Triết học về con người qua các thời kỳ lịch sử - Triết học Mác - Lênin | Đại học Tôn Đức Thắng

Triết học là hệ thống tri thức lý luận chung nhất của con người về thế giới; vềvị trí, vai trò của con người trong thế giới ấy. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

1
Chương 1
TRIẾT HỌC VÀ VAI TRÒ CỦA TRIẾT HỌC TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI
Triết học hệ thống tri thức lý luận chung nhất của con người về thế giới; về
vị trí, vai trò của con người trong thế giới ấy. Triết học ra đời từ rất sớm trong
lịch sử nhân loại với hai nguồn gốc: nguồn gốc nhận thức nguồn gốc hội.
Vấn đề bản của triết học mối quan hệ giữa duy tồn tại. Việc giải
quyết vấn đề bản của triết học đã hình thành hai trường phái triết học đối lập
nhau là chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm. Hai phương pháp tư duy chung
nhất, đối lập nhau của triết họcphương pháp biện chứng và phương pháp siêu
hình.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng sự thống nhất giữa thế giới quan duy vật
phương pháp biện chứng. Với tư cách là một thế giới quan và phương pháp luận
khoa học, học thuyết Mác - Lênin vẫn không ngừng đổi mới phát triển. Với
tư cách là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hoạt động thực tiễn của giai cấp
sản, đòi hỏi Đảng lãnh đạo của giai cấp này phải luôn biết vận dụng chủ
nghĩa Mác - Lênin một cách sáng tạo.
I. TRIẾT HỌC VÀ VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA TRIẾT HỌC
1. Khái lược về triết học
1.1. Nguồn gốc của triết học
Triết học là dạng tri thức lý luận xuất hiện sớm nhất trong lịch sử nhân loại, ra
đời cả Phương Đông Phương Tây khoảng từ thế kO VIII đến thế kO VI
tr.CN tại các trung tâm văn minh lớn như Trung Quốc, Ấn Độ, Hy Lạp( Phương
tây).
Triết học ra đời từ thực tiễn, do nhu cầu của thực tiễn; nó có nguồn gốc nhận
thức và nguồn gốc xã hội.
* Nguồn gốc nhận thức
Trước khi triết học xuất hiện đã hoạt độngthế giới quan thần thoại chi phối
nhận thức của con người.
Về mặt lịch sử, duy huyền thoại tín ngưỡng nguyên thủy loại hình
triết đầu tiên con người dùng để giải thích thế giới xung quanh. Triết học
chính hình thức duy luận đầu tiên trong lịch sử tưởng nhân loại, thay
thế được cho tư duy huyền thoại và tôn giáo.
Nói đến nguồn gốc nhận thức của triết học là nói đến sự hình thành, phát triển
của duy trừu tượng, của năng lực khái quát trong nhận thức của con người.
2
Tri thức cụ thể, riêng lẻ về thế giới đến một giai đoạn nhất định phải được tổng
hợp, trừu tượng hóa, khái quát hóa thành những khái niệm, phạm trù, quan điểm,
quy luật, luận thuyết… đủ sức phổ quát để giải thích thế giới. Đó là lúc triết học
xuất hiện.
* Nguồn gốc xã hội ( giai cấp tri thức-chiếm hữu nô lệ)
Triết học ra đời khi nền sản xuất hội đã sự phân công lao động xuất
hiện giai cấp. Khi lao động trí óc tách khỏi lao động chân tay thì đội ngũ trí thức
xuất hiện với cách một tầng lớp hội, có vị thế hội xác định. Tầng lớp
này điều kiện, năng lực nhu cầu nghiên cứu. Những người xuất sắc trong
tầng lớp này đã hệ thống hóa tri thức thời đại dưới dạng các quan điểm, các học
thuyết luận; giải thích được sự vận động, quy luật hay các quan hệ nhân quả
của một đối tượng nhất định. Họ được hội công nhận các nhà thông thái,
các triết gia.
1.2. Khái niệm Triết học
Trung Quốc, chữ Triết nghĩa Trí, nhằm diễn đạt sự truy tìm bản chất
của đối tượng nhận thức, thường con người, hội, trụ tưởng tinh
thần.
Ấn Độ, thuật ngữ nghĩa gốc hàm ý conDar'sana chiêm ngưng,
đường suy ngẫm để dẫn dắt con người đến với lẽ phải, thấu đạt được chân về
trụ và nhân sinh. Ở phươngy, thuật ngữ triết học - Philosophia - vừa mang
nghĩa giải thích trụ, định hướng nhận thức hành vi, vừa nhấn mạnh đến
khát vọng tìm kiếm chân lý.
Như vậy, cả phương Đông phương Tây, ngay từ đầu, triết học đã hoạt
động tư duy lý luận có trình độ trừu tượng hóa và khái quát hóa rất cao.
Trên sở khái quát đối tượng nhận thức đặc trưng của tri thức triết học,
chủ nghĩa Mác Lênin định nghĩa: Triết học hệ thống quan điểm luận
chung nhất về thế giới vị trí con người trong thế giới đó, khoa học về
những quy luật vận động, phát triển chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy.
Triết học khác với các khoa học khác tính đặc thù của hệ thống tri thức
phương pháp nghiên cứu. Tri thức triết học mang tính khái quát cao dựa trên sự
trừu tượng hóa sâu sắc về thế giới, về bản chất cuộc sống con người. Phương
pháp nghiên cứu của triết học xem xét thế giới như một chỉnh thể trong mối
quan hệ giữa các yếu tố tìm cách đưa lại một hệ thống các quan niệm về
chỉnh thể đó. Triết học sự diễn tả thế giới quan bằng luận. Triết học chỉ
thể thực hiện được điều đó bằng cách tổng kết toàn bộ lịch sử của khoa học
lịch sử của bản thân tư tưởng triết học
3
1.3. Vấn đề đối tượng của triết học trong lịch sử
Trong quá trình phát triển, đối tượng của triết học thay đổi theo từng giai đoạn
lịch sử.
Ngay từ khi mới ra đời, triết học được xem hình thái cao nhất của tri thức,
bao hàm trong nó tri thức về tất cả các lĩnh vực không có đối tượng riêng. Đây là
nguyên nhân sâu xa làm nảy sinh quan niệm cho rằng, triết học khoa học của
mọi khoa học, đặc biệt là ở Triết học tự nhiên của Hy Lạp cổ đại.
Nền triết học tự nhiên là khái niệm chỉ triết học ở phương Tây thời kỳ còn bao
gồm trong tất cả những tri thức con người được, trước hết các tri
thức thuộc khoa học tự nhiên.
Thời kỳ trung cổ, Tây Âu, khi quyền lực của Giáo hội bao trùm mọi lĩnh
vực đời sống hội thì nền triết học tự nhiên đã bị thay bằng nền Triết học kinh
viện. Đối tượng của triết học kinh viện chỉ tập trung vào các chủ đề nhằm làm
sáng tỏ niềm tin tôn giáo.
Sự phát triển của các khoa học chuyên ngành trong thế kO XVII – XVIII, từng
bước xóa bỏ vai trò của triết học tự nhiên cũ, làm phá sản tham vọng của triết
học muốn đóng vai trò khoa học của các khoa học.
Hoàn cảnh kinh tế - xã hội và sự phát triển mạnh mẽ của khoa học vào đầu thế
kO XIX đã dẫn đến sự ra đời của triết học Mác. Triết học Mác xác định đối
tượng nghiên cứu của mình, là tiếp tục giải quyết mối quan hệ giữa tồn tại
duy, giữa vật chất và ý thức trên lập trường duy vật triệt để và nghiên cứu những
quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy.
1.4. Triết học - hạt nhân lý luận của thế giới quan
* Thế giới quan
Bằng trí tuệ, kinh nghiệm sự mẫn cảm của mình, con người phải xác định
những quan điểm về toàn bộ thế giới làm cơ sở để định hướng cho nhận thức
hành động của mình. Những quan điểm đó chính là sự thể hiện thế giới quan của
con người.
Thế giới quankhái niệm triết học chỉ hệ thống các tri thức, quan điểm, tình
cảm, niềm tin, tưởng về thế giới về vị trí của con người trong thế giới đó.
Thế giới quan quy định các nguyên tắc, thái độ, giá trị trong định hướng nhận
thức hoạt động thực tiễn của con người. Một cách ngắn gọn, thế giới quan
hệ thống quan điểm của con người về thế giới.
Thế giới quan thể hiện dưới nhiều hình thức đa dạng. Chẳng hạn, thế giới
quan tôn giáo, thế giới quan khoa học thế giới quan triết học. Thế giới quan
chung nhất, phổ biến nhất, được sử dụng trong mọi ngành khoa học trong
toàn bộ đời sống xã hội là thế giới quan triết học.
Những thành phần chủ yếu của thế giới quan tri thức, niềm tin vàtưởng.
Trong đó tri thức sở trực tiếp hình thành thế giới quan, nhưng tri thức chỉ
gia nhập thế giới quan khi đã được kiểm nghiệm trong thực tiễn trở thành
niềm tin. tưởng trình độ phát triển cao nhất của thế giới quan của con
người.
