Triết học khoa học quản lý| Đại học Kinh Tế Quốc Dân
Đại học Kinh tế Quốc dân với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp các bạn định hướng và họp tập dễ dàng hơn. Mời bạn đọc đón xem. Chúc bạn ôn luyện thật tối và đạt điểm cao trong kì thi sắp tới
Môn: Kinh tế chính trị Mác-Lênin (KTCT2D02)
Trường: Đại học Kinh Tế Quốc Dân
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
Mục lục I. Lời mở đầu
II. Lý luận của Chủ nghĩa Mác Lênin về khủng hoảng kinh tế 2. Khái niệm 3. Biểu hiện 4. Nguyên nhân 5. Hậu quả
6. Tính chu kỳ của khủng hoảng kinh tế 6. Giải pháp
II. Liên hệ thực tiễn ở Việt Nam Tài liệu tham khảo Lời mở đầu
Sự bùng phát của dịch bệnh trong những năm gần đây và những biến động lớn trên
thế giới bao gồm chiến tranh, mâu thuẫn của những nước lớn, trung tâm kinh tế lớn
đã mang lại những thách thức, khó khăn chưa từng có tiền lệ, làm lay chuyển, biến
động nền kinh tế toàn cầu. Đứng trước những nguy cơ ..ấy, Việt Nam, cũng như rất
nhiều nền kinh tế khác chịu tác động đáng kể.
Trong quá khứ, có thể kể đến cuộc khủng hoảng tín dụng năm 1772, đại suy thoái
kéo dài hơn 1 thập niên năm 1929, khủng hoảng giá dầu 1973, khủng hoảng tài
chính năm 2008,… mang sức ảnh hưởng lớn khiến các nền kinh tế mất nhiều thời
gian và tài sản để phục hồi sau khủng hoảng. Và đó cũng chính là mặt trái luôn
thường trực của sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, thậm chí còn mang tính chu kỳ,
từ cuộc khủng hoảng này đến cuộc khủng hoảng khác.
Để đi sâu vào tìm hiểu những vấn đề kinh tế này, em đã chọn đề tài “Trình bày lý
luận của Chủ nghĩa Mác Lênin về khủng hoảng kinh tế và liên hệ với thực tiễn ở
Việt Nam” để khai thác và làm rõ.
I. Lý luận của Chủ nghĩa Mác Lênin về khủng hoảng kinh tế 1. Khái niệm
Khủng hoảng kinh tế được định nghĩa trong học thuyết Kinh tế chính trị của Mác
Leenin là để đề cập đến quá trình tái sản xuất đang tạm thời bị suy sụp, cũng chính
là khoảng thời gian biến chuyển sang giai đoạn suy thoái kinh tế. Khi đó, tình trạng
nền kinh tế của một quốc gia bị suy thoái đột ngột về tổng sản lượng hoặc tổng sản
phẩm quốc nội (GDP) thực tế. Kết quả của cuộc khủng hoảng kinh tế là sự sụt
giảm thu nhập thực tế trên đầu người và gia tăng tỷ lệ thất nghiệp và nghèo đói.
Trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, khủng hoảng kinh tế tồn tại dưới hình thức
khủng hoảng sản xuất “thừa”. Đây là một giai đoạn của chu kỳ của tư bản chủ
nghĩa, khi hàng hóa sản xuất thừa so với nhu cầu, với khả năng thanh toán của
người tiêu dùng, không phải “thừa” so với cầu thực tế của xã hội, khiến tái sản
xuất bị rối loạn. Khủng hoảng thừa mang sức tàn phá nặng nề, khiến tài chính đất
nước kiệt quệ, công nhân thất nghiệp, nhà máy đóng cửa, lạm phát cao khiến người
dân khốn khổ, nghèo đói.
Mác Leenin từng viết: “Cản trở của nền sản xuất tư bản chính là tư bản”. Theo
quan điểm của ông, khủng hoảng là đặc trưng của chủ nghĩa tư bản. Nguyên nhân
sâu xa của khủng hoảng kinh tế là mâu thuẫn cơ bản giữa tính chất xã hội của sản
xuất với hình thức chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa. 2. Biểu hiện
Ngay từ khi tiền tệ xuất hiện trong sản xuất hàng hóa giản đơn, nó đã mang mầm
mống cho sự khủng hoảng. Đến chủ nghĩa tư bản, khi nền sản xuất đã được xã hội
hóa cao độ, khủng hoảng kinh tế là không tránh khỏi, được biểu hiện rõ ràng và cụ thể như sau:
a) Hệ thống tín dụng rối loạn
Trong hệ thống tín dụng, các doanh nghiệp vay nợ lẫn nhau, tín dụng xuất hiện
cùng với sự xuất hiện của tiền tệ và quan hệ trao đổi hàng hóa nhằm đáp ứng nhu
cầu điều hòa vốn trong xã hội, quá trình tái sản xuất duy tín dụng và lưu thông.
