Trọn bộ đề cương ôn tập - Giáo dục học | Đại học Sư Phạm Hà Nội

Trọn bộ đề cương ôn tập - Giáo dục học | Đại học Sư Phạm Hà Nội giúp sinh viên tham khảo, ôn luyện và phục vụ nhu cầu học tập của mình cụ thể là có định hướng, ôn tập, nắm vững kiến thức môn học và làm bài tốt trong những bài kiểm tra, bài tiểu luận, bài tập kết thúc học phần, từ đó học tập tốt và có kết quả cao cũng như có thể vận dụng tốt những kiến thức mình đã học vào thực tiễn cuộc sống

1. Phân tích các chức năng xã hội của giáo dục. Rút ra kết luận sư phạm.
a. Chức năng kinh tế - sản xuất
Giáo dục tái sản xuất sức lao động hội, tạo nên sức lao động mới chất lượng cao
hơn, thay thế sức lao động đã lạc hậu, đã già cỗi hoặc đã mất đi bằng cách phát triển
những năng lực chung năng lực chuyên biệt của con người, nhằm tạo ra một năng suất lao
động cao hơn, thúc đẩy sản xuất, phát triển kinh tế xã hội.
hội hiện đại đặt ra những yêu cầu cao đối với chất lượng nguồn nhân lực: trình
độ học vấn cao, tay nghề vững vàng, năng động, sáng tạo, linh hoạt để thích nghi, đáp ứng
được những yêu cầu của tiến trình phát triển hội. Dạy học theo tiếp cận năng lực một
trong giải pháp quan trọng để phát triển năng lực hành động cho người học trong các nhà
trường, đáp ứng được yêu cầu của thị trường lao động hiện nay.
Kết luận sư phạm:
- Giáo dục luôn gắn kết với thực tiễn xã hội.
- Tiếp tục thực hiện mục tiêu: nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài.
- Hệ thống giáo dục nhà trường không ngừng đổi mới nhằm phát triển năng lực hành động
cho người học, đáp ứng tốt yêu cầu của thực tiễn nghề nghiệp.
b. Chức năng chính trị - xã hội
Giáo dục tác động đến cấu trúc hội, tức tác động đến các bộ phận, các thành
phần hội (các giai cấp, các tầng lớp, các nhóm hội...) làm thay đổi tính chất mối quan
hệ giữa các bộ phận, thành phần đó bằng cách nâng cao trình độ văn hóa chung cho toàn thể
xã hội.
Giáo dục trở thành phương tiện, công cụ để khai sáng nhận thức, bồi dưỡng tình cảm,
củng cố niềm tin, kích thích hành động của tất cả các lực lượng hội, nhằm duy trì, củng cố
thể chế chính trị- xã hội cho một quốc gia nào đó.
Giáo dục hội chủ nghĩa góp phần làm cho cấu trúc hội trở nên thuần nhất, làm
cho các giai cấp, các tầng lớp, các thành phần xã hội.. ngày càng xích lại gần nhau.
nước ta, giáo dục sự nghiệp của Đảng, của Nhà nước của toàn dân. Giáo dục
phục vụ cho mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Kết luận sư phạm:
- Người giáo viên luôn phải nắm vững quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng, pháp luật
của nhà nước.
- Giúp học sinh hiểu, tin tưởng thực hiện theo đường lối, chủ trương của Đảng, pháp luật
của nhà nước
c. Chức năng tư tưởng – văn hóa
Giáo dục tham gia vào việc xây dựng một hệ tưởng chi phối toàn hội, xây dựng
một lối sống phổ biến trong hội bằng cách phổ cập giáo dục phổ thông với trình độ ngày
càng cao cho mọi tầng lớp xã hội.
Thông qua giáo dục, những tưởng hội được thấm đến từng con người, giáo dục
hình thành con người thế giới quan, giáo dục ý thức, hành vi phù hợp với chuẩn mực đạo
đức hội. Nhờ giáo dục, tất cả các giá trị văn hoá của nhân loại, của dân tộc, của cộng đồng
được bảo tồn và phát triển, trở thành hệ thống giá trị của từng con người.
