



















Preview text:
Top 16 bài thuyết minh về một đồ dùng mà em yêu thích
1. Dàn ý Giới thiệu về một đồ dùng trong học tập hoặc trong sinh hoạt
a) Mở bài. Giới thiệu khái quát về đồ dùng hay vật dụng đó. b) Thân bài.
- Miêu tả hình dáng, màu sắc
- Giới thiệu các bộ phận của đồ dùng hay vật dụng đó
- Công dụng của đồ vật
- Cách sử dụng đồ dùng hay vật dụng đó
c) Kết bài. Mối quan hệ của đồ dùng hay vật dụng đó với người học sinh hay với con người nói chung.
2. Thuyết minh cái khẩu trang
Trải qua 2 năm đại dịch Covid, chắc hẳn chiếc khẩu trang y tế hiện giờ đã trở thành
người bạn thân thiết đối với mỗi cá nhân trong việc bảo về cơ thể và phòng tránh
bệnh tật. Ngày nay, khẩu trang y tế đã được sử dụng rộng rãi ở khắp mọi nơi, đặc
biệt là trong các bệnh viện.
Như các bạn đã biết, chiếc khẩu trang giúp che kín vùng mũi và miệng của con
người nhằm ngăn chặn sự xâm nhập của các loại virus, vi khuẩn gây bệnh.
Hiện tại, có khá nhiều loại khẩu trang đang lưu hành khắp thế giới, từ loại kháng
virus, kháng khuẩn, kháng bụi đến loại kháng bụi mịn và thậm chí kháng cả bụi
phóng xạ, hầu hết được làm từ vải không dệt. Trong những ngày mà cả thế giới
đang quay cuồng vì dịch viêm đường hô hấp cấp Covid-19 gây ra thì khẩu trang là
mặt hàng bán chạy nhất.
Tùy vào từng loại khẩu trang mà có những thành phần khác nhau. Phổ biến đều có
1 lớp vải chính, một lớp lọc bụi ca cấp, một lớp vải thấm mồ hôi,..Lớp ngoài có đặc
tính chống thấm nước, giúp ngăn cản hiệu quả các hạt chất lỏng văng ra khi người
bệnh hắt-xì, ho, thở mạnh... Mặt ngoài thường có màu xanh blue nhạt để dễ phân
biệt. Lớp trong luôn có màu trắng rất dễ phân biệt với lớp ngoài. Mặt vải quay vào
trong, sát với da mặt nên phải tinh khiết mịn màng, không xơ sợi sùi lông gây khó
chịu. Ngoài ra phải có tính thấm nước nhằm hút mồ hôi tạo sự thoải mái cho người
sử dụng. Lớp giữa có tác dụng ngăn các hạt dịch văng bắn và phải lọc được bụi, vi
khuẩn. Đây chính là lớp quyết định chất lượng khẩu trang. Một lớp lọc "đúng chuẩn"
phải để không khí dễ đi qua, tạo sự thoáng khí cho người dùng, nhưng lại phải có
kết cấu đủ để lọc được các hạt bụi, vi khuẩn có kích thước cực nhỏ.
Khi mang khẩu trang tuyệt đối không sờ tay vào, vì động tác sờ tay, thậm chí chỉnh
sửa khẩu trang sẽ vô tình làm cho bàn tay lây nhiễm vi rút và các tác nhân gây bệnh
khác, sau đó truyền bệnh lại cho chính mình và những người xung quanh, chỉ sử dụng một lần.
Khẩu trang y tế được sử dụng để bịt vùng mặt (thường là mũi, miệng) để ngăn ngừa
bảo vệ người đeo khỏi bị lây nhiễm các loại vi khuẩn, dịch bệnh, bụi bặm thông qua
đường hô hấp. Khẩu trang y tế được sử dụng nhiều trong các cơ sở y tế, cung cấp
cho các bác sĩ, y tá, điều dưỡng viên, giám định pháp y... đặc biệt là những người
làm công việc phẫu thuật.
Khẩu trang y tế thực sự có tác dụng trong phòng chống dịch bệnh, vì vậy hãy sử
dụng đúng cách để phòng ngừa giúp bản thân và xã hội.
Trong cuộc sống hiện đại hiện nay, việc sử dụng các loại viết để học tập và làm việc
là không thể thiếu nhưng để lựa chọn loại viết phù hợp với thời đại công nghệ thông
tin sao cho vừa nhanh, tiện lợi và ít tốn kém cũng là điều vô cùng quan trọng và sự
ra đời của bút bi đáp ứng nhu cầu đó.
Từ những năm bắt đầu việc học người ta đã biết sử dụng các công cụ để có thể viết
chữ. Thô sơ nhất là sử dụng lông vịt, lông ngỗng chấm vào mực, mực được bào chế
từ các loại lá, quả, hoa có màu sắc giã nát ra. Nhưng đó là trong những năm còn lạc
hậu. Việc sử dụng viết lông ngỗng để viết rất bất tiện vì lúc nào cũng phải mang theo
lọ mực, sử dụng xong lại phải lau sạch và việc cứ phải liên tục chấm đầu lông ngỗng
vào mực cũng rất mất thời gian.
Và sau đó một nhà báo người Hungari đã chế tạo ra cây viết mực Lazso Biro. Việc
sử dụng bút mực để rèn chữ là một điều rất tốt vì nét chữ sẽ đẹp song giá thành
một cây bút máy khá đắt, nặng và khi viết khá chậm. Cho đến những năm gần đây
người ta mới phát minh ra bút bi. Nó vừa đáp ứng nhu cầu rẻ, tiện lợi và nhẹ nữa
phù hợp với nhiều đối tượng, nhất là học sinh, sinh viên.
Cấu tạo bên trong của bút cũng khá là đơn giản: vỏ bút được làm bằng nhựa hoặc
bằng các kim loại dẻo trong suốt. Bên trong là ruột bút, ống dẫn mực, ngòi bút, lò xo.
Ngòi bút có đường kính từ 0,25mm đến 0,7mm tùy theo nhu cầu của người sử
dụng. Còn về việc sử dụng bút cũng khá là dễ dàng, khi cần thiết chỉ cần ấn vào đầu
bút ngòi bút sẽ tự động lộ ra để chúng ta có thể sử dụng.
