Triều đại của Việt Nam - Lịch sử ngoại giao Việt Nam | Học viện Ngoại giao Việt Nam
Triều đại của Việt Nam - Lịch sử ngoại giao Việt Nam | Học viện Ngoại giao Việt Nam được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Lịch sử ngoại giao Việt Nam (IR.001.02)
Trường: Học viện Ngoại giao
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
00:02 7/8/24
Triều đại của Việt Nam nào ngoại giao thành công nhất, Ý kiến về nhận định nhà …
Tên sinh viên: Dương Tử Giang Lớp: LSNGVN(1)
Mã số sinh viên: QHQT48C1-0884 Bài làm
Câu 1: Theo tôi, triều đại Việt Nam thành công nhất trong lĩnh vực đối ngoại là nhà Tiền Lê.
Sự thành công đầu tiên được thể hiện ngay từ khi vua Lê Hoàn mới lên ngôi. Sau khi được
tiến cử lên ngôi năm 980, Lê Hoàn vẫn bang giao với nhà Tống trên danh nghĩa là Đinh Toàn.
Tháng 8 năm đó, vua Tống không biết được điều này, tưởng chừng Đại Cồ Việt đang có vua
nhỏ mà nảy ý đồ xâm lược, sai cận thần đưa thư đe dọa, muốn nước ta đầu hàng trước. Hai
tháng sau, Lê Hoàn cho người đưa thư giả là của Đinh Toàn, thỉnh cầu nối ngôi, xin lệnh
chính thức của thiên triều với chủ đích xin hòa hoãn cuộc xâm lược của nhà Tống. Nhà Tống
lấy cớ trách cứ việc xưng đế, đổi tên hiệu không báo trước mà yêu cầu mẹ con Đinh Toàn
sang quy phụ, nếu không sẽ không từ bỏ ý đồ tiến đánh. Lê Hoàn cứ thế để cho quân Tống
xuất binh rồi đích thân chặn giặc, thẳng tay đánh bại chúng. Sự việc này vừa tỏ rõ thái độ của
vị vua mới nước Việt, vừa dọa nhà Tống một phen bất ngờ, thất trận nặng nề, thể hiện uy
phong của quân ta dưới triều đình mới. Sau khi nhận chuỗi thua liên tiếp, lại phải đối phó với
nhà Liêu nên vua Tống rất mềm mỏng với nhà Tiền Lê. Lê Hoàn nắm bắt đúng thời điểm, thể
hiện ý muốn giao hảo, quan hệ hai nước bình đẳng, không quy phục. Tháng 10 năm 986, vua
Tống sai người phong chức An Nam đô hộ Tĩnh Hải quân Tiết độ sứ kinh triệu quận hầu cho
Lê Hoàn. Đây là một sự công nhận của nhà Tống với Tiền Lê, công nhận dòng dõi mới kế
thừa ngôi vua nước Đại Cồ Việt.
So sánh với các triều đại khác của Việt Nam, mượn danh nghĩa vua nhỏ là việc làm hoàn toàn
độc nhất vô nhị. Hành động này đã gây bất ngờ lớn cho nhà Tống khi đem quân sang xâm
lược Đại Cồ Việt rồi nhận thất bại nặng nề. Đồng thời, mượn danh nghĩa tiểu Vệ vương có lẽ
cũng là nước đi thăm dò thái độ, ý đồ của nhà Tống, làm lộ rõ lòng tham xâm lược của triều
đình phương Bắc. Nếu như không lấy danh nghĩa Đinh Toàn, vua Tống có thể đã cẩn trọng
hơn trong việc xâm lược Đại Cồ Việt, gây khó khăn cho công cuộc kháng chiến chặn giặc.