* Hạt nhân lý luận của thế giới quan
Với phương thức duy đặc thù của mình, triết học đã tạo nên hệ thống
luận bao gồm những quan niệm chung nhất về thế giới, giữ vai trò định hướng
cho quá trình củng cố phát triển thế giới quan của mỗi nhân, mỗi cộng
đồng trong lịch sử. Như vậy, triết học là hạt nhân lý luận của thế giới quan.
Nói triết họchạt nhânluận của thế giới quan, bởi , bản thân triếtthứ nhất
học chính thế giới quan. , trong các thế giới quan khác, triết học baoThứ hai
giờ cũng là thành phần quan trọng, đóng vai trò là nhân tố cốt lõi. , so vớiThứ ba
các loại hình thế giới quan khác thì triết học luôn giữ sự ảnh hưởng chi phối
thường xuyên. , thế giới quan triết học như thế nào sẽ quy định các thếThứ
giới quan và các quan niệm khác như thế đó.
Triết học ra đời với cách là hạt nhân luận của thế giới quan, làm cho thế
giới quan phát triển như một quá trình tự giác, dựa trên sự tổng kết kinh nghiệm
thực tiễn tri thức do các khoa học đưa lại. Đó chức năng thế giới quan của
triết học.
Hộp 1.1. Một số định nghĩa triết học
1. Triết học là học về Đạo đức và Chính trị (Xôcrát).
2. Triết học là học về Con Người, là con đường đi tới Chân, Thiện, Mỹ (Plato).
3. Triết học là khoa học tìm hiểu vạn vật bằng những nguyên lý tối thượng, là sự khôn
ngoan con người tìm hiểu chính mình và về thế giới (Aritxtốt).
4. Triết học là nhận thức về các lý do cao xa nhất của sự vật (Tôma Aquinô).
5. Triết học là sự hiểu biết hoàn toàn mọi sự mà con người có thể biết.
6. Triết học là khoa học về tinh thần (I. Kantơ).
7. Triết học mà trạng thái tạm thời và quá thời của tư tưởng con người (A. Côngtơ).
8. Triết học là học cách sống và sống một cuộc sống xứng đáng (H. Becxon).
9. Triết học là học cái biết nhờ kinh nghiệm khách quan và chủ quan (P. Valêry).
10. Triết học là đòi hỏi sự thỏa mãn về chân lý (E. Huxen).
11. Triết học là hiện tượng khủng hoảng của đời sống nhân loại (W. Jêm).
12. Triết học sự mở rộng kiến thức về bốn phương để thu gọn trụ nhân sinh
về một mối (K. Jaxpơ).
13. Triết học chẳng qua chỉ những suy tư của con người rốt cuộc không đi tới đâu
(J.P. Xactơrơ).
14. Triết học suy nghĩ về cuộc sống và diễn tả ý nghĩ mình cho hệ thống (Fung
Yu-Lan)
15. Triết học là hoạt động của tư duy mô xẻ cho đến tận cùng cái lý.
16. Triết học là khoa học của các khoa học.
17. Tiến Nguyễn Quang Điển định nghĩa: “Triết học hình thái ý thức hội đặt
biệt; để hiểu triết học phải tiếp cận nó từ nhiều hướng, trong đó nổi lênsự tổng hợp
của ba hướng cơ bản: Triết học là hệ thống phổ quát về thế giới và con ngườitri thức
cũng như quan hệ của con người với thế giới đó; triết học hệ thống về mụcgiá trị
đích, ý nghĩa, tưởng con người vươn tới nhằm hoàn thiện nhân cách của mình;
triết học còn là hệ thống phổ biến hướng dẫn con người trong hoạtphương pháp luận
động thực tiễn nhằm tạo dựng cuộc sống tốt đẹp hơn, trong sự hòa hợp giữa con người
với con người, trong sự hòa hợp giữa con người với tự nhiên”.
Nguồn: Lê Văn Thiện (2005), Nhập môn triết học Tây phương Theo quan điểm Thiên chúa giáo( ),
Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
2. Vấn đề cơ bản của triết học
2.1 Nội dung vấn đề cơ bản của triết học
Triết học, cũng như những khoa học khác, phải giải quyết nhiều vấn đề
liên quan với nhau. Trong hệ thống các vấn đề đó, vấn đề giữ vai trò nền
tảng, điểm xuất phát để giải quyết những vấn đề còn lại. Vấn đề đó được gọi
của triết học. Sở như vậy bất kỳ trường phái triết học nàovấn đề bản
cũng không thể lảng tránh giải quyết vấn đề mối quan hệ giữa vật chất và ý thức,
giữa tồn tại và tư duy.
Vấn đề cơ bản của triết học có hai mặt, trả lời hai câu hỏi lớn sau:
Mặt thứ nhất (gọi mặt bản thể luận) trả lời câu hỏi: giữa ý thức vật chất
thì cái nào trước, cái nào sau, cái nào quyết định cái nào? Nói cách khác,
khi truy tìm nguyên nhân cuối cùng của hiện tượng, sự vật, hay sự vận động
đang cần phải giải thích, thì nguyên nhân vật chất hay nguyên nhân tinh thần
đóng vai trò là cái quyết định?
Mặt thứ hai (gọi là mặt nhận thức luận) trả lời câu hỏi: con người có khả năng
nhận thức được thế giới hay không? Nói cách khác, khi khám phá sự vật và hiện
tượng, con người tin rằng, mình sẽ nhận thức được sự vật hiện tượng hay
không?
Cách trả lời hai câu hỏi trên quy định lập trường của nhà triết học, liên quan
mật thiết đến việc hình thành các trường phái triết học và các học thuyết về nhận
thức của triết học.
Hộp 1.2. Giá trị của 3 lần gõ búa
(Để giải quyết mâu thuẫn, cần tìm ra vấn đề cơ
bản)
Nhà máy hoạt động bình thường thì bỗng xảy ra sự cố khiến toàn bộ hệ thống
không làm việc. Giám đốc nhà máy liền mời một chuyên gia tới khắc phục. Chuyên
gia xem xét hồi lâu, rồi nói: Mang cái búa nhỏ tới đây!
Chỉ bằng 3 nhát đập vào một chỗ nào đấy, toàn bộ hệ thống hoạt động lại bình
thường.
Xong việc, chuyên gia tính tiền công là 3.000 USD. Vị giám đốc kinh ngạc, hỏi:
vậy? Chỉ 3 cái búa mà ông tính tiền 3.000 USD. Ông thể ghi ra chi tiết
từng khoản được không?
Được thôi! Chuyên gia ghi:
+ Sức gõ búa 3 lần: 3 USD
+ Biết chỗ nào cần gõ búa: 2.997 USD
Nguồn: (Sưu tầm biên tập lại)
2.2 Chủ nghRa duy vật và chủ nghRa duy tâm
Việc giải quyết mặt thứ nhất của vấn đề bản của triết học đã chia các nhà
triết học thành hai trường phái lớn. Những người cho rằng vật chất, giới tự nhiên
cái trước quyết định ý thức của con người được gọi các .nhà duy vật
Học thuyết của họ hợp thành các phái khác nhau của . Ngượcchủ nghRa duy vật
lại, những người cho rằng ý thức, tinh thần, ý niệm, cảm giác là cái có trước giới
tự nhiên, được gọi là các . Các học thuyết của họ hợp thành các pháinhà duy tâm
khác nhau của .chủ nghRa duy tâm
Chủ nghRa duy vật được thể hiện dưới ba hình thức bản: chủ nghĩa duy vật
chất phác, chủ nghĩa duy vật siêu hình và chủ nghĩa duy vật biện chứng.
Chủ nghRa duy vật chất phác kết quả nhận thức của các nhà triết học duy
vật thời Cổ đại. Chủ nghĩa duy vật thời kỳ này thừa nhận tính thứ nhất của vật
chất, nhưng đồng nhất vật chất với một hay một số chất cụ thể đưa ra những
kết luận mang tính trực quan, chất phác.
Chủ nghRa duy vật siêu hình thể hiện khá điển hình thế kO thứ XVII,
XVIII. Đây thời kỳ học cổ điển đạt được những thành tựu rực rỡ.
Phương pháp duy siêu hình của học cổ điển đã ảnh hưởng đến triết học,
làm cho chủ nghĩa duy vật mang hình thức siêu hình.
Chủ nghRa duy vật biện chứng hình thức bản thứ ba của chủ nghĩa duy
vật, do C.Mác Ph.Ăngghen xây dựng, V.I.Lênin phát triển. Với sự kế thừa
tinh hoa của các học thuyết triết học trước đó sử dụng khá triệt để thành tựu
của khoa học đương thời, chủ nghĩa duy vật biện chứng đã khắc phục được hạn
chế của chủ nghĩa duy vật thời cổ đại, chủ nghĩa duy vật siêu hình. Chủ nghĩa
duy vật biện chứng không chỉ phản ánh hiện thực đúng như chính bản thân
tồn tại, còn một công cụ hữu hiệu giúp những lực lượng tiến bộ trong
hội cải tạo hiện thực ấy.
Chủ nghRa duy tâm gồm hai phái: chủ nghĩa duy tâm chủ quan chủ
nghĩa duy tâm khách quan.
Chủ nghRa duy tâm chủ quan ý thức con ngườithừa nhận tính thứ nhất của .
