giác tội phạm. Công tác phối hợp
giữa các lực lượng, đơn vị có lúc, có nơi chưa được kịp thời, hiệu quả chưa cao. Sự vào
cuộc của chính quyền địa phương, đặc biệt là ở cấp xã chưa quyết liệt, chưa quan tâm
đúng mức đối với lực lượng Công an, Quân sự -
An ninh quốc gia bị ảnh hưởng bởi Các cơ quan đặc biệt nước ngoài, các thế
lực thù địch, phản động tăng cường hoạt động tình báo, gián điệp, khủng bố, phá hoại hệ
thống thông tin; tán phát thông tin xấu, độc hại nhằm tác động chính trị nội bộ, can thiệp,
hướng lái chính sách, pháp luật của Việt Nam. Gia tăng hoạt động tấn công mạng nhằm
vào hệ thống thông tin quan trọng quốc gia, hệ thống thông tin quan trọng về an ninh
quốc gia. Theo thống kê, trung bình mỗi năm, qua kiểm tra, kiểm soát các cơ quan chức
năng đã phát hiện trên 850.000 tài liệu chiến tranh tâm lý, phản động, ân xá quốc tế, tài
liệu tuyên truyền tà đạo trái phép; gần 750.000 tài liệu tuyên truyền chống Đảng, Nhà
nước được tán phát vào Việt Nam qua đường bưu chính. Từ 2010 đến 2019 đã có 53.744
lượt cổng thông tin, trang tin điện tử có tên miền .vn bị tấn công, trong đó có 2.393 lượt
cổng thông tin, trang tin điện tử của các cơ quan Đảng, Nhà nước “.gov.vn”, xuất hiện
nhiều cuộc tấn công mang màu sắc chính trị, gây ra những hậu quả nghiêm trọng
6.2. Nguyên nhân khuyết điểm, hạn chế 33 -
Các thế lực thù địch, bọn phản động, hội nhóm chống đối và đối tượng cực
đoan chính trị gia tăng các hoạt động chống phá; đặc biệt các đối tượng lợi dụng vào các
vấn đề còn tồn đọng để tuyên truyền kích động gây phức tạp tình hình, các thế lực tăng
cường các hoạt động kích động, gây rối, tụ tập đông người, khiếu kiện vượt cấp, tuần hành trái pháp luật. -
Công tác phối hợp nắm, đánh giá, dự báo tình hình của lực lượng vũ trang có
lúc chưa kịp thời, chưa sát ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu quả tham mưu, chỉ đạo, nhất
là lực lượng vũ trang cơ sở. Một số cấp uỷ, chính quyền cơ sở, ban ngành, đoàn thể có
thời điểm chưa tập trung cao chỉ đạo nhiệm vụ QPAN; triển khai nhiệm vụ chưa sâu sát.
Hiệu quả phối hợp giữa LLVT với các ngành, đoàn thể về thực hiện nhiệm vụ QPAN,
chỉ đạo cơ sở một số mặt còn hạn chế. -
Chất lượng hoạt động của đội ngũ cốt cán ở địa phương như xã, huyện còn hạn
chế, nhất là địa bàn trọng điểm. -
Trình độ, năng lực, kinh nghiệm của đội ngũ cán bộ trong lĩnh vực QPAN có
mặt còn hạn chế, nhất là cán bộ cấp xã, đơn vị tự vệ. -
Công tác kiểm tra, đôn đốc, tổ chức rút kinh nghiệm khắc phục những hạn chế,
yếu kém trong thực hiện nhiệm vụ QPAN chưa thường xuyên. -
Hệ thống thông tin của Việt Nam còn tồn tại nhiều điểm yếu, lỗ hổng bảo mật
dễ bị khai thác, tấn công, xâm nhập; tình trạng lộ, mất bí mật nhà nước qua hệ thống
thông tin gia tăng đột biến; hiện tượng khai thác, sử dụng trái phép cơ sở dữ liệu, tài
nguyên thông tin quốc gia, dữ liệu cá nhân người dùng diễn biến phức tạp; xuất hiện
nhiều dịch vụ mới, hiện đại gây khó khăn cho công tác quản lý, kiểm soát của các cơ
quan chức năng. Từ 2001 đến 2019, các cơ quan chức năng đã phát hiện hơn 1.100 vụ
lộ, mất bí mật nhà nước, trong đó lộ, mất bí mật nhà nước qua hệ thống thông tin chiếm
tỷ lệ lớn với trên 80% số vụ . Tháng 3/2018, Facebook cũng đã để lộ dữ liệu cá nhân để
một nhà phát triển bán lại cho Công ty Cambridge Analityca, dẫn tới 87 triệu dữ liệu
thông tin người dùng bị lộ, trong đó có 427.466 tài khoản của người dùng Việt Nam.
D. Một số giải pháp đề xuất để khắc phục hạn chế 1. Kinh tế
- Cần có biện pháp hỗ trợ để đẩy mạnh hoạt động kinh doanh của các công ty
đầu tư nước ngoài trong nước. Các doanh nghiệp cần tìm cách thắt chặt liên kết hợp
tác để tận dụng tối đa cơ hội từ đầu tư nước ngoài, đồng thời nâng cao hiệu quả kinh
doanh và thu hút thêm đầu tư mới. Chính phủ cần đưa ra các chính sách và cơ chế hỗ 34
trợ để tạo môi trường thuận lợi hơn cho hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp trong nước và ngoài nước.