Khi không sử dụng nữa ta chỉ cần ấn lại đầu bút, ngòi bút sẽ tự động thụt lại, lúc đó
bạn có thể mang bút đi khắp mọi nơi mà vẫn yên tâm tránh được các tác nhân bên
ngoài va chạm vào ngòi bút. Hiện nay người ta còn tìm ra cách để chế tạo những
bút lạ hơn như bút nhũ, bút nước, bút dạ quang… phù hợp với người tiêu dùng, vừa
phù hợp với túi tiền vừa có thể theo học sinh đến trường, theo các nhân viên văn phòng đến cơ quan,…
Ngoài ra còn có các phát minh về một số loại viết có thể viết được dưới nước, ở
những nơi có áp suất khí quyển thấp. Nói gì thì nói, ta cũng không thể phủ nhận
những khuyết điểm còn có ở bút bi là rất khó rèn chữ vì ngòi bút nhỏ, trơn và rất
cứng không phù hợp với những học sinh cấp Một đang luyện chữ vì khi nào nét chữ
đã cứng và đẹp ta hãy sử dụng, ngoài ra bút còn rất dễ bị tắc nghẽn mực trong khi
sử dụng có thể là do lỗi của các nhà sản xuất hoặc cũng có thể do chúng ta làm rơi
viết xuống đất và làm ngòi bút va chạm vào các vật cứng.
Do vậy, sử dụng bút tuy là đơn giản nhưng chúng ta cũng nên biết cách bảo quản
bút sao cho bút có thể sử dụng được lâu và bền hơn như: sau khi sử dụng bút xong
thì nên bấm đầu bút thụt lại để không bị rớt xuống đất, khô mực hoặc va chạm vào
các vật cứng sẽ dễ làm vỡ vỏ bút hoặc làm bể đầu bi.
Một đặc điểm nhỏ mà ít ai nghĩ đến là có thể biến những cây bút bi thành những
món quà nhỏ, xinh xắn, dễ thương và vô cùng ý nghĩa để làm món quà tặng người
thân, bạn bè, thầy cô. Bút còn là người bạn đồng hành với những anh chiến sĩ ngoài
mặt trận, để các anh có thể viết nhật kí, viết thư về cho gia đình. Viết xong, các anh
có thể giắt cây bút vào túi áo không sợ rơi mất, khi cần thiết có thể lấy ra dễ dàng và sử dụng ngay.
Bút là người bạn nhỏ, luôn sát cánh đồng hành trong công việc, học tập của mọi
người, không tốn kém nhiều chi phí lại có thể sử dụng trong mọi hoàn cảnh, điều
kiện ở mọi lúc mọi nơi. Chúng ta hãy biết ơn những người đã chế tạo ra cây bút để
nhờ đó chúng ta có sự hỗ trợ đắc lực trong học tập và trong công việc hiện nay vẫn
đáp ứng được theo xu hướng công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước.
4. Thuyết minh về đồ dùng học tập ngắn gọn lớp 8
Gắn liền với thời học sinh của mỗi chúng ta chắc hẳn ai cũng nhớ về cây bút máy
giúp ta ghi lại những nét chữ buổi đầu tiên đến trường. Trải qua nhiều năm phát
triển, chiếc bút máy ngày nay đã có nhiều thay đổi về hình dáng cũng như thiết kế
tuy nhiên những cấu tạo chính của chiếc bút thì có lẽ vẫn giữ vẹn nguyên, có chăng
là một số cải tiến thêm để bút viết được trơn và đều mực hơn.
Trước hết là về cấu tạo của chiếc bút máy thì mỗi người chúng ta ai cũng có thể biết
rõ. Bút được chia ra làm hai phần chính là vỏ bút và ruột bút. Vỏ bút lại chia thành
phần thân bút và nắp bút. Hai phần ấy gắn được với nhau bằng những ren xoáy. Vỏ
bút thường làm bằng nhựa và bằng sắt, bút làm bằng nhựa sẽ nhanh vỡ hơn khi va
chạm mạnh còn vỏ bút làm bằng sắt sẽ bền hơn. Màu sắc của vỏ bút rất đa dạng
nào là xanh, đỏ rồi lại tím vàng, nếu như ra cửa hàng thì có thể thoải mái lựa chọn
màu mà mình yêu thích. Vỏ bằng sắt thì cũng được mạ những màu sắc rất đẹp.
Ngoài ra trên những thân bút ấy còn có cả hoa văn họa tiết rất nhỏ nhưng đẹp. Nắp
bút để bảo vệ ngòi bút bên trong cũng đỡ để dây mực ra ngoài gây bẩn. Không
những thế trên nắp bút còn được thiết kế để kẹp vào sách cho không rơi. Nhìn
chung cây bút máy có chiều dài tầm 10 centimet nhỏ thon gọn và rất tiện lợi khi mang theo bên người.
Phần ruột bút thì gốm có ngòi bút ở phía trên, đó chính là phần để viết. Ngòi bút
thường thì có loại to và có loại nhỏ. Sau đó đến phần sắt để cầm vào đó viết, bên
trong lớp vỏ sắt đó là một hệ thống nối từ ngòi bút đến ống đựng mực. Theo những
bút ngày xưa thì phần ống mực làm bằng nhựa dẻo để rỗng bên trong và khi hút
mực vào đó thì chúng ta phải xoắn ống đựng mực đó lại sau đó thả ra thì mực sẽ
lên. Tuy nhiên việc đó cũng khá khó cho nên nhiều em học sinh không thể hút được
và phải nhờ đến sự giúp đỡ của mẹ. Khi phát triển hơn thì người ta sáng chế ra một
loại ống đựng mực dễ hút mực hơn. Nó được thiết kế đẩy lên và xuống giống như
nguyên tắc hút nước của xi lanh hoặc dạng xoay. Khi xoay xuống dưới thì mức sẽ
vào khi xoay lên trên thì mực sẽ ra. Chính vì thế mà việc hút mực vào bút trở nên dễ dàng.
Về phân chia các loại bút máy thì có bút nét to và bút nét thanh nét đậm. Các hãng
bút trên thị trường thì rất nhiều nhưng nổi tiếng và thông dụng nhất là các hãng như
bút kim tinh ngày xưa, bút Trường Sơn, bút Nét Hoa, bút Kim Thành, Bút luyện viết
chữ đẹp… Công dụng của nó mà ai cũng biết là dùng để viết lên những dòng chữ
của con người. Với đựng mực nhiều như thế chúng ta có thể viết nhiều lần mà
không lo hết mực. Bút đặc biệt có công dụng lớn với những cô cậu học sinh tiểu học
vì cấu tạo của bút máy không trơn như bút bi cho nên nó không bị hỏng chữ xấu
chữ. Những chiếc bút máy ấy sẽ giúp cho những người mới học chữ viết thật đẹp và
ngay ngắn nét thanh nét đậm.
Tuy nhiên chúng ta cũng cần phải biết bảo quản bút vì bút có tốt thì viết mới đẹp
được. Sau những thời gian viết thì khoảng một thằng bạn nên rửa bút một lần chỉ có
thế bút mới không bị đóng cặn mực gây tắc không thể viết được. Chúng ta nên rửa
bút bằng nước ấm. Tiếp nữa đó là thường xuyên lau bút cho sạch sẽ duy trì ngòi bút
không nên viết ghì mạnh.
