-
Thông tin
-
Quiz
Top 6 bài cảm nhận Câu cá mùa thu hay nhất | Ngữ văn 10
I. Mở bài Giới thiệu tác giả Nguyễn Khuyến và bài thơ Thu điếu: Là một bài thơ trong chùm thơ thu ba bài được sáng tác trong thời gian tác giả ở ẩn. Tài liệu được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!
Văn mẫu 10 232 tài liệu
Ngữ Văn 10 1.3 K tài liệu
Top 6 bài cảm nhận Câu cá mùa thu hay nhất | Ngữ văn 10
I. Mở bài Giới thiệu tác giả Nguyễn Khuyến và bài thơ Thu điếu: Là một bài thơ trong chùm thơ thu ba bài được sáng tác trong thời gian tác giả ở ẩn. Tài liệu được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!
Chủ đề: Văn mẫu 10 232 tài liệu
Môn: Ngữ Văn 10 1.3 K tài liệu
Thông tin:
Tác giả:









Tài liệu khác của Ngữ Văn 10
Preview text:
1. Dàn ý cảm nhận Câu cá mùa thu I. Mở bài
Giới thiệu tác giả Nguyễn Khuyến và bài thơ Thu điếu: Là một bài thơ trong chùm
thơ thu ba bài được sáng tác trong thời gian tác giả ở ẩn II. Thân bài
1. Quang cảnh mùa thu êm đềm được gợi mở ra
- Mùa thu gợi ra với hai hình ảnh vừa đối lập vừa cân đối hài hoà “ao thu”, “chiếc
thuyền câu” bé tẻo teo;
+ Màu sắc “trong veo”: sự dịu nhẹ, thanh sơ của mùa thu
+ Hình ảnh: Chiếc thuyền câu bé tẻo teo ⇒ rất nhỏ
+ Cách gieo vần “eo”: giàu sức biểu hiện
- Thi sĩ đã bộc lộ những rung cảm trước cảnh đẹp mùa thu và của tiết trời mùa thu,
gợi cảm giác yên tĩnh lạ thường
2. Bức tranh mùa thu làng quê bình dị
- Mùa thu được gợi lên giàu hình ảnh:
+ Sóng biếc: Gợi hình ảnh và gợi được cả màu sắc, đó là sắc xanh dịu nhẹ và mát
mẻ, là sự phản chiếu màu trời thu trong xanh
+ Lá vàng trước gió: Hình ảnh và màu sắc đặc trưng của mùa thu Việt Nam - Sự chuyển động:
+ hơi gợn tí ⇒ chuyển động rất nhẹ ⇒sự chăm chú quan sát của tác giả
+ “khẽ đưa vèo” ⇒ chuyển động rất nhẹ rất khẽ ⇒ Sự cảm nhận sâu sắc và tinh tế
⇒ Nét đặc sắc rất riêng của mùa thu làng quê được gợi lên từ những hình ảnh bình dị
3. Cảnh thu đẹp nhưng đượm buồn
- Không gian của bức tranh thu được mở rộng cả về chiều cao và chiều sâu
- Tầng mây lơ lửng, hình ảnh trời xanh ngắt
- Hình ảnh làng quê được gợi lên với “ngõ trúc quanh co”, Khách vắng teo => gợi sự
thanh vắng, yên ả, tĩnh lặng
⇒ Không gian của mùa thu làng cảnh Việt Nam được mở rộng lên cao rồi lại hướng
trực tiếp vào chiều sâu, không gian tĩnh lặng và thanh vắng
4. Tâm trạng của nhân vật trữ tình
- Xuất hiện hình ảnh con người câu cá trong không gian thu tĩnh lặng với tư thế “Tựa
gối buông cần”: tư thế thư thái thong thả ngắm cảnh thu, đem câu cá như một thú
vui làm thư thái tâm hồn ⇒ sự hòa hợp với thiên nhiên của con người
- Toàn bài thơ mang vẻ tĩnh lặng đến câu cuối mới xuất hiện tiếng động: Tiếng cá
“đớp động dưới chân bèo” → sự chăm chú quan sát của nhà thơ trong không gian
yên tĩnh của mùa thu, nghệ thuật “lấy động tả tĩnh”
⇒ Tiếng động rất khẽ, rất nhẹ trong không gian rộng lớn càng làm tăng vẻ tĩnh vắng
, “cái tĩnh tạo nên từ một cái động rất nhỏ”
⇒ Nói câu cá nhưng thực ra không phải bàn chuyện câu cá, sự tĩnh lặng của cảnh
vật cho cảm nhận về nỗi cô quạnh, uẩn khúc trong tâm hồn nhà thơ, đó là tâm sự
đầy đau buồn trước tình cảnh đất nước đầy đau thương III. Kết bài
Bài thơ đem đến cho độc giả những cảm nhận sâu lắng về một tâm hồn yêu nước thầm kín mà thiết tha