- Việc lạm dụng tài nguyên và gây ô nhiễm môi trường không chỉ ảnh hưởng
đến sức khỏe con người và các loài sinh vật, mà còn ảnh hưởng đến phát triển kinh tế
và xã hội của đất nước. Việc này cần được xử lý ngay từ gốc rễ bằng việc thúc đẩy
các doanh nghiệp áp dụng các công nghệ tiên tiến và bảo vệ môi trường trong quá
trình sản xuất kinh doanh. Ngoài ra, cần có sự can thiệp của nhà nước thông qua các
chính sách và hệ thống pháp luật để thúc đẩy hoạt động của doanh nghiệp được bảo
vệ môi trường và đảm bảo hiệu quả kinh tế - xã hội. Sự phục hồi và bảo vệ môi
trường là bảo vệ cuộc sống của chúng ta và sự phát triển bền vững của đất nước.
- Việc phải cân nhắc và đối mặt với những hạn chế và những tác động đáng ngại
của kinh tế thị trường là thách thức đối với thế hệ người lớn trẻ và các nhà quản lý
tương lai. Họ phải tìm cách để cân bằng hoàn hảo giữa lợi ích kinh tế và trách nhiệm
xã hội để xây dựng một nền kinh tế bền vững và hòa bình cho toàn cầu.
- Để giải quyết bài toán về tăng NSLĐ cần có chiến lược, giải pháp tổng thể và
cần thực hiện một số giải pháp. Trong đó, đẩy mạnh tái cơ cấu kinh tế gắn với đổi
mới mô hình tăng trưởng; chính sách phát triển khoa học công nghệ, tăng cường đổi
mới sáng tạo trong DN. Bên cạnh đó, cần tháo gỡ rào cản tài chính đối với DN bởi
thiếu vốn nên DN không đầu tư lớn để cải tiến công nghệ, áp dụng công nghệ số. Nhà
nước cần có những giải pháp để hoàn thiện hệ thống tài chính, thị trường vốn. Tạo
điều kiện cho các DN tiếp cận vốn dễ dàng hơn để có thể vay, đầu tư nhập khẩu công
nghệ. Ngoài ra, tiền lương, tiền công là chính sách đặc biệt quan trọng, liên quan trực
tiếp đến các cân đối kinh tế vĩ mô, thị trường lao động và đời sống người hưởng
lương, góp phần tạo động lực nâng cao NSLĐ. Đối với khu vực công, cần thiết kế cơ
cấu tiền lương, tiền thưởng mới gồm mức lương cơ bản, các khoản phụ cấp, tiền
thưởng. Xây dựng, ban hành hệ thống bảng lương mới. Đối với người lao động trong
các DN, tiếp tục hoàn thiện chính sách về tiền lương tối thiểu vùng theo tháng, theo
giờ nhằm nâng cao độ bao phủ của tiền lương tối thiểu và đáp ứng tính linh hoạt của
thị trường lao động; đảm bảo mức sống tối thiểu của người lao động và gia đình họ.
- Để có thể cạnh tranh để giữ vững thị trường, nước ta cần đầu tư và tập trung
vào chất lượng sản phẩm, xây dựng thương hiệu vững tại thị trường trong nước, sau
đó mới thu hút các nhà nhập khẩu ngoài nước. Đồng thời, ta cũng cần chú trọng đến
nâng cao năng suất và hiệu quả sản xuất, sử dụng công nghệ tiên tiến, tối ưu hóa quy
trình sản xuất, giảm chi phí sản xuất và tăng năng suất sản xuất. Ngoài ra, ta còn cần
tăng cường khả năng tiếp cận thị trường, cải thiện hệ thống phân phối, tăng cường
quảng bá sản phẩm, tạo dựng uy tín thương hiệu để thu hút đối tác và khách hàng 35
tiềm năng. Cũng như tăng cường hợp tác với các đơn vị nghiên cứu, giúp nâng cao
chất lượng sản phẩm và tăng sức cạnh tranh. Vì vậy, đầu tư vào cải tiến chất lượng,
phát triển thương hiệu và tăng cường khả năng tiếp cận thị trường là 3 hướng đi quan
trọng giúp cải thiện năng suất sản xuất, tăng thu nhập cho người dân và giữ vững thị
trường trong nước cũng như cạnh tranh với thị trường quốc tế.
- Cần có sự thay đổi trong tư duy và cách tiếp cận của các ngành, tăng cường
hợp tác và liên kết giữa các lĩnh vực khác nhau để từ đó đưa ra các giải pháp phát
triển kinh tế hiệu quả hơn. Đồng thời, cần đầu tư vào đào tạo và nâng cao trình độ cho
người lao động, cải thiện cơ sở hạ tầng và thúc đẩy việc sử dụng công nghệ mới để
vượt qua các khó khăn trong việc áp dụng khoa học – kỹ thuật vào sản xuất và kinh doanh.
