TOP các câu hỏi tự luận đề cương ôn tập học phần Kinh tế chính trị Mác - Lênin | Trường Đại học Quốc tế, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh

Câu 1: Sản xuất hàng hóa là gì? Điều kiện ra đời của sản xuất hàng hóa? Câu 2: Hàng hóa là gì ? Phân tích hai thuộc tính của hàng hóa? Ý nghĩa thực tiễn của lý luận hàng hóa đối với thực tiễn nền kinh tế Việt Nam hiện nay? Câu 3: Lượng giá trị là gì ? Các nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị của hàng hóa? Câu 4: Phân tích tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa?Ý nghĩa của phát hiện này đối với việc xây dựng lý luận giá trị lao động? Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đón xem.

Nguyen Vu Thao Van BABAIU22331
CHƯƠNG 2: HÀNG HÓA, THỊ TRƯỜNG VÀ VAI TRÒ CỦA CÁC CHỦ THỂ THAM GIA THỊ
TRƯỜNG
Câu 1: Sản xuất hàng hóa là gì? Điều kiện ra đời của sản xuất hàng hóa? .
1/ Khái niệm: Sx hàng hóa là kiểu tổ chức kinh tế mà ở đó, những người sản xuất ra sản phẩm không
nhằm phục vụ mục đích nhu cầu tiêu dùng của chính mình mà để trao đổi, mua bán.
2/ Điều kiện ra đời của sản xuất hàng hóa: Theo C. Mác sản xuất hàng hóa chỉ ra đời và tồn tại khi có đủ
hai điều kiện
- Phân công lao động xã hội: Phân công lao động xã hội là sự phân chia lao động trong xã hội
thành các ngành, các lĩnh vực sản xuất khác nhau, tạo nên sự chuyên môn hóa của những người sản xuất
thành những ngành, nghề khác nhau. Khi đó, mỗi người thực hiện sản xuất một hoặc một số loại sản
phẩm nhất định, nhưng nhu cầu của họ lại yêu cầu nhiều loại sản phẩm khác nhau. Để thỏa mãn nhu cầu
của mình, tất yếu những người sản xuất phải trao đổi sản phẩm với nhau.
- Sự tách biệt về mặt kinh tế giữa hai chủ thể sản xuất: Sự tách biệt về mặt kinh tế giữa các chủ thể
sản xuất làm cho những người sản xuất độc lập với nhau có sự tách biệt về lợi ích. Trong điều kiện đó,
người này muốn tiêu dùng sản phẩm của người khác phải thông qua trao đổi, mua bán, tức là phải trao
đổi dưới hình thức hàng hóa.
Câu 2: Hàng hóa là gì ? Phân tích hai thuộc tính của hàng hóa? Ý nghĩa thực tiễn của lý luận hàng
hóa đối với thực tiễn nền kinh tế Việt Nam hiện nay?
1/ Khái niệm: Hàng hóa là sản phẩm của lao động, có thể thỏa mãn một nhu cầu nào đó của con người
thông qua trao đổi, mua bán Sản phẩm của lao động là hàng hóa khi đưa ra nhằm mục đích trao đổi, mua
bán trên thị trường. Hàng hóa có thể ở dạng vật thể hoặc phi vật thể
2/ Hai thuộc tính của hàng hóa
- Giá trị sử dụng của hàng hóa là công dụng của vật phẩm, có thể thảo mãn nhu cầu nào đó của con
người Nhu cầu của con người có thể là nhu cầu về vật chất hoặc tinh thần, có thể là nhu cầu tiêu dùng cá
nhân hoặc nhu cầu tiêu dùng cho sản xuất Giá trị sử dụng của hàng hóa là giá trị sử dụng nhằm đáp ứng
yêu cầu của người mua. Vì vậy, người sản xuất phải chú ý hoàn thiện giá trị sử dụng của hàng hóa do
mình sản xuất ra sao cho ngày càng đáp ứng nhu cầu khắt khe và tinh tế hơn của người mua.
- Giá trị của hàng hóa là lao động của người sản xuất hàng hóa kết tinh trong hàng hóa ấy. Giá trị
hàng hóa biểu hiện mối quan hệ kinh tế giữa những người sản xuất, trao đổi hàng hóa và là phạm trù có
tính lịch sử. Khi nào có sản xuất và trao đổi hàng hóa, khi đó có phạm trù giá trị hàng hóa. Giá trị là một
quan hệ sản suất
3/ Trước thời kì đổi mới, nước ta xây dựng nền kinh tế theo mô hình kế hoạch hóa tập trung, theo đó
không chấp nhận kinh tế thị trường, thị trường lao động và xóa bỏ quan hệ sản xuất hàng hóa – tiền tệ.
Thị trường lao động công khai chỉ xuất hiện trong khu vực kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể. Việc sử
dụng lao động mang nặng tính kế hoạch hóa tập trung. Lao động không được coi là hàng hóa đặc biệt và
không được “mua bán” trên thị trường. Tuy nhiên, sau năm 1986, chủ trương xây dựng nền kinh tế hàng
hóa thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã làm thay đổi căn bản vị trí của hàng hóa sức lao động
trong nền kinh tế Việt Nam. Tuy nhiên quá trình nhận thức và vận dụng ly luận về hàng hóa sức lao động
của C. Mác vẫn còn những giới hạn nhất định, chưa đáp ứng được nhu cầu của nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chỉ nghĩa trong tiến trình toàn cầu hóa kinh tế. Cụ thể như: giá trị sử dụng của hàng hóa còn
thấp làm giảm sự cạnh tranh của nước ta trên thị trường thế giới, giá trị của hàng hóa sức lao động chưa
bao hàm hết những yếu tố đáp ứng cho yêu cầu tái sản xuất mở rộng sức lao động cho một bộ phận lớn
những người làm công ăn lương, hệ thống thông tin lao động việc làm chưa được quản lý chặt chẽ, hệ
thống giáo dục – đào tạo chưa đáp ứng được việc nâng cao tay nghề và chất lượng lao động cho sự
nghiêp công nghiệp hóa, hiện đại hóa của đất nước trong thời buổi kinh tế tri thức đang phát triển lớn
mạnh.
Nhìn nhận về lý luận sức lao động của C. Mác, vận dụng vào thị trường sức lao động Việt Nam là một
vấn đề quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế ở nước ta hiện nya. Từ đó, đưa ra một số gải pháp cho
thị trường lao động trong nước.
Thứ nhất: Vận dụng lý luận hàng hóa sức lao động phải phù hợp với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và
xu thế phát triển chung của nền kihn tế tri thức. Điều này đòi hởi hệ thống giáo dục cần xây dựng và phát
triển nhiều hơn nữa cả về chất lượng và số lượng, nhất là về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ thuật, về
phẩm chất đạo đức, năng lực thì mới có thể tiếp cận, hướng dẫn người lao động tiếp cận với nền kinh tế
tri thức và hội nhập quốc tế.
Thứ hai: Vận dụng lý luận một cách phù hợp vào thực tế điều kiện, hoàn cảnh Việt Nam. Với lợi ích của
người sử dụng lao động và người lao động cần phải hài hòa, cân đối. Tránh việc làm phát sinh, gây mâu
thuẫn gay gắt mà phải tạo mối quan hệ gần gũi, thân thiết, thống nhất giữa người lao động và người đi
thuê lao động.
Thứ ba: Vận dụng lý luận về hàng hóa sức lao động phải gắn liền với việc hình thành đội ngũ lao động có
trình độ và cơ cấu hợp lý, đáp ứng nhu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Phải xây dựng và
phát triển nguồn nhân lực mới đáp ứng được nhu cầu của thực tiễn. Phải biết nắm bắt sử dụng có hiệu quả
những phương tiện kỹ thuật hiện đại. Đi đôi với việc đào tạo tay nghề cần quan tâm tới giáo dục phẩm
chất cho người lao động, rèn luyện ý thức trách nhiệm, kỷ luật, lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội,
trung thành với mục tiêu, lú tưởng mà Đảng và Nhà nước đề ra.
Thứ tư: Thúc đẩy sự giao dịch trên thị trường lao động băng các hình thức như phát triển hệ thống trung
tâm giới thiệu việc làm, tăng cường quản lý Nhà nước, củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động của các
doanh nghiệp xuất khẩu lao động, phát triển hệ thống thông tin, thống kê thị trường lao động, hoàn thiện
hệ thống pháp luật về thị trường lao động, hoàn thiện bộ máy quản lý và vận hành có hiệu quả thị trường
lao động,
Thứ năm: Bên cạnh việc nâng cao chất lượng lao động, đồng thời phải có chế độ tiền lương hợp lý, đảm
bảo cho việc người lao động có thể đảm bảo cuộc sống sinh hoạt hàng ngày, đáp ứng việc sản xuất va tái
sản xuất sức lao động. Phục vụ cho công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa của đấy nước.
Tóm lại, sự tồn tại và phát triển của hàng hóa sức lao động và thị trường lao động là một tất yếu khách
quan. Việc thừa nhận sức lao động trở thành hàng hóa giúp kích thích người lao động và người sử dụng
lao động có những đóng góp tích cực hơn vào sự nghiệp phát triển chung của đất nước.
Câu 3: Lượng giá trị là gì ? Các nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị của hàng hóa?
Lượng giá trị của một đơn vị hàng hóa là lượng thời gian hao phí laođộng xã hội cần thiết để sản xuất ra
đơn vị hàng hóa đó. Lượng giá trị của hàng hóa bao hàm hao phí lao động quá khứ và hao phí lao động
sống.
Hai nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị hàng hóa là năng suất lao độngvà tính chất phức tạp hay giản đơn
của lao động. Ngoài ra C.Mác còn xem xét thêm về mối quan hệ giữa tăng cường độlao động với lượng
giá trị của một đơn vị hàng hóa.
Câu 4: Phân tích tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa?Ý nghĩa của phát hiện này đối với
việc xây dựng lý luận giá trị lao động?
1/ Lao động cụ thể là lao động có ích dưới một hình thức cụ thể của những nghề nghiệp chuyên môn nhất
định. Mỗi lao động cụ thể cómục đích lao động riêng, đối tượng lao động riêng, công cụ lao động riêng,
phương pháp lao động riêng và kết quả riêng. Lao động cụ thể tạo ra giá trị sử dụng của hàng hoá.
Ví dụ: lao động cụ thể của người thợ mộc, mục đích là sản xuất cái bàn, cái ghế, đối tượng lao động là gỗ,
phương pháp của anh ta là các thao tác về cưa, về bào, khoan, đục; phương tiện được sử dụng là cái cưa,
cái đục, cái bào, cái khoan; kết quả lao động là tạo ra cái bàn, cái ghế.
+ Đặc trưng của lao động cụ thể:
- Mỗi lao động cụ thể tạo ra một loại giá trị sử dụng nhất định. Lao động cụ thể càng nhiều loại thì càng
tạo ra nhiều loại giá trị sử dụng khác nhau.
- Các lao động cụ thể hợp thành hệ thống phân công lao động xã hội. Cùng với sự phát triển của khoa
học- kỹ thuật, các hình thức lao động cụ thể ngày càng đa dạng, phong phú, nó phản ánh trình độ phát
triển của phân công lao động xã hội.
- Lao động cụ thể tạo ra giá trị sử dụng của hàng hóa. Giá trị sử dụng là phạm trù vĩnh viễn, vì vậy lao
động cụ thể cũng là phạm trù vĩnh viễn tồn tại gắn liền vối vật phẩm, nó là một điều kiện không th
thiếu trong bất kỳ hình thái kinh tế - xã hội nào.
- Các hình thức phong phú và đa dạng của lao động cụ thể phụ thuộc vào trình độ phát triển và sự áp
dụngkhoa học - công nghệ vào sản xuất, đồng thời cũng là tấm gương phản chiếu trình độ phát triển
kinh tế và khoa học - công nghệ ở mỗi thời đại.
Lao động cụ thể không phải là nguồn gốc duy nhất của giá trị sử dụng do nó sản giờ cũng do hai nhân tố
hợp thành: vật chất và lao động. Lao động cụ thể của con người chỉ thay đổi hình thức tồn tại của các vật
chất, làm cho nó thích hợp với nhu cầu của con người.
Lao động trừu tượng là lao động xã hội của người sản xuất hànghoá không kể đến hình thức cụ thể của
nó. Đó là sự hao phí sứclao động của người sản xuất hàng hoá nói chung về cơ bắp, thần kinh, trí óc.
Ví dụ: lao động của người thợ mộc và lao động của người thợ may, nếu xét về mặt lao động cụ thể thì
hoàn toàn khác nhau, nhưng nếu gạt bỏ tất cả những sự khác nhau ấy sang một bên thì chúng chỉ còn có
một cái chung, đều phải hao phí sức óc, sức bắp thịt và sức thần kinh của con người.
+ Đặc trưng của lao động trừu tượng:
- Lao động trừu tượng tạo ra giá trị hàng hóa, làm cơ sở cho sự ngang bằng trao đổi.
- Giá trị của hàng hóa là một phạm trù lịch sử, do đó lao động trừu tượng tạo ra giá trị hàng hóa cũng là
một phạm trù lịch sử, chỉ tồn tại trong nền sản xuất hàng hóa.
2/ Nhờ phát hiện ra tính chất 2 mặt của lao động sản xuất hang hóa đã giúp C.mác thành công trong việc
xây dựng lí luận giá trị:
- Xác định dc chất của giá trị là do lao động trừu tượng kết tình, biểu hiện quan hệ xã hội và là một phạm
trù lịch sử
- Xác định dc lượng của gtri là lượng lao động trung bình hay tgian lao động xh cần thiết
- Xác định dc hình thái biểu hiện của giá trị: hình thái phát triển từ thấp tới cao, là hình thái đơn giản đến
hình thái mở rộng, hình thái chung và cuối cùng là hình thái tiền
- Xác định dc quy luật gtri: đây là quy luật cơ bản của sản xuất hàng hóa. Quy luật này đòi hỏi ng sx và
trao đổi hang hóa phải đảm bảo tgian lao động xh cần thiết Câu 5: Phân tích nguồn gốc, bản chất và
chức năng của tiền tệ?
1/ Nguồn gốc:
- Đầu tiên là hình thái giản đơn, ngẫu nhiên của giá trị. Hình thái này xuất hiện khi xã hội nguyên thủy
tanrã và chỉ thường gặp ở những mầm mống đầu tiên của trao đổi. Ở đây, giá trị của hàng hóa này chỉ
biểu hiện đơn nhất ở một hàng hóa khác và quan hệ trao đổi mang tính chất ngẫu nhiên, trực tiếp hàng
lấy hàng, tỷ lệ trao đổi được hình thành ngẫu nhiên => hình thái phôi thai của tiền tệ.
- Khi quan hệ trao đổi trở thành quá trình đều đặn, thường xuyên, thúc đẩy sản xuất hàng hóa ra đời và
phát triển thì hình thái thứ hai là hình thái đầy đủ hay mở rộng của hàng hóa ra đời. Hình thái này xuất
hiện trong thực tế khi một hàng hóa nào đó được trao đổi với nhiều hàng hóa khác một cách thông
thường phổ biến. Ở đây, giá trị của hàng hóa được biểu hiện ở nhiều hàng hóa khác nhau đóng vai trò
làm vật ngang giá. Đồng thời tỷ lệ trao đổi không còn mang tính chất ngẫu nhiên nữa mà dần dần do lao
động quy định. Tuy nhiên, ở hình thái này, giá trị của hàng hóa được biểu hiện còn chưa hoàn tất, thống
nhất và vẫn trao đổi trực tiếp hàng – hàng.
- Do đó, khi sản xuất và trao đổi hàng hóa phát triển hơn, đòi hỏi phải có vật ngang giá chung, hình thái
thứ ba xuất hiện: Hình thái chung của giá trị. Ở hình thái này, giá trị của mọi hàng hóa được biểu hiện ở
một hàng hóa đóng vai trò làm vật ngang giá chung – “vật ngang giá phổ biến”. Các hàng hóa đều đổi
thành vật ngang giá chung, sau đó mới mang đổi lấy hàng hóa cần dùng. Vật ngang giá chung trở thành
môi giới. Tuy nhiên, ở hình thái này, bất kỳ hàng hóa nào cũng có thể trở thành vật ngang giá chung,
miễn là nó được tách ra làm vật ngang giá chung.