2. Cảm nhận về bài thơ Câu cá mùa thu
Cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX, tưởng chừng như cùng với sự kết thúc của chế độ
xã hội phong kiến suy tàn, lạc hậu, nền văn học Việt Nam trung đại sẽ rơi vào ngõ
cụt của sự bế tắc với một phương thức phản ánh đã lỗi thời. Nhưng thật kì lạ là
trong sự suy thoái tưởng chừng đã đến đỉnh điểm ấy lại xuất hiện một tài năng thơ
ca vào hàng xuất chúng như Nguyễn Khuyến. Ông giống như một dấu cảm thán
khẳng định tính cổ điển có sức lay động lòng người của văn học trung đại vào giai
đoạn cuối cùng của thời kì văn học dài hàng chục thế kỉ này. Ông để lại cho quê
hương, cho đất nước một di sản văn chương phong phú, đồ sộ. Nhưng nói đến nhà
thơ Nguyễn Khuyến, người đọc mệnh danh ông là nhà thơ của quê hương làng
cảnh Việt Nam, vì ông đã viết nhiều bài thơ hay về cảnh làng quê. Đặc biệt là chùm
thơ thu của ông, trong đó có bài thơ Thu điếu (Câu cá mùa thu).
Chùm thơ ba bài Thu vịnh, Thu ẩm và Thu điếu. Bài nào cũng hay, cũng đẹp cho
thấy một tình quê dạt dào. Riêng Thu điếu, mà nhà thơ Xuân Diệu đã khẳng định là
điển hình hơn cả cho mùa thu của làng cảnh Việt Nam, là bài thơ tả cảnh ngụ tình
đặc sắc: Cảnh mùa thu quê hương, tình yêu thiên nhiên, yêu mùa thu đẹp gắn liền
với tình yêu quê hương tha thiết.
Bài thơ được viết bằng thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật, ngôn ngữ tinh tế, hình
tượng là biểu cảm. Cảnh thu, trời thu của làng quê Việt Nam như hiện lên trong
dáng vẻ và màu sắc tuyệt vời dưới ngòi bút thần tình của Nguyễn Khuyến. Hai câu đầu:
Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo
Nhà thơ hầu như không hứng thú gì với chuyện câu cá mà đắm say với không khí
cảnh sắc mùa thu, ngay câu đầu nhà thơ đã gọi cái ao của mình là ao thu, và với
tính chất lạnh lẽo nước trong veo thì đó đúng là ao thu chứ không phải là môi trường
thích hợp cho việc câu cá, bên cạnh đó cảm hứng của nhà thơ hoàn toàn đắm chìm
trong cảnh sắc mùa thu, một cảnh trong và tĩnh gần như tuyệt đối, nước trong veo,
trời xanh ngắt, khách vắng teo, giác quan của nhà thơ cực kì tinh nhậy và phải hết
sức chăm chú thì mới nhận ra được những biểu hiện nhỏ nhặt tinh vi chỉ làm tôn
thêm cho cái trong và tĩnh của một khung cảnh đầy màu sắc:
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo.
Màu biếc của sóng hòa hợp với sắc vàng của lá vẽ nên bức tranh quê đơn sơ mà
lộng lẫy. Nghệ thuật trong phần thực rất điêu luyện, lá vàng với sóng biếc, tốc độ
vèo của lá bay tương ứng với mức độ tí của gợn sóng. Nhà thơ Tản Đà đã hết lời ca
ngợi chữ "vèo" trong thơ Nguyễn Khuyến. Ông đã nói một đời thơ của mình may ra
mới có được câu thơ vừa ý trong bài Cảm thu, tiễn thu:
Vèo trông lá rụng đầy sân Đến câu luận:
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.
Không gian được mở rộng, bức tranh thu có thêm chiều cao của bầu trời xanh ngắt
với những tầng mây lơ lửng trôi theo chiều gió nhẹ. Trong chùm thơ thu, Nguyễn
Khuyến nhận diện sắc trời thu là xanh ngắt. Ở Thu vịnh là "Trời thu xanh ngắt mấy
tầng cao", Thu ẩm là "Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt", và Thu điếu là "Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt."