Như vậy có thể nói cây bút máy thật sự quan trọng trong công việc học tập của
chúng ta, những ai đã lớn vẫn nên viết bút máy vì với cấu trúc của nó sẽ giữ được
những nét chữ của chúng ta ngay ngắn và đẹp hơn chứ không như bút bi trơn dễ
làm mất nét chữ. Đồng thời trong quá trình sử dụng thì cần bảo quản sạch sẽ để giữ bút được lâu hơn.
5. Giới thiệu về chiếc nón lá
Nón lá từ xưa đến nay đã trở thành nét đẹp văn hóa của người Việt, chiếc nón lá có
sự gắn bó với người lao động Việt Nam, hình ảnh những thiếu nữ đôi mươi mặc áo
dài, đội nón lá đã trở thành biểu tượng của người Việt. Hình ảnh có sức lay động và
truyền cảm hứng với bạn bè về văn hóa, con người.
Nón lá thân thương với hình ảnh người con gái Việt mặc áo dài, tay cầm nón lá
chính là biểu tượng du lịch. Tà áo dài là trang phục truyền thống nón lá vật dụng
không thể thiếu bởi đất nước ta nguồn gốc từ một nước nông nghiệp, thường xuyên
làm việc ngoài trời thời tiết nhiệt đới nắng nóng nên cần có một vật dụng để che
nắng khi làm việc từ đó nón lá ra đời. Hình ảnh những chiếc nón trắng giữa đồng
luôn là hình tượng quen thuộc với mỗi người chúng ta.
Nón lá công dụng cũng như các loại mũ khác. Nón lá dạng hình chóp, đáy tròn trịa
thường có đường kính khoảng từ 50 cm đến 60 cm. Nón lá dùng làm vật trang trí
đường kính nhỏ hơn hoặc lớn hơn. Nón lá thường được làm bằng lá cọ hoặc lá
dừa, người ta thường chọn các loại lá này bởi tính chất dai, không thấm nước. Tên
gọi chiếc nón lá cũng xuất phát từ hình dáng cũng như nguyên liệu chính để làm ra nón.
Nguyên liêu làm nón còn có nan tre, kim chỉ, hình ảnh trang trí. Khi làm nón lá lá dừa
hoặc lá cọ sẽ được chọn lựa kĩ càng thường người ta hay chọn lá cọ. Lá làm nón
phải đạt tiêu chuẩn xanh, nổi gân, bóng bẩy. Lá sau khi được chọn phơi héo từ 2
đến 4 tiếng, khi lá mềm chuẩn bị để làm thành nón. Chuẩn bị nguyên liệu nan tre.
Nan tre từ thân cây tre, độ mềm dẻo dễ uốn nắn. Nan tre được vót tròn đường kính
khoảng 1 đến 2 cm. Nguyên liệu sau cùng mà người làm cần có đó là kim chỉ màu
và hình ảnh trang trí, sơn dầu.
Những chiếc nón lá ngày nay trang trí đa dạng, đảm bảo yêu cầu thẩm mĩ người tiêu
dùng. Sau khi trang trí xong, họ sẽ phết một lớp sơn dầu lên bên trên để tạo độ
bóng bề mặt ngoài nón và giúp chiếc nón lá có độ bền màu khi sử dụng sẽ lâu hơn.
Người dùng chỉ cần chọn quai nón theo sở thích, dây quai nón người ta hay chọn
các dải lụa hoặc vải tổng hợp, chiều dài thường từ 70 đến 80 cm. Dây quai nón giữ
chắc nón trên đầu hoặc công dụng để treo nón lên cao, khi đó thì việc bảo quản
chiếc nón lá sẽ lâu dài hơn.
Chiếc nón lá Việt Nam thể hiện truyền thống văn hóa và là sản phẩm của người Việt
Nam làm tôn lên vẻ đẹp, duyên dáng và gợi của của người phụ nữ Việt Nam.
6. Giới thiệu về chiếc áo dài
Chiếc áo dài là thứ trang phục đẹp nhất của phụ nữ Việt Nam. Chiếc áo khoác ngoài
màu thầm, bên trong là chiếc áo cánh sen, áo mỡ gà,... làm cho người phụ nữ quê
ta trở nên duyên dáng, xinh đẹp và trang trọng.
Áo dài của các bà, các mẹ ngày xưa thường là áo tứ thân hoặc áo năm thân. Áo tứ
thân được kết bằng bốn mảnh vải, hai thân trước và hai thân sau. Áo năm thân, vạt
áo trái phía trước được ghép thành hai thân vải, rộng gấp đôi vạt áo phía phải. Mặc
áo tứ thân thường mặc bỏ buông; mặc áo năm thân thường buộc thắt vào nhau, làm
cho dải thắt lưng thiên lí hiện ra lấp ló. Các cụ bà lên chùa lề Phật vào ngày mồng
một, ngày rằm thì mặc áo dài tứ thân màu nâu, màu đà bằng vải hay lụa tơ tằm.
Ngày xưa, con gái Kinh Bắc đi hội chùa Dâu, đi hát Quan họ hay mặc áo dài tứ thân màu thẫm.
Chiếc áo dài tân thời ngày nay vốn là chiếc áo dài tứ thân được cải tiến. Ống tay dài
thon, cổ áo hoặc được dựng cao, hoặc ôm tròn viền quanh cổ người mặc được
cách điệu. Có nhiều cúc bấm chạy chéo nghiêng theo hai vạt áo phía trước. Lưng
áo được may thắt lại tạo nên ‘eo”, làm hiện lên vẻ đẹp trẻ trung, yêu kiều của thiếu
nữ. Áo dài tân thời được may bằng lụa đủ màu sắc: trắng, hồng, xanh lơ, tím,... lụa
điểm hoa, điểm một số loài chim đủ màu sắc rực rỡ, lộng lẫy.
Trong lễ hội, hình ảnh các thiếu nữ xuất hiện trong chiếc áo dài tân thời, người đi
xem cảm thấy như đàn bướm sặc sỡ đang bay lượn giữa vườn hoa xuân.
Thứ hai hằng tuần, trường em quy định giáo viên nữ mặc áo dài trắng, các giáo viên
nam mặc vét, thắt ca-vát, đi giầy. Lễ chào cờ hàng tuần trở nên long trọng; sân
trường như sáng bừng lên.
Chiếc áo dài màu trắng điểm hoa, chiếc áo dài màu xanh da trời, màu tím Huế đã
làm tôn vẻ đẹp thiếu nữ Việt Nam trang nhã, trinh trắng hơn, mềm mại, tươi đẹp hơn.
7. Giới thiệu về cái quạt
Quạt là đồ dùng vô cùng gần gũi với người dân. Chiếc quạt đã tạo ra gió làm dịu đi
cái nóng của mùa hè đối với con người. Không những thế, nó còn giúp con người
ngủ ngon hơn, thoải mái hơn.