- Khi sản xuất và trao đổi hàng hóa phát triển hơn nữa, đặc biệt là khi mở rộng giữa các vùng đòi hỏi phải
có một vật ngang giá chung thống nhất thì hình thái thứ tư ra đời: hình thái tiền. Giá trị của tất cả các
hàng hóa ở đây đều được biểu hiện ở một hàng hóa đóng vai trò tiền tệ. Lúc đầu có nhiều hàng hóa đóng
vai trò tiền tệ nhưng dần dần được chuyển sang các kim loại quý như đồng, bạc và cuối cùng là vàng.
2/ Bản chất: Tiền là một loại hàng hóa đặc biệt được tách ra làm vật ngang giá chung cho tất cả các loại
hàng hóa. Nó là sự thể hiện chung của giá trị, đồng thời nó biểu hiện quan hệ sản xuất giữa những người
sản xuất hàng hóa.
3/ Chức năng tiền tệ:
Tiền là thước đo giá trị, là phương tiện lưu thông, phương tiện cất trữ, phương tiện thanh toán và tiền tệ
thế giới:
- Thước đo giá trị: dùng để đo lường và biểu hiện giá trị của các hàng hóa khác. Khi đó, giá trị của hàng
hóa được biểu hiện bằng một lượng tiền nhất định gọi là giá cả hàng hóa. Giá cả hàng hóa là hình thức
biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hóa. Giá cả hàng hóa có thể lên xuống xung quanh giá trị nhưng
tổng số giá cả luôn bằng giá trị.
- Phương tiện lưu thông: Tiền làm môi giới trong trao đổi hàng hóa, tức là tiền đóng vai trò là một
phương tiện lưu thông. Khi ấy, trao đổi hàng hóa vận động theo công thức H T – H’. Đây là công thức
lưu thông hàng hóa giản đơn. Với chức năng này, tiền xuất hiện dưới các hình thức vàng thỏi, bạc nén,
tiền đúc và cuối cùng là tiền giấy. Tiền giấy là ký hiệu giá trị do nhà nước phát hành buộc XH công
nhận. Tiền giấy không có giá trị thực (không kể đến giá trị của vật liệu giấy dùng làm tiền). Khi thực
hiện chức năng này, tiền giúp quá trình mua bán diễn ra dễ dàng hơn nhưng nó cũng làm việc mua bán
tách rời nhau cả về không gian lẫn thời gian nên nó bao hàm khả năng khủng hoảng.
- Phương tiện cất trữ Tiền đôi khi được rút khỏi lưu thông và cất giữ lại. Chỉ có tiền vàng, tiền bạc, các
của cải bằng vàng có giá trị thực mới thực hiện được chức năng lưu trữ. Ngoài ra, tiền làm phương tiện
cất trữ còn có tác dụng đặc biệt là dự trữ tiền cho lưu thông.
- Phương tiện thanh toán có tác dụng đáp ứng kịp thời nhu cầu của người sản xuất hoặc tiêu dùng ngay cả
khi họ chưa có tiền hoặc không đủ tiền. Nhưng nó cũng làm cho khả năng khủng hoảng tăng lên. Trong
quá trình thực hiện chức năng thanh toán, loại tiền mới – tiền tín dụng – xuất hiện, có nghĩa là hình thức
tiền đã phát triển hơn.
- Tiền tệ thế giới. Chức năng này xuất hiện khi buôn bán vượt ra ngoài biên giới quốc gia, hình thành
quan hệ buôn bán giữa các nước.
Khi thực hiện chức năng này, tiền thực hiện các chức năng: thước đo giá trị, phương tiện lưu thông,
phương tiện thanh toán, tín dụng, di chuyển của cải từ nước này sang nước khác. Thực hiện chức năng
này phải là tiền vàng hoặc tiền tín dụng được công nhận là phương tiện thanh toán quốc tế. Việc trao đổi
tiền của nước này sang tiền của nước khác tuân theo tỷ giá hối đoái, tức là giá cả của một đồng tiền nước
này được tính bằng đồng tiền của nước khác.
Tóm lại, cùng với sự phát triển của sản xuất và trao đổi hàng hóa, tiền có 5 chức năng. Những chức năng
này có quan hệ mật thiết và thông thường tiền làm nhiều chức năng một lúc.
Câu 6: Phân tích nội dung (yêu cầu), tác dụng của quy luật giá trị trong nền sản xuất hàng hoá giản
đơn.? Ý nghĩa của vấn đề này đối với nền kinh tế Việt Nam hiện nay?
1/ - Quy luật giá trị là quy luật kinh tế căn bản của sản xuất và lưu thông hàng hoá.Quy luật giá trị đòi hỏi
việc sản xuất và lưu thông hàng hoá phải dựa trên cơ sở hao phí lao động xã hội cần thiết,cụ thể là: +
Trong sản xuất thì hao phí lao động cá biệt phải phù hợpvới hao phí lao động xã hội cần thiết.Vì trong
nền sản xuất hàng hóa ,vấn đề đặc biệt quan trọng là hàng hóa sản xuất ra có bán được hay không.Để có
thể bán được thì hao phí lao động để sản xuất ra hàng hóa cuả các chủ thể kinh doanh phải phù hợp với
mức hao phí lao động xã hội có thể chấp nhận được .Mức hao phí càng thấp thì họ càng có khả năng phát
triển kinh doanh,thu được nhiều lợi nhuận,ngược lại sẽ bị thua lỗ,phá sản…
+ Trong trao đổi hàng hoá cũng phải dựa vào hao phí lao động xã hội cần thiết,tức là tuân theo nguyên tắc
trao đổi ngang giá,hai hàng hoá có giá trị sử dụng khác nhau,nhưng có lương giá trị bằng nhau thì phải
trao đổi ngang nhau.
Đòi hỏi trên của quy luật là khách quan ,đảm bảo sự công bằng ,hợp lí,bình đẳng giữa những người sản
xuất hàng hoá.
Quy luật giá trị bắt buộc những người sản xuất và trao đổi hàng hoá phải tuân theo yêu cầu hay đòi hỏi
cuả nó thông qua “ mệng lệnh” của giá cả thị trường. 2/ a) Điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hoá
Điều tiết sản xuất tức là điều hoà, phân bổ các yếu tố sản xuất giữa các ngành, các lĩnh vực của nền kinh
tế. Tác dụng này của quy luật giá trị thông qua sự biến động của giá cả hàng hoá trên thị trường dưới tác
động của quy luật cung cầu. Nếu ở ngành nào đó khi cung nhỏ hơn cầu, giá cả hàng hoá sẽ lên cao hơn
giá trị, hàng hoá bán chạy, lãi cao, thì người sản xuất sẽ đổ xô vào ngành ấy. Do đó, tư liệu sản xuất và
sức lao động được chuyển dịch vào ngành ấy tăng lên. Ngược lại, khicung ở ngành đó vượt quá cầu, giá
cả hàng hoá giảm xuống, hàng hoá bán không chạy và có thể lỗ vốn. Tình hình ấy buộc người sản xuất
phải thu hẹp quy mô sản xuất lại hoặc chuyển sang đầu tư vào ngành có giá cả hàng hoá cao.Điều tiết lưu
thông của quy luật giá trị cũng thông qua giá cả trên thị trường. Sự biến động của giá cả thị trường cũng
có tác dụng thu hút luồng hàng từ nơi giá cả thấp đến nơi giá cả cao, do đó làm cho lưu thông hàng hoá
thông suốt.Như vậy, sự biến động của giá cả trên thị trường không những chỉ rõ sự biến động về kinh tế,
mà còn có tác động điều tiết nền kinh tế hàng hoá.
b) Kích thích cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất, tăng năng suất lao động, lực lượng sản xuất xã
hội phát triển nhanh: Trong nền kinh tế hàng hoá, mỗi người sản xuất hàng hoá là một chủ thể kinh tế độc
lập, tự quyết định hoạt động sản xuất, kinh doanh của mình. Nhưng do điều kiện sản xuất khác nhau nên
hao phí lao động cá biệt khác nhau, người sản xuất nào có hao phí lao động cá biệt nhỏ hơn hao phí lao
động xã hội của hàng hoá ở thế có lợi, sẽ thu được lãi cao. Người sản xuất nào có hao phí lao động cá biệt
lớn hơn hao phí lao động xã hội cần thiết sẽ ở thế bất lợi, lỗ vốn. Để giành lợi thế trong cạnh tranh và
tránh nguy cơ vỡ nợ, phá sản, họ phải hạ thấp hao phí lao động cá biệt của mình, sao chobằng hao phí lao
động xã hội cần thiết. Muốn vậy, họ phải luôn tìm cách cải tiến kỹ thuật, cải tiến tổ chức quản lý, thực
hiện tiết kiệm chặt chẽ, tăng năng suất lao động. Sự cạnh tranh quyết liệt càng thúc đẩy quá trình này diễn
ra mạnh mẽ hơn, mang tính xã hội. Kết quả là lực lượng sản xuất xã hội được thúc đẩy phát triển mạnh
mẽ.
c) Thực hiện sự lựa chọn tự nhiên và phân hoá người sản xuất hàng hoá thành kẻ giàu người nghèo:
Quá trình cạnh tranh theo đuổi giá trị tất yếu dẫn đến kếtquả là: những người có điều kiện sản xuất thuận
lợi, có trình độ, kiến thức cao, trang bị kỹ thuật tốt nên có hao phí lao động cá biệt thấp hơn hao phí lao
động xã hội cần thiết, nhờ đó phát tài, giàu lên nhanh chóng. Họ mua sắm thêm tư liệu sản xuất, mở rộng
sản xuất, kinh doanh. Ngược lại, những người không có điều kiện thuận lợi, làm ăn kém cỏi, hoặc gặp rủi
ro trong kinh doanh nên bị thua lỗ dẫn tới phá sản trở thành nghèo khó.Tác dụng của quy luật giá trị có ý
nghĩa: một mặt, quy luật giá trị chi phối sự lựa chọn tự nhiên, đào thải các yếu kém, kích thích các nhân
tố tích cực phát triển; mặt khác, phân hoá xã hội thành kẻ giàu người nghèo, tạo ra sự bất bình đẳng trong
xã hội
3/
Câu 7: Thế nào là thị trường? Mối quan hệ giữa phân công lao động XH với thị trường. Phân tích
các chức năng của thị trường.
1/ Theo nghĩa hẹp thì thị trường là nơi diễn ra trao đổi, mua bán hàng hoá.
Theo nghĩa rộng thì thị trường là tổng thể các mối quan hệ cạnh tranh, cung cầu, giá cả, giá trị… mà
trong đó giá cả và sản lượng hàng hoá tiêu thụ được xác định.
Thị trường có thể phân loại theo nhiều cách khác nhau: theo đối tượng giao dịch, theo tính chất và cơ chế
vận hành thị trường, theo quy mô, phạm vi….
2/ Phân công lao động XH góp phần tạo ra thị trường. Do có sự phân công lao động XH, mỗi cá thể chỉ
sản xuất một hoặc một vài sản phẩm trong khi họ có như cầu sử dụng nhiều loại sản phẩm. Chính vì vậy,
sinh ra việc trao đổi buôn bán và dẫn đến hình thành thị trường.
Mặt khác, thị trường cũng làm cho phân công lao động XH ngày càng sâu sắc hơn.
Thị trường thúc đẩy sản xuất một số mặt hàng và hạn chế sản xuất một số mặt hàng khác tùy theo không
gian và thời gian. Do đó, phân công lao động XH ở từng ngành, từng khu vực trở nên sâu sắc hơn.
3/ Dù thị trường có nhiều loại khác nhau nhưng nhìn chung thị trường thực hiện ba chức năng chủ yếu
sau:
Chức năng thừa nhận công dụng XH của hàng hoá (giá trị sử dụng XH) và lao động đã chi phí để sản xuất
ra nó. Nếu hàng hoá bán được và bán với giá cả bằng giá trị thì XH đã thừa nhận công dụng của nó cũng
như thừa nhận mức hao phí lao động để sản xuất ra nó phù hợp với mức hao phí lao động XH cần thiết,
giá trị hàng hoá được thực hiện. Nếu hàng hoá không bán được thì hoặc là công dụng của hàng hoá không
được thừa nhận, hoặc là do chi phí sản xuất cao hơn mức trung bình của XH nên XH không chấp nhận.
Nếu hàng hoá bán được với giá cả thấp hơn giá trị thì có nghĩa là XH chỉ thừa nhận công dụng của nó và
một phần chi phí sản xuất ra nó.
Thứ hai là chức năng cung cấp thông tin cho người sản xuất và tiêu dùng về cơ cấu hàng hoá, giá cả, chất
lượng…
Cuối cùng là chức năng kích thích hoặc hạn chế sản xuất và tiêu dùng. Từ những thông tin thu được trên
thị trường, người sản xuất hay tiêu dùng sẽ có những điều chỉnh kịp thời để phù hợp với biến đổi của thị
trường. Nhờ đó mà sản xuất và tiêu dùng được hạn chế hoặc kích thích. Ví dụ như giá cả một hàng hoá
nào đó tăng, người sản xuất sẽ mở rộng quy mô sản xuất còn người tiêu dùng sẽ hạn chế nhu cầu…
Câu 8: Cạnh tranh là gì? Tại sao cạnh tranh là quy luật kinh tế của sản xuất hàng hoá? Những tác
động tích cực và tiêu cực của cạnh tranh?
1/ Cạnh tranh là sự ganh đua về kinh tế giữa những chủ thể trong nền sản xuất hàng hoá nhằm giành giật
những điều kiện thuận lợi trong sản xuất, tiêu thụ hoặc tiêu dùng hàng hoá để từ đó thu được nhiều lợi ích
nhất cho mình.Cạnh tranh có thể xảy ra giữa người sản xuất với người tiêu dùng (Người sản xuất muốn
bán đắt, người tiêu dùng muốn mua rẻ); giữa người tiêu dùng với nhau để mua được hàng rẻ hơn, tốt hơn;
giữa những người sản xuất để có những điều kiện tốt hơn trong sản xuất và tiêu thụ. Có nhiều biện pháp
cạn tranh: cạnh tranh giá cả (giảm giá...) hoặc phi giá cả (quảng cáo...).
2/ Dễ thấy, cạnh tranh là một quy luật kinh tế của sản xuất hàng hoá bởi thực chất nó xuất phát từ quy
luật giá trị của sản xuất hàng hoá. Trong sản xuất hàng hoá, sự tách biệt tương đối giữa những người sản
xuất, sự phân công lao động XH tất yếu dẫn đến sự cạnh tranh để giành được những điều kiện thuận lợi
hơn như gần nguồn nguyên liệu, nhân công rẻ, gần thị trường tiêu thụ, giao thông vận tải tốt, khoa học kỹ
thuật phát triển... nhằm giảm mức hao phí lao động cá biệt thấp hơn mức hao phí lao động XH cần thiết
để thu được nhiều lãi. Khi còn sản xuất hàng hoá, còn phân công lao động thì còn có cạnh trạnh.
3/ Cạnh tranh có vai trò rất quan trọng và là một trong những động lực mạnh mẽ nhất thúc đẩy sản xuất
phát triển. Nó buộc người sản xuất phải năng động, nhạy bén, tích cực nâng cao tay nghề, cải tiến kỹ
thuật, áp dụng khoa học kỹ thuật, hoàn thiện tổ chức quản lý để nâng cao năng suất lao động, hiệu quả
kinh tế. Đó chính là cạnh tranh lành mạnh. Ở đâu thiếu cạnh tranh hoặc có biểu hiện độc quyền thì thường
trì trệ, kém phát triển. Bên cạnh mặt tích cực, cạnh tranh cũng có những tác dụng tiêu cực thể hiện ở cạnh
tranh không lành mạnh như những hành động vi phạm đạo đức hay vi phạm pháp luật (buôn lậu, trốn
thuế, tung tin phá hoại...) hoặc những hành vi cạnh tranh làm phân hoá giàu nghèo, tổn hại môi trường
sinh thái.