Xanh ngắt là xanh mà có chiều sâu. Trời thu không mây (xám) mà xanh ngắt, thăm
thẳm. Xanh ngắt đã gợi ra cái sâu, cái lắng của không gian, cái nhìn vời vợi của nhà
thơ, của ông lão đang câu cá. Thế rồi ông lơ đãng đưa mắt nhìn về bốn phía làng
quê. Xóm thôn vắng lặng, tĩnh mịch, con đường quanh co, heo hút, không một bóng người qua lại.
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo
Cảnh vật êm đềm, thoáng một nỗi buồn cô tịch, hiu hắt. Người câu cá như đang
chìm trong giấc mộng thu. Tất cả cảnh vật, từ mặt nước, "ao thu lạnh lẽo" đến "chiếc
thuyền câu bé tí teo", từ "sóng biếc" đến "lá vàng", từ "tầng mây lơ lửng" đến "ngõ
trúc"... đều hiện lên với đường nét, màu sắc, âm thanh thoáng chút bâng khuâng,
man mác, rất gần gũi, thân thiết với mọi người Việt Nam.
Biết bao thời gian trôi qua trong không gian của sáng tĩnh mịch ấy, tư thế ngồi câu
cá của ông như cũng bất động trong thời gian:
Tựa gối buông cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo
Tựa gối buông cần là tư thế đợi chờ mòn mỏi của người câu cá. Người xưa có kẻ
lấy câu cá làm việc đợi thời, đợi người xứng đáng để phò tá. Văn thơ truyền thống
lấy việc câu cá để từ chối việc làm quan và coi câu cá là việc câu người, câu quạnh,
câu lưỡi. Bài thơ Thu điếu này cũng thể hiện khát vọng câu thanh, câu vắng cho tâm
hồn của một nhà thơ có phẩm chất thanh cao. Cái âm thanh cá đớp động gợi lên sự
mơ hồ xa vắng, đánh thức tỉnh.
Bài thơ Câu cá mùa thu là một bài thơ tả cảnh ngụ tình đặc sắc của Nguyễn
Khuyến. Cảnh sắc mùa thu quê hương được miêu tả bằng những gam màu đậm
nhạt, nét vẽ xa gần tinh tế gợi cảm. Âm thanh của tiếng lá rơi đưa vèo trong làn gió
thu, tiếng cá đớp động chân bèo - đó là tiếng thu dân dã, thân thuộc của đồng quê
đã khơi gợi trong lòng chúng ta bao hoài niệm đẹp về quê hương đất nước.
Thơ là sự cách điệu tâm hồn, Nguyễn Khuyến yêu thiên nhiên mùa thu, yêu cảnh
sắc đồng quê với tất cả tình đồng quê nồng hậu. Ông là nhà thơ của làng cảnh Việt
Nam. Đọc Thu điếu, Thu ẩm, Thu vịnh, chúng ta thêm yêu quê hương, thêm yêu
xóm thôn, đồng nội, đất nước. Với Nguyễn Khuyến, tả mùa thu, yêu mùa thu đẹp
cũng là yêu quê hương đất nước. Nguyễn Khuyến là nhà thơ kiệt xuất đã chiếm một
địa vị vẻ vang trong nền thơ ca cổ điển Việt Nam.
3. Cảm nhận Câu cá mùa thu học sinh giỏi
Nguyễn Khuyến là một trong những nhà thơ lớn, có đóng góp không nhỏ trong nền
văn học trung đại Việt Nam. Ông thường mang vào trang thơ của mình những cảnh
sắc đẹp đẽ, bình dị của làng quê yên bình. Thu điếu là một trong những bài thơ đặc
sắc nằm trong chùm thơ thu (Thu điếu – Thu vịnh – Thu ẩm) của Nguyễn Khuyến.
Bài thơ là một bức tranh thiên nhiên mùa thu vắng lặng, lạnh lẽo và đượm buồn,
đồng thời cũng thể hiện tình yêu thiên nhiên trong tâm hồn người thi sĩ.