Quạt bây giờ có quạt điện và quạt thủ công. Tuy chúng có nhiều đặc điểm khác
nhau nhưng đều có công dụng là làm mát. Ngoài ra quạt thủ công còn là đồ vật
trang trí trong nhà, biểu diễn nghệ thuật.
Quạt thủ công đã xuất hiện từ rất lâu đời. Bà la sát đã dùng chiếc quạt ba tiêu của
mình để quạt Tôn Ngộ Không bay xa tới mười nghìn dặm chỉ một cái vung tay. Tác
giả Ngô Thừa Ân đã nói quá sức mạnh của chiếc quạt. Nhưng thật sự quạt thủ công
đã có vai trò rất lớn trong xã hội cũ. Từ vua chúa sử dụng những chiếc quạt làm
bằng lông vũ xinh đẹp để tạo sự thoải mái trong giấc ngủ trưa đến các sĩ tử dùng
quạt giấy để biểu thị sự nho nhã, có học của mình trước mọi người. Bây giờ, theo tôi
được biết, quạt thủ công chủ yếu là quạt giấy và quạt nan. Theo đúng tên gọi của
nó, nguyên liệu làm quạt là giấy và nan tre nhỏ, mảnh. Người ta làm quạt theo một
hình mẫu nhưng bây giờ có rất nhiều mẫu đẹp như hình rồng, hình phượng...
Hồi nhỏ, tôi đã hỏi bà:
- Bà ơi, tại sao cái quạt nhà mình lại tự quay được thế?
- Tại trong đó có tay thần cháu ạ - Bà tôi cười.
Bây giờ, tôi đã biết tại sao quạt điện lại tự chạy được. Trong quạt có bộ phận được
gọi là roto và stato. Khi ta cắm phích điện vào ổ thì có một luồng điện truyền vào roto
làm roto quay. Roto gắn với thanh sắt nối với cánh quạt. Vì vậy khi roto quay thì
cánh quạt quay và tạo ra gió. Bộ phận chính của quạt là phần quay và phần điều
chỉnh. Phần quay chính là stato, roto và cánh quạt. Còn phần điều chỉnh là các nút
bấm. Ngoài ra, vỏ và lồng bảo vệ cánh quạt cũng là bộ phận không thể thiếu để làm
nên chiếc quạt hoàn chỉnh. Chiếc quạt cóc gắn liền với nhân dân ta nửa cuối thế kỷ
XX đã bị đào thải trên thị trường. Giờ đây có vô cùng những sản phẩm quạt điện từ
rẻ tiền đến đắt giá. Từ chiếc "để bàn MD" đến "điều khiểu Euro". Từ "Quạt cây ASIA"
đến "quạt trần nhỏ xíu mắc màn". Tất cả đều là số ít trong hàng loạt sản phẩm quạt
điện ngày nay. Tuy chỉ biết công đoạn dây chuyền để sản xuất quạt điện nhưng tôi
vẫn công nhận rằng người phát minh ra động cơ điện là thiên tài.
Giờ đây, công nghệ làm mát hiện đại như máy điều hoà, máy lạnh đã quen thuộc
trên thị trường, nhưng những chiếc quạt có lẽ sẽ luôn có "đất dụng võ".
8. Giới thiệu về cái phích nước
Trong cuộc sống sinh hoạt hàng ngày, có rất nhiều các loại đồ dùng, vật dụng được
con người sử dụng trong gia đình. Đó là những vật dụng hữu ích, phục vụ cho nhu
cầu sinh hoạt của con người. Có công dụng như một loại bình để chứa nước, đặc
biệt là giữ cho nước luôn ấm để mọi người trong gia đình có thể sử dụng bất kì lúc
nào, mà không cần tốn công hâm nóng hay đi đun lại nước. Vật dụng thần kì này
mang lại cho con người rất nhiều tiện ích. Đó là chiếc phích nước.
Phích nước là một trong những vật dụng được sử dụng phổ biến trong các gia đình.
Công dụng lớn nhất của chiếc phích nước chính là giữ nước nóng ở nhiệt độ ổn
định. Phục vụ kịp thời nhu cầu sử dụng nước của con người mà không mất thêm
nhiều công sức đun nóng. Với thiết kế đặc biệt, chiếc phích nước có thể duy trì độ
nóng của nước trong một thời gian khá dài, khoảng bảy đến mười ngày. Chiếc phích
nước được cấu tạo bởi các bộ phận chính như: vỏ phích- đây là bộ phận bảo vệ
ruột phích, thường được làm bằng nhựa. Vỏ phích cũng là bộ phận cách nhiệt với
ruột phích, người sử dụng có thể thoải mái sử dụng, va chạm với lớp vỏ bày mà
không sợ bị phỏng, nóng. Ngày nay, do nhu cầu sử dụng đi kèm với nhu cầu thẩm
mĩ nên con người nên những chiếc phích được trang trí bởi họa tiết hoa văn, những
hình vẽ ở vỏ phích vô cùng độc đáo và đa dạng.
Bộ phận thứ hai của chiếc phích mà ta có thể kể đến, đó chính là ruột phích. Trong
cấu tạo của phích, ruột phích được xem là bộ phận quan trọng nhất, nó có vai trò
giữ nhiệt độ của nước nóng. Do ruột phích được làm bằng một lớp thủy tinh mỏng,
sau đó được tráng trên bề mặt một lớp bạc nên phích nước có thể duy trì nhiệt độ
của nước trong một thời gian dài. Bộ phận thứ ba của chiếc phích nước là chiếc lắp
phích, bộ phận này cũng vô cùng quan trọng bởi nó là bộ phận dùng để che kín
miệng phích, cách li được nước nóng trong phích tiếp xúc với không khí bên ngoài.
Chiếc lắp phích thường được làm bằng nhựa, gồm hai lớp. Lớp ở trong có những
đường xoáy để tạo độ khít với phích nước, lớp bên ngoài có hình dạng như một
chiếc cốc nhỏ, đậy ở trên cùng.
Phích nước thường có dạng hình trụ dài, kích thước ở thân đều nhau, miệng tương
đối nhỏ. Với kích thước này chỉ thích hợp dùng siêu đổ nước trực tiếp hoặc dùng
những chiếc ca có miệng để rót nước vào phích. Màu sắc, hình dạng, kích thước
của những chiếc phích cũng khá đa dạng. Ngày nay, người ta sản xuất phích nước
với rất nhiều mẫu mã, màu sắc khác nhau, đáp ứng được nhu cầu sử dụng cũng
như sở thích của mỗi người, mỗi gia đình. Nếu như hình dáng bên ngoài của chiếc
phích có hình trụ dài thì ruột phích lại có hình trứng, thon tròn ở dưới đáy, thuôn dài ở phần thân.