Kết luận sư phạm
- Đa dạng hóa các loại hình phương thức đào tạo trong hệ thống giáo dục quốc dân, nhằm
tạo cơ hội cho người dân được đi học và học suốt đời
- Sử dụng sức mạnh của các phương tiện thông tin đại chúng.
Trong ba chức năng hội của giáo dục, chức năng kinh tế - sản xuất chức năng
quan trọng nhất, sở để thực hiện chức năng chính trị - hội, chức năng tưởng
văn hóa.
Câu 2: Trình bày các tính chất của giáo dục (tính phổ biến vĩnh hằng, giáo dục chịu sự
quy định của xã hội, tính lịch sử, tính giai cấp)
a. Tính phổ biến, vĩnh hằng của giáo dục
- Giáo dục chỉ hội loài người, một phần không thể tách rời của đời sống hội,
giáo dục có ở mọi thời đại, mọi thiết chế xã hội khác nhau.
- Giáo dục xuất hiện cùng với sự xuất hiện của hội mất đi khi hội không tồn tại,
điều kiện không thể thiếu được cho sự tồn tại phát triển của mỗi nhân hội loài
người.
=> Như vậy, giáo dục tồn tại cùng với sự tồn tại của hội loài người, con đường đặc
trưng cơ bản để loài người tồn tại và phát triển.
b. Giáo dục chịu sự quy định của xã hội
- Giáo dục một hoạt động gắn liền với tiến trình đi lên của hội, mỗi giai đoạn phát
triển của lịch sử đều nền giáo dục tương ứng, khi hội chuyển từ hình thái kinh tế
hội này sang hình thái kinh tế hội khác thì toàn bộ hệ thống giáo dục tương ứng cũng
biến đổi theo.
- Giáo dục phản ánh trình độ phát triển kinh tế hội đáp ứng các yêu cầu kinh tế
hội trong những điều kiện cụ thể. Giáo dục luôn biến đổi trong quá trình phát triển của lịch sử
loài người, không một nền giáo dục rập khuôn cho mọi hình thái kinh tế hội, cho mọi
giai đoạn của mỗi hình thái kinh tế hội cũng như cho mọi quốc gia, chính vậy giáo
dục mang tính lịch sử. mỗi thời lịch sử khác nhau thì giáo dục khác nhau về mục đích,
nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức giáo dục. Các chính sách giáo dục luôn được hoàn
thiện dưới ảnh hưởng của những kinh nghiệm và các kết quả nghiên cứu.
c. Tính lịch sử của giáo dục
- mỗi thời kỳ lịch sử khác nhau thì giáo dục những đặc trưng khác nhau về mục tiêu,
nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức, yêu cầu, kết quả, môi trường. mỗi quốc gia lại
lịch sử dân tộc riêng, nên nền giáo dục của quốc gia này tất yếu khác với nền giáo dục của
quốc gia khác. Do vậy, không thể đem hình giáo dục của quốc gia này áp dụng rập khuôn
cho quốc gia khác.
d. Tính giai cấp của giáo dục
- Trong xã hội có giai cấp, giáo dục bao giờ cũng mang tính giai cấp.
- Giáo dục thuộc về một giai cấp xác định – giai cấp thống trị xã hội.
- Giáo dục được sử dụng như một công cụ để duy trì và củng cố vai trò thống trị của mình.
- Giáo dục cũng được sử dụng như một công cụ, phương tiện để đấu tranh giai cấp đối với
giai cấp bị bóc lột, bị thống trị nhằm lật đổ giai cấp thống trị
- Tính giai cấp của giáo dục thường được biểu hiện qua mục đích giáo dục chi phối,
định hướng chính trị đối với sự vận động và phát triển của giáo dục.
- Theo V.I.Lênin: Trong hội giai cấp, không thể thêm một nền giáo dục, một nhà
trường nào lại đứng trên hay đứng ngoài giai cấp.
Việt Nam, mục đích của Nhà nước ta xóa bỏ áp bức bóc lột, từ đó hướng tới sự bình
đẳng, công bằng trong giáo dục. Khi chuyển sang chế thị trường, nhà nước ta đã cố gắng
đưa ra những chính sách đảm bảo công bằng trong giáo dục như:
- Mọi công dân đều có quyền tiếp cận hệ thống giáo dục.