- Các chính sách cụ thể cần được đưa ra để phát triển kinh tế tư nhân trong thời gian tới bao gồm:
i. Tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của các doanh nghiệp tư nhân ●
Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tư nhân tiếp cận nguồn vốn để phát
triển, bao gồm hỗ trợ về tài chính, chi phí vay vốn thấp và trợ giá cho các chương trình đầu tư. ●
Sửa đổi và cải cách các quy định về đất đai, thuế và các quy định pháp
lý liên quan để giảm thiểu thủ tục hành chính cho các doanh nghiệp tư nhân.
ii. Khuyến khích sự đổi mới và đầu tư vào các lĩnh vực mới ●
Tạo các chương trình đổi mới và khuyến khích các doanh nghiệp tư
nhân tham gia vào các lĩnh vực có tiềm năng phát triển, bao gồm công nghệ thông tin,
công nghiệp sản xuất, nông nghiệp và du lịch. ●
Cải thiện môi trường kinh doanh để tạo ra động lực cho các doanh
nghiệp tư nhân đầu tư vào các lĩnh vực mới và tiến hành các hoạt động nghiên cứu và phát triển.
iii. Nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp tư nhân ●
Đưa ra các chương trình đào tạo và hỗ trợ để nâng cao năng lực cạnh
tranh của các doanh nghiệp tư nhân, bao gồm đào tạo kỹ năng quản lý, chiến lược tiếp
thị và các kỹ năng kinh doanh khác. ●
Khuyến khích các doanh nghiệp tư nhân tham gia vào các chương trình
đào tạo và hỗ trợ của chính phủ và các tổ chức quốc tế để nâng cao năng lực cạnh tranh của mình. 36
iv. Hỗ trợ tăng trưởng và phát triển doanh nghiệp tư nhân ●
Phát triển các chương trình hỗ trợ tăng trưởng và phát triển cho các
doanh nghiệp tư nhân, bao gồm các dịch vụ tài chính, tư vấn và hỗ trợ đầu tư. ●
Khuyến khích các doanh nghiệp tư nhân tham gia vào các chương trình
hỗ trợ do chính phủ và các tổ chức quốc tế đề xuất.
Với các chính sách cụ thể này, chính phủ có thể tạo ra một môi trường thuận lợi
cho sự phát triển của kinh tế tư nhân và giúp các doanh nghiệp tư nhân phát triển và
đóng góp tích cực vào nền kinh tế
2. Văn hoá và giáo dục
2.1. Giải pháp về văn hóa
- Thứ nhất, tiếp tục nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò của phát triển văn hóa, xây
dựng con người trong đổi mới và phát triển bền vững. Cần xác định phát triển văn hóa và
xây dựng con người là một nhiệm vụ trọng tâm của các cấp ủy đảng, chính quyền và cả hệ
thống chính trị. Công tác kiểm tra, giám sát, các nhiệm vụ này cần được coi trọng.
- Thứ hai, tập trung nghiên cứu, xác định và triển khai xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ
giá trị văn hóa, hệ giá trị con người Việt Nam gắn với giữ gìn, phát huy hệ giá trị gia đình
trong thời kỳ mới; từng bước khắc phục các hạn chế của người Việt.
- Thứ ba, hoàn thiện thể chế, đổi mới tư duy quản lý văn hóa, cải cách bộ máy quản lý
nhà nước về văn hóa. Trong đó, phạm vi can thiệp của nhà nước trong lĩnh vực văn hóa cần
được quy định, tạo dư địa phù hợp cho sáng tạo và hưởng thụ văn hóa chính đáng của người
dân. Hệ thống quản lý văn hóa được chuyển đổi chủ yếu từ mệnh lệnh hành chính sang cơ
chế quản lý bằng luật pháp và các công cụ điều tiết vĩ mô khác.
- Thứ tư, phát triển nguồn nhân lực ngành văn hóa, văn nghệ, nhất là nguồn nhân lực
chất lượng cao; nguồn nhân lực cho công tác lãnh đạo, quản lý; cho các lĩnh vực then chốt, đặc thù.
- Thứ năm, xây dựng văn hóa trong chính trị, kinh tế, đặc biệt là văn hóa trong Đảng
trở thành tấm gương đạo đức cho xã hội; văn hóa doanh nghiệp trở thành hệ điều tiết cho sự
phát triển kinh tế, xã hội.
2.2. Giải pháp về giáo dục
- Thứ nhất: Tăng cường công tác thông tin tuyên truyền về giáo dục đào tạo, khoa học
và công nghệ. Tuyên truyền về giáo dục có tác dụng tạo chuyển biến nhận thức và sự đồng
thuận cho nhân dân đối với sự nghiệp đổi mới giáo dục. 37
- Thứ hai: Nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên các cấp. Đặc biệt cấp quản lý, phải
xây dựng được chiến lược và tầm nhìn chương trình hành động cụ thể của ngành học, cấp
học từ trên xuống dưới theo một logic khoa học. Đội ngũ giáo viên có vai trò quyết định
trong việc nâng cao chất lượng giảng dạy. Để thực hiện được nhiệm vụ cao cả này cần khắc
phục những rào cản, bất cập hiện nay (biên chế, tiền lương, phụ cấp…) để giáo viên yên tâm
công tác, thực sự say sưa, tâm huyết với nghề. Giáo viên cần đảm bảo chuẩn theo quy định
và thường xuyên được đào tạo, bồi dưỡng cập nhật và nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp
vụ, đổi mới phương pháp giảng dạy và ứng dụng khoa học kỹ thuật và công nghệ theo
hướng đi tắt đón đầu.