Mở đầu bài thơ, nhà thơ đã giới thiệu khái quát không gian, địa điểm thân thuộc và
yên tĩnh của một buổi câu cá mùa thu:
“Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẹo teo”
Hình ảnh “ao thu” đặc trưng của làng quê Việt Nam bước vào trang thơ Nguyễn
Khuyến thật chân thực. Mở ra trước mắt người đọc là cái ao mùa thu vùng chiêm
trũng đất Bắc. Nhà thơ dùng tính từ “trong veo” để miêu tả “ao thu” ấy, trong veo chỉ
sự trong vắt, trong đến mức mà người ta có thể nhìn xuống tận đáy hồ. Có lẽ, thời
điểm này không còn là thời điểm chớm thu nữa mà là thời điểm giữa mùa thu hoặc
cuối thu nên mới “lạnh lẽo” đến thế, chứ không se lạnh hay lành lạnh. Câu thơ gợi ra
một khung cảnh với ao thu trong veo, trong vắt, tĩnh lặng nhưng lại lạnh lẽo, quạnh
hiu. Giữa khung cảnh của một ao thu rộng và lạnh lẽo ấy lại xuất hiện thêm một
chiếc thuyền nhỏ, càng làm cho không gian trở nên lạnh lẽo. Giữa cái rộng của ao
thu đối lập với chiếc thuyền câu đã bé lại còn “bé tẹo teo” khiến cho hình ảnh chiếc
thuyền trở nên nhỏ bé hơn, cô đơn hơn. Hai câu thơ mở đầu đều được nhà thơ gieo
vần “eo” khiến không gian câu cá mùa thu trở nên lạnh lẽo mang một chút buồn.
Nếu như hai câu thơ đầu, nhà thơ giới thiệu cảnh sắc buổi câu cá mùa thu thật tĩnh
lặng, thì ở những câu thơ tiếp theo, cảnh sắc mùa thu lần lượt hiện lên sống động hơn:
“Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo”
Câu thơ bắt đầu xuất hiện sự chuyển động của vạn vật mùa thu, dù sự lay động ấy
chỉ nhẹ nhàng, khe khẽ. Người thi sĩ vẽ lên những hình ảnh “sóng biếc” chỉ “hơi gợn
tí” còn “lá vàng” cũng chỉ “khẽ đưa vèo”. Hai từ “hơi” và “khẽ” thể hiện sự chuyển
động rất nhẹ nhàng trong cảnh sắc mùa thu. Hẳn là thi nhân Nguyễn Khuyến phải
tinh tế lắm mới nhận ra sự khe khẽ đó của thiên nhiên. Hình ảnh “sóng biếc” gợi cho
người đọc một màu xanh biếc trên mặt ao trong, một màu xanh rất đẹp mắt và có
sắc thái biểu cảm. Không chỉ có sóng biếc mà “lá vàng” cũng được đưa vào thơ
Nguyễn Khuyến một cách tinh tế. Người ta thường nói mùa thu là mùa thay lá, mùa
lá vàng và rụng xuống. Bởi thế mà lá vàng đã từng bước vào rất nhiều trang thơ thu.
Trong thơ về mùa thu, Lưu Trọng Lư có viết:
“Con nai vàng ngơ ngác
Đạp trên lá vàng khô”
Nhà thơ tiếp tục miên man tả cảnh sắc mùa thu êm đềm khi hướng tầm mắt ra xa hơn với bầu trời thu:
“Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo”
Đọc câu thơ, người đọc hình dung ra một bầu trời mùa thu cao vời vợi. Bởi lẽ một
bầu trời cao trong vời vợi mới có một màu xanh ngắt. Nếu bên dưới ao thu được
điểm tô là màu “biếc” của sóng thu, màu vàng của “lá” thu, thì ở ý thơ này lại là một
màu “xanh ngắt” bao la, ngút ngàn. Và trên bầu trời thu ấy là những “tầng mây” đang
“lơ lửng”. Từ láy “lơ lửng” diễn tả trạng thái dùng dằng, có trôi nhưng lại rất khẽ, rất
thờ ơ của những đám mây. Dường như mùa thu cả không gian đất trời, cảnh sắc
đều như trôi chậm lại. Nhà thơ trở lại với cảnh vật bên dưới, phía xa xa của những
con ngõ nhỏ. Hình ảnh “ngõ trúc” hiện lên thật hoang vắng. Từ láy “quanh co” cùng
“vắng teo” thể hiện một con ngõ ngoằn nghoèo, quanh co và không một bóng khách,
gợi sự cô đơn, heo hút, man mác buồn.
Trước khung cảnh tĩnh lặng, quạnh quẽ và lạnh lẽo của mùa thu, nhà thơ trở lại với buổi câu cá mùa thu:
“Tựa gối ôm cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo”
Xung quanh cái u buồn, vắng lặng của mùa thu, thi sĩ trở lại tập trung câu cá để
khiến tâm hồn thêm thư thái. Hình ảnh “tựa gối” chỉ sự chăm chú nhưng đầy nghĩ
suy thật lâu trước cảnh sắc đượm buồn mùa thu. Miên man trong những dòng cảm
xúc buồn, cô đơn ấy nên khiến nhà thơ giật mình khi có chú cá nhỏ “đớp động dưới
chân bèo”. Câu thơ cho thấy tậm trạng suy tư của nhà thơ, cảm giác buồn, một nỗi
buồn xa vắng. Nhà thơ sáng tác bài thơ này khi ông về ở ẩn nơi thôn quê. Nếu đặt
vào hoàn cảnh sáng tác bài thơ, người đọc càng hiểu hơn cái tình trong Thu điếu.