Câu 9: Cung, cầu là gì? Quan hệ cung - cầu? Tại sao cung - cầu là quy luật kinh tế của sản xuất
hàng hoá?
1/ Cung và cầu là những yếu tố quyết định của bất kỳ giao dịch nào, phản ánh bản chất của thị trường và
thể hiện qua giá.
Cung là một khối lượng hàng hóa, dịch vụ nhất định mà người bán có thể đáp ứng cho thị trường. Nó
tương ứng với những mức giá khác nhau, khả năng sản xuất, chi phí sản xuất trong một thời gian nhất
định.
Cung sẽ phục thuộc vào nhiều yếu tố bên ngoài như thuế, giá cả nguyên vật liệu, công nghệ, số lượng và
khả năng thực hiện của nhà sản xuất. Cung bao gồm cung của thị trường và cung cá nhân. Cung th
trường sẽ bằng tổng của cung cá nhân.
Cầu là một khối lượng hàng hóa, dịch vụ nhất định mà người tiêu dùng muốn mua và sẵn lòng mua. Số
lượng hàng hóa, dịch vụ này tương ứng với nhiều mức giá khác nhau, nằm trong một khoảng thời gian
xác định. Cầu phụ thuộc vào những yếu tố như khả năng chi trả, mức độ kỳ vọng vào sản phẩm và giá cả
của hàng hóa, dịch vụ.
Mối quan hệ giữa “cung”, “cầu” và “giá cả thị trường” là một mối quan hệ mật thiết, gắn bó và tác động
qua lại với nhau. Khi cầu tăng, sản xuất được mở rộng dẫn đến cung tăng. Khi cầu giảm, sản xuất thu hẹp
dẫn đến cung giảm.
Khi cung và cầu cân bằng thì giá cả bằng với giá trị của hàng hóa. Khi cung lớn hơn cầu, giá cả sẽ nhỏ
hơn giá trị của hàng hóa. Khi cung nhỏ hơn cầu, giá của của hàng hóa sẽ lớn hơn giá trị của nó. Khi giá cả
tăng, cung sẽ tăng, cầu giảm, khi giá cả giảm, cung giảm cầu sẽ tăng.
Việc tăng hay giảm giá của một mặt hàng bất kỳ là sự tách rời giá cả và giá trị của mặt hàng đó. Từ đó sẽ
kích thích hoặc hạn chế nhu cầu, khả năng thanh toán cho hàng hóa của người tiêu dùng. Lúc này sự
chuyển dịch nhu cầu về hàng hóa sẽ xuất hiện, gây nên sự biến đổi trong mối quan hệ cung cầu. Vậy nên
những yếu tố này luôn gắn bó vô cùng chặt chẽ và mật thiết với nhau.
Câu 10: Phân tích quy luật lưu thông tiền tệ? Mối quan hệ giữa quy luật với vấn đề lạm phát?
Quy luật lưu thông tiền tệ là quy luật quy định số lượng tiền cần cho lưu thông hàng hóa ở mỗi thời kỳ
nhất định. C.Mác cho rằng, số lượng tiền tệ cần cho lưu thông do ba nhân tố quy định: số lượng hàng hóa
lưu thông trên thị trường, giá cả trung bình của hàng hóa và tốc độ lưu thông của những đơn vị tiền tệ
cùng loại. Sự tác động của ba nhân tố này đối với khối lượng tiền tệ cần cho lưu thông diễn ra theo quy
luật phổ biến là: Tổng số giá cả của hàng hóa chia cho ô vòng lưu thông của các đồng tiền cùng loại trong
một thời gian nhất địnhKhi tiền mới chỉ thực hiện chức năng là phương tiện lưu thông, thì số lượng tiền
cần thiết cho lưu thông được tính theo công thức
M= P.Q/V
M là phương tiện cần thiết cho lưu thông
P là mức giá cả
Q là khối lg hàng hóa đem ra lưu thông
V là số vòng luân chuyển trung bình của 1 đơn vị hàng hóa
KN: Lạm phát là sự tăng mức chung một cách liên tục của hàng hóa, dịch vụ theo theo thời gian và sự
mất giá trị của một loại tiền tệ nào đóCó 3 mức độ lạm phát: lạm phát vừa phải ( chỉ số giá cả tăng dưới
10%), lạm phát phi mã (lạm phát 2 con số 1 năm), siêu lạm phát ( lạm phát 3(4) con số 1 năm)..
Tác động: Khi lạm phát xảy ra sẽ dẫn tới sự phân phối lại 10 nguồn thu nhập giữa các tầng lớp dân cư:
người nắm giữ hàng hóa, người đi vay được lời; người có thu nhập và nắm giữ tài sản bằngtiền, người
cho vay bị thiệt (do sức mua của đồng tiền giảm sút); khuyến khích đầu cơ hàng hóa, cản trở sản xuất
kinh doanh, các hoạt động kinh tế bị méo mó biếndạng, tâm lýngười dân hoang mang... Lạm phát là hiện
tượng gây nhiều tác động tiêu cực tới kinh tế và xã hội, bởi vậychống lạm phát được xem là một trong
những mục tiêu hàng đầu của các nước trên thế giới.
Nguyên nhân:
a) Lạm phát do chi phí đẩyChi phí đẩy của các doanh nghiệp bao gồm tiền lương, nguyên nhiên vật
liệu, máy móc, thuế…Khi giá cả của một hoặc vài yếu tố này tăng lên, chi phí sản xuất sẽ tăng, kéo theo
giá cả hàng hóa tăng lên để doanh nghiệp đảm bảo doanh thu và lợi nhuận. Cuối cùng, mức mức giá
chung toàn nền kinh tế có thể tăng theo.
b) Lạm phát do cầu thay đổiKhi thị trường giảm nhu cầu tiêu thụ vầ một loại hàng hóa nào đó, trong
khi lượng cầu về một mặt hàng hóa khác lại tăng lên. Nếu thị trường có người cung cấp độc quyền và giá
cả có tính chất cứng nhắc ( chỉ có thể tăng mà không thể giảm ), thì mặt hàng mà lượng cầu giảm vẫn
không giảm giá. Trong khi đó mặt hàng có lượngcầu tăng thị lại tăng giá. Kết quả là mức giá chung tăng
lên, dẫn đến lạm phát.
c) Lạm phát do xuất khẩu Khi xuất khẩu tăng, dẫn tới tổng cầu thị trường trong nước tăng cao hơn
tổng cung,khi đó sản phẩm được thu gom cho xuất khẩu khiến lượng hàng cung cho thị trường trong
nước giảm khiến tổng cung trong nước thấp hơn tổng cầu. Khi tổng cung và tổng cầu mất cân bằng sẽ nảy
sinh lạm phát.
d) Lạm phát do nhập khẩuKhi giá hàng hóa nhập khẩu tăng ( do thuế nhập khẩu tăng, giá cả trên thế
giới tăng,…) thì giá bán sản phẩm đó trong nước sẽ phải tăng lên. Khi mức giá chung bịgiá nhập khẩu đội
lên sẽ hình thành lạm phát
e) Lạm phát tiền tệKhi cung lượng tiền lưu hành trong nước tăng, chẳng hạn do ngân hàng trung
ươngmua ngoại tệ vào để giữ cho đồng tiền trong nước khỏi mất giá so với ngoại tệ; haydo ngân hàng
trung ương mua công trái theo yêu cẩu của nhà nước làm cho lượng tiền trong lưu thông tăng lên cũng là
nguyên nhân gây ra lạm phát
Biện pháp: Đối với mỗi quốc gia việc kiểm soát lạm phát để bảo vệ nền kinh tế luôn được đặtlên hàng
đầu. Có rất nhiều cách để kiềm chế lạm phát được áp dụng bao gồm:
- Giảm bớt lượng tiền trong lưu thông
- Ngừng phát hành tiền vào trong lưu thông nhằm giảm lượng tiền đưa vàolưu thông trong xã hội
- Tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc: Đây là biện pháp nhằm giảm lượng cung tiền vàothị trường. Biện pháp này
tác động đến tất cả các ngân hàng và bình đẳnggiữa các ngân hàng với nhau.
- Nâng lãi suất tái chiết khấu và lãi suất tiền gửi. Biện pháp này sẽ làm hạnchế các ngân hàng thương mại
mang các giấy tờ có giá đến ngân hàng nhànước để chiết khấu. Ngoài ra việc nâng lãi suất tiền gửi sẽ
hút khiến ngườidân gửi tiền vào ngân hàng nhiều hơn.
- Ngân hàng trung ương áp dụng nghiệp vụ thị trường mở nhằm bán cácchứng từ có giá trị cho ngân
hàngthương mại
- Ngân hàng trung ương bán vàng và ngoại tệ cho các ngân hàng thương mại. Giảm chi ngân sách: Đó là
giảm chi tiêu thường xuyên và cắt giảm đầu tưcông
- Tăng tiền thuế tiêu dùng nhằm giảm bớt nhu cầu chi tiêu cá nhân trong xãhội, tăng hàng hóa dịch vụ
cung cấp trong xã hội.
- Tăng quỹ hàng hóa tiêu dùng nhằm cân bằng với tiền trong lưu thông.
CHƯƠNG 3: GIÁ TRỊ THẶNG DƯ TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
CÂU 1: Vì sao K.Marx gọi TH T’ là công thức chung của tư bản?. Phân tích mâu thuẫn công
thức chung. Vì sao nghiên cứu hàng hóa sức lao động là chìa khóa để giải quyết mâu thuẫn công
thức chung của tư bản.
1/ - Các nhà tư bản luôn vận hành theo nguyên tắc này: Khi gạt bỏ những ngành nghề, lĩnh vực cụ thể.
Các nhà tư bản có điểm chung là bỏ ra số tiền ban đầu (T), mục đích là thu về số tiền lớn hơn (T’).
- Mọi tư bản đều biểu hiện trong lưu thông dưới dạng khái quát đó, dù là tư bản thương nghiệp, tư bản
công nghiệp hay tư bản cho vay.
- Mục đích trong lưu thông hàng hóa giản đơn là giá trị sử dụng. Mục đích trong lưu thông tư bản là giá
trị lớn hơn vì nếu không thu được lượng giá trị lớn hơn thì sự lưu thông này không có ý nghĩa.
- Các nhà tư bản đều vận động theo công thức: T H T’.
2/ - Ở chương II, các nhà tư sản cổ điển và K.Marx chứng minh rằng: “Giá trị hàng hoá được tại ra ở sản
xuất (do lao động xã hội của người sản xuất hàng hoá kết tinh trong hàng hoá)”. Nhưng những người
Trọng thương cho rằng: “Giá trị hàng hoá được tạo ra trong lĩnh vực lưu thông”. Đây là mâu thuẫn công
thức chung của tư bản.
- Giá trị của hàng hóa do lao động của những người sản xuất hàng hóa tạo ra trong sản xuất. Nhưng nhìn
vào công thức TH – T’ người ta dễ lầm tưởng rằng tiền tệ cũng tạo giá trị khi vận động trong lưu
thông. Thực chất thì bản thân tiền, dù ở ngoài hay ở trong lưu thông, cũng không tự lớn lên được. Tiền
không thể sinh ra tiền là điều hiển nhiên.
- Lưu thông thuần tuý diễn ra ở bất kì hình thức nào: Việc mua, bán hàng hóa thấp hơn hoặc bằng giá trị
sẽ không có giá trị tăng thêm, không tạo ra giá trị thặng dư, nếu người mua hàng hóa để bán hàng hóa đó
cao hơn giá trị thì chỉ được lợi xét về người bán, nhưng xét về người mua thì lại bị thiệt. Trong nền kinh
tế thị trường, mỗi người đều đóng vai trò là người bán và đồng thời cũng là người mua: Nếu mua rẻ thứ
này thì sẽ phải mua mắc thứ khác, bán đắt thứ này thì phải bán rẻ thứ kia. Vì tổng khối lượng hàng và
tiền trong toàn xã hội ở một thời gian nhất định là một số lượng không đổi. Do đó, nếu được lợi khi bán
thì lại bị thiệt khi mua. Lưu thông (mua bán thông thường) không tạo ra giá trị tăng thêm xét trên phạm
vi xã hội.
- Không có lưu thông cũng không tạo ra giá trị thặng dư nhưng lưu thông không sáng tạo cũng không tạo
ra giá trị nào cả.
- “Tư bản không thể xuất hiện từ lưu thông và cũng không thể xuất hiện ở bên ngoài lưu thông. Nó phải
xuất hiện trong lưu thông và đồng thời không phải trong lưu thông” 3/ - Công thức TH – T’ ẩn chứa
cả sản xuất và lưu thông.
- Giá trị thặng dư của Chủ nghĩa Tư bản phần lớn được tạo ra từ giá trị hàng hoá sức lao động, có được
giá trị thặng dư thì sẽ giải quyết được tất cả các mâu thuẫn giữa các nhà tư bản, giá trị thặng dư càng lớn
thì mâu thuẫn trong nội bộ Chủ nghĩa Tư bản được giảm xuống nhanh chóng vì mục đích cuối cùng và
lớn nhất của Chủ nghĩa Tư bản là giá trị thặng dư
- K.Marx viết: “Sức Lao động hay năng lực lao động là toàn bộ những năng lực thể chất và tinh thần tồn
tại trong cơ thể, trong một con người đang sống, và được người đó đem ra vận dụng mỗi khi sản xuất ra
một giá trị sử dụng nào đó”. Không phải sức lao động nào cũng trở thành hàng hoá. Để lao động trở
thành hàng hoá cần có 2 điều kiện: Người lao động phải được tự do và họ buộc phải bán sức lao động để
kiếm sống. Sức lao động biến thành hàng hoá là điều kiện quyết định để tiền biến thành tư bản. Nhưng
trước Chủ nghĩa Tư bản thì hàng hoá sức lao động chưa xuất hiện. Chỉ dưới Chủ nghĩa Tư bản, hàng hoá
sức lao động mới xuất hiện và trở nên phổ biến. Theo K.Marx, sức lao động là hàng hoá đặc biệt vì: Nó
tồn tại trong cơ thể sống của con người; hàng hoá được bán trong một khoảng thời gian nhất định; người
bán vẫn không từ bỏ quyền sở hữu khi bán sức lao động của mình; hàng hoá có giá trị tinh thần và lịch
sử.
- Giá trị hàng hoá sức lao động cũng do số lượng lao động xã hội cần thiết để sản xuất và tái sản xuất ra
sức lao động quyết định. Muốn sản xuất và tái sản xuất ra sức lao động, người lao động phải tiêu dùng
một lượng tư liệu sinh hoạt nhất định. Do vậy, giá trị hàng hoá sức lao động được đo lường gián tiếp
thông qua lượng giá trị của các tư liệu sinh hoạt để tái sản xuất ra sức lao động. Giá trị hàng hoá sức lao
động được hợp thành bởi các bộ phận: Giá trị tư liệu sinh hoạt cần thiết để tái sản xuất ra sức lao động
(Cả vật chất lẫn tinh thần); Phí tổn đào tạo người lao động; Giá trị những tư liệu sinh hoạt cần thiết để
nuôi con của người lao động (Cả vật chất lẫn tinh thần).
CÂU 2:Tư bản là gì? Thế nào là nhà tư bản?. Theo Karl Marx, nhà tư bản khác với tiểu tư sản ở
điểm nào?
1/ Tư bản là giá trị mang lại giá trị thặng dư.Giá trị luôn chuyển từ hình thái này sang hình thái khác (hình
thái tiền và hình thái hàng hóa, nếu không mang hình thái hàng hóa, tiền không trở thành tư bản được)
2/ Có 2 điều kiện hợp thành nhà tư bản:
(1): người chủ tiền công thức T H – T’
(2): không tham gia trực tiếp vào quá trình SX. Nhà TB dành toàn bộ thời gian cho việc tập hợp, chỉ huy
và kiểm soát lao động đang hoạt động
3/ Tiểu tư sản cũng là người chủ tiền công thức T H – T’ nhưng là người tham gia trực tiếp vào quá trình
sản xuất. Quy mô tiểu tư sản nhỏ bé, quy mô nhà tư bản to lớn
CÂU 3: Giá trị thặng dư TBCN là gì? Nguồn gốc giá trị thặng dư theo K. Marx? Biểu hiện của giá
trị thặng dư trong CNTB?