- Thứ ba: Nâng cao năng lực quản lý của cán bộ quản lý giáo dục các cấp. Cán bộ là
gốc của mọi việc, nên các cấp chính quyền cần có chiến lược xây dựng được các nhà quản lý
giáo dục giỏi làm sao đáp ứng được sự kỳ vọng của đất nước ta trong hiện tại và tương lai
- Thứ tư: Tăng cường các nguồn lực đầu tư cho giáo dục đào tạo. Cần tập trung rà soát
lại và từ đó nghiên cứu quy định cơ cấu chi ngân sách nhà nước theo hướng ưu tiên cho giáo
dục và đào tạo – với vị trí, vai trò là quốc sách hàng đầu; tăng cường xã hội hóa giáo dục,
nâng cao hiệu quả, đa dạng hóa nguồn lực tài chính cho phát triển giáo dục và đào tạo.
- Thứ năm: Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra giáo dục đào tạo. Ứng dụng khoa
học công nghệ vào công tác thanh, kiểm tra. Giúp giữ vững và duy trì kỷ cương, trật tự, nề
nếp, sự ổn định trong giáo dục, đồng thời phòng ngừa và ngăn chặn kịp thời các hiện tượng
tiêu cực trong giáo dục như gian lận thi cử, dạy thêm học thêm tràn lan, vi phạm đạo đức lối
sống trong đội ngũ giáo viên cũng như học sinh… 3. Chính trị
Đồng chí Trưởng Ban Tổ chức Trung ương nhấn mạnh, Nghị quyết Hội nghị Trung
ương 6 (khoá XIII) về tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng đối với
hệ thống chính trị trong giai đoạn mới đã xác định rõ 3 quan điểm:
Thứ nhất, đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng phải kiên định, vận
dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; thực hiện nghiêm
các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng, đặc biệt là nguyên tắc tập trung dân chủ; làm
rõ hơn nữa chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, gắn với nêu
cao trách nhiệm của tổ chức và cá nhân, nhất là người đứng đầu; giữ vững sự lãnh đạo tập
trung, thống nhất, kỷ luật, kỷ cương; bảo đảm nguyên tắc quyền lực đi đôi với trách nhiệm,
mọi cán bộ, đảng viên phải hoạt động trong khuôn khổ pháp luật, nguyên tắc và kỷ luật của Đảng. 38
Thứ hai, phải chủ động, tích cực, có quyết tâm chính trị cao, đồng thời cần thận trọng,
có bước đi vững chắc; vấn đề đã rõ thì kiên quyết đổi mới, vấn đề cần thiết nhưng chưa rõ,
còn ý kiến khác nhau thì phải nghiên cứu, thí điểm, không nóng vội nhưng cũng không bỏ
qua hoặc để chậm, ảnh hưởng đến sự phát triển; kế thừa, phát huy những thành tựu, kết quả,
kinh nghiệm tốt trong phương thức lãnh đạo của Đảng đã được thực tiễn chứng minh là
đúng. Ở mỗi cấp, mỗi lĩnh vực phải vừa quán triệt các nguyên tắc chung, vừa phải phù hợp
với đặc điểm, yêu cầu, nhiệm vụ lãnh đạo của từng cấp, từng lĩnh vực và của từng loại hình
cơ quan nhà nước, từng tổ chức chính trị - xã hội.
Thứ ba, phải có quyết tâm cao, nỗ lực lớn trong tổ chức thực hiện, tạo sự chuyển biến
mạnh mẽ, sâu sắc về đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng trong điều kiện mới, triển khai
thực hiện đồng bộ các phương thức lãnh đạo của Đảng. Đẩy mạnh đổi mới, nâng cao chất
lượng công tác nghiên cứu xây dựng, ban hành, tổ chức thực hiện chủ trương, đường lối của
Đảng; đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tổ chức, cán bộ; đổi mới, nâng cao
hiệu quả công tác tuyên truyền, giáo dục, vận động; phát huy vai trò, trách nhiệm nêu gương
của cán bộ, đảng viên; đồng thời, đẩy mạnh cải cách hành chính, đổi mới phong cách lãnh
đạo, phương pháp công tác, lề lối làm việc của các cơ quan lãnh đạo của Đảng từ Trung ương tới cơ sở. 4. Xã hội
Trên cơ sở những định hướng cơ bản được Đại hội XIII của Đảng nêu ra, cần tập trung
vào những vấn đề cụ thể sau:
Một là, tiếp tục điều chỉnh, bổ sung hệ thống chính sách xã hội theo hướng hiệu quả,
bao trùm, toàn diện, bền vững, thể chế hóa kịp thời các chủ trương của Đảng, phù hợp với
yêu cầu, nhiệm vụ của tình hình mới. Cụ thể: cần nghiên cứu, sửa đổi Luật Việc làm, Luật
Bảo hiểm y tế, Luật Bảo hiểm xã hội, Pháp lệnh Ưu đãi người có công phù hợp với định
hướng phát triển đất nước trong bối cảnh mới. Chính phủ cần tiếp tục ban hành các nghị
định để hướng dẫn các ban, bộ, ngành liên quan và các cấp, các ngành, các địa phương thực
thi hiệu quả chính sách xã hội.