Trong khi phủ nhận sự tồn tại khách quan của hiện thực, chủ nghĩa duy tâm chủ
quan khẳng định mọi sự vật, hiện tượng chỉ là phức hợp của cảm giác.
Chủ nghRa duy tâm khách quan cũng thừa nhận tính thứ nhất của ý thức
nhưng coi đó thứ trước tồn tại độc lập với continh thần khách quan
người. Thực thể tinh thần này thường được gọi bằng những cái tên khác nhau
như , , Đấng sáng tạo Thượng đế Tinh thần tuyệt đối, Lý tính thế giới…
Do thừa nhận ý thức, tinh thần là cái có trước và sản sinh ra giới tự nhiên, chủ
nghĩa duy tâm khách quan đã thừa nhận sự sáng tạo của một lực lượng siêu
nhiên đối với toàn bộ thế giới. vậy, tôn giáo thường sử dụng các học thuyết
duy tâm làm cơ sở lý luận, luận chứng cho các quan điểm của mình.
Trong lịch sử triết học cũng những nhà triết học giải thích thế giới bằng cả
hai bản nguyên vật chất tinh thần. Học thuyết triết học như vậy được gọi
nhị nguyên luận. Thường thì trong trường hợp giải quyết một vấn đề nào đó,
vào một thời điểm nhất định, những người nhị nguyên luận người duy vật,
nhưng ở vào một thời điểm khác, và khi giải quyết một vấn đề khác, lại là người
duy tâm. Song, xét đến cùng, nhị nguyên luận thuộc về chủ nghĩa duy tâm.
Như vậy, trong lịch sử, tuy những quan điểm triết học biểu hiện đa dạng
nhưng suy cho cùng, triết học chia thành hai trường phái chính: chủ nghĩa duy
vật và chủ nghĩa duy tâm.
2.3. Thuyết có thể biết (Khả tri) và thuyết không thể biết (Bất khả tri)
Thuyết có thể biết và thuyết không thể biết như kết quả của cách giải quyết
mặt thứ hai vấn đề cơ bản của triết học. Với câu hỏi Con người có thể nhận thức
được thế giới hay không? học thuyết triết học khẳng định khả năng nhận thức
của con người được gọi thuyết . Học thuyết triết học phủ nhận khả thể biết
năng nhận thức của con người được gọi là thuyết .không thể biết
Ít nhiều liên quan đến thuyết bất khả tri sự ra đời của trào lưu hoài nghi
luận từ triết học Hy Lạp cổ đại. Những người theo trào lưu này, nâng sự hoài
nghi lên thành nguyên tắc trong việc xem xét tri thức đã đạt được cho rằng
con người không thể đạt đến chân lý khách quan.
3. Biện chứng và siêu hình
3.1. Khái niệm biện chứng và siêu hình
Khái niệm “biện chứng” “siêu hình” trong triết học Mác - Lênin được
dùng, trước hết, để chỉ hai phương pháp tư duy chung nhất, đối lập nhau. Sự đối
lập giữa hai phương pháp tư duy thể hiện ở đặc trưng của chúng.
* Đặc trưng của phương pháp siêu hình
Nhận thức đối tượng trạng thái lập, tách rời đối tượng ra khỏi các quan
hệ được xem xét và cho rằng giữa các mặt đối lập có một ranh giới tuyệt đối.
Nhận thức đối tượng trạng thái tĩnh tại; đồng nhất đối tượng với trạng thái
tĩnh nhất thời đó; Thừa nhận sự biến đổi chỉ sự biến đổi về số lượng, về các
hiện tượng bề ngoài; Nguyên nhân của sự biến đổi nằm bên ngoài đối tượng.
Hộp 1.3. Duy vật hay duy tâm?
Giả sử bạn không tin vào Đấng tối cao, liệu bạn có nghĩ mình sẽ cầu nguyện không khi
ở trong tình huống mà bạn cho rằng bản thân đang đối diện cái chết?
Nguồn: Nhóm tác giả biên soạn, 2020
Kết quả của việc sử dụng phương pháp siêu hình sẽ cho chủ thể biết sự vật hiện
tượng gì, nhưng không cho biết được bản chất của sự vật đó như thế nào khi
đặt trong mối quan hệ, tác động với sự vật hiện tượng khác.
* Đặc trưng của phương pháp biện chứng
Nhận thức đối tượng trong các mối liên hệ phổ biến vốn có của nó. Đối tượng
và các thành phần của nó luôn trong sự lệ thuộc, ảnh hưởng, ràng buộc, quy định
lẫn nhau.
Nhận thức đối tượng ở trạng thái vận động biến đổi, nằm trong khuynh hướng
phổ quát là phát triển.
Nhờ phản ánh hiện thực đúng như nó tồn tại, nên phương pháp biện chứng trở
thành công cụ hữu hiệu giúp con người nhận thức cải tạo thế giới
phương pháp luận tối ưu của nhiều khoa học. Kết quả của việc sử dụng phương
pháp biện chứng sẽ cho biết sự vật hiện tượng là gì, và như thế nào khi đặt trong
mối quan hệ, tác động với sự vật hiện tượng khác.
3.2. Các hình thức của phép biện chứng trong lịch sử
Hình thức thứ nhất thời cổ đại. Các nhà biệnphép biện chứng tự phát
chứng thời cổ đại đã thấy được các sự vật, hiện tượng vận động trong sự sinh
thành, biến hóa cùng tận. Tuy nhiên, những họ thấy được chỉ trực
kiến, chưa có các kết quả của nghiên cứu và thực nghiệm khoa học minh chứng.
Hình thức thứ hai đỉnh cao được thể hiệnphép biện chứng duy tâm
trong triết học cổ điển Đức. Biện chứng theo các nhà triết học duy tâm, bắt đầu
từ tinh thần kết thúc tinh thần. Thế giới hiện thực chỉ sự phản ánh biện
chứng của ý niệm nên phép biện chứng của các nhà triết học cổ điển Đức biện
chứng duy tâm.
Hình thức thứ ba . Phép biện chứng duy vật đượcphép biện chứng duy vật
thể hiện trong triết học do C.Mác Ph.Ăngghen xây dựng, sau đó được
V.I.Lênin và các nhà triết học thế hệ sau phát triển.
Hộp 1.4. Đâu chỉ là cái cây
Khi nghĩ đến cái cây, ta ưa nghĩ đến một sự vật được xác định rệt, một bình
diện, quả như vậy. Nhưng khi k hơn, ta sẽ thấy tan biến vào một mạngnhìn
lưới tương quan vô cùng vi tế trải dài suốt vũ trụ. Cơn mưa rơi trên lá, gió lay cành, đất
nuôi dưỡng nâng đỡ, bốn mùa thời tiết, trăng sao ánh mặt trời - tất cả đều
một phần của cái cây. Khi ta khởi sự về cái cây càng nhiều hơn nữa, ta sẽ khámnghĩ
phá rằng, mọi sự trong trụ đều phụ lực để làm cho cây trở thành cái đang thành,
rằng không một lúc nào nó có thể tách biệt ra khỏi những cái khác.
Nguồn: (Sưu tầm có biên tập lại)
II. TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN VAI TRÒ CỦA TRONG ĐỜI
SỐNG XÃ HỘI
1. Sự ra đời và phát triển của triết học Mác - Lênin
1.1. Những điều kiện lịch sử của sự ra đời triết học Mác
* Điều kiện kinh tế - xã hội
Sự hình thànhphát triển của phương thức sản xuất bản chủ nghĩa, trong
điều kiện cách mạng công nghiệp đã xuất hiện mâu thuẫn giữa tính chất hội
của lực lượng sản xuất với hình thức sở hữu nhân bản chủ nghĩa về liệu
sản xuất. Biểu hiện về mặt hội mâu thuẫn giữa bản lao động, giữa
giai cấp tư sản và gia cấp công nhân.
Sự xuất hiện của giai cấp công nhân trên đài lịch sử với tính cách một lực
lượng chính trị - hội độc lập, đặt ra nhu cầu khách quan đòi hỏi phải giải
thích một cách khoa học về mâu thuẫn giữa giai cấp sản giai cấp công
nhân, về vai trò, vị trí của giai cấp công nhân đối với sự phát triển của lịch sử;
làm cho từ tự phát chuyển thành tự giác. Đây nhân tốphong trào công nhân
chính trị - xã hội quan trọng, là cơ sở chủ yếu nhất cho sự ra đời triết học Mác.
* Nguồn gốc luận tiền đề khoa học tự
nhiên Nguồn gốc lý luận
Cùng với những điều kiện kinh tế - xã hội, thì sự xuất hiện của chủ nghĩa Mác
còn sự kế thừa những tinh hoa trong toàn bộ lịch sử tưởng nhân loại, trong
đó trực tiếp nhất , kinh tế chính trị cổ điển Anh, chủtriết học cổ điển Đức
nghĩa xã hội không tưởng Pháp.
Triết học cổ điển Đức, đặc biệt với hai triết gia Hêghen Phoiơbắc là nguồn
gốc lý luận trực tiếp của triết học Mác.