Tuy nhiên, do sự ảnh hưởng của biến động thị trường khiến giá cả giảm mạnh,
hàng hóa tồn kho càng nhiều, mua bán ngưng trệ,… khiến thị trường tín dụng khan
hiếm. Điều này tác động mạnh đến thị trường kinh tế, khiến khủng hoảng nảy sinh.
b) Hệ thống tài chính khó khăn, mất khả năng cung ứng nguồn lực
Nguy cơ rủi ro lạm phát do nhiều yếu tố khách quan và chủ quan có thể dẫn tới suy
thoái hệ thống tài chính, cũng có thể đến những khó khăn như vòng quay vốn
chậm, dòng tiền đứt gãy, doanh nghiệp bị sụt giảm doanh thu, mất khả năng thanh
toán các khoản nợ đến hạn, gia tăng rủi ro về thu hồi nợ... Các nguồn lực cung ứng
dần trở nên khan hiếm, thậm chí doanh nghiệp mất khả năng cung ứng nguồn lực,
từ đó khiến các doanh nghiệp sụp đổ, hàng hóa không đủ với cầu,…
c) Bất ổn, mất cân đối trong sản xuất
Muốn thực hiện được sản phẩm trong xã hội tư bản chủ nghĩa thì đòi hỏi phải có sự
phân phối cân đối giữa các ngành sản xuất. Lê-nin từng nhấn mạnh: “Ngay cả khi
tái sản xuất và lưu thông của toàn bộ tư bản xã hội được tiến hành đều đặn và có tỷ
lệ một cách lý tưởng, mâu thuẫn giữa sự phát triển của nền sản xuất và những giới
hạn của sự tiêu dùng cũng không tránh được. Huống hồ trong thực tế, quá trình
thực hiện không diễn ra theo một tỷ lệ cân đối, đều đặn một cách lý tưởng, mà chỉ
diễn ra qua những khó khăn, biến động, khủng hoảng.”
d) Các chỉ số kinh tế vĩ mô như lạm phát, tỉ giá biến động mạnh, khó kiểm soát
Việc hệ thống tín dụng và ngoại thương mở rộng khiến tình trạng đầu cơ tích trữ
trở thành một vấn nạn lớn, lạm phát tăng cao,… Từ đó giá cả tăng vọt, vượt quá
khả năng thanh toán của người tiêu dùng khiến hàng hóa tồn đọng, hiện tượng sản
xuất thừa ngày càng trở nên trầm trọng. Khi gián sản phẩm leo thang quá cao và
kéo dài trong một thời gian do một số người đầu cơ tích trữ với hy vọng sẽ bán lợn
với giá cao ở một thời gian sau gây lũng đoạn thị trường. Nếu đầu cơ tích trữ bị
đẩy lên cao như “bong bóng” rất dễ dẫn đến sụp đổ giá trị tài sản. Một minh chứng
nổi bật nhất của hình thức khủng hoảng này đó là sự kiện khủng hoảng Hoa tulip
Hà Lan thế kỷ 17 hay vụ sụp đổ của thị trường chứng khoán phố Wall năm 1929.
e) Dư thừa các loại giấy tờ có giá
Việc phát hành giấy thông qua số lượng cần thiết để lưu thông sẽ gây ra lạm phát.
Khủng hoảng tài chính tiền tệ bắt nguồn do sự dư thừa của tư bản tiền tệ trong các
hệ thống các ngân hàng. Sự di chuyển của các dòng vốn giữa các quốc gia gây ra
tình trạng thiếu tiền ở thị trường này nhưng thừa tiền ở thị trường khác.