- Đảm bảo cho những học sinh, sinh viên năng khiếu, tài năng tiếp tục được đào tạo lên
cao bất kể điều kiện kinh tế, hoàn cảnh, giới tính, dân tộc, tôn giáo v.v. .
- Tiến hành xóa mù chữ, phổ cập giáo dục.
- Đa dạng, mềm dẻo các loại hình đào tạo, các loại hình trường lớp nhằm tạo hội học tập
cho mọi tầng lớp nhân dân.
Câu 3: Phân tích vai trò của giáo dục với sự phát triển nhân cách. Rút ra KLSP cần
thiết.
- Nhân cách hệ thống giá trị làm người nhân đạt được với sự trưởng thành về phẩm
chất năng lực trong quá trình thực hiện các chức năng hội của mình, được hội đánh
giá và thừa nhận.
- Sự phát triển nhân cách cá nhân (3) được biểu hiện qua những dấu hiệu sau:
+ Sự phát triển về mặt thể chất: Thể hiện sự tăng trưởng về chiều cao, trọng lượng,
bắp, sự hoàn thiện chức năng các giác quan,...
+ Sự phát triển về mặt tâm lý: Thể hiện sự biến đổi bản trong đời sống tâm của
nhân: trình độ nhận thức, thói quen, tình cảm, tâm tư, nguyện vọng, nhu cầu, ý chí, v.v...
+ Sự phát triển về mặt hội: Thể hiện thái độ, hành vi ứng xử trong các mối quan hệ
với những người xung quanh,...
- Các yếu tố ảnh hưởng (4) đến sự hình thành phát triển nhân cách của mỗi nhân: yếu tố
di truyền – bẩm sinh; yếu tố môi trường; yếu tố hoạt động cá nhân; yếu tố giáo dục.
- Giáo dục quá trình hoạt động phối hợp thống nhất giữa nhà giáo dục người được giáo
dục nhằm hình thành và phát triển nhân cách theo những yêu cầu của xã hội.
- Vai trò của yếu tố giáo dục: Giáo dục giữ vai trò chủ đạo đối với quá trình hình thành
phát triển nhân cách, bởi được thực hiện theo định hướng thống nhất mục đích nhân
cách lý tưởng mà xã hội đang yêu cầu.Vai trò chủ đạo được thể hiện ở chỗ:
+ Giáo dục không chỉ vạch ra chiều hướng, mục tiêu hình thành phát triển nhân cách của
học sinh còn tổ chức, chỉ đạo, dẫn dắt học sinh thực hiện quá trình đó đến kết quả mong
muốn.
+ Giáo dục những tác động tự giác điều khiển, thể mang lại những tiến bộ các
yếu tố di truyền bẩm sinh hoặc môi trường, hoàn cảnh không thể tạo ra được do tác động tự
phát.
+ Giáo dục sức mạnh cải biến những nét tính cách, hành vi, phẩm chất lệch lạc không phù
hợp với yêu cầu, chuẩn mực của xã hội.
+ Giáo dục tầm quan trọng đặc biệt đối với những người khuyết tật hoặc thiểu năng, giúp
họ phục hồi một phần chức năng đã mất hoặc phát triển các chức năng khác trừ, giúp cho
họ hoà nhập vào cuộc sống cộng đồng.
+ Giáo dục những tác động điều khiển điều chỉnh cho nên không những thích ứng
với 3 yếu tố còn lại còn khả năng kìm hãm hoặc thúc đẩy các yếu tố đó theo một gia
tốc phù hợp mà di truyền và môi trường không thể thực hiện được.
Chú ý: Liên hệ để xây dựng ví dụ minh họa cho từng nội dung
- Kết luận sư phạm
+ Cần nhận thức đúng đắn về vai trò của giáo dục đến sự hình thành phát triển nhân
cách.