Hêghen người đầu tiên, trên lập trường duy tâm khách quan, trình bày một
cách hệ thống, ràng những quy luật phạm trù của phép biện chứng như
luận sâu sắc về sự phát triển. Trên sở phê phán chủ nghĩa nghĩa duy tâm,
giải phóng phép biện chứng của Hêghen khỏi tính chất duy tâm thần bí, C.Mác
Ph.Ăngghen đã xây dựng nên phép biện chứng duy vật hình thức cao nhất
của phép biện chứng.
Với triết gia Phoiơbắc, C.Mác Ph.Ăngghen tiếp thu những nguyên
bản thuộc chủ nghĩa duy vật của ông, cải tạo phát triển những tưởng đó,
bằng cách gắn với phạm trù thực tiễn nhằm khắc phục tính duy tâm, trực
quan và siêu hình khi giải thích xã hội. Thành quả có được là quan điểm duy vật
và phương pháp biện chứng thống nhất với nhau, gọi là duy vật biện chứng.
Kinh tế chính trị cổ điển Anh. Việc kế thừa cải tạo tưởng của những
đại biểu xuất sắc như A.Xmit Đ. Ricacđô, không những nguồn gốc để chủ
nghĩa Mác xây dựng học thuyết kinh tế, mà còn là cơ sở để phát triển quan niệm
duy vật về lịch sử.
Chủ nghĩa hội không tưởng Pháp nguồn gốc luận trực tiếp về chủ
nghĩa hội khoa học. Những đại biểu nổi tiếng như Xanh Ximông, Sáclơ
Phuriê tuy vạch ra những mâu thuẫn xã hội của chủ nghĩa tư bản, sự đối lập giữa
bản lao động… nhưng họ lại không phát hiện được các quy luật phát triển
của hội; về vị trí, vai trò của giai cấp công nhân. Nhưng những tưởng của
họ ảnh hưởng rất lớn đến việc hình thành thế giới quan duy vật, phép biện
chứng, những quan điểm cộng sản chủ nghĩa của triết học Mác.
Tiền đề khoa học tự nhiên
Ba phát minh lớn đối với sự hình thành triết học duy vật biện chứng: định luật
bảo toàn và chuyển hóa năng lượng (chứng minh các hình thức vận động của vật
chất liên hệ và chuyển hoá lẫn nhau), (chứng minh cơ thể động vậtthuyết tế bào
thực vật đều do tế bào cấu tạo thành, phát triển bằng cách nhân lên phân
hoá của tế bào theo những quy luật nhất định) thuyết tiến hóa của Đácuyn
(chứng minh giới hữu sinh sản phẩm của quá trình phát triển lâu dài). Với
những phát minh đó, khoa học đã vạch ra mối liên hệ thống nhất giữa những
dạng tồn tại khác nhau, các hình thức vận động khác nhau trong tính thống nhất
vật chất của thế giới, vạch ra tính biện chứng của sự vận động phát triển của
nó.
* Nhân tố chủ quan trong sự hình thành triết học Mác
Triết học Mác xuất hiện không chỉ là kết quả của sự vận động và phát triển có
tính quy luật của các nhân tố khách quan còn được hình thành thông qua vai
trò của nhân tố chủ quan. Đó là tài năng và hoạt động thực tiễn, chiều sâu của
duy triết học, chiều rộng của nhãn quan khoa học, quan điểm sáng tạo trong việc
giải quyết những nhiệm vụ do thực tiễn đặt ra hoà quyện với tình bạn của hai
nhà cách mạng là phẩm chất đặc biệt nổi bật của của C.Mác và Ph.Ăngghen.
1.2. Những thời kỳ chủ yếu trong sự hình thành phát triển của Triết học
Mác
* Thời kỳ hình thành tư tưởng triết học với bước quá độ từ chủ nghRa duy tâm
dân chủ cách mạng sang chủ nghRa duy vật chủ nghRa cộng sản (1841 -
1844)
Tháng 4 năm 1841, sau khi nhận bằng tiễn triết học, C.Mác tham gia hoạt
động chính trị, trực tiếp chống chủ nghĩa chuyên chế Phổ, giành quyền tự do dân
chủ. Vào đầu năm 1842, tờ báo ra đời. Sự chuyển biến bước đầu vềSông Ranh
tưởng của C.Mác diễn ra trong thời kỳ ông làm việc báo này. Thời kỳ này,
thế giới quan triết học của ông, nhìn chung, vẫn đứng trên lập trường duy tâm,
nhưng chính thông qua cuộc đấu tranh chống chính quyền nhà nước đương thời,
ông cũng đã nhận ra rằng, các quan hệ khách quan quyết định hoạt động của nhà
nước là những lợi ích.
Sự phê phán sâu rộng triết học của Hêghen, việc khái quát những kinh nghiệm
lịch sử phong phú, cùng với ảnh hưởng to lớn của quan điểm duy vật nhân
văn trong triết học Phoiơbắc đã tăng thêm xu hướng duy vật trong thế giới quan
của C.Mác.
Cuối tháng 10-1843, C.Mác sang Pháp. đây, không khí chính trị sự tiếp
xúc với các đại biểu của giai cấp sản đã dẫn đến bước chuyển dứt khoát của
ông sang lập trường của chủ nghĩa duy vật chủ nghĩa cộng sản. Quá trình
hình thành phát triển tưởng triết học duy vật biện chứng triết học duy
vật lịch sử cũng đồng thời là quá trình hình thành chủ nghĩa cộng sản khoa học.
Cũng trong thời gian ấy, thế giới quan cách mạng của Ph.Ăngghen đã hình
thành một cách độc lập với C.Mác. Thời gian gần 2 năm sống Manchester
(Anh), từ mùa thu năm 1842, với việc tập trung nghiên cứu đời sống kinh tế
sự phát triển chính trị của nước Anh, nhất việc trực tiếp tham gia vào phong
trào công nhân mới dẫn đến bước chuyển căn bản trong thế giới quan của ông
sang chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa cộng sản.
Năm 1844, thông qua nhiều bài viết, Ph.Ăngghen đã thể hiện quá trình
chuyển từ chủ nghĩa duy tâm dân chủ - cách mạng sang chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa cộng sản. Sự nhất trí về tư tưởng đã dẫn đến tình bạn
đại của C.Mác Ph.Ăngghen, gắn liền tên tuổi của hai ông với sự ra đời
phát triển một thế giới quan mới mang tên Mác - thế giới quan cách mạng của
giai cấp vô sản.
Mặc C.Mác Ph.Ăngghen hoạt động chính tr- xã hội khoa học trong
những điều kiện khác nhau, nhưng những kinh nghiệm thực tiễn kết luận rút
ra từ nghiên cứu khoa học của hai ông lại thống nhất, đều gặp nhau phát hiện
sứ mệnh lịch sử giai cấp sản, từ đó hình thành quan điểm duy vật biện chứng
và tư tưởng cộng sản chủ nghĩa.
* Thời kỳ đề xuất những nguyên triết học duy vật biện chứng duy vật
lịch sử (1844 - 1848)
Đây thời kỳ C.Mác Ph.Ăngghen, sau khi đã tự giải phóng mình khỏi hệ
thống triết học cũ, bắt tay vào xây dựng những nguyên lý nền tảng cho một triết
học mới.
Mùa 1844, C.Mác viết . Trong tác phẩmBản thảo kinh tế - triết học 1844
này, C.Mác đã trình bày khái lược những quan điểm kinh tế triết học của
mình. Lần đầu tiên, C.Mác đã vạch ra mặt tích cực trong phép biện chứng của
triết học Hêghen. Ông phân tích sự tha hóa của lao động và những vấn đề có liên
quan đến phạm trù bản này. Việc khắc phục sự tha hóa ấy chính sự xoá bỏ
chế độ sở hữu nhân, giải phóng người công nhân khỏi "lao động bị tha hóa"
dưới chủ nghĩa tư bản, cũng là sự giải phóng con người nói chung.
Tác phẩm là công trình của C.Mác Ph.Ăngghen, đượcGia đình thần thánh
xuất bản tháng 2-1845 đã phê phán quan điểm duy tâm về lịch sử và đề xuất một
số nguyên lý cơ bản của triết học Mácxít và chủ nghĩa cộng sản khoa học.
Năm1845, ra đời. Trong văn kiện này, C.Mác đãLuận cương về Phoiơbắc
vận dụng quan điểm duy vật biện chứng để chỉ ra mặt hội của bản chất con
người, với luận điểm trong tính hiện thực của nó, bản chất con người tbng
hoà những quan hệ xã hội.
Cuối năm 1845 đầu năm 1846, C.Mác Ph.Ăngghen viết tác phẩm Hệ
tưởng Đức, trình bày quan điểm duy vật lịch sử một cách hệ thống nhiều
nguyên bản của chủ nghĩa cộng sản khoa học. Bằng việc thừa nhận sản
xuất vật chất sở của đời sống hội, hai ông nghiên cứu biện chứng giữa
lực lượng sản xuất quan hệ sản xuất, phát hiện ra quy luật vận động phát
triển nền sản xuất vật chất của hội. Triết học Mác đã đi tới nhận thức đời
sống hội bằng một hệ thống các quan điểm luận thực sự khoa học; đã hình
| 1/123

Preview text:

Chương 1
TRIẾT HỌC VÀ VAI TRÒ CỦA TRIẾT HỌC TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI
Triết học là hệ thống tri thức lý luận chung nhất của con người về thế giới; về
vị trí, vai trò của con người trong thế giới ấy. Triết học ra đời từ rất sớm trong
lịch sử nhân loại với hai nguồn gốc: nguồn gốc nhận thức và nguồn gốc xã hội.