Về kích thước của những chiếc phích phụ thuộc hoàn toàn vào dung lượng nước
mà nó có thể chứa. Thể tích thông thường nhất của những chiếc phích là khoảng
300ml, nhưng cũng có những loại phích có kích thước lớn hơn 500ml để phục vụ
cho những gia đình đông người, cho những gia đình có nhu cầu sử dụng nước nóng
nhiều. Phích nước có công dụng có thể đáp ứng nhu cầu sử dụng của con người,
song giá thành của nó cũng rất rẻ, giá dao động từ một trăm nghìn đồng đến hai
trăm năm mươi nghìn đồng, tùy thuộc vào thể tích, mẫu mã, nhãn hiệu… nhờ những
chiếc phích nước mà con người luôn có nước nóng để phục vụ các nhu cầu sinh
hoạt như: pha trà, pha mì tôm, hòa cà phê….
Những chiếc phích mang lại nhiều tiện ích cho con người, trong đó quan trọng nhất
là tiết kiệm được thời gian, công sức. Con người có thể sử dụng nước nóng bất kì
lúc nào, nhiệt độ trong phích luôn được đảm bảo, nhu cầu sử dụng cũng được đáp
ứng tốt hơn. Như vậy, phích nước là một vật dụng không thể thiếu trong sinh hoạt
của mỗi người, mỗi gia đình.
9. Thuyết minh về cái quạt giấy
Ngày xưa, khi cuộc sống còn dân dã, chưa phát triển văn minh đầy đủ tiện nghi như
ngày nay thì những chiếc quạt giấy là công cụ hữu ích cho đồng bào ta những ngày
hè oi nóng. Vậy thì để hiểu thêm về chiếc quạt giấy của dân tộc, chúng ta hãy cùng tìm hiểu nhé.
Chiếc quạt giấy xuất hiện từ thế kỉ mười. Xưa kia, những chiếc quạt giấy bản to đã
từng xuất hiện trong cung của vua chúa để làm quạt đi với lọng phục vụ vua chúa
hoặc là đồ vật cầm tay của những bậc tao nhân mặc khách, những phi tần làm thêm
vẻ duyên dáng, mĩ miều. Chiếc quạt giấy là một vật dẹp và nhẹ để người cầm trên
tay mà phe phẩy, đưa đẩy hơi gió. Trải qua thời kì phát triển chiếc quạt còn được
cách tân và thêm phần đẹp hơn, với những họa tiết hoa văn phong phú, đặc sắc
mẫu mã đa dạng. Chiếc quạt giấy có hai phần chính. Phần cán quạt được làm bằng
gỗ dẹt chuốt mỏng và đều tay, xếp đan cài lên nhau để có thể xê dịch thu vào hoặc
kéo ra. Cán quạt là sự gộp lại của những nan quạt được nối bằng một chiếc đinh
nhỏ. Phần tà quạt được làm bằng tấm giấy mỏng nhưng bền và chắc, trên đó có in
họa tiết những bông hoa, cảnh sông nước hay địa danh nổi tiếng. Những bài thơ
hay những câu đối và chữ nho cũng là chi tiết tạo điểm nhấn cho chiếc quạt. Chiếc
quạt giấy là linh hồn của dân tộc ta. Bởi sự đơn sơ, mộc mạc và giản dị của nó cũng
giống như tâm hồn bình dị, mộc mạc của người dân Việt Nam. Chiếc quạt giấy gần
gũi với người dân ta, đi cùng với các triều đại lịch sử.
Nếu giờ đây cuộc sống của nhân dân ta ngày càng phát triển, văn minh tiến bộ. Mùa
hè nóng có quạt điện, quạt hơi nước, điều hòa máy lạnh thì xưa kia các cụ quang
năm gắn bó với ruộng đồng những chiếc quạt giấy chính là vật dụng hữu ích để họ
quạt mát những trưa hè oi nóng. Hơn thế nữa, trong xa xưa chiếc quạt giấy cỡ to
hơn có thẻ dùng để trang trí cung tẩm, làm đồ vật theo kiệu các vua chúa. Ngoài tác
dụng thực tế, quạt xếp cũng là món hàng lưu niệm để đề thơ, vẽ cảnh. Thời hiện đại
quạt xếp cũng như quạt phiến còn dùng làm vật quảng cáo, cổ vũ, quà tặng để phổ
biến tên hiệu trên thương trường bằng cách in logo trên mặt quạt. Vì sẵn có mặt
rộng để minh họa, cây quạt đã biến thành vật mỹ thuật dùng trang trí trong nhà, có
thể treo lên vách như tranh hoặc gác trên giá gỗ đặt trên bàn. Một số vũ điệu cũng
dùng quạt xếp như vũ điệu tamia tadik của người Chàm. Trong thi ca Việt Nam cũng
nhắc đến cây quạt như bài thơ ngắn trào phúng vịnh chiếc quạt xếp của Bà Chú thơ
Nôm Hồ Xuân Hương. Nhà thơ Vương Trọng có bài thơ “Gió từ tay mẹ” sáng tác
năm 1974 gắn liền cây quạt với tình mẹ. Ca dao, đồng dao thì vẫn lưu truyền "Thằng
Bờm có cái quạt mo, Phú ông xin đổi ba bò chín trâu...". Chiếc quạt giấy cũng là vật
dụng gắn liền với những điệu múa duyên dáng. Chưa bao giờ dù là xưa hay nay
chiếc quạt giấy vẫn gắn bó, gần gũi với người dân Việt Nam.
Chiếc quạt giấy được làm khá đơn giản, bởi ngày xưa nhân dân ta còn nguyên sơ,
thuần phác chưa có những thiết bị hỗ trợ như bây giờ. Vật liệu cần tre và giấy dai,
bền. Tre khoảng 5 năm không quá non. Chặt xuống cưa khúc tùy theo kích thước
nan tre. Đem ngâm trong ao hồ khoảng 6 tháng đến 1 năm để cho chất protein trong
tế bào bị thẩm thấu hết ra nước, khi đó sẽ không bị mọt. Sau đó vớt lên luộc bằng
nước vôi loãng khoảng 12 tiếng, cho vào máy chẻ nan và tuốt nan cho hết xơ. Chốt
nhôm được gắn vào sau khi xếp nan và khoan lỗ nhài. Có thể dùng đinh tán, ốc vít
hay chốt nhựa. Phải dùng mũi khoan nhỏ sắc khoan mở trước sau đó dùng mũi
khoan to dần tới khi bằng kích thước chốt, gắn chốt xong tán chốt. Dùng máy mài để
mài đuôi hình trái xoan hay tròn theo yêu cầu. Giấy cắt theo hình vòng cung bán
nguyệt, trước khi cắt thường in nội dung hay phong cảnh lên đó. Sau đó xòe nan để
kiểm tra đô chắc chắn là ổn rồi.