+ Biến quá trình giáo dục thành quá trình tự giáo dục ở người học
+ Tổ chức quá trình giáo dục một cách khoa học, hợp lý:
Phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý HS
Vừa sức với HS
Tổ chức các hoạt động và giao lưu đa dạng, phong phú cho HS
Lựa chọn nội dung giáo dục phù hợp và các phương pháp giáo dục khoa học
Xây dựng mối quan hệ tốt đẹp giữa nhà giáo dục và người được giáo dục
Khơi dậy khả năng tiềm ẩn, tố chất di truyền, tính tích cực trong hoạt động nhân của học
sinh nhằm mang lại hiệu quả cho quá trình giáo dục
Câu 4: Nêu các khái niệm bản của GDH. Mối quan hệ giữa các khái niệm. Cho dụ
minh họa.
- Giáo dục theo nghĩa rộng: quá trình tác động mục đích, tổ chức, kế hoạch, nội
dung bằng phương pháp khoa học của nhà giáo dục tới người được giáo dục trong các
quan giáo dục nhằm hình thành nhân cách cho họ.
- Giáo dục theo nghĩa hẹp: quá trình hình thành cho người được giáo dục tưởng, động
cơ, niềm tin, tình cảm, những nét tính cách của nhân cách, những hành vi, thói quen xử
đúng đắn trong xã hội thông qua việc tổ chức hoạt động và giao lưu.
- Dạy học: quá trình tác động qua lại giữa người dạy người học nhằm giúp cho người
học lĩnh hội những tri thức khoa học, phát triển năng lực duy năng lực hoạt động sáng
tạo, trên sở đó hình thành thế giới quan những phẩm chất nhân cách của người học theo
mục đích giáo dục.
* Các khái niệm trên được phân biệt sự khác nhau về việc thực hiện chức năng trội của
chúng:
- Chức năng trội của giáo dục (theo nghĩa rộng): phát triển nhân cách toàn diện người học
sinh bao gồm cả năng lực và phẩm chất
- Chức năng trội của giáo dục (theo nghĩa hẹp) : phát triển về mặt phẩm chất ở người học sinh
- Chức năng trội của dạy học: phát triển về mặt năng lực ở người học sinh.
Câu 5: Phân tích đặc điểm của quá trình giáo dục. Rút ra KLSP.
* Khái niệm: Quá trình giáo dục một quá trình trong đó dưới vai trò chủ đạo của nhà giáo
dục, người được giáo dục tự giác, tích cực, chủ động tự giáo dục nhằm thực hiện tốt các
nhiệm vụ giáo dục.
* Đặc điểm của quá trình giáo dục
(- Giáo dục một quá trình tính mục đích: Mọi tác động giáo dục đều mục đích nhất
định. Mục đích giáo dục xuất phát từ những yêu cầu hội về phẩm chất nhân cách con
người, bị chi phối bởi trình độ kinh tế xã hội.)
a. Giáo dục một quá trình tính lâu dài: Quá trình giáo dục nhằm hình thành những
phẩm chất, những nhân cách của nhân nên đòi hỏi một thời gian lâu dài mới đạt được
kết quả. Tính chất lâu dài của quá trình giáo dục được xem xét ở các góc độ sau:
+ Quá trình giáo dục được thực hiện trong suốt cả cuộc đời con người từ khi sinh ra cho đến
khi không còn sống nữa (Giáo dục suốt đời).
+ Việc hình thành trở nên bền vững, ổn định của một hành vi, thói quen của nhân đòi
hỏi một thời gian lâu dài đi từ nhận thức đến niềm tin, thái độ đến hành vi thói quen, công
việc đó không phải một sớm một chiều mà có được.
+ Bên cạnh đó, việc sửa đổi, cải tạo một nét nhân cách lại đòi hỏi lâu dài hơn.
+ Kết quả tác động giáo dục thường khó nhận thấy ngay thể kết quả đó lại bị biến đổi
hoặc bị mất đi. Do đó công tác giáo dục phải được tiến hành bền bỉ, liên tục theo một kế
hoạch ổn định, lâu dài; đồng thời, trong quá trình giáo dục người được giáo dục phải phát huy
cao độ tính tự giác, nỗ lực tự giáo dục kéo dài thì mới đạt được hiệu quả cả quá trình giáo
dục.
dụ: mất từ 21 - 66 ngày để hình thành 1 thói quen => để giáo dục 1 học sinh hình thành
hành vi và thói quen hành vi cũng cần ít nhất 21 ngày.