Vấn đề cơ bản của triết học là mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại. Việc giải
quyết vấn đề cơ bản của triết học đã hình thành hai trường phái triết học đối lập
nhau là chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm. Hai phương pháp tư duy chung
nhất, đối lập nhau của triết học là phương pháp biện chứng và phương pháp siêu hình.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng là sự thống nhất giữa thế giới quan duy vật và
phương pháp biện chứng. Với tư cách là một thế giới quan và phương pháp luận
khoa học, học thuyết Mác - Lênin vẫn không ngừng đổi mới và phát triển. Với
tư cách là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hoạt động thực tiễn của giai cấp
vô sản, đòi hỏi Đảng lãnh đạo của giai cấp này phải luôn biết vận dụng chủ
nghĩa Mác - Lênin một cách sáng tạo.
I. TRIẾT HỌC VÀ VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA TRIẾT HỌC
1. Khái lược về triết học
1.1. Nguồn gốc của triết học
Triết học là dạng tri thức lý luận xuất hiện sớm nhất trong lịch sử nhân loại, ra
đời ở cả Phương Đông và Phương Tây khoảng từ thế kO VIII đến thế kO VI
tr.CN tại các trung tâm văn minh lớn như Trung Quốc, Ấn Độ, Hy Lạp( Phương tây).
Triết học ra đời từ thực tiễn, do nhu cầu của thực tiễn; nó có nguồn gốc nhận
thức và nguồn gốc xã hội.
* Nguồn gốc nhận thức
Trước khi triết học xuất hiện thế giới quan thần thoại đã chi phối hoạt động
nhận thức của con người.
Về mặt lịch sử, tư duy huyền thoại và tín ngưỡng nguyên thủy là loại hình
triết lý đầu tiên mà con người dùng để giải thích thế giới xung quanh. Triết học
chính là hình thức tư duy lý luận đầu tiên trong lịch sử tư tưởng nhân loại, thay
thế được cho tư duy huyền thoại và tôn giáo.
Nói đến nguồn gốc nhận thức của triết học là nói đến sự hình thành, phát triển
của tư duy trừu tượng, của năng lực khái quát trong nhận thức của con người. 1
Tri thức cụ thể, riêng lẻ về thế giới đến một giai đoạn nhất định phải được tổng
hợp, trừu tượng hóa, khái quát hóa thành những khái niệm, phạm trù, quan điểm,
quy luật, luận thuyết… đủ sức phổ quát để giải thích thế giới. Đó là lúc triết học xuất hiện.
* Nguồn gốc xã hội ( giai cấp tri thức-chiếm hữu nô lệ)
Triết học ra đời khi nền sản xuất xã hội đã có sự phân công lao động và xuất
hiện giai cấp. Khi lao động trí óc tách khỏi lao động chân tay thì đội ngũ trí thức
xuất hiện với tư cách là một tầng lớp xã hội, có vị thế xã hội xác định. Tầng lớp
này có điều kiện, năng lực và nhu cầu nghiên cứu. Những người xuất sắc trong
tầng lớp này đã hệ thống hóa tri thức thời đại dưới dạng các quan điểm, các học
thuyết lý luận; giải thích được sự vận động, quy luật hay các quan hệ nhân quả
của một đối tượng nhất định. Họ được xã hội công nhận là các nhà thông thái, các triết gia.
1.2. Khái niệm Triết học
Ở Trung Quốc, chữ Triết có nghĩa là Trí, nhằm diễn đạt sự truy tìm bản chất
của đối tượng nhận thức, thường là con người, xã hội, vũ trụ và tư tưởng tinh thần.
Ở Ấn Độ, thuật ngữ Dar'sana nghĩa gốc là chiêm ngưng, hàm ý là con
đường suy ngẫm để dẫn dắt con người đến với lẽ phải, thấu đạt được chân lý về
vũ trụ và nhân sinh. Ở phương Tây, thuật ngữ triết học - Philosophia - vừa mang
nghĩa giải thích vũ trụ, định hướng nhận thức và hành vi, vừa nhấn mạnh đến
khát vọng tìm kiếm chân lý.
Như vậy, cả ở phương Đông và phương Tây, ngay từ đầu, triết học đã là hoạt
động tư duy lý luận có trình độ trừu tượng hóa và khái quát hóa rất cao.
Trên cơ sở khái quát đối tượng nhận thức và đặc trưng của tri thức triết học,
chủ nghĩa Mác – Lênin định nghĩa: Triết học là hệ thống quan điểm lí luận
chung nhất về thế giới và vị trí con người trong thế giới đó, là khoa học về
những quy luật vận động, phát triển chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy.

Triết học khác với các khoa học khác ở tính đặc thù của hệ thống tri thức và
phương pháp nghiên cứu. Tri thức triết học mang tính khái quát cao dựa trên sự
trừu tượng hóa sâu sắc về thế giới, về bản chất cuộc sống con người. Phương
pháp nghiên cứu của triết học là xem xét thế giới như một chỉnh thể trong mối
quan hệ giữa các yếu tố và tìm cách đưa lại một hệ thống các quan niệm về
chỉnh thể đó. Triết học là sự diễn tả thế giới quan bằng lí luận. Triết học chỉ có
thể thực hiện được điều đó bằng cách tổng kết toàn bộ lịch sử của khoa học và
lịch sử của bản thân tư tưởng triết học 2
1.3. Vấn đề đối tượng của triết học trong lịch sử
Trong quá trình phát triển, đối tượng của triết học thay đổi theo từng giai đoạn lịch sử.
Ngay từ khi mới ra đời, triết học được xem là hình thái cao nhất của tri thức,
bao hàm trong nó tri thức về tất cả các lĩnh vực không có đối tượng riêng. Đây là
nguyên nhân sâu xa làm nảy sinh quan niệm cho rằng, triết học là khoa học của
mọi khoa học, đặc biệt là ở Triết học tự nhiên của Hy Lạp cổ đại.
Nền triết học tự nhiên là khái niệm chỉ triết học ở phương Tây thời kỳ còn bao
gồm trong nó tất cả những tri thức mà con người có được, trước hết là các tri
thức thuộc khoa học tự nhiên.
Thời kỳ trung cổ, ở Tây Âu, khi quyền lực của Giáo hội bao trùm mọi lĩnh
vực đời sống xã hội thì nền triết học tự nhiên đã bị thay bằng nền Triết học kinh
viện
. Đối tượng của triết học kinh viện chỉ tập trung vào các chủ đề nhằm làm
sáng tỏ niềm tin tôn giáo. 3
Sự phát triển của các khoa học chuyên ngành trong thế kO XVII – XVIII, từng
bước xóa bỏ vai trò của triết học tự nhiên cũ, làm phá sản tham vọng của triết
học muốn đóng vai trò khoa học của các khoa học.
Hoàn cảnh kinh tế - xã hội và sự phát triển mạnh mẽ của khoa học vào đầu thế
kO XIX đã dẫn đến sự ra đời của triết học Mác. Triết học Mác xác định đối
tượng nghiên cứu của mình, là tiếp tục giải quyết mối quan hệ giữa tồn tại và tư
duy, giữa vật chất và ý thức trên lập trường duy vật triệt để và nghiên cứu những
quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy.
1.4. Triết học - hạt nhân lý luận của thế giới quan * Thế giới quan
Bằng trí tuệ, kinh nghiệm và sự mẫn cảm của mình, con người phải xác định
những quan điểm về toàn bộ thế giới làm cơ sở để định hướng cho nhận thức và
hành động của mình. Những quan điểm đó chính là sự thể hiện thế giới quan của con người.
Thế giới quan là khái niệm triết học chỉ hệ thống các tri thức, quan điểm, tình
cảm, niềm tin, lý tưởng về thế giới và về vị trí của con người trong thế giới đó.
Thế giới quan quy định các nguyên tắc, thái độ, giá trị trong định hướng nhận
thức và hoạt động thực tiễn của con người. Một cách ngắn gọn, thế giới quan là
hệ thống quan điểm của con người về thế giới.
Thế giới quan thể hiện dưới nhiều hình thức đa dạng. Chẳng hạn, thế giới
quan tôn giáo, thế giới quan khoa học và thế giới quan triết học. Thế giới quan
chung nhất, phổ biến nhất, được sử dụng trong mọi ngành khoa học và trong
toàn bộ đời sống xã hội là thế giới quan triết học.
Những thành phần chủ yếu của thế giới quan là tri thức, niềm tin và lý tưởng.
Trong đó tri thức là cơ sở trực tiếp hình thành thế giới quan, nhưng tri thức chỉ
gia nhập thế giới quan khi đã được kiểm nghiệm trong thực tiễn và trở thành
niềm tin. Lý tưởng là trình độ phát triển cao nhất của thế giới quan của con người.