Bởi bài thơ còn chất chứa cả một nỗi buồn thời thế, nhà thơ buồn cho thời buổi loạn
lạc, lầm than lúc bấy giờ nhưng có ai để sẻ chia, giãi bày.
Thu điếu là một bài thơ đặc sắc của nhà thơ Nguyễn Khuyến. Bài thơ là một trong
những tác phẩm tiêu biểu khi viết về mùa thu. Đọc bài thơ người đọc ấn tượng bởi
cảnh sắc mùa thu đẹp và tĩnh lặng cùng tình yêu thiên nhiên của Nguyễn Khuyến,
đồng thời cũng cho thấy những nỗi niềm thời đại, tình yêu nước thương dân dạt dào trong trái tim thi sĩ.
4. Cảm nhận Câu cá mùa thu ngắn gọn
Nguyễn Khuyến là một nhà thơ nổi tiếng của Việt Nam, ông là nhà thơ của quê
hương, những sáng tác mà ông viết lên đậm chất vùng quê Nam Bộ. Thơ của ông
nói lên tình yêu quê hương, đất nước, tình yêu gia đình, bạn bè, phản ánh cuộc
sống thuần khổ, chất phác của nông dân, châm biếm đả kích tầng lớp thống trị, bọn
thực dân xâm lược, đồng thời bộc lộ tấm lòng ưu ái với dân, với nước. Trong số
những tác phẩm đặc sắc đó có bài thơ “Câu cá mùa thu”. Đây là bài thơ hay về mùa
thu của đất nước, trong bài thơ tác giả đã nói lên những cung bậc cảm xúc của mùa thu đất nước.
Mở đầu bài thơ là điểm nhìn bao quát của tác giả:
“Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo”
Bài thơ trong điểm nhìn của tác giả, từ gần đến cao xa, rồi từ cao xa trở lại gần. Từ
chiếc thuyền câu nhìn ra mặt ao, nhìn lên bầu trời, nhìn ra ngõ trú rồi lại trở về ao
thu, với chiếc thuyền câu. Từ ao thu hẹp nhòa thơ mở ra không gian mùa thu, cảnh
sắc mùa thu quen thuộc. Chiếc ao thu nước trong veo đến mức có thể nhìn xuống
được tận đáy và lạnh lẽo vô cùng,cái lạnh nó ôm trọn toàn bộ không gian, và giữa
ao thu lại xuất hiện một chiếc thuyền, một chiếc gợi sự cô đơn, mà lại còn bé tẻo
teo, thật nhỏ bé giữa không gian thu rộng lớn.
Hai câu thơ tiếp theo, nói lên không gian thu tĩnh lặng và phảng phất buồn.
“Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo”
“Hơi gợn tí”, “khẽ đưa vèo” là những hình ảnh miêu tả trong trạng thái ngưng kết
chuyển động hoặc sự chuyển động rất nhẹ nhàng tạo nên sự tĩnh lặng vô cùng. Sự
hòa hợp vô cùng đáng yêu ở câu thơ “sóng biếc” và “lá vàng”. Cơn gió thu nhẹ
nhàng làm khuấy động mặt nước hơi gợn tí, làm chiếc lá trên cành khẽ khàng rơi.