d) Dư thừa trái phiếu của Chính phủ
Khủng hoảng nợ công nổ ra khi lạm phát xảy ra, tình trạng dư thừa trái phiều biến
những khoảng tiết kiệm cuối cùng của người dân trở thành tư bản. 4. Nguyên nhân
Mác coi khủng hoảng kinh tế như là kết quả tất yếu của phương thức sản xuất tư
bản chủ nghĩa. Nguyên nhân sâu xa của khủng hoảng là do những mâu thuẫn trong
lòng xã hội tư bản, cốt lõi đến từ mâu thuẫn giữa sự phát triển vượt trội của lực
lượng sản xuất so với tính chất chật hẹp của chế độ sở hữu tư nhân tư liệu sản xuất
chủ yếu của xã hội, được biểu hiện cụ thể như sau:
a) Mâu thuẫn giữa tính có tổ chức, có kế hoạch trong từng xí nghiệp với tình trạng
sản xuất vô Chính phủ trong toàn xã hội
Trong xí nghiệp, công nhân đổi lao động của mình lấy tư liệu sinh hoạt, làm theo
và phục vụ cho nhu cầu của tư bản. Còn trong xã hội, khi các nhà tư bản tiến hành
sản xuất mà không nắm bắt được nhu cầu của xã hội, tỷ lệ cung và cầu sẽ dần bị rối
loạn, quan hệ tỷ lệ giữa các ngành sản xuất cũng bị phá hủy và dẫn đến khủng
hoảng kinh tế. Ví dụ điển hình của khủng hoảng thừa, diễn ra nhiều vào sau cuộc
cách mạng công nghiệp Anh, khi mà máy móc dần thay thế cho sức lao động, điều
này đã khiến cho công nhân thất nghiệp hàng loạt, không có thu nhập. Trong khi
đó hàng hóa sản xuất ra ngày càng nhiều và họ không có tiền để mua những sản phẩm tiêu dùng đó.
b) Mâu thuẫn giữa xu hướng mở rộng sản xuất vô hạn của chủ nghĩa tư bản với sức
mua có hạn của quần chúng lao động
Lợi nhuận siêu ngạch là điều mà các nhà tư bản luôn hướng tới và theo đuổi, chính
vì vậy họ không ngừng mở rộng sản xuất, nâng cao, cải tiến kỹ thuật để cạnh tranh
với đối thủ. Tuy nhiên quá trình đó đồng thời cũng là quá trình bần cùng hóa nhân
dân lao động, họ không thể mua hết hoặc không thể chi trả cho hàng hóa, từ đó
khiến sức mua của quần chúng giảm bớt, sức mua lạc hậu so với sự phát triển
không ngừng của sản xuất.
Dựa trên cơ sở lý luận giá trị và giá trị thặng dư, Mác cho rằng công nhân làm thuê
luôn sản xuất ra một lượng giá trị mà họ không thể nào mua hết được, đó chính là
giá trị thặng dư. Nền sản xuất tư bản chủ nghĩa chỉ tồn tại trong chừng mực mà
công nhân luôn phải sản xuất ra giá thặng dư cho nhà tư bản hay cơ sở của nền sản
xuất tư bản chủ nghĩa là sự bóc lột ngày càng nhiều giá trị thặng dư. Do đó, sản
xuất “thừa” là tình trạng hiển nhiên.
c) Mâu thuẫn đối kháng giữa tư bản và lao động
Tư bản chủ nghĩa được cấu tạo từ hai yếu tố của sản xuất tách rời nhau: tư liệu sản
xuất tách rời người trực tiếp sản xuất. Sự tách rời đó biểu hiện rõ nhất trong khủng
hoảng kinh tế. Trong khi tư liệu sản xuất thừa thãi bị bỏ quên, chất đống trong kho,
mục nát dần thì người lao động lại không có việc làm. Khi hai yếu tố tư liệu sản
xuất và người sản xuất không kết hợp với nhau thì guồng máy sản xuất của tư bản
chủ nghĩa sẽ bị tê liệt, ngưng hoạt động.
d) Yếu tố “ngoại sinh”
Thiên tai, dịch bệnh, chiến tranh cũng có thể là yếu tố trực tiếp dẫn tới khủng
hoảng kinh tế. Có thể kể đến chiến tranh thế giới thứ 2, cuộc chiến đã tàn phá hoàn
toàn nền kinh tế toàn cầu, khiến sản lượng sa sút. Hiện nay, ở một số quốc gia vẫn
thường xảy ra chiến tranh, nội chiến khiến nền kinh tế suy giảm trầm trọng. 5. Hậu quả
Dưới tác động của khủng hoảng kinh tế, nền kinh tế quốc gia và cả thế giới phải
hứng chịu những hậu quả to lớn:
a) Các hoạt động thương mại, đầu tư, tiêu dùng của mỗi quốc gia đều sụt giảm mạnh
Dưới tác động của khủng hoảng tài chính và những cuộc suy thoái toàn cầu, các
hoạt động kinh doanh, hoạt động thương mại, đầu tư và tiêu dùng đều suy giảm,
thậm chí có thể lâm vào tình trạng phá sản cấp quốc gia.