Kết luận phạm: Trong quá trình giáo dục nhà giáo dục không được nôn nóng, vội vàng,
đốt cháy giai đoạn, cần phải có đức tính kiên trì, bền bỉ, có tính tự kiềm chế cao.
b. :Quá trình giáo dục chịu tác động bởi nhiều nhân tố phức hợp
+ Tính phức tạp của quá trình giáo dục trước hết nằm đối tượng của nó. Đối tượng của quá
trình giáo dục con người, thực chất tâm hồn con người, cái người khác không trực tiếp
nhìn thấy. Mỗi nhân một thế giới đầy ẩn hết sức phức tạp, đòi hỏi phải thời gian
và điều kiện mới có thể nhận thức được.
+ Thứ hai kết quả quá trình giáo dục chịu sự tác động của rất nhiều yếu tố khách quan, chủ
quan, bên trong, bên ngoài khác nhau. vậy trong quá trình tiến hành giáo dục nhà giáo dục
cần quan tâm đến các điều kiện, các yếu tố khách quan, chủ quan, bên trong, bên ngoài của
quá trình giáo dục.
Yếu tố khách quan: kinh tế - hội, KHCN, văn hóa, chính trị, tưởng, phong tục tập
quán, dụ: biến đổi khí hậu diễn ra ngày càng rệt => chương trình giáo dục dành
nhiều % cho vấn đề môi trường hơn (trong Ngữ văn, Tiếng Anh, Tự nhiên hội, Giáo
dục công dân, …).
Yếu tố chủ quan: các thành tố của quá trình giáo dục, cách tổ chức, các yếu tố tâm lí, trình
độ, điều kiện, hoàn cảnh gia đình, .. của đối tượng giáo dục,... dụ: giáo trình dạy học cho
trẻ tự kỷ. Đó những nhu cầu bản cần phải tồn tại đó ăn uống ngủ nghỉ khác với giáo
trình dạy học cho trẻ bình thường. Muốn giáo dục hiệu quả nhà giáo dục phải hiểu đối
tượng, nắm bắt được đối tượng.
+ Thứ ba, kết quả quá trình giáo dục không nhìn thấy ngay được, không đánh giá ngay được,
những cái khó định tính, định lượng một cách chính xác. Kết quả giáo dục phải thời
gian, có điều kiện , hoàn cảnh mới bộc lộ ra ngoài.
c. Quá trình giáo dục bao giờ cũng mang tính cá biệt, cụ thể:
Quá trình giáo dục được thực hiện trong cuộc sống, hoạt động giao lưu của mỗi nhân.
Giáo dục phải chú ý tới những đặc điểm riêng biệt, cụ thể của đối tượng thì mới hiệu quả
và tránh được những tác động một cách cứng nhắc, công thức giáo điều.
Tính cá biệt, cụ thể của quá trình giáo dục được thể hiện:
+ Mỗi học sinh đều một thể tính độc lập tương đối về trình độ được giáo dục, về kinh
nghiệm sống, về thái độ, về tình cảm, thói quen…nên việc quá trình tác động giáo dục phải đi
sát, phù hợp với đối tượng thể hiện sự nhận thức đúng đắn về đặc điểm này của quá trình giáo
dục.
+ Quá trình giáo dục luôn phải giải quyết những mâu thuẫn, xung đột cụ thể giữa yêu cầu,
nhiệm vụ giáo dục phẩm chất, năng lực tâm của người được giáo dục . Mâu thuẫn trong
quá trình giáo dục thường nảy khi học sinh phải giải quyết một nhiệm vụ giáo dục mới nhưng
trình độ giáo dục hiện có lại chưa đủ.
+ Quá trình giáo dục được diễn ra trong thời gian, thời điểm, không gian với những điều kiện,
hoàn cảnh cụ thể.