Câu thơ thứ ba, bức tranh thu đang được lột tả:
“Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo”
Bầu trời thu trong xanh, nhưng ẩn chứa một nỗi buồn khó tả. Không có một bóng
người qua lại trên con đường làng, không một tiếng nói, một âm thanh, không gian
yên tĩnh như muốn bóp nghẹt tất cả. Cảnh làng quê trong trẻo nhưng tĩnh lặng bởi
cảm nhận của một con người đang đầy những suy tư trăn trở. Không gian được mở
rộng, bức tranh thu có chiều cao của bầu trời xanh ngắt với những đám mây lơ lửng
bay. Xanh ngắt gợi cho ta cái sâu, cái lắng của không gian, cái nhìn vời vợi của nhà
thơ.Ta bắt gặp vần “eo” gợi lên sự nhỏ bé và có phần buồn tủi, “Ngõ trúc quanh co”
càng làm tăng sự vắng lặng của mùa thu trốn quê thanh bình mà tĩnh lặng. Và rồi
ông nhận ra mình đang câu cá:
“Tựa gối ôm cần lâu chẳng được,
Cá đâu đớp động dưới chân bèo”
Câu cá đớp động dưới chân bèo không thể hiểu theo nghĩa cá đâu có đớp, nghĩa là
không đớp. Một tiếng động duy nhất, là tiếng cá đớp mồi càng làm tăng thêm sự yên
ắng, tĩnh mịch của cảnh vật. Nói là câu cá nhưng nhà thơ đâu có chú tâm vào việc
câu cá. Chỉ là câu cá để cảm nhận được hết hương vị của mùa thu một cách trọn
vẹn nhất. Cõi lòng của nhà thơ yên tĩnh, vắng lặng. Tĩnh lặng trong việc cảm nhận
độ trong veo của nước, cái hơi gợn tí của sóng, cái độ rơi khe khẽ của lá. Đặc biệt là
sự tĩnh lặng trong tâm hồn thi nhân được gợi lên một cách sâu sắc từ tiếng động
duy nhất của bài thơ: tiếng cá đớp mồi dưới chân bèo”. Cái động nhỏ xíu như thế lại
gây ảnh hưởng rất lớn. Sự tĩnh lặng mang đến sự cảm nhận nỗi cô quạnh và u uẩn trong lòng nhà thơ.
Bài thơ một phần nào đã thể hiện được vẻ đẹp tâm hồn của tác giả, một con người
bình dị, gắn bó sâu sắc với quê hương và con người, biết rung động trước những
cái đẹp của tạo hóa, hướng về những điều thanh sạch từ cuộc sống và luôn có tinh
thần trách nghiệm với cuộc sống.
Bài thơ câu cá mùa thu là một bài thơ hay và ý nghĩa. Không gian thu thật là ảm
đạm và buồn, hiện trong đó là hình ảnh con người với đầy những nỗi lo toan bộn bề từ cuộc sống.
5. Cảm nhận về bức tranh mùa thu trong bài Thu Điếu
Trong nền văn học Việt Nam, bằng phong cách thơ bình dị, mộc mạc, nhà thơ
Nguyễn Khuyến đã tạo nên những “mùa thu còn mãi” trong đề tài viết về quê hương
làng cảnh. Tác phẩm “Câu cá mùa thu” là một trong những bài thơ Nôm đặc sắc thể
hiện rõ tài năng của cụ “Tam Nguyên Yên Đổ”, giống như nhà thơ Xuân Diệu từng
nhận xét: “trong thơ Nôm của Nguyễn Khuyến, nức danh nhất là ba bài thơ mùa
Thu: Thu vịnh, Thu điếu, Thu ẩm”. Bằng tình yêu thiên nhiên và cảm nhận tinh tế
trước những chuyển động của cảnh vật, tác giả đã tái hiện thành công bức tranh
mùa thu độc đáo mang màu sắc dân dã, bình dị, trong trẻo, thấm đượm nỗi buồn,
trở thành điển hình cho “thơ ca mùa thu của làng cảnh Việt Nam” (Xuân Diệu).
Bức tranh thu trong “Câu cá mùa thu” được tái hiện thông qua vẻ đẹp dân dã, bình
dị, tĩnh lặng và trong trẻo. Tác giả đã sử dụng những đường nét, màu sắc quen
thuộc, đặc trưng nhất của thiên nhiên làng cảnh Bắc Bộ để tạo nên sự sống động,
trong trẻo của cảnh sắc mùa thu.
“Ao thu lạnh lẽo nước trong veo,
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo.
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,
Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo”
Vẻ đẹp thanh sơ, dịu nhẹ của hồn thu đã được tái hiện thông qua những gam màu
nhẹ nhàng: “nước trong veo”, “sóng biếc”, trời xanh ngắt”, “lá vàng”. Bức tranh mùa
thu không chỉ hiện lên thông qua sự hài hòa về sắc màu mà còn mang nét sống
động. Bằng cảm nhận sâu sắc cùng sự quan sát tỉ mỉ, tác giả đã tái hiện thành công
sự thay đổi rất khẽ và rất nhẹ của thiên nhiên qua sự chuyển động “hơi gợn tí” của
sóng biếc và “khẽ đưa vèo” của lá vàng. Mỗi một sự biến chuyển đều mang đậm
dấu ấn đặc trưng của mùa thu. Đặc biệt, thanh âm của tiếng cá “đớp động dưới
chân bèo” xuất hiện ở cuối bài thơ đã tô đậm hơn nữa vẻ đẹp tĩnh lặng, trong trẻo
của hồn thu, đồng thời thể hiện rõ tài năng của tác giả Nguyễn Khuyến trong việc sử
dụng biện pháp “lấy động tả tĩnh”.