Các chỉ số kinh tế vĩ mô như lạm phát, tỉ giá biến động mạnh, khó kiểm soát, các
cân đối vĩ mô bị phá vỡ khiến đồng tiền mất giá, một số thị trường có ảnh hưởng,
lan tỏa lớn như thị trường bất động sản, chứng khoán bước vào giai đoạn căng
thẳng hoặc suy thoái. Nhiều doanh nghiệp, ngân hàng và các định chế tài chính phá
sản, tình trạng mất việc làm và thất nghiệp tăng cao, hàng triệu người lâm vào cảnh
đói nghèo, từ đó rối loạn và xung đột xã hội nảy sinh, bạo loạn và chiến tranh xuất hiện.
Có thể kể tới cuộc khủng hoảng và suy thoái kinh tế toàn cầu giai đoạn 1929 -
1933 là nguyên nhân chủ nghĩa phát-xít phát sinh trong thập niên 30 của thế kỷ XX
và là nguyên nhân chính dẫn đến Chiến tranh thế giới thứ hai tàn khốc. Hậu quả
của cuộc khủng hoảng này và của Chiến tranh thế giới thứ hai là nhiều chế độ đã bị
sụp đổ, nhiều nền kinh tế đã bị tan rã. Sản lượng công nghiệp của toàn thế giới
giảm 20%, ở Mỹ, hầu hết ngân hàng phá sản, các thị trường chứng khoán, bất động
sản tan vỡ và sụp đổ, con số thất nghiệp cũng tăng đáng kể, lên tới 30%.
b) Xuất hiện các nhà độc quyền
Khủng hoảng kinh tế nổ ra có thể là thời cơ để các nhà tư bản lớn chuộc lợi, thu
được nhiều lợi ích. Các cuộc khủng hoảng dẫn tới tích tụ tư bản, gắn liền với xu
hướng chung của mức độ tập trung tư bản, là điều kiện gián tiếp dẫn tới độc quyền.
Suy thoái về kinh tế làm cho nhiều xí nghiệp nhỏ và vừa bị phá sản, một số sống
sót phải đổi mới kỹ thuật để thoát khỏi khủng hoảng, do đó thúc đẩy quá trình tập
trung sản xuất. Tín dụng tư bản chủ nghĩa mở rộng, trở thành đòn bẩy mạnh mẽ
thúc đẩy tập trung sản xuất. Những nhà tư bản lớn với nhiều tài lực đã thâu tóm
sản phẩm của ngành, khiến rối loạn quá trình sản xuất và lưu thông.
c) Mâu thuẫn giữa tư bản và người lao động tăng cao
Trong khi một khối lượng khổng lồ của cải bị tiêu huỷ thì hàng triệu người lao
động lâm vào tình cảnh đói khổ. Hàng triệu người lao động làm thuê bị mất việc
làm. Lợi dụng tình hình thất nghiệp gia tăng, các nhà tư bản tăng cường bóc lột
công nhân bằng cách hạ thấp tiền công, tăng cường độ, tăng thời gian lao động. Bất
công xã hội gia tăng, khoảng cách giàu nghèo ngày càng lớn và mâu thuẫn xã hội nảy sinh.
Theo báo cáo của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), Covid 19 đã làm chao đảo nền
kinh tế toàn thế giới, khiến số lượng thất nghiệp toàn cầu dự kiến duy trì ở mức cao
ít nhất đến 2023. Khoảng 52 triệu người mất việc làm trong năm 2022, tăng gấp
đôi dự đoán đưa ra hồi tháng 5/2021. Các nhóm lao động và các quốc gia đều bị
tác động ở mức độ khác nhau bởi cuộc khủng hoảng lao động. Tình trạng này được
cảnh báo sẽ làm tình trạng bất bình đẳng thêm sâu sắc và làm suy yếu cơ cấu kinh
tế, tài chính xã hội, khiến các nước có thể cần nhiều năm để khắc phục thiệt hại và hệ quả của chúng.
d) Đẩy mâu thuẫn cơ bản của tư bản chủ nghĩa càng gay gắt
Trong xã hội tư bản chủ nghĩa, hai giai cấp tư sản và vô sản đối lập nhau về lợi ích.