Xây dựng khung pháp lý về chính sách xã hội theo hướng tăng cường tính liên kết, sự
phối hợp, đồng bộ giữa chính sách xã hội và các công cụ pháp lý; giữa chính sách xã hội với
các chính sách kinh tế có liên quan. Kịp thời, thường xuyên rà soát, sửa đổi, bãi bỏ các chính
sách không còn phù hợp. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ trong quản trị và điều hành chính
sách xã hội, giúp công tác theo dõi, quản lý và triển khai thực hiện chính sách tại các địa
phương diễn ra chính xác, hiệu quả. 39
Hai là, tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo và quản lý của các cấp ủy đảng, chính quyền,
phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị, tạo sự đồng thuận của toàn xã hội trong việc
thực hiện các chương trình, chính sách đối với người có công, bảo đảm an sinh xã hội. Ðẩy
mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật, nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành,
đoàn thể và người dân trong thực hiện chính sách xã hội.
Ba là, tiếp tục chú trọng hai trụ cột trong chính sách xã hội là chính sách người có công
và chính sách an sinh xã hội. Hoàn thiện hệ thống cơ sở dữ liệu hộ gia đình, mã số cá nhân
và bộ chỉ số an sinh xã hội để nâng cao hiệu quả quản lý, giám sát, đánh giá việc thực hiện
chính sách an sinh xã hội. Cần quan tâm đến các đối tượng “đang ở khoảng giữa của bảo
hiểm xã hội và trợ cấp xã hội” (những người có mức sống dưới trung bình, không có bảo
hiểm xã hội, song chưa được xếp vào diện nghèo nên không được nhận trợ cấp xã hội); lao
động khu vực phi chính thức, đối tượng dễ bị tổn thương. Phát huy vai trò tầng lớp trung lưu
trong giải quyết các vấn đề về an sinh xã hội và phúc lợi xã hội. Thay đổi nhận thức về
người cao tuổi theo hướng vừa chăm sóc, vừa phát huy vai trò và đóng góp của người cao
tuổi đối với xã hội. Tăng cường đầu tư cho an sinh xã hội và công nhận đó là một nguồn tăng trưởng.
Bốn là, đặc biệt quan tâm thực hiện những chính sách và giải pháp giảm nghèo đặc thù
cho những vùng khó khăn và vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Huy động sự trợ giúp của toàn
xã hội, động viên, hỗ trợ người nghèo, vùng nghèo, nâng cao năng lực nội sinh của người
dân vươn lên thoát nghèo bền vững.
Mục tiêu của chính sách xã hội Việt Nam giai đoạn 2020-2030, tầm nhìn đến năm 2045
là hướng đến toàn dân, thực hiện chính sách bao trùm và toàn diện; trong đó, tạo sự chuyển
biến về chất trong thực hiện chính sách đối với người có công và chính sách an sinh xã hội;
tạo cơ hội phát triển cho người dân, không để ai bị bỏ lại phía sau; xây dựng xã hội XHCN
tiến bộ; vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. 5. Đối ngoại
Một là, giữ vững nguyên tắc “ngoại giao cây tre”, công tác đối ngoại cần đổi mới tư
duy, mạnh dạn đột phá, sáng tạo, tìm ra cách làm mới, mở rộng ra các lĩnh vực mới, tìm
kiếm các đối tác mới, hướng đi mới. Vì vậy, cần phải chủ động, thường xuyên theo dõi,
nghiên cứu, nắm chắc diễn biến tình hình khu vực, thế giới và các mối quan hệ quốc tế để
kịp thời đề xuất các giải pháp thích hợp. 40
Hai là, tiếp tục quán triệt sâu sắc và thực hiện đúng đắn đường lối đối ngoại độc lập, tự
chủ, hòa bình, hợp tác, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập
quốc tế sâu rộng; tăng cường hợp tác, tiếp tục tạo thế đan xen lợi ích chiến lược giữa nước ta
với các nước, ngăn ngừa xung đột, tránh đối đầu, bị cô lập, phụ thuộc vì lợi ích quốc gia - dân tộc.
Ba là, chủ động, tích cực tham gia đóng góp, xây dựng, định hình các cơ chế đa
phương nhằm nâng tầm công tác đối ngoại đa phương, coi đây là một định hướng chiến lược quan trọng
Bốn là, mở rộng và nâng cao hơn nữa hiệu quả các hoạt động đối ngoại, nhất là hợp tác
kinh tế, văn hóa và hợp tác trên lĩnh vực chính trị, an ninh - quốc phòng với các nước; tiếp
tục đưa các mối quan hệ với các đối tác, trước hết là các nước láng giềng và các nước lớn, đi
vào chiều sâu, ổn định, hiệu quả
Năm là, coi trọng, nâng cao hơn nữa chất lượng công tác nghiên cứu và dự báo chiến
lược, tập trung đánh giá kỹ các xu hướng vận động trong chính sách và quan hệ giữa các
nước lớn, các nước láng giềng, khu vực
Sáu là, chăm lo xây dựng, đầu tư nguồn lực tài chính và con người cho đối ngoại nhân
dân. Kiện toàn, củng cố tổ chức, bộ máy, đội ngũ cán bộ theo hướng tinh gọn, hiệu quả,
chuyên nghiệp hóa, trẻ hóa, chú trọng thu hút nhân tài, đào tạo, bồi dưỡng để xây dựng đội
ngũ cán bộ đối ngoại nhân dân chuyên trách ổn định
6. Quốc phòng an ninh
Xây dựng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân vững mạnh về chính trị; làm cơ sở
để nâng cao chất lượng tổng hợp và sức chiến đấu; thực sự là lực lượng chính trị; lực lượng
chiến đấu trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và Nhân dân.