Tựa gối, ôm cần lâu chẳng được,
Cá đâu đớp động dưới chân bèo
Bức tranh thu của nhà thơ Nguyễn Khuyến thấm đượm nỗi buồn man mác, mang
đậm phong vị mùa thu của những cơn gió heo may se lạnh. Không gian được mở
rộng theo chiều cao và chiều sâu. Bằng tình yêu thiên nhiên cùng tâm hồn nhạy cảm
trước vẻ đẹp của tạo vật, tác giả Nguyễn Khuyến đã phác họa bức tranh thu toàn
cảnh qua sự thay đổi về điểm nhìn. Khung cảnh mùa thu được mở ra từ nhiều
hướng, tạo nên những nét vẽ độc đáo về chiếc “thuyền câu bé tẻo teo” đến “ao thu”
và mở rộng theo chiều cao của những “tầng mây lơ lửng”. Từ khoảng không bao la
của “trời xanh ngắt”, điểm nhìn của tác giả tiếp tục hướng về không gian hẹp của
chiếc thuyền thu và ao thu. Trong khoảng không “Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt”,
bức tranh thiên nhiên vốn tĩnh lặng đã được bao phủ chiếc áo của nỗi buồn nhẹ
nhàng, miên man cùng sự vắng vẻ “Ngõ trúc quanh co khách vắng teo”. Như vậy,
dưới đôi mắt và cách cảm nhận tinh tế của cụ Tam Nguyên Yên Đổ, “hồn thu” với
phong vị buồn man mác đã lan tỏa và thấm đượm vào từng khoảnh khắc.
Thông qua bức tranh mùa thu với vẻ đẹp bình di, trong trẻo và thấm đượm nỗi buồn,
chúng ta có thể thấy được hình tượng nhân vật trữ tình hiện lên qua tình yêu thiên
nhiên tha thiết cùng những nỗi buồn chất chứa trong tâm trạng. Đó chính là tiếng
lòng yêu nước thầm kín nhưng da diết và mãnh liệt, chân thành của cụ Tam Nguyên
Yên Đổ trước tình cảnh của đất nước thời bấy giờ.
6. Cảm nhận về bức tranh thu trong Câu cá mùa thu
Mùa thu là một trong những đề tài lớn của thơ ca nhân loại. Nói tới đề tài này trong
thơ ca Việt Nam chúng ta có thể kể tới rất nhiều tác giả với những sáng tác xếp vào
hàng kiệt tác, trong số đó có Nguyễn Khuyến với chùm ba bài thơ thu. Mỗi bài trong
chùm thơ thu của Nguyễn Khuyến là một bức tranh thu đặc sắc, và Câu cá mùa thu
được đánh giá là "điển hình hình cho thơ ca mùa thu của làng cảnh Việt Nam" (Xuân Diệu).
Cảnh thu trong bài được đón nhận từ nhiều góc độ khác nhau: từ gần đến xa, từ
thấp lên caọ, từ hẹp đến rộng... Dưới nhiều góc độ như vậy, cảnh sắc mùa thu được
mở ra nhiều hướng thật sinh động và gợi cảm. Từ ao thu đến trời thu rồi đến đường
thôn xóm... tất cả đều toát lên cái hồn thu, cảnh thu xiết bao thân thuộc của làng quê
đồng bằng Bắc Bộ. Cái hồn ấy được gợi lên từ những khung cảnh, những cảnh vật
hết sức thanh sơ: ao nhỏ trong veo, thuyền câu bé tí, sóng biếc gợn, lá vàng khẽ
đưa, tảng mây lơ lửng, ngõ trúc quanh co... sắc xanh của trời hoà lẫn cùng sắc xanh
của nước tạo nên một không gian xanh trong, dịu nhẹ, một chút sắc vàng của lá
rụng trên cái nền xanh ấy khiến cảnh thu, hồn thu càng thêm phần sống động.
Những đường nét, màu sắc... gợi lên trong tướng tượng của người đọc khung cảnh
của một buổi sớm thu yên bình trên một làng quê miền Bắc với bầu trời thu cao
rộng, khoáng đạt, những ao chuôm trong vắt phản chiếu màu trời, màu lá, thôn xóm
với những con đường nhỏ quanh co hun hút xanh màu tre trúc, gió thu dịu mát khẽ
làm xao động mặt nước, thỉnh thoảng một vài chiếc lá rụng cắt ngang không gian...