1/ Giá trị thặng dư TBCN là một bộ phận của giá trị mới, dôi ra ngoài giá trị sức lao động do công nhân
làm thuê tạo ra và thuộc về nhà tư bản (Tư bản không hề phát minh ra giá trị thặng dư)
2/ Để tiến hành sản xuất, nhà tư bản phải mua sức lao động và tư liệu sản xuất. Vì tư liệu sản xuất và sức
lao động do nhà tư bản mua, nên trong quá trình sản xuất, người công nhân làm việc dưới sự kiểm soát
của nhà tư bản và sản phẩm làm ra thuộc sở hữu của nhà tư bản. Sản xuất tư bản chủ nghĩa là quá trình
tạo ra giá trị tăng thêm cho nhà tư bản khi năng suất lao động đạt tới trình độ nhất định – chỉ cẩn một
phần của ngày lao động người công nhân làm thuê đã tạo tra giá trị bằng giá trị sức lao động của chính
mình. Bằng lao động cụ thể của mình, công nhân sử dụng các tư liệu sản xuất và chuyển giá trị của chúng
vào sản phẩm; và bằng lao động trừu tượng, công nhân tạo ra giá trị mới lớn hơn giá trị sức lao động,
phần lớn hơn đó được gọi là giá trị thặng dư.
3/ Các hình thức biểu hiện giá trị thặng dư trong phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa:
- Lợi nhuận thương nghiệp: là một phần giá trị thặng dư được tạo ra trong quá trình sản xuất mà nhà tư
bản công nghiệp nhượng cho tư bản thương nghiệp, để tư bản thương nghiệp bán hàng hoá thay cho
mình.Thực chất, lợi nhuận thương nghiệp chỉ là hình thức biến tướng của giá trị thặng dư nên nguồn gốc
của lợi nhuận thương nghiệp chính là một bộ phận lao động của công nhân không được trả công.
- Lợi tức và tỷ suất:
Lợi tức là một phần của lợi nhuận bình quân mà nhà tư bản đi vay trả cho nhà tư bản cho vay về quyền sở
hữu tư bản để được quyền sử dụng tư bản trong một thời gian nhất định. Ký hiệu là Z.
Tỷ suất lợi tức là tỷ lệ phần trăm giữa tổng số lợi tức và số tư bản tiền tệ cho vay trong một thời gian nhất
định. Ký hiệu Z’.
- Địa tô: Địa tô tư bản chủ nghĩa là một phần dôi ra ngoài lợi nhuận bình quân (lợi nhuận siêu ngạch) của
tư bản kinh doanh trong nông nghiệp do công nhân nông nghiệp tạo ra, là số tiền mà nhà tư bản kinh
doanh trong nông nghiệp phải trả cho địa chủ để được sử dụng ruộng đất trong một thời gian nhất định.
CÂU 4: Tiền công là gì? Tại sao tiền công không phải là giá cả của lao động? Vì sao tiền công xóa
bỏ mọi vết tích phân chia lao động trả công và lao động không công?
1/ Tiền công là biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hóa sức lao động, là giá cả của hàng hóa sức lao động.
2/ Thực tế tiền công không phải giá trị hay giá cả của lao động, vì lao động không phải là hàng hóa, sở dĩ
như vậy là vì:
Nếu lao động là hàng hóa, thì nó phải có trước, phải được vật hóa trong một hìnhthức cụ thể nào đó. Tiền
đề để cho lao động vật hóa được là phải có tư liệu sản xuất.Nhưng nếu người lao động có tư liệu sản xuất,
thì họ sẽ bán hàng hóa do mình sản xuất ra, chứ không bán "lao động". Việc thừa nhận lao động là hàng
hóa dẫn tới mộttrong hai mâu thuẫn về lý luận sau đây:
Thứ nhất, nếu lao động là hàng hóa và nó được trao đổi ngang giá, thì nhà tư bảnkhông thu được lợi
nhuận (giá trị thặng dư); điều này phủ nhận sự tồn tại thực tế củaquy luật giá trị thặng dư trong chủ nghĩa
tư bản.
Thứ hai, còn nếu "hàng hóa lao động" được trao đổi không ngang giá để có giá trịthặng dư cho nhà tư
bản, thì phải phủ nhận quy luật giá trị.
Nếu lao động là hàng hóa, thì hàng hóa đó cũng phải có giá trị. Nhưng lao động làthực thể và là thước đo
nội tại của giá trị, bản thân lao động thì không có giá trị. Vìthế, lao động không phải là hàng hóa, cái mà
công nhân bán cho nhà tư bản chính làsức lao động. Do đó, tiền công mà nhà tư bản trả cho công nhân là
giá cả của sức lao động.
3/ bản chất của tiền công trong chủ nghĩa tư bản là hình thức biểu hiện bằngtiền của giá trị sức lao động,
hay giá cả của sức lao động, nhưng lại biểu hiện ra bềngoải thành giá cả của lao động. Nó được biểu hiện
ra bề ngoài thành giá cả của lao động vì:
+ Công nhân bán cho tư bản quyền sử dụng sức lao động ( không bán quyền sởhữu sức lao động vì thế
công nhân sau khi lao động cho nhà tư bản lại sử dụng sức laođộng đó cho bản thân mình, gia đình) +
Công nhân phải lao động cho nhà tư bản thì mới có tiền công ( Lao động làphương tiện kiếm sống của
công nhân
+ Công nhân chỉ nhận được tiền công sau khi đã lao động cho nhà tư bản ( nếuchưa lao động thì nhà tư
bản chưa trả công cho công nhân) Vì cứ sau một thời gian lao động nhất định, người làm thuê được trả
một khoản tiền công nhất định. Điều đó thậm chí làm người lao động cũng nhầm hiểu là người mua sức
lao động đã trả công cho mình. Nhưng thật ra đó là bộ phận của giá trị mớido chính hao phí sức lao động
của người lao động thuê làm ra
CÂU 5: Tuần hoàn, chu chuyển tư bản là gì? Tốc độ chu chuyển tư bản và Ý nghĩa của việc nghiên
cứu chu chuyển tư bản?
- Tuần hoàn tư bản là sự vận động của tư bản, trải qua ba giai đoạn dưới ba hình thái kế tiếp nhau( tư bản
tiền tệ, tư bản sản xuất, tư bản hàng hóa) gắn với hiện thực chức năng tương ứng(chuẩn bị điều kiện đ
sản xuất giá trị thặng dư, sản xuất giá trị thặng dư, thực hiện giá trị thặng dư) và quay trở về hình thái ban
đầu cùng với giá trị thặng dư
T-H-H’-T’
(H – SLĐ+ TLSX – Sản xuất – H)
- Chu chuyển tư bản là tuần hoàn tư bản được xét là quá trình định kỳ, thường xuyên lặp đi lặp lại và đổi
mới theo thời gian
=> Là thời gian một tư bản từ khi được ứng ra dưới một hình thái nhất định cho đến khi quay trở về hình
thái đó cùng với giá trị thặng dư
Tốc độ chu chuyển tư bản là số lần mà một tư bản được ứng ra dưới một hình thái nhất định quay trở về
hình thái đó cùng với giá trị thặng dư tính trong 1 đơn vị thời gian nhất định(thường là một năm) n =
CH/ch
n là số vòng chu chuyển tư bản
CH là thời gian 1 năm ch là thời
gian 1 vòng chu chuyển
CÂU 6: Tư bản bất biến, tư bản khả biến là gì? Mối quan hệ giữa tư bản bất biến, tư bản khả biến
với tư bản cố định, tư bản lưu động. Ý nghĩa của việc nghiên cứu các cặp tư bản trên.
1/ Tư bản bất biến: Bộ phận tư bản tồn tại dưới hình thái tư liệu sản xuất mà giá trị được lao động cụ thể
của công nhân làm thuê bảo tồn và chuyển nguyên vẹn vào giá trị sản phẩm, tức là giá trị không biến
đổi trong quá trình sản xuất (ký hiệu:c) c không tạo ra m nhưng là điều kiện cần thiết để cho quá trinh
tạo m được diễn ra
Tư bản khả biến: Bộ phận tư bản tồn tại dưới hình thái sức lao động không tái hiện ra, nhưng thông qua
lao động trừu tượng của công nhân mà tăng lên, tứ là biến đổi về số lượng trong quá trình sản xuất, được
Mác gọi là tư bản khả biến(v)
G = c+(v+m)
G là giá trị hàng hóa c là giá trị tư liệu
sản xuất được tiêu dùng
(v+m) là bộ phận mới của hàng hóa, do hao phí lao động tạo ra
2/ Tư bản cố định là bộ phận tư bản sản xuất tồn tại dưới hình thái tư liệu lao động tham gia toàn bộ quá
trình sản xuất nhưng giá trị chỉ chuyển dần dần, từng phần vào giá trị sản phẩm theo mức độ hao mòn
(hao mòn hữu hình + hao mòn vô hình)
- Tư bản lưu động là bộ phận tư bản sản xuất tồn tại dưới hình thái sức lao động, nguyên nhiên vật liệu,
vật liệu phụ, giá trị của được chuyển một lần, toàn phần vào giá trị sản phẩm khi kết thúc từng quá
trình sản xuất.
3/ Nghiên cứu tư bản bất biến và tư bản khả biến có ý nghĩa về việc tìm ra nguồn gốc của giá trị thặng dư.
Nghiên cứu về tư bản cố định và tư bản lưu động có ý nghĩa về việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doan
Câu 7: Phân tích hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư. Tại sao K. Marx nói rằng giá trị
thặngdư siêu ngạch là hình thức biến tướng của giá trị thặng dư tương đối?
1/ Sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối: Giá trị thặng dư tuyệt đối là giá trị thặng dư thu được do kéo dài
ngày lao động vượt quá thời gian lao động tất yếu, trong khi năng suất lao động, giá trị sức lao động và
thời gian lao động tất yếu không thay đổi II.
Sản xuất giá trị thặng dư tương đối: Giá trị thặng dư tương đối là giá trị thặng dư thu được nhờ rút ngắn
thời gian lao động tất yếu, do đó kéo dài thời gian lao động thặng dư trong khi độ dài ngày lao động
không thay đổi hoặc thậm chí rút ngắn
Để hạ thấp giá trị sức lao động thì giảm giá trị các tư liệu sinh hoạt và dịch vụ cần thiết để tái sản xuất sức
lao động=>tăng năng suất lao động trong các ngành sản xuất ra tư liệu sinh hoạt và các ngành sản xuất ra
tư liệu sản liệu sản xuất để chế tạo ra tư liệu sinh hoạt đó
2/ Giá trị thặng dư siêu ngạch: Việc cải tiến kỹ thuật, tăng năng suất lao động sẽ xuất hiện ở 1 vài doanh
nghiệp cá biệt=>doanh nghiệp đó sẽ có giá trị thặng dư vượt trội.
Đây là động lực thúc đẩy các doanh nghiệp cải tiến kỹ thuật Đây là biến tướng của giá trị thặng dư tương
đối, là hiện tượng tạm thời. Nhưng xét toàn bộ xã hôi tư bản thì đây là hiện tượng tồn tại thường xuyên
Câu 8: Tích lũy tư bản là gì? Phân tích những nhân tố làm tăng quy mô tích lũy và hệ quả của nó?
Nguồn gốc, bản chất của tích lũy tư bản
Tái sản xuất: quá trình sản xuất liên tục được lặp đi lặp lại không ngừng
- Tái sản xuất giản đơn: Sự lặp lại quá trình sản xuất với quy mô như c => toàn bộ thặng dư để
tiêu dùng
- Tái sản xuất mở rộng: Sự tăng lên quy mô trong quá trình sản xuất => một phần thặng dư được
chuyển hóa vào sản xuất. Sự chuyển hóa này gọi là tích l y tư bản
=> Bản chất tích lũy tư bản là quá trình tái sản xuất mở rộng thông qua chuyển giá trị thặng dư thành
bản phụ thêm để mua nguyên vật liệu, nhà xưởng, sức lao động, v.v….
Nhân tố ảnh hưởng đến tích lũy tư bản
1) Khối lượng giá trị thặng dư: phụ thuộc vào
- Trình độ khai thác sức lao động Sử dụng các phương pháp tăng giá trị thặng dư tuyệt đối và
tương đối, các biện pháp tăng ca kíp, cắt xén tiền lương…
- Năng suất lao động xã hội Tăng năng suất lao động xã hội làm giảm giá tư liệu sinh hoạt=>giảm
giá trị sức lao động=>tăng giá trị thặng dư
2) Tỷ lệ phân chia giá trị thặng dư sang tích lũy và tiêu dùng
3) Sử dụng hiệu quả máy móc (chênh lệch giữa tư bản cố định sử dụng và tư bản cố định đã tiêu dùng)
Trong thời gian máy móc khấu hao, máy móc vẫn giữ được giá tị sử dụng. Có thể sử dụng quỹ khấu
hao làm nguồn tài chính tư bản ứng trước
4) Quy mô tư bản ứng trước Tư bản ứng trước càng lớn thì càng nhiều giá trị thặng dư
Câu 9: Chi phí sản xuất TBCN khác với chi phí thực tế như thế nào? So sánh lợi nhuận và giá trị
thặng dư?
1/ - Về mặt chất, chi phí sx TBCN phản ánh chi phí của nhà tư bản, nên ko có quan hệ với sự hình thành
gtri của hang hóa còn chí phí thực tế phản ánh đúng, đủ hao phí lao động xã hội cân thiết để sx và tạo rag
tr hang hóa
- Về mặt lượng thì;
Chi phí sx TBCN k = c+v
Chi phí thực tế W=c+v+m
2/ + Về mặt lượng: lợi nhuận và giá trị thặng dư thường không bằng nhau,lợi nhuận có thể cao hơn hoặc
thấp hơn giá trị thặng dư tuỳ thuộc vào giá cả hàng hoá do quan hệ cung - cầu quy định. Nhưng xét trên
phạm vi toàn xã hội, tổng số lợi nhuận luôn ngang bằng tổng số giá trị thặng dư
+ Về mặt chất: Thực chất lợi nhuận và giá trị thặng dư đều là một, lợi nhuận chẳng qua chỉ là một hình
thái thần bí hoá của giá trị thặng dư. Phạm trù lợi nhuận phản ánh sai lệch bản chất quan hệ sản xuất giữa
nhà tư bản và lao động làm thuê, vì nó làm cho người ta tưởng rằng giá trị thặng dư không phải chỉ do lao
động làm thuê tạo ra mà là do toàn bộ Tư bản ứng trước sinh ra
CÂU 10: Địa tô TBCN là gì? Địa tô TBCN khác địa tô phong kiến như thế nào? Trình bày các loại
địa tô TBCN.
1/ Địa tô tư bản chủ nghĩa là một phần dôi ra ngoài lợi nhuận bình quân (lợi nhuận siêu ngạch) của tư bản
kinh doanh trong nông nghiệp do công nhân nông nghiệp tạo ra, là số tiền mà nhà tư bản kinh doanh
trong nông nghiệp phải trả cho địa chủ để được sử dụng ruộng đất trong một thời gian nhất định.
2/ Địa tô phong kiến phản ánh quan hệ SX giữa 2 giai cấp: Địa chủ và nông nô. Địa tô TBCN phản ánh
QHSX giữa 3 giai cấp: Địa chủ (sở hữu ruộng đất); nhà TB kinh doanh nông nghiệp và công nhân nông
nghiệp.Địa tô TBCN nhỏ hơn địa tô phong kiến 3/ Các hình thức địa tô tư bản chủ nghĩa gồm:
Địa tô chênh lệch là phần lợi nhuận siêu ngạch ngoài lợi nhuận bình quân, thu
được trên những ruộng đất có điều kiện sản xuất thuận lợi. (Nó là số chênh
lệch giữa giá cả sản xuất chung của nông phẩm được quyết định bởi điều kiện
sản xuất trên ruộng đất xấu nhất và giá cả sản xuất cá biệt trên ruộng đất có
điều kiện canh tác thuận lợi hơn).
- Địa tô chênh lệch 1: thu được trên ruộng đất có độ màu mỡ đất đai tốt hơn, vị trí thuận lợi hơn.