* Hạt nhân lý luận của thế giới quan
Với phương thức tư duy đặc thù của mình, triết học đã tạo nên hệ thống lý
luận bao gồm những quan niệm chung nhất về thế giới, giữ vai trò định hướng
cho quá trình củng cố và phát triển thế giới quan của mỗi cá nhân, mỗi cộng
đồng trong lịch sử. Như vậy, triết học là hạt nhân lý luận của thế giới quan.
Nói triết học là hạt nhân lý luận của thế giới quan, bởi thứ nhất, bản thân triết
học chính là thế giới quan. Thứ hai, trong các thế giới quan khác, triết học bao
giờ cũng là thành phần quan trọng, đóng vai trò là nhân tố cốt lõi. Thứ ba, so với
các loại hình thế giới quan khác thì triết học luôn giữ sự ảnh hưởng và chi phối
thường xuyên. Thứ tư, thế giới quan triết học như thế nào sẽ quy định các thế
giới quan và các quan niệm khác như thế đó.
Triết học ra đời với tư cách là hạt nhân lý luận của thế giới quan, làm cho thế
giới quan phát triển như một quá trình tự giác, dựa trên sự tổng kết kinh nghiệm
thực tiễn và tri thức do các khoa học đưa lại. Đó là chức năng thế giới quan của triết học.
Hộp 1.1. Một số định nghĩa triết học
1. Triết học là học về Đạo đức và Chính trị (Xôcrát).
2. Triết học là học về Con Người, là con đường đi tới Chân, Thiện, Mỹ (Plato).
3. Triết học là khoa học tìm hiểu vạn vật bằng những nguyên lý tối thượng, là sự khôn
ngoan con người tìm hiểu chính mình và về thế giới (Aritxtốt).
4. Triết học là nhận thức về các lý do cao xa nhất của sự vật (Tôma Aquinô).
5. Triết học là sự hiểu biết hoàn toàn mọi sự mà con người có thể biết.
6. Triết học là khoa học về tinh thần (I. Kantơ).
7. Triết học mà trạng thái tạm thời và quá thời của tư tưởng con người (A. Côngtơ).
8. Triết học là học cách sống và sống một cuộc sống xứng đáng (H. Becxon).
9. Triết học là học cái biết nhờ kinh nghiệm khách quan và chủ quan (P. Valêry).
10. Triết học là đòi hỏi sự thỏa mãn về chân lý (E. Huxen).
11. Triết học là hiện tượng khủng hoảng của đời sống nhân loại (W. Jêm).
12. Triết học là sự mở rộng kiến thức về bốn phương để thu gọn vũ trụ và nhân sinh về một mối (K. Jaxpơ).
13. Triết học chẳng qua chỉ là những suy tư của con người rốt cuộc không đi tới đâu (J.P. Xactơrơ).
14. Triết học là suy nghĩ về cuộc sống và diễn tả ý nghĩ mình cho có hệ thống (Fung Yu-Lan)
15. Triết học là hoạt động của tư duy mô xẻ cho đến tận cùng cái lý.
16. Triết học là khoa học của các khoa học.
17. Tiến sĩ Nguyễn Quang Điển định nghĩa: “Triết học là hình thái ý thức xã hội đặt
biệt; để hiểu triết học phải tiếp cận nó từ nhiều hướng, trong đó nổi lên là sự tổng hợp
của ba hướng cơ bản: Triết học là hệ thống tri thức phổ
quát về thế giới và con người
cũng như quan hệ của con người với thế giới đó; triết học là hệ thống giá trị về mục
đích, ý nghĩa, lý tưởng mà con người vươn tới nhằm hoàn thiện nhân cách của mình;
triết học còn là hệ thống phương pháp luận phổ biến hướng dẫn con người trong hoạt
động thực tiễn nhằm tạo dựng cuộc sống tốt đẹp hơn, trong sự hòa hợp giữa con người
với con người, trong sự hòa hợp giữa con người với tự nhiên”.
Nguồn: Lê Văn Thiện (2005), Nhập môn triết học Tây phương (Theo quan điểm Thiên chúa giáo), Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
2. Vấn đề cơ bản của triết học
2.1 Nội dung vấn đề cơ bản của triết học
Triết học, cũng như những khoa học khác, phải giải quyết nhiều vấn đề có
liên quan với nhau. Trong hệ thống các vấn đề đó, có vấn đề giữ vai trò nền
tảng, là điểm xuất phát để giải quyết những vấn đề còn lại. Vấn đề đó được gọi
vấn đề cơ bản của
triết học. Sở dĩ như vậy vì bất kỳ trường phái triết học nào
cũng không thể lảng tránh giải quyết vấn đề mối quan hệ giữa vật chất và ý thức,
giữa tồn tại và tư duy.
Vấn đề cơ bản của triết học có hai mặt, trả lời hai câu hỏi lớn sau:
Mặt thứ nhất (gọi là mặt bản thể luận) trả lời câu hỏi: giữa ý thức và vật chất
thì cái nào có trước, cái nào có sau, cái nào quyết định cái nào? Nói cách khác,
khi truy tìm nguyên nhân cuối cùng của hiện tượng, sự vật, hay sự vận động
đang cần phải giải thích, thì nguyên nhân vật chất hay nguyên nhân tinh thần
đóng vai trò là cái quyết định?
Mặt thứ hai (gọi là mặt nhận thức luận) trả lời câu hỏi: con người có khả năng
nhận thức được thế giới hay không? Nói cách khác, khi khám phá sự vật và hiện
tượng, con người có tin rằng, mình sẽ nhận thức được sự vật và hiện tượng hay không?
Cách trả lời hai câu hỏi trên quy định lập trường của nhà triết học, liên quan
mật thiết đến việc hình thành các trường phái triết học và các học thuyết về nhận thức của triết học.
Hộp 1.2. Giá trị của 3 lần gõ búa
(Để giải quyết mâu thuẫn, cần tìm ra vấn đề cơ bản)
Nhà máy hoạt động bình thường thì bỗng xảy ra sự cố khiến toàn bộ hệ thống
không làm việc. Giám đốc nhà máy liền mời một chuyên gia tới khắc phục. Chuyên
gia xem xét hồi lâu, rồi nói: Mang cái búa nhỏ tới đây!
Chỉ bằng 3 nhát đập vào một chỗ nào đấy, toàn bộ hệ thống hoạt động lại bình thường.
Xong việc, chuyên gia tính tiền công là 3.000 USD. Vị giám đốc kinh ngạc, hỏi:
– Gì vậy? Chỉ 3 cái gõ búa mà ông tính tiền 3.000 USD. Ông có thể ghi ra chi tiết
từng khoản được không?
– Được thôi! Chuyên gia ghi:
+ Sức gõ búa 3 lần: 3 USD
+ Biết chỗ nào cần gõ búa: 2.997 USD
Nguồn: (Sưu tầm có biên tập lại)
2.2 Chủ nghRa duy vật và chủ nghRa duy tâm
Việc giải quyết mặt thứ nhất của vấn đề cơ bản của triết học đã chia các nhà
triết học thành hai trường phái lớn. Những người cho rằng vật chất, giới tự nhiên
là cái có trước và quyết định ý thức của con người được gọi là các nhà duy vật.
Học thuyết của họ hợp thành các phái khác nhau của chủ nghRa duy vật. Ngược
lại, những người cho rằng ý thức, tinh thần, ý niệm, cảm giác là cái có trước giới
tự nhiên, được gọi là các nhà duy tâm. Các học thuyết của họ hợp thành các phái
khác nhau của chủ nghRa duy tâm.
Chủ nghRa duy vật được thể hiện dưới ba hình thức cơ bản: chủ nghĩa duy vật
chất phác, chủ nghĩa duy vật siêu hình và chủ nghĩa duy vật biện chứng.
Chủ nghRa duy vật chất phác là kết quả nhận thức của các nhà triết học duy
vật thời Cổ đại. Chủ nghĩa duy vật thời kỳ này thừa nhận tính thứ nhất của vật
chất, nhưng đồng nhất vật chất với một hay một số chất cụ thể và đưa ra những
kết luận mang tính trực quan, chất phác.
Chủ nghRa duy vật siêu hình thể hiện khá điển hình là ở thế kO thứ XVII,
XVIII. Đây là thời kỳ mà cơ học cổ điển đạt được những thành tựu rực rỡ.
Phương pháp tư duy siêu hình của cơ học cổ điển đã ảnh hưởng đến triết học,
làm cho chủ nghĩa duy vật mang hình thức siêu hình.
Chủ nghRa duy vật biện chứng là hình thức cơ bản thứ ba của chủ nghĩa duy
vật, do C.Mác và Ph.Ăngghen xây dựng, V.I.Lênin phát triển. Với sự kế thừa
tinh hoa của các học thuyết triết học trước đó và sử dụng khá triệt để thành tựu
của khoa học đương thời, chủ nghĩa duy vật biện chứng đã khắc phục được hạn
chế của chủ nghĩa duy vật thời cổ đại, chủ nghĩa duy vật siêu hình. Chủ nghĩa
duy vật biện chứng không chỉ phản ánh hiện thực đúng như chính bản thân nó
tồn tại, mà còn là một công cụ hữu hiệu giúp những lực lượng tiến bộ trong xã
hội cải tạo hiện thực ấy.
Chủ nghRa duy tâm gồm có hai phái: chủ nghĩa duy tâm chủ quan và chủ nghĩa duy tâm khách quan.