Sau này, Lê Hoàn đã có rất nhiều chính sách ngoại giao để gìn giữ sự hữu nghị nhưng cũng
có những đấu tranh ngoại giao trên nhiều phương diện để tỏ rõ vị thế của Đại Cồ Việt. Trong
suốt hai đời vua là Lê Hoàn và Lê Ngoạ Triều (tức từ năm 982 đến năm 1010) nhà Lê đã cử
15 phái bộ sang Trung Quốc với mục đích là duy trì quan hệ bang giao giữa hai nước. Tuy
ngỏ ý “thần phục” Thiên triều nhưng điều đó không có nghĩa là Lê Hoàn cúi mình. Ông thực about:blank 1/4 00:02 7/8/24
Triều đại của Việt Nam nào ngoại giao thành công nhất, Ý kiến về nhận định nhà …
hiện chính sách “trong xưng đế, ngoài xưng vương” để thể hiện một ý chí mà tất cả các đế
vương dưới thời phong kiến nước ta đều theo đuổi: “Tự coi mình như một “Trung Quốc” nhỏ
hơn ở phía Nam đối với các nước chư hầu, ngang hàng với nước Trung Quốc ở phía Bắc.” Về
quân sự, Lê Hoàn chủ trương thể hiện bản lĩnh của một nước thắng trận qua việc phô diễn sức
mạnh và lực lượng để uy hiếp hai sứ Tống Cảo, Vương Thế Tắc năm 990. Ông cho người
thực hiện nghi lễ đón sứ nhưng thực chất là đe dọa, uy hiếp sứ Tống. Trong suốt quá trình
tiếp sứ, Lê Hoàn cũng có những động thái từ chối tuân thủ nghi thức truyền thống mà từ
trước đến nay các nước nhỏ phải tuân theo, ví dụ như việc lạy khi tiếp nhận chiếu thư hay
việc phải xuống ngựa đón sứ giả. Khi thết đãi yến tiệc, Lê Hoàn cũng thành công trong việc
khiến cho các sứ Tàu lúng túng, mất đi vẻ uy nghiêm của người đại diện “thiên triều”. Ông
thể hiện ý định sử dụng những con thú dữ như món ăn đến việc tự thân hát mời rượu và tham
gia lễ đâm cá. Khi tiễn sứ về nước, câu nói đanh thép "Không phiền sứ thần sang đây nữa"
của ông cũng dẫn đến việc nhà Tống không có những động thái hạch sách, chèn ép cũng như
gây áp lực lên nước ta như một nước chư hầu nhỏ bé; trái lại, sự tôn trọng kéo dài đến cả khi
Lê Hoàn mất. Vũ Dương Huân cũng đã nhận xét rằng: “Đối với những sứ thần có thái độ
ngạo mạn, có tâm địa xấu như Tống Cảo và Vương Thế Tắc, ông có đối sách mạnh, biểu
dương sức mạnh quân sự, sự giàu có, thịnh vượng, uy hiếp tinh thần sứ Tống. Còn đối với sứ
thần có học thức, giỏi văn thơ như Lý Giác, ông đón tiếp với cách ứng xử khác: rất văn hóa,
nêu bật Đại Việt là nước văn hiến có nhiều nhân tài...” (Về triết lý ngoại giao truyền thống
Việt Nam – Nghiên cứu quốc tế, ngày 24/09/2021).
Ở các đời vua sau, có thể thấy sự kế thừa các đường lối ngoại giao từ nhà Tiền Lê. Vào đời
nhà Trần, vua Trần Thái Tông luôn kiên quyết khước từ việc sang chầu bằng cách viện đủ các
lý lẽ khéo léo như sức yếu, tuổi cao, triều đại có vua cũ mất... Hay ở nhà Lý, kế thừa cách
nắm bắt thời cơ mà có kế hoạch hòa hoãn, tránh gia tăng xung đột. Trong cuộc chiến với nhà
Tống (1075 - 1077), tại phòng tuyến sông Như Nguyệt, khi Quách Quỳ ở tình thế tiến thoái
lưỡng nan, Lý Thường Kiệt cũng thấy quân ta sức cũng sắp cạn; do đó, ông đã sai sứ thần
sang dinh Quách Quỳ bàn hòa, mở đường cho Quách Quỳ rút quân trong danh dự. Ở đây, ông
đã chọn đúng thời điểm để “dùng biện sĩ bàn hòa” bằng cách đưa ra một sáng kiến hòa bình
phải chăng với nội dung hấp dẫn.
Tóm lại, thành công ngoại giao suốt 24 năm trị vì của Lê Hoàn được thể hiện ở việc nhà Tống
không ý có gây hấn, tiếp tục giữ hòa hiếu với nước ta sau khi Lê Hoàn mất. Thái độ này của
vua Tống thực sự đã tỏ rõ sự tôn trọng, trọng nhân nghĩa dành cho nhà Tiền Lê, thể hiện niềm
tin được bồi đắp từ mối giao hảo suốt thời gian trị vì của Lê Hoàn. Lê Hoàn vừa giữ vững vị about:blank 2/4 00:02 7/8/24
Triều đại của Việt Nam nào ngoại giao thành công nhất, Ý kiến về nhận định nhà …
thế quốc gia, quốc thể, không tỏ ý thần phục, vừa giữ gìn được hòa hiếu hai bên, thậm chí
nhận được sự tôn trọng của vua Tống. Các đường lối ngoại giao của nhà Tiền Lê vẫn được kế
thừa, áp dụng ở các triều đại đi sau.