Trong bức tranh thu này mọi cảnh vật hiện ra đều rất đỗi bình dị, dân dã. Khung
cảnh ấy vận thường hiển hiện vào mỗi độ thu về trên những làng quê và đi vào tâm
thức của bao người, nhưng lần đầu tiên được Nguyễn Khuyến vẽ ra với nguyên cái
thần thái tự nhiên của nó và khiến ta không khỏi ngỡ ngàng xúc động. Đó là một
mùa thu trong trẻo, thuần khiết, mát lành đã bao lần đến trên quê hương của mỗi chúng ta.
Cảnh trong Câu cá mùa thu là cảnh đẹp nhưng cũng tĩnh lặng và đượm buồn. Một
không gian vắng người, vắng tiếng: Ngõ trúc quanh co khách vắng teo. Sự vận động
cũng có nhưng chỉ là những vận động rất nhẹ, rất khẽ: sóng hớt gợn, lá khẽ đưa,
mây lơ lửng... âm thanh tiếng cá đớp mồi thì mơ hồ. Những vận động này không
làm cho không khí của bức tranh thu trở nên sôi động mà chỉ càng làm tăng thêm sự
tĩnh lặng của nó. Mọi cảnh, mọi vật trong bức tranh thu này đều gợi cái tĩnh lặng và
đượm buồn. Cái lạnh lẽo, trong veo của nước, cái biếc của sóng, cái xanh ngắt của
trời... những trạng thái, màu sắc đó cho thây một sự tĩnh lặng đang bao trùm từ bầu
trời cho đến mặt đất. Mọi cái dường như không chuyển động, dường như rơi vào
trạng thái im vắng đến tuyệt đối. Cả con người ở đây cũng vậy. Người ngồi câu
trong trạng thái tựa gối ôm cần, không câu được cá nhưng dường như vẫn không
hề sốt ruột, cái không chi toát lên ở vẻ bề ngoài mà là ở chiều sâu của tâm tư - một
tâm tư dường như cũng tĩnh lặng tuyệt đối. Con người và cảnh vật một cách tự
nhiên đã hoà nhịp cùng nhau tạo nên linh hồn cho bức tranh thu. Cái tĩnh, cái buồn
rõ ràng là trạng thái của cảnh vật ở đây tuy nhiên, đó không phải là cái tĩnh của sự
chết lặng, thiếu vắng sức sống, cũng không phải là cái buồn của sự bi lụy, chán
chường. Gắn với cái buồn, cái tĩnh này vẫn là sự trong sáng, thơ mộng và sức sống
muôn đời bất diệt của thiên nhiên xứ sở.
Phải gắn bó tha thiết với quê hương, phải có một tâm hồn nhạy cảm đến độ nào thì
Nguyễn Khuyến mới có thể tái hiện một cách tài tình tất cả vẻ đẹp xiết bao bình dị
mà nên thơ của mùa thu làng quê Bắc Bộ vào trong những vần thơ tự nhiên, giản dị
đến thế. Thơ thu Việt Nam giàu có, đặc sắc hơn bởi những vần thơ như thế của Nguyễn Khuyến.
7. Viết đoạn văn ngắn cảm nhận về bức tranh thu trong
bài thơ Câu cá mùa thu
Mùa thu là một đề tài bất tận trong thi ca. Đã có rất nhiều những nhà văn chọn đề tài
này để viết nên những thi phẩm cho mình. Trong đó có Nguyễn khuyến trong chùm
thơ thu. Bức tranh thiên nhiên mùa thu tuyệt đẹp và tâm trạng của mình được tác
giả gửi gắm qua bài thơ câu cá mùa thu. Cảnh thu trong bài thơ là cảnh đẹp được
tác giả cảm nhận từ nhiều góc nhìn khác nhau: từ gần đến xa, từ thấp lên cao,...
Điều này đã góp phần làm cho cảnh đẹp của mùa thu sinh động hơn. Tất cả mọi
cảnh vật như được nhuốm một màu thu, từ ao thu, bầu trời thu rồi đến đường thôn
ngõ xóm cũng thu. Hồn thu, cảnh thu đã bao trùm lên khắp ngôi làng ở vùng quê
đồng bằng Bắc bộ. Giũa cannhr đất trời như vậy, hiện lên một hình ảnh khác biệt, đó
chính là cảnh câu cá. Cảnh câu ca này chính là một bức tranh chấm phá giữa nên
của đất trời. Nhưng bức tranh này lại đượm buôn, khi không có con người, sự vật
cũng tĩnh lặng. Không chỉ có cảnh vật, chính con người trong bức tranh thu ấy cũng
rơi vào trạng thái im ắng đến lạ thường. Qua bài thơ ta có thể thấy tình yêu thiên
nhiên và một tâm hồn nhạy cảm góp phân xây nên những hồn thơ đậm chất Việt Nam.