Khi khủng hoảng nổ ra, sự căng thẳng của hai giai cấp càng nâng lên, khi quần
chúng nhân dân lao động lâm vào nghèo đói, bị bóc lột sức lao động và ép làm quá
giờ, trong họ nảy sinh ý thức đấu tranh, lật đổ giai cấp. Từ đó đẩy mạnh việc đấu
tranh giai cấp một cách mạnh mẽ. Cùng lúc, khi suy thoái kinh tế kéo dài, sự tập
trung tư liệu sản xuất vào tay tư bản làm xung đột lợi ích, cạnh tranh về phân chia
các nguồn lực. Mác tin rằng, cuộc xung đột giai cấp này sẽ dẫn tới việc đấu tranh
lật đổ giai cấp tư sản để biến tài sản tư nhân thành sở hữu chung.
6. Tính chu kỳ của khủng hoảng kinh tế
Khủng hoảng kinh tế xuất hiện làm cho quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa mang
tính chu kỳ, là khoảng thời gian nền kinh tế tư bản chủ nghĩa vận động từ đầu cuộc
khủng hoảng này đến đầu cuộc khủng hoảng sau, thường kéo dài từ 8 đến 12 năm.
Theo Mác, tính chu kỳ của khủng hoảng kinh tế bao gồm bốn giai đoạn theo thứ tự
lần lượt: khủng hoảng, tiêu điều, phục hồi và hưng thịnh.
Khủng hoảng: là giai đoạn khởi đầu của một chu kỳ kinh tế mới. Ở giai đoạn này,
hàng hóa tồn kho, dư thừa, hoạt động thương mại rối loạn, xí nghiệp đóng cửa, giá
cả sụt giảm, tỷ lệ thất nghiệp và nghèo đói tăng cao đột biến. Đặc biệt, sau đó là sự
xuất hiện của lạm phát cao và đình trệ kinh tế do khủng hoảng kinh tế. Lực lượng
sản xuất bị tàn phá và tan rã, tư bản không còn khả năng chi trả và thanh toán các
khoản nợ dẫn đến phá sản. Đây cũng là giai đoạn mà các mâu thuẫn kinh tế biểu
hiện dưới hình thức xung đột dữ dội.
Tiêu điều: ở giai đoạn này, sản xuất bị đình trệ, tuy không còn sụt giảm nghiêm
trọng nhưng cũng không tăng lên, vẫn luôn giậm chân tại chỗ, thương nghiệp đình
đốn, hàng hóa bị bán phá giá,… Để giải quyết tình trạng này, các nhà tư bản chấp
nhận mọi cách để giảm chi phí hàng hóa, hạ thấp tiền công nhưng tăng giờ làm
việc, tăng cường độ lao động của công nhân để có thể lấy lại lãi trong quá trình sản
xuất trong khi hàng hóa vẫn bị bán ra trong tình trạng hạ giá. Việc đổi mới tư bản
cố định làm tăng nhu cầu về tư liệu sản xuất, tư liệu tiêu dùng, đồng thời tạo điều
kiện cho sự phục hồi chung của nền kinh tế.
Phục hồi: đây là quá trình tái cơ cấu, thúc đẩy năng suất lao động để vượt qua giai
đoạn kinh tế khó khăn. Các nhà xưởng được mở rộng và phát triển sản xuất. Mức
sản xuất dần trở về quỹ đạo, vật giá tăng lên, lượng lao động thất nghiệp dần được
thu hút, tư bản “hồi sinh” một cách tích cực.
Hưng thịnh: là giai đoạn phục hồi mạnh mẽ, chuyển dần sang phát triển và tăng
trưởng nhanh vượt quá điểm cao nhất mà chu kỳ trước đã đạt được. Hoạt động
thương mại và sản xuất phát triển, từ đó mà yếu tố việc làm có xu hướng chuyển
dịch tích cực. Việc làm nhiều kéo theo các nhu cầu về lực lượng lao động. Các
ngân hàng tăng trưởng, cho vay trở lại, dần dần tiếp nối cho giai đoạn chạm đáy,
chuyển giao sang su thoái và bắt đầu một chu kỳ mới. 6. Giải pháp
Theo Mác, để giải quyết khủng hoảng kinh tế, các doanh nghiệp phải tự thoát ra
khỏi khủng hoảng bằng cách giảm tiền công, tăng cường độ lao động của công
nhân, tích cực đổi mới tư bản cố định. Tuy nhiên, để có thể khôi phục nền kinh tế
mỗi quốc gia nói riêng và cũng như giữ nền kinh tế thế giới nói chung có thể bước
vào giai đoạn phục hồi, phát triển trở lại, mỗi quốc gia có những biện pháp, chính
sách và đường lối thay đổi khác nhau để có thể phát huy lợi thế kinh tế, tận dụng
nguồn lực của đất nước một cách triệt để. Từ đó, ta có thể tổng hợp được các giải pháp chung như sau: a) Giải pháp kích cầu
Đây vẫn là một giải pháp ngắn hạn, tình thế. Tuy nhiên sự kích cầu có thể giúp nền
kinh tế dần hồi phục thông qua những chính sách tăng vốn, hỗ trợ lãi suất, bảo lãnh
tín dụng, miễn giảm thuế, tăng vốn đầu tư,… Nhưng thông qua đó các doanh
nghiệp cần đảm bảo và lên phương án dài hạn hơn để đẩy mạnh sản xuất, kinh
doanh, đầu tư vào các dự án hiệu quả để quay vòng vốn, thu hút lao động, đưa vốn
vào các dự án có sức mua mới của hàng hóa, không nên đầu tư một cách dàn trải.