Tăng cường công tác giáo dục quốc phòng. Để tăng cường công tác quản lý Nhà nước
về an ninh quốc phòng; và thực hiện công tác quốc phòng có hiệu quả; phải tăng cường công
tác giáo dục quốc phòng cho toàn dân; cho cán bộ các cấp, các ngành, đưa công tác này
thành nề nếp; thường xuyên nhằm nâng cao nhận thức cho mọi người về công tác quốc
phòng. Phân cấp tổ chức giáo dục quốc phòng cho từng cấp; theo hệ thống các trường từ
trung ương đến địa phương. Tổ chức giáo dục quốc phòng trong hệ thống các trường từ phổ
thông cơ sở; các trường đào tạo nghề cho đến đại học; và tương đương với nội dung phù hợp cho từng cấp họ. 41
Hoàn thiện tổ chức bộ máy quản lý Nhà nước về an ninh quốc phòng. Việc lựa chọn
sắp xếp cán bộ cho cơ quan hoặc chuyên trách cần tiến hành chặt chẽ; có tiêu chuẩn chức
danh cụ thể. Đồng thời phải đào tạo, bồi dưỡng chuyên sâu; vì đó là những chuyên gia giỏi
về công tác an ninh quốc phòng . Đội ngũ cán bộ này cũng cần có quy hoạch; bố trí lực
lượng thay thế liên tục, không để hẫng hụt; phục vụ được lâu dài, tích luỹ được kinh nghiệm.
Hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật; và nâng cao ý thức trách nhiệm công dân về
công tác an ninh quốc phòng. Chính sách pháp luật là những vấn đề có tác động trực tiếp đến
hiệu quả thực hiện công tác quốc phòng; và quản lý Nhà nước về an ninh quốc phòng. Vì
vậy, nó phải là hệ thống đồng bộ, hoàn chỉnh. Các chính sách đặt ra phải phù hợp với đặc
điểm, điều kiện hoàn cảnh đất nước; và có tác động tích cực đối với thực hiện công tác an ninh quốc phòng.
Chính phủ cần tăng cường đầu tư cơ sở hạ tầng hiện đại, băng thông đủ rộng để vượt
qua các cuộc tấn công gây nghẽn mạng, có hệ thống máy lưu trữ dự phòng để chuyển hướng
dữ liệu trước các cuộc tấn công và phục hồi sau tấn công mạng. Thường xuyên rà soát, phát
hiện, khắc phục lỗ hổng bảo mật trên toàn hệ thống, bổ sung thiết bị, phần mềm chuyên
dụng có khả năng kiểm tra, kiểm soát an ninh, an toàn thông tin trên môi trường mạng viễn
thông, internet, tần số vô tuyến điện,… Xây dựng, triển khai thực hiện các giải pháp kỹ thuật
chuyên biệt nhằm kiểm tra, phát hiện các nguy cơ gây mất an ninh thông tin. Tổ chức diễn
tập hàng năm về phòng, chống tấn công mạng cấp quốc gia với sự tham gia của cơ quan
chính phủ, các tập đoàn kinh tế trọng yếu, các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ viễn thông,
Internet và các cơ quan, tổ chức có liên quan, đảm bảo xử lý kịp thời các nguy cơ gây mất an
ninh, đe dọa gây mất an ninh thông tin ở Việt Nam.
E. Bài học kinh nghiệm sau 36 năm đổi mới
Nhìn lại tiến trình 36 năm đổi mới và nhiệm kỳ vừa qua, Đại hội XIII của Đảng đã tổng kết
5 bài học lớn: (Trong đó, bài học hàng đầu là về xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Đây là cơ sở
quan trọng để Đảng ta tiếp tục vận dụng, phát huy và phát triển sáng tạo trong lãnh đạo, chỉ
đạo, vững vàng vượt qua những khó khăn, thách thức trong giai đoạn cách mạng mới. )
1. Quá trình đổi mới phải chủ động, không ngừng sáng tạo trên cơ sở kiên định mục
tiêu độc lập dân tộc và CNXH, vận dụng sáng tạo, phát triển chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, lấy đó làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Ðảng, là
cơ sở phương pháp luận quan trọng nhất để phân tích tình hình, hoạch định, hoàn thiện
đường lối; đồng thời kế thừa và phát huy truyền thống dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa 42
nhân loại, vận dụng kinh nghiệm quốc tế phù hợp với Việt Nam. Xây dựng đất nước theo
con đường XHCN là sự nghiệp khó khăn, phức tạp, lâu dài, nhưng đó là con đường hợp quy
luật để có một nước Việt Nam phát triển bền vững. Và trong quá trình đổi mới, bên cạnh các
cơ hội, có thể xuất hiện vấn đề mới, khó khăn, thách thức mới, Ðảng, Nhà nước và nhân dân
cần phải chủ động, không ngừng sáng tạo để giải quyết và vượt qua.