Nhưng để chiếc quạt được bền thì cần phải gìn giữ và không đem quăng, quật lung
tung vì chiếc quạt rất dễ rách. Hi vọng rằng chiếc quạt giấy sẽ luôn đồng hành cùng
ta trong nay và mai sau dù đất nước có phát triển hơn, bởi chiếc quạt vẫn có chút gì
đó là hồn cốt dân tộc.
Cây bút máy là sản phẩm công nghiệp.
Các thầy đồ, thư sinh ngày xưa thích dùng bút lông, mực tàu. Đầu thế kỉ XX, các
thầy thông, thầy kí trong công sở của Pháp mới có cà vạt, giấy da, bút máy giắt túi
áo, phì phèo thuốc lá, “Tối rượu sâm banh, sáng sữa bò” (Thơ Tú Xương). Thời
kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, ai có xe đạp Phượng Hoàng để đi, có đài bán
dẫn để nghe tin tức, ca nhạc, có bút máy Kim Tinh để xài, thế là sang, là oách. Gần
đây, lại thấy một số ông bà Việt Kiều về thăm quê mặc váy, áo màu tha thướt, xức
nước hoa thơm “điếc” mũi, tay xách túi ngoại, cổ và tai lấp lánh ngọc vàng, viết bằng
bút máy ngoại trăm đô, nghìn đô ai nhìn thấy cũng phải “lóa mắt”.
Cây bút máy dùng để học tập, để ghi chép, viết lách rất thông dụng, tiện lợi. Nhưng
có lúc, có thời, có người, cây bút máy còn là thứ để “khoe”, để tỏ rõ sự sang trọng, hơn người!
Cây bút máy có các bộ phận sau: thân bút, nắp bút, ngòi bút, lưỡi gà, ống đựng mực
(ruột bút). Thân bút, nắp bút thường bằng nhựa, có in rõ nhãn hiệu. Cặp bút được
đính vào nắp bút, thường bằng kim loại màu vàng vừa để trang trí vừa để cặp vào
túi áo cho tiện lợi. Ngòi bút máy hình lưỡi giáo nổi bật dòng chữ nhãn hiệu rất xinh,
bằng thứ kim loại màu hoặc bạc, đầu mũi bút là “hạt gạo” trong, bé tí. Ngòi bút máy
đính vào lưỡi gà ở cổ bút đều bằng nhựa cứng, màu đen. Ống đựng mực của bút
máy có thể bằng cao su hoặc bằng nhựa.
Cây bút máy dài độ 15 cm, to bằng ngón tay út, bằng nhựa màu, cứng, có dáng hình
khá đẹp. Mực bút máy (màu xanh, màu đen, màu tím) là thứ mực chuyên dụng;
không thể dùng lẫn lộn vì dễ làm tắc nghẽn mực viết. Thỉnh thoảng phải lau chùi
ngòi, phải “tắm rửa” bút máy thì bút máy mới hữu dụng, tiện lợi.
Có thể nói, cây bút máy là người bạn thân thiết, quý mến của mỗi chúng ta thời cặp
sách. Bút mực tím, bút hoa sim của nhà máy Văn phòng phẩm Hồng Hà được học
sinh ưa dùng, có tác dụng lớn trong việc luyện chữ, thi Vở sạch chữ đẹp của học sinh Tiểu học hiện nay.
11. Thuyết minh về chiếc đồng hồ báo thức
“Thời gian quý hơn vàng”. Ý thức được điều đó, từ xưa con người đã trân trọng và
có nhiều cách thức để đo đếm thời gian. Trong đó, đồng hồ là một phát minh đầy
sáng tạo và ý nghĩa. Chiếc đồng hồ vẫn luôn là người bạn thân thiết, gắn bó với mỗi
người trong cuộc sống hằng ngày. Với tôi, chiếc đồng hồ báo thức lại càng đặc biệt
hơn bởi nó là món quà sinh nhật tôi được tặng từ người bạn thân thiết nhất.
Chiếc đồng hồ của tôi có xuất xứ từ Hong Kong và thuộc loại đồng hồ Analog. Gọi
như thế để phân biệt với đồng hồ số, tức đồng hồ điện tử và đồng hồ kĩ thuật số,
hiển thị được cả ngày, tháng, năm bằng chữ rất thông dụng hiện nay.
Chiếc đồng hồ không có kích cỡ to lớn, không có cấu tạo quá phức tạp hay cũng
không quá sang trọng, cầu kì. vẻ ngoài của nó khá giản dị và xinh xắn. Bao phủ toàn
bộ lớp vỏ nhựa bên ngoài chiếc đồng hồ là một màu xanh dương, bóng và đẹp rất
phù hợp với sở thích của tôi. Dưới cùng có hai chân bằng kim loại để đồng hồ có thể
đủng thẳng một cách tiện lợi mà không cần phải treo hay dựa vào vật gì khác. Trên
cùng có trang trí hai quả chuông bằng sắt và một cần kim loại có thể di chuyển sang
hai bên. Hai cái chuông này vừa khiến cho đồng hồ trông sinh động hơn, vừa là bộ
phận âm thanh quan trọng. Khi báo thức, chiếc cần này di chuyển va vào hai quả
chuông tạo ra tiếng chuông báo thức vô cùng hiệu quả. Trên hai quả chuông còn
đính thêm tay cầm để chiếc đồng hồ có thể treo được trên tường tùy theo ý muốn của người sử dụng.
Về cấu tạo, chiếc đồng hồ báo thức bao gồm thần hộp, mặt số, tổ hợp kim, trục, hệ
thống truyền động, nguồn năng lượng và chuông báo. Thân hộp có nhiệm vụ bảo vệ
bộ máy đồng hồ, gồm thân chính, vành tròn, mặt kính và nắp phía sau. Hộp đựng
được làm bằng nhựa nên trọng lượng của đồng hồ được giảm nhẹ rất nhiều. Mặt
hiển thị ở mặt trước của hộp, có in hình logo của nhà sản xuất. Mặt trước đồng hồ
có hệ thống các số chỉ giờ, chỉ phút và các vạch nhỏ được phần cầm rất tỉ mỉ giữa
các số để có thể xác định chính xác thời gian.
Tổ hợp kim gồm kim giờ, kim phút, kim giây và kim báo thức. Cả ba chiếc kim đều
màu đen nhưng khác nhau về chức năng, kích thước và độ dài. Kim giờ to và ngắn
nhất, kim phút nhỏ hơn và dài hơn kim chỉ giờ, kim giây dài nhưng mảnh. Ngoài ra
còn có chiếc kim nhỏ xinh màu ghi thực hiện chức năng hẹn giờ. Tổ hợp kim được
gắn vào các trục đồng tâm. Các trục này được gắn với các bánh răng tương ứng
của bộ máy truyền động.