+ Kết quả quá trình giáo dục cũng mang tính cụ thể đối với từng loại đối tượng giáo dục, đối
với từng mặt, từng yêu cầu giáo dục hoặc tổng quát trọn vẹn của một quá trình giáo dục cho
những đối tượng cụ thể.
giáo dục mang tính biệt, cụ thể tức giáo dục phải phù hợp với từng nhân cụ thể,
từng điều kiện hoàn cảnh cụ thể mới hiệu quả nên trong quá trình giáo dục, nhà giáo dục
phải thực sự thương yêu học sinh, quan tâm sâu sát học sinh để hiểu tường tận về các em,
vậy mới có thể có cách tác động phù hợp với từng đối tượng.
d. Quá trình giáo dục thống nhất biến chứng với quá trình dạy học
- Giáo dục dạy học hai quá trình cùng mục đích hình thành phát triển nhân
cách, tuy nhiên chúng không đồng nhất.
- Dạy học nhằm tổ chức, điều khiển để người học chiếm lĩnh chất lượng hiệu quả nội
đung học vấn; giáo dục hình thành những phẩm chất đạo đức, hành vi, thói quen. . . hai hoạt
động này không tách biệt quan hệ biện chứng với nhau. Trên sở thực hiện các
nhiệm vụ dạy học thì thế giới quan các phẩm chất đạo đức của học sinh được hình thành
phát triển, ngược lại, giáo dục tốt các phẩm chất sẽ thúc đẩy hoạt động đạt kết quả cao,
dạy học quá trình điều khiển được, còn quá trình giáo dục quá trình phức tạp khó kiểm
soát.
(- Học sinh khách thể (đối tượng) của quá trình giáo dục, chủ thể của quá trình tự giáo
dục: Trong quá trình giáo dục học sinh luôn nhận các tác động giáo dục từ phía nhà giáo dục
các lực lượng giáo dục khác, khi đó học sinh khách thể của quá trình giáo dục. Nhưng khi
tiếp nhận các tác động giáo dục đó, người học không hoàn toàn thụ động một thực thể
hội, ý thức mang tính tích cực, học sinh với cách chủ thể của quá trình giáo dục
khi tự giác, chủ động tích cực thực hiện các yêu cầu của giáo dục từ bên ngoài. Hiệu
quả quá trình giáo dục phụ thuộc rất lớn vào vào tính chủ thể này của người được giáo dục.)
Câu 6: Phân tích bản chất của QTGD. Rút ra KLSP.
- Khái niệm quá trình giáo dục (theo nghĩa hẹp)
- Những căn cứ xác định bản chất của quá trình giáo dục
+ Quá trình giáo dục là quá trình xã hội hóa cá nhân: Đây là quá trình biến cá nhân thành một
thành viên của xã hội, có đầy đủ các giá trị xã hội để tham gia vào các hoạt động xã hội.
+ Quan hệ giữa người giáo dục và người được giáo dục là quan hệ sư phạm: là quan hệ xã hội
đặc thù.
- Bản chất của quá trình giáo dục: là quá trình tổ chức cuộc sống, tổ chức các hoạt động và
giao lưu cho người được giáo dục tham gia một cách tự giác, tích cực, độc lập, sáng tạo nhằm
chuyển hóa những yêu cầu và những chuẩn mực của xã hội quy định thành hành vi và thói
quen hành vi tương ứng ở họ trên cơ sở đó, thực hiện tốt các nhiệm vụ giáo dục.
a. Quá trình giáo dục quá trình hội nhằm giúp đối tượng giáo dục biến các yêu cầu khách
quan thành yêu cầu chủ quan của cá nhân
Quá trình giáo dục nhằm hình thành phát triển nhân con người trở thành những
thành viên hội. Quá trình giáo dục quá trình làm cho đối tượng giáo dục ý thức được các
quan hệ hội các giá trị của nó, biến những yêu cầu khách quan của hội thành ý thức,
thành niềm tin thái độ, thành những thuộc tính, những phẩm chất nhân cách của nhân.