Tập trung giải quyết các khó khăn hiện tại để đẩy mạnh sản xuất và mở rộng, phát triển. b) Chính sách tài khóa
Chính sách tài khóa thường được các chính phủ ưu tiên để điều tiết nền kinh tế
thông qua chính sách chi tiêu mua sắm và thuế, đưa nền kinh tế về trạng thái cân
bằng. Cụ thể, đây là một công cụ của chính sách kinh tế vĩ mô nhằm tác động vào
quy mô hoạt động kinh tế thông qua biện pháp thay đổi chi tiêu và thuế của chính
phủ. Khi nền kinh tế đang ở tình trạng suy thoái, nhà nước có thể giảm thuế, tăng
chi tiêu (đầu tư công) để chống lại. Chính sách tài chính như thế gọi là chính sách
tài khóa mở rộng. Mục tiêu chủ yếu của chính sách tài khóa là làm giảm quy mô
biến động của sản lượng trong chu kỳ kinh doanh.
Việc đảm bảo việc làm và giảm thất nghiệp vô cùng quan trọng. Khi sức ép về việc
làm gia tăng, giải quyết việc làm cũng là một mục tiêu kinh tế vĩ mô quan trọng của chính sách tài khóa.
Sự thay đổi về mức độ, thành phần thuế, điều chỉnh chi tiêu của Chính phú sẽ phần
nào giúp ổn định và điều chỉnh tổng cầu, mức độ hoạt động kinh tế, sự phân bổ
nguồn lực sản xuất kinh doanh, phân phối thu nhập.
c) Ổn định giá cả và tiền tệ, chống nguy cơ lạm phát
Sau khủng hoảng, khi thương mại toàn cầu phục hồi do nhu cầu gia tăng từ các
nước lớn, song chuỗi cung ứng vẫn đứt gãy và lưu thông, vận chuyển khó khăn đẩy
lạm phát, chi phí sản xuất tăng cao trên toàn cầu, giá hàng hóa, nguyên vật liệu thế
giới, như dầu mỏ, lương thực, thực phẩm, sắt thép, cước phí vận chuyển tăng cao
nhất trong nhiều năm. Chính sách tiền tệ có xu hướng giảm dần quy mô nới lỏng
hoặc tăng lãi suất chính sách để đối phó với áp lực lạm phát. Các hệ thống tín dụng
nên được triển khai, tận dụng chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa để kiểm soát
lạm phát chặt chẽ nhưng linh hoạt, thận trọng theo cơ chế thị trường.
Việc kiểm soát lạm phát hướng đến hoàn thành các chỉ tiêu cần phải được đặt trong
đa mục tiêu về thúc đẩy tăng trưởng, ổn định nền tảng kinh tế vĩ mô, là đòn bẩy
cho sản xuất, kinh doanh cũng như ổn định tâm lý người tiêu dùng. Đồng thời
chính phủ cũng cần thời triển khai các giải pháp hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn, đồng
hành cùng doanh nghiệp và người dân.
d) Tăng cường giám sát của chính phủ đối với hệ thống tài chính và các thị trường
Việc tăng cường giám sát giúp bảo đảm mức cung ứng tiền tệ ổn định trong nền
kinh tế, mức lãi suất chênh lệch giữa các ngành có tỉ suất lợi nhuận khác nhau.