- Địa tô chênh lệch 2: thu được do thâm canh.
Địa tô tuyệt đối là phần lợi nhuận siêu ngạch ngoài lợi nhuận bình quân mà mọi nhà tư bản kinh doanh
nông nghiệp đều phải nộp trả cho địa chủ, dù ruộng đất đó là tốt hay xấu
| 1/16

Preview text:

Nguyen Vu Thao Van BABAIU22331
CHƯƠNG 2: HÀNG HÓA, THỊ TRƯỜNG VÀ VAI TRÒ CỦA CÁC CHỦ THỂ THAM GIA THỊ TRƯỜNG
Câu 1: Sản xuất hàng hóa là gì? Điều kiện ra đời của sản xuất hàng hóa? .
1/ Khái niệm: Sx hàng hóa là kiểu tổ chức kinh tế mà ở đó, những người sản xuất ra sản phẩm không
nhằm phục vụ mục đích nhu cầu tiêu dùng của chính mình mà để trao đổi, mua bán.
2/ Điều kiện ra đời của sản xuất hàng hóa: Theo C. Mác sản xuất hàng hóa chỉ ra đời và tồn tại khi có đủ hai điều kiện -
Phân công lao động xã hội: Phân công lao động xã hội là sự phân chia lao động trong xã hội
thành các ngành, các lĩnh vực sản xuất khác nhau, tạo nên sự chuyên môn hóa của những người sản xuất
thành những ngành, nghề khác nhau. Khi đó, mỗi người thực hiện sản xuất một hoặc một số loại sản
phẩm nhất định, nhưng nhu cầu của họ lại yêu cầu nhiều loại sản phẩm khác nhau. Để thỏa mãn nhu cầu
của mình, tất yếu những người sản xuất phải trao đổi sản phẩm với nhau. -
Sự tách biệt về mặt kinh tế giữa hai chủ thể sản xuất: Sự tách biệt về mặt kinh tế giữa các chủ thể
sản xuất làm cho những người sản xuất độc lập với nhau có sự tách biệt về lợi ích. Trong điều kiện đó,
người này muốn tiêu dùng sản phẩm của người khác phải thông qua trao đổi, mua bán, tức là phải trao
đổi dưới hình thức hàng hóa.
Câu 2: Hàng hóa là gì ? Phân tích hai thuộc tính của hàng hóa? Ý nghĩa thực tiễn của lý luận hàng
hóa đối với thực tiễn nền kinh tế Việt Nam hiện nay?
1/ Khái niệm: Hàng hóa là sản phẩm của lao động, có thể thỏa mãn một nhu cầu nào đó của con người
thông qua trao đổi, mua bán Sản phẩm của lao động là hàng hóa khi đưa ra nhằm mục đích trao đổi, mua
bán trên thị trường. Hàng hóa có thể ở dạng vật thể hoặc phi vật thể
2/ Hai thuộc tính của hàng hóa -
Giá trị sử dụng của hàng hóa là công dụng của vật phẩm, có thể thảo mãn nhu cầu nào đó của con
người Nhu cầu của con người có thể là nhu cầu về vật chất hoặc tinh thần, có thể là nhu cầu tiêu dùng cá
nhân hoặc nhu cầu tiêu dùng cho sản xuất Giá trị sử dụng của hàng hóa là giá trị sử dụng nhằm đáp ứng
yêu cầu của người mua. Vì vậy, người sản xuất phải chú ý hoàn thiện giá trị sử dụng của hàng hóa do
mình sản xuất ra sao cho ngày càng đáp ứng nhu cầu khắt khe và tinh tế hơn của người mua. -
Giá trị của hàng hóa là lao động của người sản xuất hàng hóa kết tinh trong hàng hóa ấy. Giá trị
hàng hóa biểu hiện mối quan hệ kinh tế giữa những người sản xuất, trao đổi hàng hóa và là phạm trù có
tính lịch sử. Khi nào có sản xuất và trao đổi hàng hóa, khi đó có phạm trù giá trị hàng hóa. Giá trị là một quan hệ sản suất
3/ Trước thời kì đổi mới, nước ta xây dựng nền kinh tế theo mô hình kế hoạch hóa tập trung, theo đó
không chấp nhận kinh tế thị trường, thị trường lao động và xóa bỏ quan hệ sản xuất hàng hóa – tiền tệ.
Thị trường lao động công khai chỉ xuất hiện trong khu vực kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể. Việc sử
dụng lao động mang nặng tính kế hoạch hóa tập trung. Lao động không được coi là hàng hóa đặc biệt và
không được “mua bán” trên thị trường. Tuy nhiên, sau năm 1986, chủ trương xây dựng nền kinh tế hàng
hóa thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã làm thay đổi căn bản vị trí của hàng hóa sức lao động
trong nền kinh tế Việt Nam. Tuy nhiên quá trình nhận thức và vận dụng ly luận về hàng hóa sức lao động
của C. Mác vẫn còn những giới hạn nhất định, chưa đáp ứng được nhu cầu của nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chỉ nghĩa trong tiến trình toàn cầu hóa kinh tế. Cụ thể như: giá trị sử dụng của hàng hóa còn
thấp làm giảm sự cạnh tranh của nước ta trên thị trường thế giới, giá trị của hàng hóa sức lao động chưa
bao hàm hết những yếu tố đáp ứng cho yêu cầu tái sản xuất mở rộng sức lao động cho một bộ phận lớn
những người làm công ăn lương, hệ thống thông tin lao động việc làm chưa được quản lý chặt chẽ, hệ
thống giáo dục – đào tạo chưa đáp ứng được việc nâng cao tay nghề và chất lượng lao động cho sự
nghiêp công nghiệp hóa, hiện đại hóa của đất nước trong thời buổi kinh tế tri thức đang phát triển lớn mạnh.
Nhìn nhận về lý luận sức lao động của C. Mác, vận dụng vào thị trường sức lao động Việt Nam là một
vấn đề quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế ở nước ta hiện nya. Từ đó, đưa ra một số gải pháp cho
thị trường lao động trong nước.
Thứ nhất: Vận dụng lý luận hàng hóa sức lao động phải phù hợp với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và
xu thế phát triển chung của nền kihn tế tri thức. Điều này đòi hởi hệ thống giáo dục cần xây dựng và phát
triển nhiều hơn nữa cả về chất lượng và số lượng, nhất là về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ thuật, về
phẩm chất đạo đức, năng lực thì mới có thể tiếp cận, hướng dẫn người lao động tiếp cận với nền kinh tế
tri thức và hội nhập quốc tế.
Thứ hai: Vận dụng lý luận một cách phù hợp vào thực tế điều kiện, hoàn cảnh Việt Nam. Với lợi ích của
người sử dụng lao động và người lao động cần phải hài hòa, cân đối. Tránh việc làm phát sinh, gây mâu
thuẫn gay gắt mà phải tạo mối quan hệ gần gũi, thân thiết, thống nhất giữa người lao động và người đi thuê lao động.
Thứ ba: Vận dụng lý luận về hàng hóa sức lao động phải gắn liền với việc hình thành đội ngũ lao động có
trình độ và cơ cấu hợp lý, đáp ứng nhu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Phải xây dựng và
phát triển nguồn nhân lực mới đáp ứng được nhu cầu của thực tiễn. Phải biết nắm bắt sử dụng có hiệu quả
những phương tiện kỹ thuật hiện đại. Đi đôi với việc đào tạo tay nghề cần quan tâm tới giáo dục phẩm
chất cho người lao động, rèn luyện ý thức trách nhiệm, kỷ luật, lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội,
trung thành với mục tiêu, lú tưởng mà Đảng và Nhà nước đề ra.
Thứ tư: Thúc đẩy sự giao dịch trên thị trường lao động băng các hình thức như phát triển hệ thống trung
tâm giới thiệu việc làm, tăng cường quản lý Nhà nước, củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động của các
doanh nghiệp xuất khẩu lao động, phát triển hệ thống thông tin, thống kê thị trường lao động, hoàn thiện
hệ thống pháp luật về thị trường lao động, hoàn thiện bộ máy quản lý và vận hành có hiệu quả thị trường lao động,
Thứ năm: Bên cạnh việc nâng cao chất lượng lao động, đồng thời phải có chế độ tiền lương hợp lý, đảm
bảo cho việc người lao động có thể đảm bảo cuộc sống sinh hoạt hàng ngày, đáp ứng việc sản xuất va tái
sản xuất sức lao động. Phục vụ cho công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa của đấy nước.
Tóm lại, sự tồn tại và phát triển của hàng hóa sức lao động và thị trường lao động là một tất yếu khách
quan. Việc thừa nhận sức lao động trở thành hàng hóa giúp kích thích người lao động và người sử dụng
lao động có những đóng góp tích cực hơn vào sự nghiệp phát triển chung của đất nước.
Câu 3: Lượng giá trị là gì ? Các nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị của hàng hóa?
Lượng giá trị của một đơn vị hàng hóa là lượng thời gian hao phí laođộng xã hội cần thiết để sản xuất ra
đơn vị hàng hóa đó. Lượng giá trị của hàng hóa bao hàm hao phí lao động quá khứ và hao phí lao động sống.
Hai nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị hàng hóa là năng suất lao độngvà tính chất phức tạp hay giản đơn
của lao động. Ngoài ra C.Mác còn xem xét thêm về mối quan hệ giữa tăng cường độlao động với lượng
giá trị của một đơn vị hàng hóa.
Câu 4: Phân tích tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa?Ý nghĩa của phát hiện này đối với
việc xây dựng lý luận giá trị lao động?
1/ Lao động cụ thể là lao động có ích dưới một hình thức cụ thể của những nghề nghiệp chuyên môn nhất
định. Mỗi lao động cụ thể cómục đích lao động riêng, đối tượng lao động riêng, công cụ lao động riêng,
phương pháp lao động riêng và kết quả riêng. Lao động cụ thể tạo ra giá trị sử dụng của hàng hoá.
Ví dụ: lao động cụ thể của người thợ mộc, mục đích là sản xuất cái bàn, cái ghế, đối tượng lao động là gỗ,
phương pháp của anh ta là các thao tác về cưa, về bào, khoan, đục; phương tiện được sử dụng là cái cưa,
cái đục, cái bào, cái khoan; kết quả lao động là tạo ra cái bàn, cái ghế.
+ Đặc trưng của lao động cụ thể:
- Mỗi lao động cụ thể tạo ra một loại giá trị sử dụng nhất định. Lao động cụ thể càng nhiều loại thì càng
tạo ra nhiều loại giá trị sử dụng khác nhau.
- Các lao động cụ thể hợp thành hệ thống phân công lao động xã hội. Cùng với sự phát triển của khoa
học- kỹ thuật, các hình thức lao động cụ thể ngày càng đa dạng, phong phú, nó phản ánh trình độ phát
triển của phân công lao động xã hội.
- Lao động cụ thể tạo ra giá trị sử dụng của hàng hóa. Giá trị sử dụng là phạm trù vĩnh viễn, vì vậy lao
động cụ thể cũng là phạm trù vĩnh viễn tồn tại gắn liền vối vật phẩm, nó là một điều kiện không thể
thiếu trong bất kỳ hình thái kinh tế - xã hội nào.
- Các hình thức phong phú và đa dạng của lao động cụ thể phụ thuộc vào trình độ phát triển và sự áp
dụngkhoa học - công nghệ vào sản xuất, đồng thời cũng là tấm gương phản chiếu trình độ phát triển
kinh tế và khoa học - công nghệ ở mỗi thời đại.
Lao động cụ thể không phải là nguồn gốc duy nhất của giá trị sử dụng do nó sản giờ cũng do hai nhân tố
hợp thành: vật chất và lao động. Lao động cụ thể của con người chỉ thay đổi hình thức tồn tại của các vật
chất, làm cho nó thích hợp với nhu cầu của con người.
Lao động trừu tượng là lao động xã hội của người sản xuất hànghoá không kể đến hình thức cụ thể của
nó. Đó là sự hao phí sứclao động của người sản xuất hàng hoá nói chung về cơ bắp, thần kinh, trí óc.
Ví dụ: lao động của người thợ mộc và lao động của người thợ may, nếu xét về mặt lao động cụ thể thì
hoàn toàn khác nhau, nhưng nếu gạt bỏ tất cả những sự khác nhau ấy sang một bên thì chúng chỉ còn có
một cái chung, đều phải hao phí sức óc, sức bắp thịt và sức thần kinh của con người.
+ Đặc trưng của lao động trừu tượng:
- Lao động trừu tượng tạo ra giá trị hàng hóa, làm cơ sở cho sự ngang bằng trao đổi.
- Giá trị của hàng hóa là một phạm trù lịch sử, do đó lao động trừu tượng tạo ra giá trị hàng hóa cũng là
một phạm trù lịch sử, chỉ tồn tại trong nền sản xuất hàng hóa.
2/ Nhờ phát hiện ra tính chất 2 mặt của lao động sản xuất hang hóa đã giúp C.mác thành công trong việc
xây dựng lí luận giá trị:
- Xác định dc chất của giá trị là do lao động trừu tượng kết tình, biểu hiện quan hệ xã hội và là một phạm trù lịch sử
- Xác định dc lượng của gtri là lượng lao động trung bình hay tgian lao động xh cần thiết
- Xác định dc hình thái biểu hiện của giá trị: hình thái phát triển từ thấp tới cao, là hình thái đơn giản đến
hình thái mở rộng, hình thái chung và cuối cùng là hình thái tiền
- Xác định dc quy luật gtri: đây là quy luật cơ bản của sản xuất hàng hóa. Quy luật này đòi hỏi ng sx và
trao đổi hang hóa phải đảm bảo tgian lao động xh cần thiết Câu 5: Phân tích nguồn gốc, bản chất và
chức năng của tiền tệ? 1/ Nguồn gốc:
- Đầu tiên là hình thái giản đơn, ngẫu nhiên của giá trị. Hình thái này xuất hiện khi xã hội nguyên thủy
tanrã và chỉ thường gặp ở những mầm mống đầu tiên của trao đổi. Ở đây, giá trị của hàng hóa này chỉ
biểu hiện đơn nhất ở một hàng hóa khác và quan hệ trao đổi mang tính chất ngẫu nhiên, trực tiếp hàng
lấy hàng, tỷ lệ trao đổi được hình thành ngẫu nhiên => hình thái phôi thai của tiền tệ.
- Khi quan hệ trao đổi trở thành quá trình đều đặn, thường xuyên, thúc đẩy sản xuất hàng hóa ra đời và
phát triển thì hình thái thứ hai là hình thái đầy đủ hay mở rộng của hàng hóa ra đời. Hình thái này xuất
hiện trong thực tế khi một hàng hóa nào đó được trao đổi với nhiều hàng hóa khác một cách thông
thường phổ biến. Ở đây, giá trị của hàng hóa được biểu hiện ở nhiều hàng hóa khác nhau đóng vai trò
làm vật ngang giá. Đồng thời tỷ lệ trao đổi không còn mang tính chất ngẫu nhiên nữa mà dần dần do lao
động quy định. Tuy nhiên, ở hình thái này, giá trị của hàng hóa được biểu hiện còn chưa hoàn tất, thống
nhất và vẫn trao đổi trực tiếp hàng – hàng.
- Do đó, khi sản xuất và trao đổi hàng hóa phát triển hơn, đòi hỏi phải có vật ngang giá chung, hình thái
thứ ba xuất hiện: Hình thái chung của giá trị. Ở hình thái này, giá trị của mọi hàng hóa được biểu hiện ở
một hàng hóa đóng vai trò làm vật ngang giá chung – “vật ngang giá phổ biến”. Các hàng hóa đều đổi
thành vật ngang giá chung, sau đó mới mang đổi lấy hàng hóa cần dùng. Vật ngang giá chung trở thành
môi giới. Tuy nhiên, ở hình thái này, bất kỳ hàng hóa nào cũng có thể trở thành vật ngang giá chung,
miễn là nó được tách ra làm vật ngang giá chung.