Bộ máy truyền động gồm bộ động lực, bộ chuyển động, bộ chỉnh động và bộ điều
hòa. Nguồn năng lượng của đồng hồ là hai viên pin tích điện duy trì hoạt động của
máy. Chiếc đồng hồ này thường sử dụng pin con thỏ, một loại pin rất thông dụng và
dễ mua, dễ tìm. Bộ phận quan trọng còn lại là chuông báo thức. Đây cũng là bộ
phận tôi yêu thích nhất ở chiếc đồng hồ. Dù gọi là đồng hồ báo thức nhưng chiếc
đồng hồ có thể nhắc nhở chúng ta rất nhiều công việc. Từ việc thức dậy mỗi ngày,
hẹn giờ học bài, hẹn giờ nấu ăn... Muốn cài đặt thời gian, ta chỉ việc xoay núm kim
hẹn giờ ở thân sau của hộp máy sau đó gạt phím bật báo thức về phía chữ “On”,
muốn tắt ta chỉ việc gạt sang phía chữ “Off”.
Rất đơn giản và tiện lợi cho người dùng nhưng nguyên lí hoạt động của đồng hồ
báo thức lại không hề đơn giản chút nào. Năng lượng được nạp vào từ pin sẽ truyền
qua ổ cót tới các bánh răng. Các bánh răng quay và truyền động cho nhau, bên
cạnh đó còn có sự hỗ trợ của bộ thoát để các bánh răng không bị hỗn loạn. Trục của
các bánh răng nối với các kim chỉ thời gian. Khi kim chỉ giờ trùng với kim hẹn giờ,
móc khóa cần gạt bên trên được mở, kích hoạt cần gạt phía trên chuyển động về
hai bên, chạm vào hai quả chuông và phát ra âm thanh báo thức.
Chiếc đồng hồ xinh xắn, tiện lợi giống như vị thần canh giữ thời gian, đảm bảo cho
tôi tránh những bất cẩn để không bị lãng phí thời giờ và là một người bạn thân thiết
ở bên tôi mỗi ngày. Không chỉ là một vật dụng hữu ích, chiếc đồng hồ báo thức còn
là một vật trang trí trên bàn học và là vật kỉ niệm hạnh phúc trong sinh nhật dạ,qua
của tôi. Nó mãi mãi gợi nhắc về người bạn thân thiết suốt thời thơ ấu của tôi.
Cũng vì ý nghĩa đó, tôi luôn sử dụng và bảo quản món quà của mình rất cẩn thận.
Đồng hồ lúc nào cũng được đặt trên bàn học gọn gàng, ngăn nắp, thoáng mát.
Không bao giờ tôi để đồng hồ ở nơi ẩm thấp, nơi có nhiệt độ cao hoặc bụi bẩn vì sẽ
làm cho đồng hồ nhanh bị hư hỏng. Khi đồng hồ bị hỏng, tôi luôn tìm cách sữa hợp
lí, tốt nhất là nhờ đến bác thợ sửa đồng hồ. Để đồng hồ được bền lâu, cũng cần
thường xuyên lau bụi bẩn, bôi dầu và bảo quản cẩn thận.
Đã hơn một nghìn năm, kể từ khi tu sĩ Gerbert sáng chế ra chiếc đồng hồ bằng máy,
chiếc đồng hồ đã có nhiều cải tiến, biến đổi, ngày càng phù hợp hơn với nhu cầu sử
dụng của đông đảo mọi người. Công nghệ hiện đại phát triển, các chức năng của
điện thoại dần thay thế đồng hồ nhưng ý nghĩa báo hiệu thời gian của đồng hồ vẫn
luôn hiện hữu trong tâm trí mọi người. Đối với tôi, chiếc đồng hồ không chỉ nhắc nhở
chúng ta về thời gian mà còn trở thành vật kỉ niệm đáng nhớ của tình bạn chân thành.
12. Giới thiệu về chiếc bút chì
Trong suốt quãng thời gian cắp sách, mỗi học sinh chúng ta đều tung tăng đến
trường với những người bạn vô cùng quen thuộc và thân thiết: Hộp bút, thước kẻ,
bút bi. Trong số những dụng cụ học tập đầy hữu ích đó, người học sinh không thể
không nhớ đến những chiếc bút chì đáng yêu, xinh đẹp ngày ngày vẫn cùng chúng
ta đến trường, đến lớp để bay trong biển trời tri thức bao la.
Tôi cứ luôn nghĩ rằng bút chì mới được người ta phát minh ra cách đây không lâu,
nhưng đến khi tìm hiểu thật kĩ lưỡng cho bài viết văn trên lớp, tôi mới “sáng mắt ra”.
Thời cổ La Mã, các học giả tôn giáo chuyên nghiệp viết trên giấy papyrus với một
thanh kim loại có tên là stylus. Sau đó những cây stylus được làm bằng chì. Ngày
nay ta gọi là bút "chì" cũng từ cây stylus bằng chì này. Vào năm 1564, Borrowdale
Anh quốc có một người tình cờ thấy ở rễ một cây bị nằm tróc gốc có than graphite.
Sau khi khai thác mỏ than chì này, việc dùng graphite (than chì) được phổ biến sâu
rộng. Graphite để lại dấu đậm hơn nhưng quá mềm và dễ gãy nên nó cần phải có
vật để giữ. Đầu tiên những cây graphite được bao bằng dây. Sau đó graphite được
đút trong thanh gỗ và khi dùng thì đẩy thanh graphite ra bằng tay. Bút chì được ra đời.
Bước vào năm học mới, các nhà sản xuất bút bi như Bến Nghé, Hồng Hà, Thiên
Long, … đã lần lượt cho ra đời hàng loạt mẫu mã từ đơn giản cho đến cầu kỳ như
bút bấm, bút xoay … đủ chủng loại khác nhau nhằm đáp ứng nhu cầu người sử
dụng. Các cậu nam sinh thì chỉ cần giắt bút lên túi áo đến trường nhưng nhiều bạn
gái lại thích “trang điểm” cho bút các hình vẽ, hình dáng xinh xắn lên thân hay đầu
bút còn được đính thêm con thú đáng yêu. Thế là những chiếc bút bi lại theo chân
trò nhỏ đến trường, giúp các cô, cậu lưu giữ những thông tin, kiến thức vô giá được
thầy cô truyền đạt lại với cả tấm lòng!