Do đó, triều Tiền Lê xứng đáng là triều đại thành công nhất trong lĩnh vực đối ngoại của Việt Nam.
Câu 2: Tôi đồng ý với nhận định triều đình Mãn Thanh đã ‘“bán đứng” Việt Nam cho Pháp’,
tuy nhiên vẫn có điểm phản đối.
Khi nhìn lại tổng thể ngoại giao nhà Nguyễn với Trung Hoa, chính hoàn cảnh ra đời rất đặc
biệt của nhà Nguyễn đã khiến quan hệ triều cống hết sức được coi trọng, thậm chí được điển
chế hoá nhằm tạo dựng được tính chính thống, uy tín cho triều đại mình. Dù chịu tác động
của những nhân tố mới do hoàn cảnh lịch sử quy định, song cũng như các triều đại phong
kiến trước đó, "triều cống" vẫn là một trong hai cơ sở chủ yếu (bên cạnh việc "sách phong")
để xây dựng nên quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam với Trung Quốc. Nhưng việc thực hiện
triều cống của nhà Nguyễn với Trung Hoa lúc này xét về cơ bản là không xâm phạm vào
nguyên tắc độc lập, cùng với hàng loạt nỗ lực khác như: xin đổi quốc hiệu, không cho gọi
nước Nam là ‘man di’, kiên quyết đánh trả bằng mọi phương tiện: chính trị, ngoại giao, quân
sự, ... đã minh chứng cho một nguyên tắc bất biến chi phối mọi hoạt động bang giao giữa
triều Nguyễn với triều Thanh: giữ vững độc lập, chủ quyền dân tộc. Như vậy, xét về phương
diện triều cống của các vị vua triều Nguyễn với Trung Quốc thực chất là sự tiếp tục vận dụng
lối ngoại giao hoà bình, ‘lấy nhu thắng cương’, mang bản sắc ứng xử Việt Nam trong mối
quan hệ bang giao với Trung Quốc. Có thể thấy, quan hệ hai nước hầu như là tốt đẹp, giao
thương phát triển nhờ các Hoa thương. Khi Pháp mở cuộc xâm lấn Bắc Kỳ thì triều đình Huế
cầu viện nhà Thanh can thiệp. Năm 1884-1885, chiến tranh Pháp-Thanh bùng nổ trên chiến
trường miền Bắc Việt Nam. Nhưng sau đó, Lý Hồng Chương phải ký hiệp ước Pháp-Thanh
gây nhiều tranh cãi ngày 6/9/1885. Theo hiệp ước này, nhà Thanh chấp nhận từ bỏ quyền bá
chủ của mình và thừa nhận sự bảo hộ của Pháp đối với Việt Nam. Quan hệ giữa Việt Nam và
Trung Quốc từ đây do Pháp đảm nhiệm. Vậy có thể khẳng định rằng, nhà Thanh đã “bán
đứng Việt Nam” cho thực dân Pháp mặc cho quan hệ hòa hảo tốt đẹp của hai nước. Triều
đình Mãn Thanh đã tỏ ra sợ hãi trước sức mạnh của Pháp, muốn né tránh trách nhiệm, sự can
thiệp của mình vào cuộc chiến giữa Pháp và Việt Nam.
Tuy nhiên, nhà Mãn Thanh, và cả các triều đại đi trước của Trung Hoa cũng chưa bao giờ
hoàn toàn có ý định hòa hảo lâu dài, tôn trọng chủ quyền của Việt Nam mà hầu hết luôn có ý about:blank 3/4 00:02 7/8/24
Triều đại của Việt Nam nào ngoại giao thành công nhất, Ý kiến về nhận định nhà …
đồ xâm lược. Do vậy, cũng khó có thể nói rằng Trung Hoa đã hoàn toàn bán đứng Việt Nam
cho Pháp khi có lẽ bản hòa ước mà nhà Mãn Thanh kí với thực dân cũng chỉ là một nước đi
có tính toán của nhà Thanh nhằm phân chia tầm ảnh hưởng tới Việt Nam của hai thế lực.
Kết lại, nhận định rằng nhà Thanh đã bán đứng Việt Nam là có thể khẳng định khi nhà
Nguyễn đã cầu viện triều đình Trung Hoa. Nhưng khi nhìn lại toàn bộ lịch sử, qua các cuộc
chiến giữa hai nước, thì có lẽ đây cũng chỉ là một nước cờ đã có tính toán từ trước, phục vụ
cho mưu đồ xâm lược Việt Nam. about:blank 4/4