Chủ nghRa duy tâm chủ quan thừa nhận tính thứ nhất của ý thức con người.
Trong khi phủ nhận sự tồn tại khách quan của hiện thực, chủ nghĩa duy tâm chủ
quan khẳng định mọi sự vật, hiện tượng chỉ là phức hợp của cảm giác.
Chủ nghRa duy tâm khách quan cũng thừa nhận tính thứ nhất của ý thức
nhưng coi đó là thứ tinh thần khách quan có trước và tồn tại độc lập với con
người. Thực thể tinh thần này thường được gọi bằng những cái tên khác nhau
như Đấng sáng tạo, Thượng đế, Tinh thần tuyệt đối, Lý tính thế giới…
Do thừa nhận ý thức, tinh thần là cái có trước và sản sinh ra giới tự nhiên, chủ
nghĩa duy tâm khách quan đã thừa nhận sự sáng tạo của một lực lượng siêu
nhiên đối với toàn bộ thế giới. Vì vậy, tôn giáo thường sử dụng các học thuyết
duy tâm làm cơ sở lý luận, luận chứng cho các quan điểm của mình.
Trong lịch sử triết học cũng có những nhà triết học giải thích thế giới bằng cả
hai bản nguyên vật chất và tinh thần. Học thuyết triết học như vậy được gọi là
nhị nguyên luận. Thường thì trong trường hợp giải quyết một vấn đề nào đó, ở
vào một thời điểm nhất định, những người nhị nguyên luận là người duy vật,
nhưng ở vào một thời điểm khác, và khi giải quyết một vấn đề khác, lại là người
duy tâm. Song, xét đến cùng, nhị nguyên luận thuộc về chủ nghĩa duy tâm.
Như vậy, trong lịch sử, tuy những quan điểm triết học biểu hiện đa dạng
nhưng suy cho cùng, triết học chia thành hai trường phái chính: chủ nghĩa duy
vật và chủ nghĩa duy tâm.
Hộp 1.3. Duy vật hay duy tâm?
Giả sử bạn không tin vào Đấng tối cao, liệu bạn có nghĩ mình sẽ cầu nguyện không khi
ở trong tình huống mà bạn cho rằng bản thân đang đối diện cái chết?
Nguồn: Nhóm tác giả biên soạn, 2020
2.3. Thuyết có thể biết (Khả tri) và thuyết không thể biết (Bất khả tri)
Thuyết có thể biết và thuyết không thể biết như là kết quả của cách giải quyết
mặt thứ hai vấn đề cơ bản của triết học. Với câu hỏi Con người có thể nhận thức
được thế giới hay không?
học thuyết triết học khẳng định khả năng nhận thức
của con người được gọi là thuyết có thể biết. Học thuyết triết học phủ nhận khả
năng nhận thức của con người được gọi là thuyết không thể biết.
Ít nhiều liên quan đến thuyết bất khả tri là sự ra đời của trào lưu hoài nghi
luận từ triết học Hy Lạp cổ đại. Những người theo trào lưu này, nâng sự hoài
nghi lên thành nguyên tắc trong việc xem xét tri thức đã đạt được và cho rằng
con người không thể đạt đến chân lý khách quan.
3. Biện chứng và siêu hình
3.1. Khái niệm biện chứng và siêu hình
Khái niệm “biện chứng” và “siêu hình” trong triết học Mác - Lênin được
dùng, trước hết, để chỉ hai phương pháp tư duy chung nhất, đối lập nhau. Sự đối
lập giữa hai phương pháp tư duy thể hiện ở đặc trưng của chúng.
* Đặc trưng của phương pháp siêu hình
Nhận thức đối tượng ở trạng thái cô lập, tách rời đối tượng ra khỏi các quan
hệ được xem xét và cho rằng giữa các mặt đối lập có một ranh giới tuyệt đối.
Nhận thức đối tượng ở trạng thái tĩnh tại; đồng nhất đối tượng với trạng thái
tĩnh nhất thời đó; Thừa nhận sự biến đổi chỉ là sự biến đổi về số lượng, về các
hiện tượng bề ngoài; Nguyên nhân của sự biến đổi nằm ở bên ngoài đối tượng.
Kết quả của việc sử dụng phương pháp siêu hình sẽ cho chủ thể biết sự vật hiện
tượng là gì, nhưng không cho biết được bản chất của sự vật đó như thế nào khi
đặt trong mối quan hệ, tác động với sự vật hiện tượng khác.
* Đặc trưng của phương pháp biện chứng
Nhận thức đối tượng trong các mối liên hệ phổ biến vốn có của nó. Đối tượng
và các thành phần của nó luôn trong sự lệ thuộc, ảnh hưởng, ràng buộc, quy định lẫn nhau.
Nhận thức đối tượng ở trạng thái vận động biến đổi, nằm trong khuynh hướng phổ quát là phát triển.
Nhờ phản ánh hiện thực đúng như nó tồn tại, nên phương pháp biện chứng trở
thành công cụ hữu hiệu giúp con người nhận thức và cải tạo thế giới và là
phương pháp luận tối ưu của nhiều khoa học. Kết quả của việc sử dụng phương
pháp biện chứng sẽ cho biết sự vật hiện tượng là gì, và như thế nào khi đặt trong
mối quan hệ, tác động với sự vật hiện tượng khác.
3.2. Các hình thức của phép biện chứng trong lịch sử
Hình thức thứ nhất là phép biện chứng tự phát thời cổ đại. Các nhà biện
chứng thời cổ đại đã thấy được các sự vật, hiện tượng vận động trong sự sinh
thành, biến hóa vô cùng vô tận. Tuy nhiên, những gì họ thấy được chỉ là trực
kiến, chưa có các kết quả của nghiên cứu và thực nghiệm khoa học minh chứng.
Hình thức thứ hai là phép biện chứng duy tâm mà đỉnh cao được thể hiện
trong triết học cổ điển Đức. Biện chứng theo các nhà triết học duy tâm, bắt đầu
từ tinh thần và kết thúc ở tinh thần. Thế giới hiện thực chỉ là sự phản ánh biện
chứng của ý niệm
nên phép biện chứng của các nhà triết học cổ điển Đức là biện chứng duy tâm.
Hình thức thứ ba là phép biện chứng duy vật. Phép biện chứng duy vật được
thể hiện trong triết học do C.Mác và Ph.Ăngghen xây dựng, sau đó được
V.I.Lênin và các nhà triết học thế hệ sau phát triển.
Hộp 1.4. Đâu chỉ là cái cây
Khi nghĩ đến cái cây, ta ưa nghĩ đến một sự vật được xác định rõ rệt, và ở một bình
diện, nó quả như vậy. Nhưng khi nhìn kỹ hơn, ta sẽ thấy nó tan biến vào một mạng
lưới tương quan vô cùng vi tế trải dài suốt vũ trụ. Cơn mưa rơi trên lá, gió lay cành, đất
nuôi dưỡng và nâng đỡ, bốn mùa và thời tiết, trăng sao và ánh mặt trời - tất cả đều là
một phần của cái cây. Khi ta khởi sự nghĩ về
cái cây càng nhiều hơn nữa, ta sẽ khám
phá rằng, mọi sự trong vũ trụ đều phụ lực để làm cho cây trở thành cái nó đang thành,
rằng không một lúc nào nó có thể tách biệt ra khỏi những cái khác.
Nguồn: (Sưu tầm có biên tập lại)
II. TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI
1. Sự ra đời và phát triển của triết học Mác - Lênin
1.1. Những điều kiện lịch sử của sự ra đời triết học Mác
* Điều kiện kinh tế - xã hội
Sự hình thành và phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, trong
điều kiện cách mạng công nghiệp đã xuất hiện mâu thuẫn giữa tính chất xã hội
của lực lượng sản xuất với hình thức sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu
sản xuất. Biểu hiện về mặt xã hội là mâu thuẫn giữa tư bản và lao động, giữa
giai cấp tư sản và gia cấp công nhân.
Sự xuất hiện của giai cấp công nhân trên vũ đài lịch sử với tính cách một lực
lượng chính trị - xã hội độc lập, đặt ra nhu cầu khách quan đòi hỏi phải giải
thích một cách khoa học về mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản và giai cấp công
nhân, về vai trò, vị trí của giai cấp công nhân đối với sự phát triển của lịch sử;
làm cho phong trào công nhân từ tự phát chuyển thành tự giác. Đây là nhân tố
chính trị - xã hội quan trọng, là cơ sở chủ yếu nhất cho sự ra đời triết học Mác.
* Nguồn gốc lý luận và tiền đề khoa học tự
nhiên Nguồn gốc lý luận
Cùng với những điều kiện kinh tế - xã hội, thì sự xuất hiện của chủ nghĩa Mác
còn là sự kế thừa những tinh hoa trong toàn bộ lịch sử tư tưởng nhân loại, trong
đó trực tiếp nhất là triết học cổ điển Đức, kinh tế chính trị cổ điển Anh, chủ
nghĩa xã hội không tưởng Pháp.
Triết học cổ điển Đức, đặc biệt với hai triết gia Hêghen và Phoiơbắc là nguồn
gốc lý luận trực tiếp của triết học Mác.