Việc kiểm tra tín dụng của các ngân hàng thương mại, đặc biệt là tín dụng trong
các ngành rủi ro cao như bất động sản, chứng khoán là vô cùng quan trọng. Từ đó
có thể sớm có biện pháp đối phó với những biến động xấu từ tài chính các ngân hàng.
e) Tăng cầu trong nước đồng thời đẩy mạnh xuất khẩu
Cần đẩy mạnh đa dạng hóa các thị trường xuất khẩu cũng như các mặt hàng xuất
khẩu. Thông qua các biện pháp chính sách khuyến khích xuất khẩu của nhà nước,
tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu và giảm nhập siêu, thực hiện chế độ tỷ giá linh
hoạt hỗ trợ xuất khẩu và tăng mức tín dụng ưu đãi cho sản xuất hàng xuất khẩu.
Bên cạnh đó, cần thúc đẩy và tăng cường phát triển thị trường trong nước, ổn định
kinh tế vĩ mô, tạo nền tảng để phát triển bền vững, bảo đảm cân đối kinh tế, gắn kết
khâu chế biến và xuất khẩu, đồng thời cần phát triển hệ thống phân phối, hệ thống bán lẻ trong nước.
g) Hạn chế và cố gắng triệt tiêu mẫu thuẫn sẵn có và mới phát sinh trong hệ tư bản chủ nghĩa
Vấn đề an sinh xã hội, xóa đói giảm nghèo cần được đề cao, tăng cường. Các
doanh nghiệp cần có những chính sách thu hút lao động, tạo công ăn việc làm cho
người lao động. Đặc biệt cần những chính sách hỗ trợ cho người nghèo, người lao
động để giảm bớt tỷ lệ thất nghiệp, nâng cao chất lượng đời sống quần chúng nhân dân.
II. Liên hệ thực tiễn ở Việt Nam
1. Tình hình kinh tế ở Việt Nam
Theo báo cáo của Chương trình phát triển Liên hợp quốc (UNDP) công bố
27/09/2021, Đại dịch Covid-19 là một cuộc khủng hoảng sức khỏe, tuy nhiên hệ
lụy của nó không chỉ là thiệt hại về mạng sống con người. Nó là thách thức kinh tế
nghiêm trọng nhất, thậm chí còn sâu rộng và để lại hậu quả sâu rộng hơn cả cuộc
đại suy thoái, cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008- 2009.
Việt Nam đã có những chính sách hỗ trợ tăng trưởng, tăng thị trường việc làm và
thu nhập của người lao động cho những hộ gia đình, những hộ kinh doanh trong
tình thế khó khăn để đảm bảo ngăn cản lạm phát và những tác động tiêu cực đến
cán cân thanh toán. Trong khi ở khu vực Đông Nam Á, chi tiêu bổ sung cho y tế và
an sinh xã hội dao động từ mức cao là 18% GDP ở Singapore đến 0% ở CHDCND
Lào. Theo IMF (Quỹ tiền tệ Quốc tế), Việt Nam đã tăng chi tiêu cho y tế và an sinh
xã hội lên 2% GDP từ tháng 1 năm 2020 đến tháng 6/2021. Mục tiêu của chính
sách này để hỗ trợ cho các đối tượng có hoàn cảnh khó khăn trong trường hợp kéo
dài thời gian giãn cách xã hội và đồng thời để duy trì tiêu dùng trong nước.
Do các gia đình giảm bớt chi tiêu trong thời kỳ đại dịch từ khi Covid 19 bùng bổ
nên tiêu dùng đóng góp tương đối ít trong tăng trưởng sản lượng. Tuy tiêu dùng đã
dần phục hồi và thích nghi năm 2021, việc cắt giảm chi tiêu là bắt buộc do không
thể tiêu dùng theo kế hoạch. Điều này ảnh hưởng tới thu nhập của các công ty
trong nước sản xuất, vận chuyển và bán những hàng hóa, dịch vụ đó.
2. Vận dụng các biện pháp của Mác vào nền kinh tế Việt Nam
Trước những diễn biến bất ổn của nền kinh tế hiện nay, Chính phủ đã xác định
nhiệm vụ trọng tâm cấp bách là “nỗ lực tập trung ngăn chặn suy giảm kinh tế, thúc
đẩy sản xuất – kinh doanh, đẩy mạnh xuất khẩu, kích cầu đầu tư và tiêu dùng, đảm bảo an sinh xã hội”.