2. “Lấy dân là gốc”, đổi mới dựa vào nhân dân, vì lợi ích của nhân dân
Ðổi mới phải luôn luôn quán triệt quan điểm “dân là gốc”, vì lợi ích của nhân dân, dựa vào
nhân dân, phát huy vai trò làm chủ, tinh thần trách nhiệm, sức sáng tạo và mọi nguồn lực của
nhân dân, phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc. Xa rời, đi ngược lại lợi ích của nhân
dân, đổi mới sẽ thất bại. Những ý kiến, nguyện vọng, sáng kiến của nhân dân nảy sinh từ
thực tiễn là yếu tố quan trọng góp phần hình thành đường lối đổi mới của Ðảng. Nhân dân
làm nên các thành tựu của đổi mới, đổi mới phải dựa vào nhân dân. Dân chủ XHCN là bản
chất của chế độ, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước. Do đó, xây
dựng, phát huy dân chủ XHCN phải bảo đảm tất cả quyền lực thuộc về nhân dân để nhân
dân thật sự là chủ thể tiến hành đổi mới và thụ hưởng thành quả của đổi mới. Ðể phát huy
dân chủ XHCN, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, cần phòng, chống đặc quyền,
đặc lợi, chống suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.Điểm mới ở đây là khẳng định
“nhân dân là trung tâm”, “lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu” của
Đảng và cả hệ thống chính trị. Kinh nghiệm thực tiễn chính trị Việt Nam và thế giới cho
thấy, bất cứ một thể chế chính trị nào chỉ có thể tồn tại bền vững khi được sự ủng hộ, đồng
tình của nhân dân. Muốn được nhân dân ủng hộ, nhất thiết đảng chính trị đó phải vì lợi ích
của nhân dân. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, tồn tại không có mục đích tự thân, mà vì ấm
no, hạnh phúc của nhân dân. Mục tiêu ấy phù hợp với nguyện vọng của nhân dân, được nhân
dân đồng tình ủng hộ.Đây là bài học xuyên suốt trong thời kỳ đổi mới, là sự tiếp nối truyền
thống của lịch sử dân tộc ta. Tuy nhiên, từ thực tiễn công cuộc đổi mới, Đảng ta ngày càng
nhận thức sâu sắc, đầy đủ hơn về nội dung, ý nghĩa của bài học này 3.
Tôn trọng và hành động theo các quy luật khách quan
Ðổi mới phải toàn diện, đồng bộ, có bước đi phù hợp; phải tôn trọng quy luật khách quan,
xuất phát từ thực tiễn, bám sát thực tiễn, coi trọng tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, tập
trung giải quyết kịp thời, hiệu quả những vấn đề thực tiễn đặt ra. Thực tế cho thấy, phải đổi
mới toàn diện, đồng bộ trên mọi lĩnh vực đời sống, từ nhận thức, tư tưởng đến hoạt động
thực tiễn, từ hoạt động lãnh đạo của Ðảng và quản lý của Nhà nước đến hoạt động trong
từng bộ phận của hệ thống chính trị, từ hoạt động ở trung ương đến hoạt động của địa
phương, cơ sở. Trong quá trình đổi mới, phải tổ chức thực hiện quyết liệt với các bước đi,
hình thức, cách làm phù hợp, hiệu quả; không để xảy ra tình trạng nóng vội, chủ quan, hấp
tấp, vì sẽ gây mất ổn định, thậm chí rối loạn, tạo cơ hội cho các thế lực thù địch chống phá. 43
Ðồng thời phải chủ động, năng động, không ngừng sáng tạo, khắc phục tình trạng bảo thủ,
trì trệ, bỏ lỡ cơ hội phát triển. Phải tôn trọng quy luật khách quan, coi sự phát triển của thực
tiễn là yêu cầu, là cơ sở để đổi mới tư duy lý luận, đường lối, chủ trương, cơ chế, chính sách.
Mọi đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật của Ðảng và Nhà nước đều phải xuất phát
từ thực tiễn. Ðể dân tin, dân ủng hộ, dân tích cực thực hiện đường lối đổi mới, Ðảng, Nhà
nước phải giải quyết kịp thời, hiệu quả những vấn đề do thực tiễn đặt ra; kịp thời điều chỉnh,
bổ sung các thể chế, thiết chế, cơ chế, chính sách không còn phù hợp, cản trở phát triển.Việc
Đảng ta lãnh đạo chuyển từ thể chế kinh tế kế hoạch sang kinh tế thị trường định hướng
XHCN, chuyển từ chế độ đơn sở hữu sang đa sở hữu, chuyển từ hệ thống chuyên chính vô
sản sang hệ thống chính trị XHCN, thực hiện đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế...
chính là tôn trọng và hành động theo các quy luật khách quan. Và nhờ vậy, đất nước đã có
những sự thay đổi vượt bậc trên nhiều mặt. Bài học này không chỉ có tác dụng hiện nay, mà
còn có tác dụng chỉ đạo trong suốt quá trình cách mạng. Bởi thực tiễn luôn vận động, điều
đó đòi hỏi nhận thức của con người, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước phải thay
đổi để đáp ứng yêu cầu của thực tế.Mặc dù trong báo cáo chính trị Đại hội XIII, bài học kinh
nghiệm về tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan không được viết riêng thành
một bài học độc lập. Tuy nhiên, trong toàn bộ nội dung các bài học kinh nghiệm đều ẩn chứa
tính khách quan, ví như: “mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ cuộc sống”,
“coi trọng chất lượng và hiệu quả thực tế” ...
4. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại
Cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới, một mặt chịu sự tác động bối
cảnh thời đại, mặt khác góp phần thúc đẩy, tạo ra các xu hướng của thời đại. Do vậy, với tư
duy biện chứng, phải thấy được mối liên hệ phổ biến, sự tác động qua lại hai chiều giữa cách
mạng Việt Nam và cách mạng thế giới. Phải bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc;
kiên định độc lập, tự chủ, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế trên cơ sở bình đẳng, cùng có
lợi. Phải luôn coi lợi ích quốc gia - dân tộc là tối thượng. Trong bất kỳ hoàn cảnh nào cũng
cần kiên định độc lập, tự chủ, và đồng thời chủ động, tích cực hội nhập quốc tế. Kết hợp
phát huy sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc
tế nhằm tạo ra sức mạnh tổng hợp để phát triển đất nước nhanh, bền vững. Trong đó, phát
huy sức mạnh toàn dân tộc là cơ sở kết hợp sức mạnh thời đại, làm cho sức mạnh toàn dân
tộc mạnh hơn. Và quan hệ quốc tế dựa trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống
nhất, toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng, cùng có lợi.
5. Phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của Ðảng; xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ
phẩm chất, năng lực và uy tín ngang tầm nhiệm vụ, phát huy trách nhiệm nêu gương của cán 44
bộ, đảng viên theo phương châm chức vụ càng cao càng phải gương mẫu, nhất là Ủy viên
Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương có ý nghĩa quyết
định đến công tác xây dựng Ðảng trong sạch, vững mạnh, lãnh đạo thành công sự nghiệp đổi
mới; nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức
chính trị - xã hội và cả hệ thống chính trị; tăng cường mối quan hệ mật thiết với nhân dân.
Sự lãnh đạo đúng đắn của Ðảng là nhân tố quyết định thành công của công cuộc đổi mới. Vì
thế, nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Ðảng; xây dựng
Ðảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh là nhiệm vụ then chốt. Ðảng phải thường
xuyên tự chỉnh đốn, tự đổi mới, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu; đồng thời
thường xuyên kiện toàn tổ chức, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước, phát
huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể trong tập hợp mọi tầng lớp nhân dân, phát
huy sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc để thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới. - 45 Tài liệu tham khảo 1.
Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam (dành cho bậc đại học hệ không chuyên
lý luận chính trị). (2021). Hà Nội: NXB Chính trị Quốc gia Sự thật. 2.
Đảng Cộng sản Việt Nam - Người tổ chức và lãnh đạo mọi thắng lợi của cách mạng
Việt Nam.Trang Thông Tin Điện Tử - QDND
https://www.qdnd.vn/ky-niem-90-nam-ngay-thanh-lap-dang-csvn-3-2-1930-3-2-2020/vung-
buoc-duoi-co-dang-quang-vinh/dang-cong-san-viet-nam-nguoi-to-chuc-va-lanh-dao-moi-
thang-loi-cua-cach-mang-viet-nam-607563 3.
Ðánh giá tổng quát và bài học kinh nghiệm qua 35 năm đổi mới.
https://tuyengiao.vn/dua-nghi-quyet-cua-dang-vao-cuoc-song/danh-gia-tong-quat-va-bai-
hoc-kinh-nghiem-qua-35-nam-doi-moi-131519. 4.
Nguồn: 1.Báo Nhân dân, Một số vấn đề đặt ra đối với quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ
quốc hiện nay https://nhandan.vn/mot-so-van-de-dat-ra-doi-voi-quoc-phong-an-ninh-bao-ve-
to-quoc-hien-nay-post581227.html
5. Trường Đại học An ninh nhân dân, Đảm bảo An ninh mạng trong tình hình hiện nay
http://dhannd.edu.vn/dam-bao-an-ninh-mang-trong-tinh-hinh-hien-nay-a-898
6. Học viện chính trị công an nhân dân, Một số vấn đề lý luận, thực tiễn về quốc phòng,
an ninh, bảo vệ Tổ quốc qua 30 năm thực hiện Cương lĩnh (phần 2)
http://hvctcand.edu.vn/chong-dien-bien-hoa-binh/mot-so-van-de-ly-luan-thuc-tien-ve-quoc-
phong-an-ninh-bao-ve-to-quoc-qua-30-nam-thuc-hien-cuong-linh-phan-2239
7. Thành tựu của đối ngoại Việt Nam trong thời kỳ hội nhập quốc tế
https://dangcongsan.vn/multimedia/infographic/thanh-tuu-cua-doi-ngoai-viet-nam-trong-
thoi-ky-hoi-nhap-quoc-te-599600.html
8. Thành tựu đối ngoại Việt Nam trong thời kỳ đổi mới và xây dựng đất nước
https://baodantoc.vn/thanh-tuu-doi-ngoai-viet-nam-trong-thoi-ky-doi-moi-va-xay-dung-dat- nuoc-1639467216079.htm 46