Con người thường ít nghĩ đến những gì quen thuộc, thân hữu bên mình. Họ cố công
tính toán xem trung bình một đời người đi được bao nhiêu km hay một người có thể
nhịn thở tối đa bao nhiêu phút nhưng chắc chưa có thống kê nào về số lượng bút họ
dùng trong đời! Một cây bút cũng giống như cơ thể con người vậy, ruột bút là phần
bên trong cơ thể, đầu bi chính là trái tim. Còn vỏ bút giống như đầu, mình, tứ chi vậy
chúng phải cứng cáp thì bút mới bền, hoạt động tốt cũng như tạo cho người sử
dụng cảm giác thoải mái. Màu sắc và hình dáng bên ngoài giống như quần áo, làm
tăng thêm vẽ đẹp cho bút. Các chi tiết của bút dù quan trọng hay thứ yếu đều góp
phần tạo nên một cây bút. Như một kiếp tằm rút ruột nhả tơ, âm thầm giúp ích cho
đời để rồi khi không còn cần thiết nữa, chúng bị vứt bỏ một cách lạnh lùng. Mấy ai
nhớ đến công lao của chúng!
Cùng với sách, vở bút chì là dụng cụ học tập quan trọng của người học sinh, vì vậy
chúng ta cần phải bảo quản bút cho tốt. Dùng xong cần phải cất cẩn thận vào hộp
để tránh thất lạc. Đặc biệt là đối với những chiếc bút chì bấm, ta cần hết sức lưu ý
để ngòi không bị gãy, không bị ảnh hưởng đến bộ phận quan trọng nhất của bút.
Thời gian cứ thế mà lặng lẽ trôi, không chờ ai một ai cả. Các cô cậu học trò đã lớn
dần theo năm tháng, chỉ còn mỗi bút chì là vẫn thế. Nó vẫn mải miết, vẫn miệt mài
vẫn luôn đồng hành cùng các tà áo trắng. Bút chì đối với mỗi chúng ta vẫn luôn là
người bạn bé nhỏ, thân thiết, gắn bó, đáng yêu, đáng quý. Không ai là không trải
qua quãng đời học trò mà không có cậu bút chì tung tăng, gần gũi bên cạnh. Vì vậy,
bút chì luôn luôn có trong kí ức và tâm hồn mỗi người mỗi khi nhắc đến thời hoa
nắng. Hãy luôn trân trọng và gìn giữ người bạn nhỏ đáng yêu của mỗi chúng ta, các bạn nhé.
13. Thuyết minh về chiếc nồi cơm điện
Khoa học kĩ thuật ngày càng phát triển, cuộc sống của con người cũng ngày càng
hiện đại hơn. Với sự bao phủ của các thiết bị điện tử thông minh, đời sống được cải
thiện bởi những phát minh mới. Một trong những phát minh hữu ích cho đời sống
sinh hoạt là chiếc nồi cơm điện.
Nồi cơm điện đến với loài người từ đất nước công nghệ phát triển vượt bậc - Nhật
Bản. Ý tưởng về việc dùng điện để nấu cơm xuất hiện lần đầu tiên vào những năm
giữa thập niên 1920. Khoảng 20 năm sau, một công ty điện tử cho ra đời thành công
loại nồi cơm điện làm chín cơm nhờ chuyển năng lượng điện thành năng lượng hơi.
Tuy nhiên, chiếc nồi này yêu cầu người dùng phải chú ý theo dõi từ khi bật công tắc
nấu cho đến lúc cơm được nấu xong, khá bất tiện. Năm 1956, công ty Toshiba (Nhật
Bản) cải tiến và khắc phục nhược điểm đó, cho ra đời một chiếc nồi thuận tiện sử
dụng hơn. Theo đó, hơn 700 chiếc nồi cơm điện được đưa ra thị trường và có mặt
trong nhà bếp của các bà nội trợ trên toàn thế giới.
Nồi cơm điện bao gồm dây dẫn nguồn nhiệt, vỏ chứa, ruột nồi nấu và thiết bị cảm
ứng nhiệt. Dây dẫn dùng để dẫn điện từ nguồn vào nồi. Vỏ nồi cơm điện thường làm
bằng nhựa chịu sức nóng tốt, thường có nắp để đậy lại. Trên nắp nồi có một lỗ nhỏ
để thoát hơi ra ngoài. Ruột nồi nằm bên trong, thường làm từ kim loại bền, chống
dính cao. Trên ruột có các mức nước được kẻ thành vạch, dựa vào đó mà chọn
lượng nước phù hợp với gạo để cơm ngon hơn. Thiết bị cảm ứng là thiết bị điện tử,
đo nhiệt độ của nồi và kiểm soát nhiệt lượng, báo hiệu tình trạng nồi cơm. Một chiếc
nồi hoàn chỉnh sẽ có thêm nhiều phụ kiện khác.
Theo sự phát triển và nhu cầu của từng thời đại mà nồi cơm điện lại được thiết kế
theo kiểu mã, chức năng khác nhau. Hiện nay, nhiều loại nồi cơm điện phức tạp
được phát minh có nhiều cảm biến hơn và đa chức năng hơn. Những chiếc nồi đơn
giản thì có nút bật, chỉ để nấu cơm. Hiện đại hơn, sẽ có cả bảng chức năng cảm
ứng, muốn dùng chức năng nào thì chọn nút đó.
Nguyên lý hoạt động của nồi cơm điện khá đơn giản. Để nấu cơm, cho gạo và nước
sạch vào ruột nồi trước, chọn nấc cảm ứng nhiệt về vị trí nấu. Trong thời gian nấu,
nước và gạo được làm nóng với toàn bộ công suất nhờ một dây dẫn điện tạo ra. Khi
đạt đến nhiệt độ 100 °C, nước sẽ chuyển từ lỏng sang dạng hơi, thoát ra theo lỗ
thông của vỏ nồi. Nhiệt độ cao tạo ra sẽ nấu chín gạo, đèn báo chuyển chế độ thì
kết thúc nấu. Thông thường, sau đó nồi cơm điện sẽ chuyển sang chế độ "hâm
nóng" để tiết kiệm năng lượng, giữ cơm đã chín ở nhiệt độ an toàn, tự động ngắt nguồn điện.
Nồi cơm điện đã trở thành vật dụng quen thuộc không thế thiếu trong mỗi gia đình.
Nó giúp chúng ta tiết kiệm thời gian đun nấu mà lại có những bát cơm dẻo ngon.
Không những thế, nồi cơm điện còn có nhiều chức năng như hấp, nấu cháo, làm
bánh, hầm. Chỉ với một chiếc nồi, chúng ta có thể làm bất cứ món gì mình muốn. Nó
giống như cầu nối gắn kết cả gia đình với những bữa cơm đầm ấm sum họp.
Trong quá trình sử dụng, cần biết cách để giữ cho nồi bền. Ngay khi đi chọn mua,
bạn nên cắm điện thử ngay tại nơi bán, kiểm tra các nút nấu có hoạt động chính xác
hay không. Kiểm tra cả trong lẫn ngoài đảm báo nồi không bị trầy xước bên ngoài và