- Khi sản xuất và trao đổi hàng hóa phát triển hơn nữa, đặc biệt là khi mở rộng giữa các vùng đòi hỏi phải
có một vật ngang giá chung thống nhất thì hình thái thứ tư ra đời: hình thái tiền. Giá trị của tất cả các
hàng hóa ở đây đều được biểu hiện ở một hàng hóa đóng vai trò tiền tệ. Lúc đầu có nhiều hàng hóa đóng
vai trò tiền tệ nhưng dần dần được chuyển sang các kim loại quý như đồng, bạc và cuối cùng là vàng.
2/ Bản chất: Tiền là một loại hàng hóa đặc biệt được tách ra làm vật ngang giá chung cho tất cả các loại
hàng hóa. Nó là sự thể hiện chung của giá trị, đồng thời nó biểu hiện quan hệ sản xuất giữa những người sản xuất hàng hóa. 3/ Chức năng tiền tệ:
Tiền là thước đo giá trị, là phương tiện lưu thông, phương tiện cất trữ, phương tiện thanh toán và tiền tệ thế giới:
- Thước đo giá trị: dùng để đo lường và biểu hiện giá trị của các hàng hóa khác. Khi đó, giá trị của hàng
hóa được biểu hiện bằng một lượng tiền nhất định gọi là giá cả hàng hóa. Giá cả hàng hóa là hình thức
biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hóa. Giá cả hàng hóa có thể lên xuống xung quanh giá trị nhưng
tổng số giá cả luôn bằng giá trị.
- Phương tiện lưu thông: Tiền làm môi giới trong trao đổi hàng hóa, tức là tiền đóng vai trò là một
phương tiện lưu thông. Khi ấy, trao đổi hàng hóa vận động theo công thức H – T – H’. Đây là công thức
lưu thông hàng hóa giản đơn. Với chức năng này, tiền xuất hiện dưới các hình thức vàng thỏi, bạc nén,
tiền đúc và cuối cùng là tiền giấy. Tiền giấy là ký hiệu giá trị do nhà nước phát hành buộc XH công
nhận. Tiền giấy không có giá trị thực (không kể đến giá trị của vật liệu giấy dùng làm tiền). Khi thực
hiện chức năng này, tiền giúp quá trình mua bán diễn ra dễ dàng hơn nhưng nó cũng làm việc mua bán
tách rời nhau cả về không gian lẫn thời gian nên nó bao hàm khả năng khủng hoảng.
- Phương tiện cất trữ Tiền đôi khi được rút khỏi lưu thông và cất giữ lại. Chỉ có tiền vàng, tiền bạc, các
của cải bằng vàng có giá trị thực mới thực hiện được chức năng lưu trữ. Ngoài ra, tiền làm phương tiện
cất trữ còn có tác dụng đặc biệt là dự trữ tiền cho lưu thông.
- Phương tiện thanh toán có tác dụng đáp ứng kịp thời nhu cầu của người sản xuất hoặc tiêu dùng ngay cả
khi họ chưa có tiền hoặc không đủ tiền. Nhưng nó cũng làm cho khả năng khủng hoảng tăng lên. Trong
quá trình thực hiện chức năng thanh toán, loại tiền mới – tiền tín dụng – xuất hiện, có nghĩa là hình thức
tiền đã phát triển hơn.
- Tiền tệ thế giới. Chức năng này xuất hiện khi buôn bán vượt ra ngoài biên giới quốc gia, hình thành
quan hệ buôn bán giữa các nước.
Khi thực hiện chức năng này, tiền thực hiện các chức năng: thước đo giá trị, phương tiện lưu thông,
phương tiện thanh toán, tín dụng, di chuyển của cải từ nước này sang nước khác. Thực hiện chức năng
này phải là tiền vàng hoặc tiền tín dụng được công nhận là phương tiện thanh toán quốc tế. Việc trao đổi
tiền của nước này sang tiền của nước khác tuân theo tỷ giá hối đoái, tức là giá cả của một đồng tiền nước
này được tính bằng đồng tiền của nước khác.
Tóm lại, cùng với sự phát triển của sản xuất và trao đổi hàng hóa, tiền có 5 chức năng. Những chức năng
này có quan hệ mật thiết và thông thường tiền làm nhiều chức năng một lúc.
Câu 6: Phân tích nội dung (yêu cầu), tác dụng của quy luật giá trị trong nền sản xuất hàng hoá giản
đơn.? Ý nghĩa của vấn đề này đối với nền kinh tế Việt Nam hiện nay?
1/ - Quy luật giá trị là quy luật kinh tế căn bản của sản xuất và lưu thông hàng hoá.Quy luật giá trị đòi hỏi
việc sản xuất và lưu thông hàng hoá phải dựa trên cơ sở hao phí lao động xã hội cần thiết,cụ thể là: +
Trong sản xuất thì hao phí lao động cá biệt phải phù hợpvới hao phí lao động xã hội cần thiết.Vì trong
nền sản xuất hàng hóa ,vấn đề đặc biệt quan trọng là hàng hóa sản xuất ra có bán được hay không.Để có
thể bán được thì hao phí lao động để sản xuất ra hàng hóa cuả các chủ thể kinh doanh phải phù hợp với
mức hao phí lao động xã hội có thể chấp nhận được .Mức hao phí càng thấp thì họ càng có khả năng phát
triển kinh doanh,thu được nhiều lợi nhuận,ngược lại sẽ bị thua lỗ,phá sản…
+ Trong trao đổi hàng hoá cũng phải dựa vào hao phí lao động xã hội cần thiết,tức là tuân theo nguyên tắc
trao đổi ngang giá,hai hàng hoá có giá trị sử dụng khác nhau,nhưng có lương giá trị bằng nhau thì phải trao đổi ngang nhau.
Đòi hỏi trên của quy luật là khách quan ,đảm bảo sự công bằng ,hợp lí,bình đẳng giữa những người sản xuất hàng hoá.
Quy luật giá trị bắt buộc những người sản xuất và trao đổi hàng hoá phải tuân theo yêu cầu hay đòi hỏi
cuả nó thông qua “ mệng lệnh” của giá cả thị trường. 2/ a) Điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hoá
Điều tiết sản xuất tức là điều hoà, phân bổ các yếu tố sản xuất giữa các ngành, các lĩnh vực của nền kinh
tế. Tác dụng này của quy luật giá trị thông qua sự biến động của giá cả hàng hoá trên thị trường dưới tác
động của quy luật cung cầu. Nếu ở ngành nào đó khi cung nhỏ hơn cầu, giá cả hàng hoá sẽ lên cao hơn
giá trị, hàng hoá bán chạy, lãi cao, thì người sản xuất sẽ đổ xô vào ngành ấy. Do đó, tư liệu sản xuất và
sức lao động được chuyển dịch vào ngành ấy tăng lên. Ngược lại, khicung ở ngành đó vượt quá cầu, giá
cả hàng hoá giảm xuống, hàng hoá bán không chạy và có thể lỗ vốn. Tình hình ấy buộc người sản xuất
phải thu hẹp quy mô sản xuất lại hoặc chuyển sang đầu tư vào ngành có giá cả hàng hoá cao.Điều tiết lưu
thông của quy luật giá trị cũng thông qua giá cả trên thị trường. Sự biến động của giá cả thị trường cũng
có tác dụng thu hút luồng hàng từ nơi giá cả thấp đến nơi giá cả cao, do đó làm cho lưu thông hàng hoá
thông suốt.Như vậy, sự biến động của giá cả trên thị trường không những chỉ rõ sự biến động về kinh tế,
mà còn có tác động điều tiết nền kinh tế hàng hoá. b)
Kích thích cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất, tăng năng suất lao động, lực lượng sản xuất xã
hội phát triển nhanh: Trong nền kinh tế hàng hoá, mỗi người sản xuất hàng hoá là một chủ thể kinh tế độc
lập, tự quyết định hoạt động sản xuất, kinh doanh của mình. Nhưng do điều kiện sản xuất khác nhau nên
hao phí lao động cá biệt khác nhau, người sản xuất nào có hao phí lao động cá biệt nhỏ hơn hao phí lao
động xã hội của hàng hoá ở thế có lợi, sẽ thu được lãi cao. Người sản xuất nào có hao phí lao động cá biệt
lớn hơn hao phí lao động xã hội cần thiết sẽ ở thế bất lợi, lỗ vốn. Để giành lợi thế trong cạnh tranh và
tránh nguy cơ vỡ nợ, phá sản, họ phải hạ thấp hao phí lao động cá biệt của mình, sao chobằng hao phí lao
động xã hội cần thiết. Muốn vậy, họ phải luôn tìm cách cải tiến kỹ thuật, cải tiến tổ chức quản lý, thực
hiện tiết kiệm chặt chẽ, tăng năng suất lao động. Sự cạnh tranh quyết liệt càng thúc đẩy quá trình này diễn
ra mạnh mẽ hơn, mang tính xã hội. Kết quả là lực lượng sản xuất xã hội được thúc đẩy phát triển mạnh mẽ. c)
Thực hiện sự lựa chọn tự nhiên và phân hoá người sản xuất hàng hoá thành kẻ giàu người nghèo:
Quá trình cạnh tranh theo đuổi giá trị tất yếu dẫn đến kếtquả là: những người có điều kiện sản xuất thuận
lợi, có trình độ, kiến thức cao, trang bị kỹ thuật tốt nên có hao phí lao động cá biệt thấp hơn hao phí lao
động xã hội cần thiết, nhờ đó phát tài, giàu lên nhanh chóng. Họ mua sắm thêm tư liệu sản xuất, mở rộng
sản xuất, kinh doanh. Ngược lại, những người không có điều kiện thuận lợi, làm ăn kém cỏi, hoặc gặp rủi
ro trong kinh doanh nên bị thua lỗ dẫn tới phá sản trở thành nghèo khó.Tác dụng của quy luật giá trị có ý
nghĩa: một mặt, quy luật giá trị chi phối sự lựa chọn tự nhiên, đào thải các yếu kém, kích thích các nhân
tố tích cực phát triển; mặt khác, phân hoá xã hội thành kẻ giàu người nghèo, tạo ra sự bất bình đẳng trong xã hội 3/
Câu 7: Thế nào là thị trường? Mối quan hệ giữa phân công lao động XH với thị trường. Phân tích
các chức năng của thị trường.
1/ Theo nghĩa hẹp thì thị trường là nơi diễn ra trao đổi, mua bán hàng hoá.
Theo nghĩa rộng thì thị trường là tổng thể các mối quan hệ cạnh tranh, cung – cầu, giá cả, giá trị… mà
trong đó giá cả và sản lượng hàng hoá tiêu thụ được xác định.
Thị trường có thể phân loại theo nhiều cách khác nhau: theo đối tượng giao dịch, theo tính chất và cơ chế
vận hành thị trường, theo quy mô, phạm vi….
2/ Phân công lao động XH góp phần tạo ra thị trường. Do có sự phân công lao động XH, mỗi cá thể chỉ
sản xuất một hoặc một vài sản phẩm trong khi họ có như cầu sử dụng nhiều loại sản phẩm. Chính vì vậy,
sinh ra việc trao đổi buôn bán và dẫn đến hình thành thị trường.
Mặt khác, thị trường cũng làm cho phân công lao động XH ngày càng sâu sắc hơn.
Thị trường thúc đẩy sản xuất một số mặt hàng và hạn chế sản xuất một số mặt hàng khác tùy theo không
gian và thời gian. Do đó, phân công lao động XH ở từng ngành, từng khu vực trở nên sâu sắc hơn.
3/ Dù thị trường có nhiều loại khác nhau nhưng nhìn chung thị trường thực hiện ba chức năng chủ yếu sau:
Chức năng thừa nhận công dụng XH của hàng hoá (giá trị sử dụng XH) và lao động đã chi phí để sản xuất
ra nó. Nếu hàng hoá bán được và bán với giá cả bằng giá trị thì XH đã thừa nhận công dụng của nó cũng
như thừa nhận mức hao phí lao động để sản xuất ra nó phù hợp với mức hao phí lao động XH cần thiết,
giá trị hàng hoá được thực hiện. Nếu hàng hoá không bán được thì hoặc là công dụng của hàng hoá không
được thừa nhận, hoặc là do chi phí sản xuất cao hơn mức trung bình của XH nên XH không chấp nhận.
Nếu hàng hoá bán được với giá cả thấp hơn giá trị thì có nghĩa là XH chỉ thừa nhận công dụng của nó và
một phần chi phí sản xuất ra nó.
Thứ hai là chức năng cung cấp thông tin cho người sản xuất và tiêu dùng về cơ cấu hàng hoá, giá cả, chất lượng…
Cuối cùng là chức năng kích thích hoặc hạn chế sản xuất và tiêu dùng. Từ những thông tin thu được trên
thị trường, người sản xuất hay tiêu dùng sẽ có những điều chỉnh kịp thời để phù hợp với biến đổi của thị
trường. Nhờ đó mà sản xuất và tiêu dùng được hạn chế hoặc kích thích. Ví dụ như giá cả một hàng hoá
nào đó tăng, người sản xuất sẽ mở rộng quy mô sản xuất còn người tiêu dùng sẽ hạn chế nhu cầu…
Câu 8: Cạnh tranh là gì? Tại sao cạnh tranh là quy luật kinh tế của sản xuất hàng hoá? Những tác
động tích cực và tiêu cực của cạnh tranh?
1/ Cạnh tranh là sự ganh đua về kinh tế giữa những chủ thể trong nền sản xuất hàng hoá nhằm giành giật
những điều kiện thuận lợi trong sản xuất, tiêu thụ hoặc tiêu dùng hàng hoá để từ đó thu được nhiều lợi ích
nhất cho mình.Cạnh tranh có thể xảy ra giữa người sản xuất với người tiêu dùng (Người sản xuất muốn
bán đắt, người tiêu dùng muốn mua rẻ); giữa người tiêu dùng với nhau để mua được hàng rẻ hơn, tốt hơn;
giữa những người sản xuất để có những điều kiện tốt hơn trong sản xuất và tiêu thụ. Có nhiều biện pháp
cạn tranh: cạnh tranh giá cả (giảm giá...) hoặc phi giá cả (quảng cáo...).
2/ Dễ thấy, cạnh tranh là một quy luật kinh tế của sản xuất hàng hoá bởi thực chất nó xuất phát từ quy
luật giá trị của sản xuất hàng hoá. Trong sản xuất hàng hoá, sự tách biệt tương đối giữa những người sản
xuất, sự phân công lao động XH tất yếu dẫn đến sự cạnh tranh để giành được những điều kiện thuận lợi
hơn như gần nguồn nguyên liệu, nhân công rẻ, gần thị trường tiêu thụ, giao thông vận tải tốt, khoa học kỹ
thuật phát triển... nhằm giảm mức hao phí lao động cá biệt thấp hơn mức hao phí lao động XH cần thiết
để thu được nhiều lãi. Khi còn sản xuất hàng hoá, còn phân công lao động thì còn có cạnh trạnh.
3/ Cạnh tranh có vai trò rất quan trọng và là một trong những động lực mạnh mẽ nhất thúc đẩy sản xuất
phát triển. Nó buộc người sản xuất phải năng động, nhạy bén, tích cực nâng cao tay nghề, cải tiến kỹ
thuật, áp dụng khoa học kỹ thuật, hoàn thiện tổ chức quản lý để nâng cao năng suất lao động, hiệu quả
kinh tế. Đó chính là cạnh tranh lành mạnh. Ở đâu thiếu cạnh tranh hoặc có biểu hiện độc quyền thì thường
trì trệ, kém phát triển. Bên cạnh mặt tích cực, cạnh tranh cũng có những tác dụng tiêu cực thể hiện ở cạnh
tranh không lành mạnh như những hành động vi phạm đạo đức hay vi phạm pháp luật (buôn lậu, trốn
thuế, tung tin phá hoại...) hoặc những hành vi cạnh tranh làm phân hoá giàu nghèo, tổn hại môi trường sinh thái.
Câu 9: Cung, cầu là gì? Quan hệ cung - cầu? Tại sao cung - cầu là quy luật kinh tế của sản xuất hàng hoá?
1/ Cung và cầu là những yếu tố quyết định của bất kỳ giao dịch nào, phản ánh bản chất của thị trường và thể hiện qua giá.