Hêghen là người đầu tiên, trên lập trường duy tâm khách quan, trình bày một
cách hệ thống, rõ ràng những quy luật và phạm trù của phép biện chứng như là
lý luận sâu sắc về sự phát triển. Trên cơ sở phê phán chủ nghĩa nghĩa duy tâm,
giải phóng phép biện chứng của Hêghen khỏi tính chất duy tâm thần bí, C.Mác
và Ph.Ăngghen đã xây dựng nên phép biện chứng duy vật – hình thức cao nhất của phép biện chứng.
Với triết gia Phoiơbắc, C.Mác và Ph.Ăngghen tiếp thu những nguyên lý cơ
bản thuộc chủ nghĩa duy vật của ông, cải tạo và phát triển những tư tưởng đó,
bằng cách gắn nó với phạm trù thực tiễn nhằm khắc phục tính duy tâm, trực
quan và siêu hình khi giải thích xã hội. Thành quả có được là quan điểm duy vật
và phương pháp biện chứng thống nhất với nhau, gọi là duy vật biện chứng.
Kinh tế chính trị cổ điển Anh. Việc kế thừa và cải tạo tư tưởng của những
đại biểu xuất sắc như A.Xmit và Đ. Ricacđô, không những là nguồn gốc để chủ
nghĩa Mác xây dựng học thuyết kinh tế, mà còn là cơ sở để phát triển quan niệm duy vật về lịch sử.
Chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp là nguồn gốc lý luận trực tiếp về chủ
nghĩa xã hội khoa học. Những đại biểu nổi tiếng như Xanh Ximông, Sáclơ
Phuriê tuy vạch ra những mâu thuẫn xã hội của chủ nghĩa tư bản, sự đối lập giữa
tư bản và lao động… nhưng họ lại không phát hiện được các quy luật phát triển
của xã hội; về vị trí, vai trò của giai cấp công nhân. Nhưng những tư tưởng của
họ ảnh hưởng rất lớn đến việc hình thành thế giới quan duy vật, phép biện
chứng, những quan điểm cộng sản chủ nghĩa của triết học Mác.
Tiền đề khoa học tự nhiên
Ba phát minh lớn đối với sự hình thành triết học duy vật biện chứng: định luật
bảo toàn và chuyển hóa năng lượng (chứng minh các hình thức vận động của vật
chất liên hệ và chuyển hoá lẫn nhau), thuyết tế bào (chứng minh cơ thể động vật
và thực vật đều do tế bào cấu tạo thành, phát triển bằng cách nhân lên và phân
hoá của tế bào theo những quy luật nhất định) và thuyết tiến hóa của Đácuyn
(chứng minh giới hữu sinh là sản phẩm của quá trình phát triển lâu dài). Với
những phát minh đó, khoa học đã vạch ra mối liên hệ thống nhất giữa những
dạng tồn tại khác nhau, các hình thức vận động khác nhau trong tính thống nhất
vật chất của thế giới, vạch ra tính biện chứng của sự vận động và phát triển của nó.
* Nhân tố chủ quan trong sự hình thành triết học Mác
Triết học Mác xuất hiện không chỉ là kết quả của sự vận động và phát triển có
tính quy luật của các nhân tố khách quan mà còn được hình thành thông qua vai
trò của nhân tố chủ quan. Đó là tài năng và hoạt động thực tiễn, chiều sâu của tư
duy triết học, chiều rộng của nhãn quan khoa học, quan điểm sáng tạo trong việc
giải quyết những nhiệm vụ do thực tiễn đặt ra hoà quyện với tình bạn của hai
nhà cách mạng là phẩm chất đặc biệt nổi bật của của C.Mác và Ph.Ăngghen.
1.2. Những thời kỳ chủ yếu trong sự hình thành và phát triển của Triết học Mác
* Thời kỳ hình thành tư tưởng triết học với bước quá độ từ chủ nghRa duy tâm
và dân chủ cách mạng sang chủ nghRa duy vật và chủ nghRa cộng sản (1841 - 1844)
Tháng 4 năm 1841, sau khi nhận bằng tiễn sĩ triết học, C.Mác tham gia hoạt
động chính trị, trực tiếp chống chủ nghĩa chuyên chế Phổ, giành quyền tự do dân
chủ. Vào đầu năm 1842, tờ báo Sông Ranh ra đời. Sự chuyển biến bước đầu về
tư tưởng của C.Mác diễn ra trong thời kỳ ông làm việc ở báo này. Thời kỳ này,
thế giới quan triết học của ông, nhìn chung, vẫn đứng trên lập trường duy tâm,
nhưng chính thông qua cuộc đấu tranh chống chính quyền nhà nước đương thời,
ông cũng đã nhận ra rằng, các quan hệ khách quan quyết định hoạt động của nhà
nước là những lợi ích.
Sự phê phán sâu rộng triết học của Hêghen, việc khái quát những kinh nghiệm
lịch sử phong phú, cùng với ảnh hưởng to lớn của quan điểm duy vật và nhân
văn trong triết học Phoiơbắc đã tăng thêm xu hướng duy vật trong thế giới quan của C.Mác.
Cuối tháng 10-1843, C.Mác sang Pháp. Ở đây, không khí chính trị và sự tiếp
xúc với các đại biểu của giai cấp vô sản đã dẫn đến bước chuyển dứt khoát của
ông sang lập trường của chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa cộng sản. Quá trình
hình thành và phát triển tư tưởng triết học duy vật biện chứng và triết học duy
vật lịch sử cũng đồng thời là quá trình hình thành chủ nghĩa cộng sản khoa học.
Cũng trong thời gian ấy, thế giới quan cách mạng của Ph.Ăngghen đã hình
thành một cách độc lập với C.Mác. Thời gian gần 2 năm sống ở Manchester
(Anh), từ mùa thu năm 1842, với việc tập trung nghiên cứu đời sống kinh tế và
sự phát triển chính trị của nước Anh, nhất là việc trực tiếp tham gia vào phong
trào công nhân mới dẫn đến bước chuyển căn bản trong thế giới quan của ông
sang chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa cộng sản.
Năm 1844, thông qua nhiều bài viết, Ph.Ăngghen đã thể hiện quá trình
chuyển từ chủ nghĩa duy tâm và dân chủ - cách mạng sang chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa cộng sản. Sự nhất trí về tư tưởng đã dẫn đến tình bạn vĩ
đại của C.Mác và Ph.Ăngghen, gắn liền tên tuổi của hai ông với sự ra đời và
phát triển một thế giới quan mới mang tên Mác - thế giới quan cách mạng của giai cấp vô sản.
Mặc dù C.Mác và Ph.Ăngghen hoạt động chính trị - xã hội và khoa học trong
những điều kiện khác nhau, nhưng những kinh nghiệm thực tiễn và kết luận rút
ra từ nghiên cứu khoa học của hai ông lại thống nhất, đều gặp nhau ở phát hiện
sứ mệnh lịch sử giai cấp vô sản, từ đó hình thành quan điểm duy vật biện chứng
và tư tưởng cộng sản chủ nghĩa.
* Thời kỳ đề xuất những nguyên lý triết học duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử (1844 - 1848)
Đây là thời kỳ C.Mác và Ph.Ăngghen, sau khi đã tự giải phóng mình khỏi hệ
thống triết học cũ, bắt tay vào xây dựng những nguyên lý nền tảng cho một triết học mới.
Mùa hè 1844, C.Mác viết Bản thảo kinh tế - triết học 1844. Trong tác phẩm
này, C.Mác đã trình bày khái lược những quan điểm kinh tế và triết học của
mình. Lần đầu tiên, C.Mác đã vạch ra mặt tích cực trong phép biện chứng của
triết học Hêghen. Ông phân tích sự tha hóa của lao động và những vấn đề có liên
quan đến phạm trù cơ bản này. Việc khắc phục sự tha hóa ấy chính là sự xoá bỏ
chế độ sở hữu tư nhân, giải phóng người công nhân khỏi "lao động bị tha hóa"
dưới chủ nghĩa tư bản, cũng là sự giải phóng con người nói chung.
Tác phẩm Gia đình thần thánh là công trình của C.Mác và Ph.Ăngghen, được
xuất bản tháng 2-1845 đã phê phán quan điểm duy tâm về lịch sử và đề xuất một
số nguyên lý cơ bản của triết học Mácxít và chủ nghĩa cộng sản khoa học.
Năm1845, Luận cương về Phoiơbắc ra đời. Trong văn kiện này, C.Mác đã
vận dụng quan điểm duy vật biện chứng để chỉ ra mặt xã hội của bản chất con
người, với luận điểm trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tbng
hoà những quan hệ xã hội
.
Cuối năm 1845 đầu năm 1846, C.Mác và Ph.Ăngghen viết tác phẩm Hệ tư
tưởng Đức, trình bày quan điểm duy vật lịch sử một cách hệ thống và nhiều
nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa cộng sản khoa học. Bằng việc thừa nhận sản
xuất vật chất là cơ sở của đời sống xã hội, hai ông nghiên cứu biện chứng giữa
lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, phát hiện ra quy luật vận động và phát
triển nền sản xuất vật chất của xã hội. Triết học Mác đã đi tới nhận thức đời
sống xã hội bằng một hệ thống các quan điểm lí luận thực sự khoa học; đã hình