a) Chính sách hỗ trợ doanh nghiệp
Trong bối cảnh phải chịu tác động của đại dịch Covid- 19, Chính phủ ban hành các
giải pháp chính sách tài khóa để phòng, chống dịch đồng thời tháo gỡ khó khăn, hỗ
trợ doanh nghiệp. Trong đó các giải pháp về miễn, giảm thuế gồm: giảm thuế thu
nhập doanh nghiệp phải nộp đối với doanh nghiệp, tổ chức, trong đó miễn giảm lên
tới trên 30 loại phí, lệ phí trong năm 2021. Dự kiến, nhà nước sẽ duy trì và tăng
quy mô gói hỗ trợ người dân và doanh nghiệp với tổng giá trị tiền thuế, tiền thuê
đất, phí và lệ phí được miễn giảm, gia hạn năm 2021 khoảng 144 nghìn tỷ đồng,
trong đó: số tiền gia hạn khoảng 119,4 nghìn tỷ đồng; số tiền miễn giảm khoảng 24,6 nghìn tỷ đồng. b) Đầu tư công
Trong thời gian tới, đầu tư công vẫn là bệ đỡ chính cho tăng trưởng kinh tế. Cần
đẩy nhanh tiến độ giải ngân vốn đầu tư công, chú trọng đầu tư vào những dự án
còn chậm trễ giải ngân, đặc biệt là những dự án có quy mô lớn, quan trọng và có
tính đột phá chiến lược về kết cấu hạ tầng, góp phần tăng trưởng kinh tế.
c) Chính sách an sinh xã hội
Chính phủ tích cực hỗ trợ người dân thông qua những chính sách an sinh xã hội, hỗ
trợ người bị tạm ngừng việc, trợ cấp cho người nghèo,… những người bị ảnh
hưởng bởi dịch bệnh. Cần ưu tiên hàng đầu về nguồn lực cũng và thực hiện nhanh
chóng trước khi dịch bệnh tái bùng phát.
d) Thực hiện tốt các biện pháp phòng chống dịch để triệt để dập dịch
Việc thực hiện tốt phòng ngừa lây lan của bệnh dịch để dịch không bùng phát, tạo
điều kiện cho việc mở rộng quan hệ quốc tế, đặc biệt là thương mại. Đồng thời, chỉ
khi triệt để đẩy lùi đại dịch này, kinh tế mới có thể khôi phục toàn diện và phát triển.
e) Thúc đẩy phát triển công nghệ và công nghệ thông tin
Việc đổi mới, sáng tạo, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là vô cùng quan
trọng, giúp tăng trưởng kinh tế đồng thời cải thiện đời sống người dân. Từ đó xây
dựng Việt Nam trở thành nước công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại,
quan hệ cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất, tinh thần cao, sẵn sàng đối mặt với
dịch bệnh và nhanh chóng phục hồi. 3. Kết luận
Sự bùng phát và lây lan chưa rõ hồi kết của đại dịch COVID-19 đã và đang làm
trầm trọng thêm xu hướng suy thoái, khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Nền kinh tế
Việt Nam đang từng bước phục hồi và phát triển trong điều kiện bình thường mới,
công tác quản lý hành chính của Chính phủ đã đạt được những thành công bước
đầu. Khai thác tối đa thị trường trong nước, đồng thời phòng ngừa, ứng phó với các
bất ổn từ bên ngoài, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm
an sinh xã hội, sinh kế, việc làm, đời sống đối với người lao động là những nội
dung hết sức cần thiết trong thời gian tới. Tài liệu tham khảo:
1. Giáo trình Kinh tế Chính trị Mác Lênin 2. https://mof.gov
.vn/webcenter/portal/btcvn/pages_r/l/tin-bo-tai-chinh? dDocName=MOFUCM220469 3. https://vass.gov
.vn/nghien-cuu-khoa-hoc-xa-hoi-va-nhan-van/Tac-dong-cua-
dai-dich-Covid-19-den-tang-truong-kinh-te-va-phat-trien-ben-vung-o- V iet Nam-104
4. http://thoibaotaichinhvietnam.vn/pages/nhip-song-tai-chinh/2021-02-
06/viet-nam-dang-co-loi-the-rat-lon-trong-khung-hoang-kinh-te-the-gioi- 99479.aspx 5. https://www
.studocu.com/vn/document/truong-dai-hoc-ngoai-thuong/kinh-
te-chinh-tri/khung-hoang-kinh-te-toan-cau-nguyen-nhan-hau-qua-cach-khac- phuc-ktct-ftu/24466731
6. https://vietnambiz.vn/khung-hoang-kinh-te-tu-ban-chu-nghia-capitalist-
economic-crisis-la-gi-20191024190439993.htm