Cung là một khối lượng hàng hóa, dịch vụ nhất định mà người bán có thể đáp ứng cho thị trường. Nó
tương ứng với những mức giá khác nhau, khả năng sản xuất, chi phí sản xuất trong một thời gian nhất định.
Cung sẽ phục thuộc vào nhiều yếu tố bên ngoài như thuế, giá cả nguyên vật liệu, công nghệ, số lượng và
khả năng thực hiện của nhà sản xuất. Cung bao gồm cung của thị trường và cung cá nhân. Cung thị
trường sẽ bằng tổng của cung cá nhân.
Cầu là một khối lượng hàng hóa, dịch vụ nhất định mà người tiêu dùng muốn mua và sẵn lòng mua. Số
lượng hàng hóa, dịch vụ này tương ứng với nhiều mức giá khác nhau, nằm trong một khoảng thời gian
xác định. Cầu phụ thuộc vào những yếu tố như khả năng chi trả, mức độ kỳ vọng vào sản phẩm và giá cả
của hàng hóa, dịch vụ.
Mối quan hệ giữa “cung”, “cầu” và “giá cả thị trường” là một mối quan hệ mật thiết, gắn bó và tác động
qua lại với nhau. Khi cầu tăng, sản xuất được mở rộng dẫn đến cung tăng. Khi cầu giảm, sản xuất thu hẹp dẫn đến cung giảm.
Khi cung và cầu cân bằng thì giá cả bằng với giá trị của hàng hóa. Khi cung lớn hơn cầu, giá cả sẽ nhỏ
hơn giá trị của hàng hóa. Khi cung nhỏ hơn cầu, giá của của hàng hóa sẽ lớn hơn giá trị của nó. Khi giá cả
tăng, cung sẽ tăng, cầu giảm, khi giá cả giảm, cung giảm cầu sẽ tăng.
Việc tăng hay giảm giá của một mặt hàng bất kỳ là sự tách rời giá cả và giá trị của mặt hàng đó. Từ đó sẽ
kích thích hoặc hạn chế nhu cầu, khả năng thanh toán cho hàng hóa của người tiêu dùng. Lúc này sự
chuyển dịch nhu cầu về hàng hóa sẽ xuất hiện, gây nên sự biến đổi trong mối quan hệ cung cầu. Vậy nên
những yếu tố này luôn gắn bó vô cùng chặt chẽ và mật thiết với nhau.
Câu 10: Phân tích quy luật lưu thông tiền tệ? Mối quan hệ giữa quy luật với vấn đề lạm phát?
Quy luật lưu thông tiền tệ là quy luật quy định số lượng tiền cần cho lưu thông hàng hóa ở mỗi thời kỳ
nhất định. C.Mác cho rằng, số lượng tiền tệ cần cho lưu thông do ba nhân tố quy định: số lượng hàng hóa
lưu thông trên thị trường, giá cả trung bình của hàng hóa và tốc độ lưu thông của những đơn vị tiền tệ
cùng loại. Sự tác động của ba nhân tố này đối với khối lượng tiền tệ cần cho lưu thông diễn ra theo quy
luật phổ biến là: Tổng số giá cả của hàng hóa chia cho ô vòng lưu thông của các đồng tiền cùng loại trong
một thời gian nhất địnhKhi tiền mới chỉ thực hiện chức năng là phương tiện lưu thông, thì số lượng tiền
cần thiết cho lưu thông được tính theo công thức M= P.Q/V
M là phương tiện cần thiết cho lưu thông P là mức giá cả
Q là khối lg hàng hóa đem ra lưu thông
V là số vòng luân chuyển trung bình của 1 đơn vị hàng hóa
KN: Lạm phát là sự tăng mức chung một cách liên tục của hàng hóa, dịch vụ theo theo thời gian và sự
mất giá trị của một loại tiền tệ nào đóCó 3 mức độ lạm phát: lạm phát vừa phải ( chỉ số giá cả tăng dưới
10%), lạm phát phi mã (lạm phát 2 con số 1 năm), siêu lạm phát ( lạm phát 3(4) con số 1 năm)..
Tác động: Khi lạm phát xảy ra sẽ dẫn tới sự phân phối lại 10 nguồn thu nhập giữa các tầng lớp dân cư:
người nắm giữ hàng hóa, người đi vay được lời; người có thu nhập và nắm giữ tài sản bằngtiền, người
cho vay bị thiệt (do sức mua của đồng tiền giảm sút); khuyến khích đầu cơ hàng hóa, cản trở sản xuất
kinh doanh, các hoạt động kinh tế bị méo mó biếndạng, tâm lýngười dân hoang mang... Lạm phát là hiện
tượng gây nhiều tác động tiêu cực tới kinh tế và xã hội, bởi vậychống lạm phát được xem là một trong
những mục tiêu hàng đầu của các nước trên thế giới. Nguyên nhân: a)
Lạm phát do chi phí đẩyChi phí đẩy của các doanh nghiệp bao gồm tiền lương, nguyên nhiên vật
liệu, máy móc, thuế…Khi giá cả của một hoặc vài yếu tố này tăng lên, chi phí sản xuất sẽ tăng, kéo theo
giá cả hàng hóa tăng lên để doanh nghiệp đảm bảo doanh thu và lợi nhuận. Cuối cùng, mức mức giá
chung toàn nền kinh tế có thể tăng theo. b)
Lạm phát do cầu thay đổiKhi thị trường giảm nhu cầu tiêu thụ vầ một loại hàng hóa nào đó, trong
khi lượng cầu về một mặt hàng hóa khác lại tăng lên. Nếu thị trường có người cung cấp độc quyền và giá
cả có tính chất cứng nhắc ( chỉ có thể tăng mà không thể giảm ), thì mặt hàng mà lượng cầu giảm vẫn
không giảm giá. Trong khi đó mặt hàng có lượngcầu tăng thị lại tăng giá. Kết quả là mức giá chung tăng
lên, dẫn đến lạm phát. c)
Lạm phát do xuất khẩu Khi xuất khẩu tăng, dẫn tới tổng cầu thị trường trong nước tăng cao hơn
tổng cung,khi đó sản phẩm được thu gom cho xuất khẩu khiến lượng hàng cung cho thị trường trong
nước giảm khiến tổng cung trong nước thấp hơn tổng cầu. Khi tổng cung và tổng cầu mất cân bằng sẽ nảy sinh lạm phát. d)
Lạm phát do nhập khẩuKhi giá hàng hóa nhập khẩu tăng ( do thuế nhập khẩu tăng, giá cả trên thế
giới tăng,…) thì giá bán sản phẩm đó trong nước sẽ phải tăng lên. Khi mức giá chung bịgiá nhập khẩu đội
lên sẽ hình thành lạm phát e)
Lạm phát tiền tệKhi cung lượng tiền lưu hành trong nước tăng, chẳng hạn do ngân hàng trung
ươngmua ngoại tệ vào để giữ cho đồng tiền trong nước khỏi mất giá so với ngoại tệ; haydo ngân hàng
trung ương mua công trái theo yêu cẩu của nhà nước làm cho lượng tiền trong lưu thông tăng lên cũng là
nguyên nhân gây ra lạm phát
Biện pháp: Đối với mỗi quốc gia việc kiểm soát lạm phát để bảo vệ nền kinh tế luôn được đặtlên hàng
đầu. Có rất nhiều cách để kiềm chế lạm phát được áp dụng bao gồm:
- Giảm bớt lượng tiền trong lưu thông
- Ngừng phát hành tiền vào trong lưu thông nhằm giảm lượng tiền đưa vàolưu thông trong xã hội
- Tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc: Đây là biện pháp nhằm giảm lượng cung tiền vàothị trường. Biện pháp này
tác động đến tất cả các ngân hàng và bình đẳnggiữa các ngân hàng với nhau.
- Nâng lãi suất tái chiết khấu và lãi suất tiền gửi. Biện pháp này sẽ làm hạnchế các ngân hàng thương mại
mang các giấy tờ có giá đến ngân hàng nhànước để chiết khấu. Ngoài ra việc nâng lãi suất tiền gửi sẽ
hút khiến ngườidân gửi tiền vào ngân hàng nhiều hơn.
- Ngân hàng trung ương áp dụng nghiệp vụ thị trường mở nhằm bán cácchứng từ có giá trị cho ngân hàngthương mại
- Ngân hàng trung ương bán vàng và ngoại tệ cho các ngân hàng thương mại. Giảm chi ngân sách: Đó là
giảm chi tiêu thường xuyên và cắt giảm đầu tưcông
- Tăng tiền thuế tiêu dùng nhằm giảm bớt nhu cầu chi tiêu cá nhân trong xãhội, tăng hàng hóa dịch vụ cung cấp trong xã hội.
- Tăng quỹ hàng hóa tiêu dùng nhằm cân bằng với tiền trong lưu thông.
CHƯƠNG 3: GIÁ TRỊ THẶNG DƯ TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
CÂU 1: Vì sao K.Marx gọi T – H – T’ là công thức chung của tư bản?. Phân tích mâu thuẫn công
thức chung. Vì sao nghiên cứu hàng hóa sức lao động là chìa khóa để giải quyết mâu thuẫn công
thức chung của tư bản.

1/ - Các nhà tư bản luôn vận hành theo nguyên tắc này: Khi gạt bỏ những ngành nghề, lĩnh vực cụ thể.
Các nhà tư bản có điểm chung là bỏ ra số tiền ban đầu (T), mục đích là thu về số tiền lớn hơn (T’).
- Mọi tư bản đều biểu hiện trong lưu thông dưới dạng khái quát đó, dù là tư bản thương nghiệp, tư bản
công nghiệp hay tư bản cho vay.
- Mục đích trong lưu thông hàng hóa giản đơn là giá trị sử dụng. Mục đích trong lưu thông tư bản là giá
trị lớn hơn vì nếu không thu được lượng giá trị lớn hơn thì sự lưu thông này không có ý nghĩa.
- Các nhà tư bản đều vận động theo công thức: T – H – T’.
2/ - Ở chương II, các nhà tư sản cổ điển và K.Marx chứng minh rằng: “Giá trị hàng hoá được tại ra ở sản
xuất (do lao động xã hội của người sản xuất hàng hoá kết tinh trong hàng hoá)”. Nhưng những người
Trọng thương cho rằng: “Giá trị hàng hoá được tạo ra trong lĩnh vực lưu thông”. Đây là mâu thuẫn công thức chung của tư bản.
- Giá trị của hàng hóa do lao động của những người sản xuất hàng hóa tạo ra trong sản xuất. Nhưng nhìn
vào công thức T – H – T’ người ta dễ lầm tưởng rằng tiền tệ cũng tạo giá trị khi vận động trong lưu
thông. Thực chất thì bản thân tiền, dù ở ngoài hay ở trong lưu thông, cũng không tự lớn lên được. Tiền
không thể sinh ra tiền là điều hiển nhiên.
- Lưu thông thuần tuý diễn ra ở bất kì hình thức nào: Việc mua, bán hàng hóa thấp hơn hoặc bằng giá trị
sẽ không có giá trị tăng thêm, không tạo ra giá trị thặng dư, nếu người mua hàng hóa để bán hàng hóa đó
cao hơn giá trị thì chỉ được lợi xét về người bán, nhưng xét về người mua thì lại bị thiệt. Trong nền kinh
tế thị trường, mỗi người đều đóng vai trò là người bán và đồng thời cũng là người mua: Nếu mua rẻ thứ
này thì sẽ phải mua mắc thứ khác, bán đắt thứ này thì phải bán rẻ thứ kia. Vì tổng khối lượng hàng và
tiền trong toàn xã hội ở một thời gian nhất định là một số lượng không đổi. Do đó, nếu được lợi khi bán
thì lại bị thiệt khi mua. Lưu thông (mua bán thông thường) không tạo ra giá trị tăng thêm xét trên phạm vi xã hội.
- Không có lưu thông cũng không tạo ra giá trị thặng dư nhưng lưu thông không sáng tạo cũng không tạo ra giá trị nào cả.
- “Tư bản không thể xuất hiện từ lưu thông và cũng không thể xuất hiện ở bên ngoài lưu thông. Nó phải
xuất hiện trong lưu thông và đồng thời không phải trong lưu thông” 3/ - Công thức T – H – T’ ẩn chứa
cả sản xuất và lưu thông.
- Giá trị thặng dư của Chủ nghĩa Tư bản phần lớn được tạo ra từ giá trị hàng hoá sức lao động, có được
giá trị thặng dư thì sẽ giải quyết được tất cả các mâu thuẫn giữa các nhà tư bản, giá trị thặng dư càng lớn
thì mâu thuẫn trong nội bộ Chủ nghĩa Tư bản được giảm xuống nhanh chóng vì mục đích cuối cùng và
lớn nhất của Chủ nghĩa Tư bản là giá trị thặng dư
- K.Marx viết: “Sức Lao động hay năng lực lao động là toàn bộ những năng lực thể chất và tinh thần tồn
tại trong cơ thể, trong một con người đang sống, và được người đó đem ra vận dụng mỗi khi sản xuất ra
một giá trị sử dụng nào đó”. Không phải sức lao động nào cũng trở thành hàng hoá. Để lao động trở
thành hàng hoá cần có 2 điều kiện: Người lao động phải được tự do và họ buộc phải bán sức lao động để
kiếm sống. Sức lao động biến thành hàng hoá là điều kiện quyết định để tiền biến thành tư bản. Nhưng
trước Chủ nghĩa Tư bản thì hàng hoá sức lao động chưa xuất hiện. Chỉ dưới Chủ nghĩa Tư bản, hàng hoá
sức lao động mới xuất hiện và trở nên phổ biến. Theo K.Marx, sức lao động là hàng hoá đặc biệt vì: Nó
tồn tại trong cơ thể sống của con người; hàng hoá được bán trong một khoảng thời gian nhất định; người
bán vẫn không từ bỏ quyền sở hữu khi bán sức lao động của mình; hàng hoá có giá trị tinh thần và lịch sử.
- Giá trị hàng hoá sức lao động cũng do số lượng lao động xã hội cần thiết để sản xuất và tái sản xuất ra
sức lao động quyết định. Muốn sản xuất và tái sản xuất ra sức lao động, người lao động phải tiêu dùng
một lượng tư liệu sinh hoạt nhất định. Do vậy, giá trị hàng hoá sức lao động được đo lường gián tiếp
thông qua lượng giá trị của các tư liệu sinh hoạt để tái sản xuất ra sức lao động. Giá trị hàng hoá sức lao
động được hợp thành bởi các bộ phận: Giá trị tư liệu sinh hoạt cần thiết để tái sản xuất ra sức lao động
(Cả vật chất lẫn tinh thần); Phí tổn đào tạo người lao động; Giá trị những tư liệu sinh hoạt cần thiết để
nuôi con của người lao động (Cả vật chất lẫn tinh thần).
CÂU 2:Tư bản là gì? Thế nào là nhà tư bản?. Theo Karl Marx, nhà tư bản khác với tiểu tư sản ở điểm nào?
1/ Tư bản là giá trị mang lại giá trị thặng dư.Giá trị luôn chuyển từ hình thái này sang hình thái khác (hình
thái tiền và hình thái hàng hóa, nếu không mang hình thái hàng hóa, tiền không trở thành tư bản được)
2/ Có 2 điều kiện hợp thành nhà tư bản:
(1): người chủ tiền công thức T – H – T’
(2): không tham gia trực tiếp vào quá trình SX. Nhà TB dành toàn bộ thời gian cho việc tập hợp, chỉ huy
và kiểm soát lao động đang hoạt động
3/ Tiểu tư sản cũng là người chủ tiền công thức T – H – T’ nhưng là người tham gia trực tiếp vào quá trình
sản xuất. Quy mô tiểu tư sản nhỏ bé, quy mô nhà tư bản to lớn
CÂU 3: Giá trị thặng dư TBCN là gì? Nguồn gốc giá trị thặng dư theo K. Marx? Biểu hiện của giá
trị thặng dư trong CNTB?
1/ Giá trị thặng dư TBCN là một bộ phận của giá trị mới, dôi ra ngoài giá trị sức lao động do công nhân
làm thuê tạo ra và thuộc về nhà tư bản (Tư bản không hề phát minh ra giá trị thặng dư)
2/ Để tiến hành sản xuất, nhà tư bản phải mua sức lao động và tư liệu sản xuất. Vì tư liệu sản xuất và sức
lao động do nhà tư bản mua, nên trong quá trình sản xuất, người công nhân làm việc dưới sự kiểm soát
của nhà tư bản và sản phẩm làm ra thuộc sở hữu của nhà tư bản. Sản xuất tư bản chủ nghĩa là quá trình
tạo ra giá trị tăng thêm cho nhà tư bản khi năng suất lao động đạt tới trình độ nhất định – chỉ cẩn một
phần của ngày lao động người công nhân làm thuê đã tạo tra giá trị bằng giá trị sức lao động của chính
mình. Bằng lao động cụ thể của mình, công nhân sử dụng các tư liệu sản xuất và chuyển giá trị của chúng
vào sản phẩm; và bằng lao động trừu tượng, công nhân tạo ra giá trị mới lớn hơn giá trị sức lao động,
phần lớn hơn đó được gọi là giá trị thặng dư.
3/ Các hình thức biểu hiện giá trị thặng dư trong phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa:
- Lợi nhuận thương nghiệp: là một phần giá trị thặng dư được tạo ra trong quá trình sản xuất mà nhà tư
bản công nghiệp nhượng cho tư bản thương nghiệp, để tư bản thương nghiệp bán hàng hoá thay cho
mình.Thực chất, lợi nhuận thương nghiệp chỉ là hình thức biến tướng của giá trị thặng dư nên nguồn gốc
của lợi nhuận thương nghiệp chính là một bộ phận lao động của công nhân không được trả công.
- Lợi tức và tỷ suất:
Lợi tức là một phần của lợi nhuận bình quân mà nhà tư bản đi vay trả cho nhà tư bản cho vay về quyền sở
hữu tư bản để được quyền sử dụng tư bản trong một thời gian nhất định. Ký hiệu là Z.
Tỷ suất lợi tức là tỷ lệ phần trăm giữa tổng số lợi tức và số tư bản tiền tệ cho vay trong một thời gian nhất định. Ký hiệu Z’.
- Địa tô: Địa tô tư bản chủ nghĩa là một phần dôi ra ngoài lợi nhuận bình quân (lợi nhuận siêu ngạch) của
tư bản kinh doanh trong nông nghiệp do công nhân nông nghiệp tạo ra, là số tiền mà nhà tư bản kinh
doanh trong nông nghiệp phải trả cho địa chủ để được sử dụng ruộng đất trong một thời gian nhất định.
CÂU 4: Tiền công là gì? Tại sao tiền công không phải là giá cả của lao động? Vì sao tiền công xóa
bỏ mọi vết tích phân chia lao động trả công và lao động không công?
1/ Tiền công là biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hóa sức lao động, là giá cả của hàng hóa sức lao động.
2/ Thực tế tiền công không phải giá trị hay giá cả của lao động, vì lao động không phải là hàng hóa, sở dĩ như vậy là vì:
Nếu lao động là hàng hóa, thì nó phải có trước, phải được vật hóa trong một hìnhthức cụ thể nào đó. Tiền
đề để cho lao động vật hóa được là phải có tư liệu sản xuất.Nhưng nếu người lao động có tư liệu sản xuất,
thì họ sẽ bán hàng hóa do mình sản xuất ra, chứ không bán "lao động". Việc thừa nhận lao động là hàng
hóa dẫn tới mộttrong hai mâu thuẫn về lý luận sau đây:
Thứ nhất, nếu lao động là hàng hóa và nó được trao đổi ngang giá, thì nhà tư bảnkhông thu được lợi
nhuận (giá trị thặng dư); điều này phủ nhận sự tồn tại thực tế củaquy luật giá trị thặng dư trong chủ nghĩa tư bản.
Thứ hai, còn nếu "hàng hóa lao động" được trao đổi không ngang giá để có giá trịthặng dư cho nhà tư
bản, thì phải phủ nhận quy luật giá trị.
Nếu lao động là hàng hóa, thì hàng hóa đó cũng phải có giá trị. Nhưng lao động làthực thể và là thước đo
nội tại của giá trị, bản thân lao động thì không có giá trị. Vìthế, lao động không phải là hàng hóa, cái mà
công nhân bán cho nhà tư bản chính làsức lao động. Do đó, tiền công mà nhà tư bản trả cho công nhân là
giá cả của sức lao động.
3/ bản chất của tiền công trong chủ nghĩa tư bản là hình thức biểu hiện bằngtiền của giá trị sức lao động,
hay giá cả của sức lao động, nhưng lại biểu hiện ra bềngoải thành giá cả của lao động. Nó được biểu hiện
ra bề ngoài thành giá cả của lao động vì:
+ Công nhân bán cho tư bản quyền sử dụng sức lao động ( không bán quyền sởhữu sức lao động vì thế
công nhân sau khi lao động cho nhà tư bản lại sử dụng sức laođộng đó cho bản thân mình, gia đình) +
Công nhân phải lao động cho nhà tư bản thì mới có tiền công ( Lao động làphương tiện kiếm sống của công nhân
+ Công nhân chỉ nhận được tiền công sau khi đã lao động cho nhà tư bản ( nếuchưa lao động thì nhà tư
bản chưa trả công cho công nhân) Vì cứ sau một thời gian lao động nhất định, người làm thuê được trả
một khoản tiền công nhất định. Điều đó thậm chí làm người lao động cũng nhầm hiểu là người mua sức
lao động đã trả công cho mình. Nhưng thật ra đó là bộ phận của giá trị mớido chính hao phí sức lao động
của người lao động thuê làm ra
CÂU 5: Tuần hoàn, chu chuyển tư bản là gì? Tốc độ chu chuyển tư bản và Ý nghĩa của việc nghiên
cứu chu chuyển tư bản?
- Tuần hoàn tư bản là sự vận động của tư bản, trải qua ba giai đoạn dưới ba hình thái kế tiếp nhau( tư bản
tiền tệ, tư bản sản xuất, tư bản hàng hóa) gắn với hiện thực chức năng tương ứng(chuẩn bị điều kiện để
sản xuất giá trị thặng dư, sản xuất giá trị thặng dư, thực hiện giá trị thặng dư) và quay trở về hình thái ban
đầu cùng với giá trị thặng dư T-H-H’-T’
(H – SLĐ+ TLSX – Sản xuất – H)
- Chu chuyển tư bản là tuần hoàn tư bản được xét là quá trình định kỳ, thường xuyên lặp đi lặp lại và đổi mới theo thời gian
=> Là thời gian một tư bản từ khi được ứng ra dưới một hình thái nhất định cho đến khi quay trở về hình
thái đó cùng với giá trị thặng dư
Tốc độ chu chuyển tư bản là số lần mà một tư bản được ứng ra dưới một hình thái nhất định quay trở về
hình thái đó cùng với giá trị thặng dư tính trong 1 đơn vị thời gian nhất định(thường là một năm) n = CH/ch
n là số vòng chu chuyển tư bản
CH là thời gian 1 năm ch là thời gian 1 vòng chu chuyển
CÂU 6: Tư bản bất biến, tư bản khả biến là gì? Mối quan hệ giữa tư bản bất biến, tư bản khả biến
với tư bản cố định, tư bản lưu động. Ý nghĩa của việc nghiên cứu các cặp tư bản trên.
1/ Tư bản bất biến: Bộ phận tư bản tồn tại dưới hình thái tư liệu sản xuất mà giá trị được lao động cụ thể
của công nhân làm thuê bảo tồn và chuyển nguyên vẹn vào giá trị sản phẩm, tức là giá trị không biến
đổi trong quá trình sản xuất (ký hiệu:c) c không tạo ra m nhưng là điều kiện cần thiết để cho quá trinh tạo m được diễn ra
Tư bản khả biến: Bộ phận tư bản tồn tại dưới hình thái sức lao động không tái hiện ra, nhưng thông qua
lao động trừu tượng của công nhân mà tăng lên, tứ là biến đổi về số lượng trong quá trình sản xuất, được
Mác gọi là tư bản khả biến(v) G = c+(v+m)
G là giá trị hàng hóa c là giá trị tư liệu
sản xuất được tiêu dùng
(v+m) là bộ phận mới của hàng hóa, do hao phí lao động tạo ra
2/ Tư bản cố định là bộ phận tư bản sản xuất tồn tại dưới hình thái tư liệu lao động tham gia toàn bộ quá
trình sản xuất nhưng giá trị chỉ chuyển dần dần, từng phần vào giá trị sản phẩm theo mức độ hao mòn
(hao mòn hữu hình + hao mòn vô hình)
- Tư bản lưu động là bộ phận tư bản sản xuất tồn tại dưới hình thái sức lao động, nguyên nhiên vật liệu,
vật liệu phụ, giá trị của nó được chuyển một lần, toàn phần vào giá trị sản phẩm khi kết thúc từng quá trình sản xuất.
3/ Nghiên cứu tư bản bất biến và tư bản khả biến có ý nghĩa về việc tìm ra nguồn gốc của giá trị thặng dư.
Nghiên cứu về tư bản cố định và tư bản lưu động có ý nghĩa về việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doan
Câu 7: Phân tích hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư. Tại sao K. Marx nói rằng giá trị
thặngdư siêu ngạch là hình thức biến tướng của giá trị thặng dư tương đối?
1/ Sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối: Giá trị thặng dư tuyệt đối là giá trị thặng dư thu được do kéo dài
ngày lao động vượt quá thời gian lao động tất yếu, trong khi năng suất lao động, giá trị sức lao động và
thời gian lao động tất yếu không thay đổi II.
Sản xuất giá trị thặng dư tương đối: Giá trị thặng dư tương đối là giá trị thặng dư thu được nhờ rút ngắn
thời gian lao động tất yếu, do đó kéo dài thời gian lao động thặng dư trong khi độ dài ngày lao động
không thay đổi hoặc thậm chí rút ngắn
Để hạ thấp giá trị sức lao động thì giảm giá trị các tư liệu sinh hoạt và dịch vụ cần thiết để tái sản xuất sức
lao động=>tăng năng suất lao động trong các ngành sản xuất ra tư liệu sinh hoạt và các ngành sản xuất ra
tư liệu sản liệu sản xuất để chế tạo ra tư liệu sinh hoạt đó
2/ Giá trị thặng dư siêu ngạch: Việc cải tiến kỹ thuật, tăng năng suất lao động sẽ xuất hiện ở 1 vài doanh
nghiệp cá biệt=>doanh nghiệp đó sẽ có giá trị thặng dư vượt trội.
Đây là động lực thúc đẩy các doanh nghiệp cải tiến kỹ thuật Đây là biến tướng của giá trị thặng dư tương
đối, là hiện tượng tạm thời. Nhưng xét toàn bộ xã hôi tư bản thì đây là hiện tượng tồn tại thường xuyên
Câu 8: Tích lũy tư bản là gì? Phân tích những nhân tố làm tăng quy mô tích lũy và hệ quả của nó?
Nguồn gốc, bản chất của tích lũy tư bản
Tái sản xuất: quá trình sản xuất liên tục được lặp đi lặp lại không ngừng -
Tái sản xuất giản đơn: Sự lặp lại quá trình sản xuất với quy mô như c => toàn bộ thặng dư để tiêu dùng -
Tái sản xuất mở rộng: Sự tăng lên quy mô trong quá trình sản xuất => một phần thặng dư được
chuyển hóa vào sản xuất. Sự chuyển hóa này gọi là tích l y tư bản
=> Bản chất tích lũy tư bản là quá trình tái sản xuất mở rộng thông qua chuyển giá trị thặng dư thành tư
bản phụ thêm để mua nguyên vật liệu, nhà xưởng, sức lao động, v.v….
Nhân tố ảnh hưởng đến tích lũy tư bản
1) Khối lượng giá trị thặng dư: phụ thuộc vào -
Trình độ khai thác sức lao động Sử dụng các phương pháp tăng giá trị thặng dư tuyệt đối và
tương đối, các biện pháp tăng ca kíp, cắt xén tiền lương… -
Năng suất lao động xã hội Tăng năng suất lao động xã hội làm giảm giá tư liệu sinh hoạt=>giảm
giá trị sức lao động=>tăng giá trị thặng dư
2) Tỷ lệ phân chia giá trị thặng dư sang tích lũy và tiêu dùng
3) Sử dụng hiệu quả máy móc (chênh lệch giữa tư bản cố định sử dụng và tư bản cố định đã tiêu dùng)
Trong thời gian máy móc khấu hao, máy móc vẫn giữ được giá tị sử dụng. Có thể sử dụng quỹ khấu
hao làm nguồn tài chính tư bản ứng trước
4) Quy mô tư bản ứng trước Tư bản ứng trước càng lớn thì càng nhiều giá trị thặng dư
Câu 9: Chi phí sản xuất TBCN khác với chi phí thực tế như thế nào? So sánh lợi nhuận và giá trị thặng dư?
1/ - Về mặt chất, chi phí sx TBCN phản ánh chi phí của nhà tư bản, nên ko có quan hệ với sự hình thành
gtri của hang hóa còn chí phí thực tế phản ánh đúng, đủ hao phí lao động xã hội cân thiết để sx và tạo rag tr hang hóa - Về mặt lượng thì; Chi phí sx TBCN k = c+v Chi phí thực tế W=c+v+m
2/ + Về mặt lượng: lợi nhuận và giá trị thặng dư thường không bằng nhau,lợi nhuận có thể cao hơn hoặc
thấp hơn giá trị thặng dư tuỳ thuộc vào giá cả hàng hoá do quan hệ cung - cầu quy định. Nhưng xét trên
phạm vi toàn xã hội, tổng số lợi nhuận luôn ngang bằng tổng số giá trị thặng dư
+ Về mặt chất: Thực chất lợi nhuận và giá trị thặng dư đều là một, lợi nhuận chẳng qua chỉ là một hình
thái thần bí hoá của giá trị thặng dư. Phạm trù lợi nhuận phản ánh sai lệch bản chất quan hệ sản xuất giữa
nhà tư bản và lao động làm thuê, vì nó làm cho người ta tưởng rằng giá trị thặng dư không phải chỉ do lao
động làm thuê tạo ra mà là do toàn bộ Tư bản ứng trước sinh ra
CÂU 10: Địa tô TBCN là gì? Địa tô TBCN khác địa tô phong kiến như thế nào? Trình bày các loại
địa tô TBCN.
1/ Địa tô tư bản chủ nghĩa là một phần dôi ra ngoài lợi nhuận bình quân (lợi nhuận siêu ngạch) của tư bản
kinh doanh trong nông nghiệp do công nhân nông nghiệp tạo ra, là số tiền mà nhà tư bản kinh doanh
trong nông nghiệp phải trả cho địa chủ để được sử dụng ruộng đất trong một thời gian nhất định.
2/ Địa tô phong kiến phản ánh quan hệ SX giữa 2 giai cấp: Địa chủ và nông nô. Địa tô TBCN phản ánh
QHSX giữa 3 giai cấp: Địa chủ (sở hữu ruộng đất); nhà TB kinh doanh nông nghiệp và công nhân nông
nghiệp.Địa tô TBCN nhỏ hơn địa tô phong kiến 3/ Các hình thức địa tô tư bản chủ nghĩa gồm:
Địa tô chênh lệch là phần lợi nhuận siêu ngạch ngoài lợi nhuận bình quân, thu
được trên những ruộng đất có điều kiện sản xuất thuận lợi. (Nó là số chênh
lệch giữa giá cả sản xuất chung của nông phẩm được quyết định bởi điều kiện
sản xuất trên ruộng đất xấu nhất và giá cả sản xuất cá biệt trên ruộng đất có
điều kiện canh tác thuận lợi hơn).
- Địa tô chênh lệch 1: thu được trên ruộng đất có độ màu mỡ đất đai tốt hơn, vị trí thuận lợi hơn.
- Địa tô chênh lệch 2: thu được do thâm canh.
Địa tô tuyệt đối là phần lợi nhuận siêu ngạch ngoài lợi nhuận bình quân mà mọi nhà tư bản kinh doanh
nông nghiệp đều phải nộp trả cho địa chủ, dù ruộng đất đó là tốt hay xấu