Bên cạnh đó, quá trình này cũng giúp đối tượng biết loại bỏ khỏi bản thân những quan niệm,
những biểu hiện tiêu cực, tàn dư cũ, lạc hậu không còn phù hợp với xã hội hiện đại.
b. Quá trình giáo dục quá trình tổ chức cuộc sống, hoạt động giao lưu cho đối tượng
giáo dục
Hoạt động giao lưu hai mặt bản, thống nhất trong cuộc sống của con người
cũng điều kiện tất yếu của sự hình thành phát triển nhân cách của nhân. Tâm học
đã khẳng định: hoạt động giao lưu vừa nguồn gốc vừa động lực của sự hình thành
phát triển nhân cách.Nếu các hoạt động giao lưu được tổ chức một cách khoa học, nhân
được tham gia vào các hoạt động giao lưu đó thì sẽ rất nhiều hội tốt cho sự phát
triển.
Chính vậy quá trình giáo dục vừa mang tính chất của hoạt động, vừa mang tính
chất của giao lưu. Giáo dục một quá trình tác động qua lại mang tính hội giữa nhà giáo
dục đối tượng giáo dục, giữa các đối tượng giáo dục với nhau với các lực lượng, các
quan hệ xã hội trong và ngoài nhà trường.
- Kết luận sư phạm
+ Cần tổ chức các hoạt động và giao lưu đa dạng, phong phú, hấp dẫn cho học sinh.
+ Bồi dưỡng tính tự tin tinh thần tập thể cho học sinh trong khi tổ chức các hoạt động giáo
dục
+ Phát huy tính tích cực của học sinh trong các hoạt động do nhường tổ chức….
Câu 7: Trình bày các khâu của quá trình giáo dục ở trường phổ thông hiện nay.
Quá trình giáo dục mang tính toàn vẹn. Từ luận thực tiễn giáo dục, ta thể thấy quá
trình giáo dục diễn ra theo các khâu cơ bản sau:
a. Tổ chức điều khiển người được GD nắm vững những tri thức về các chuẩn mực hội đã
quy định
Các chuẩn mực hội thước đo giá trị hành vi của con người được hội thừa
nhận, tác dụng định hướng, điều tiết hành vi của nhân, của nhóm hội trong những
điều kiện nhất định. Nhiều loại chuẩn mực về đạo đức, pháp luật đã được lựa chọn đưa
vào nội dung quá trình giáo dục. Muốn người được giáo dục tự giác tích cực thực hiện theo
các chuẩn mực hội đã quy định đòi hỏi nhà giáo dục cần phải tác động tới nhận thức của
người được giáo dục, giúp cho người được giáo dục nắm vững được những tri thức về các
chuẩn mực xã hội bao gồm:
- Ý nghĩa xã hội và ý nghĩa cá nhân của các chuẩn mực xã hội quy định.
- Nội dung của các chuẩn mực (bao gồm các khái niệm tương ứng)
- Cách thức thực hiện theo các yêu cầu chuẩn mực đó.
Tuy nhiên, kết quả của quá trình nhận thức đó phụ thuộc vào trình độ văn hóa, kinh khái
niệm về đạo đức, về quyền lợi nghĩa vụ, về quy tắc sống, chuẩn mực hội, những giá trị
văn hóa sẽ được hình thành.
b. Tổ chức điều khiển người được giáo dục hình thành niềm tin tình cảm tích cực với các
chuẩn mực xã hội quy định
Trong quá trình giáo dục, niềm tin đối với các chuẩn mực hội được thể hiện
người được giáo dục theo các mức độ tăng dần như sau:
- Người được giáo dục nắm được kinh nghiệm sống, sự trải nghiệm của mỗi người, sản
phẩm của quá trình học tập và tự tu dưỡng.
- Tin về mặt luận cũng như về mặt thực tiễn đối với tính chân đúng đắn của các chuẩn
mực xã hội
- Mong muốn tuân theo những yêu cầu được phản ánh trong các chuẩn mực xã hội.
- Bước đầu có hành vi phù hợp với các chuẩn mực xã hội
- Hài lòng về hành vi của mình khi đã hoàn thành phù hợp với các chuẩn mực xã hội
- Tỏ thái độ không khoan nhượng đối với những hành vi của người khác mâu thuẫn với
những chuẩn mực xã hội.
Chính niềm tin đó cùng với những tri thức tương ứng thu lượm được sẽ tạo nên
người được giáo dục ý thức đúng đắn. Trong quá trình hình thành ý thức nói chung, niềm tin
nói riêng cho người được giáo dục đã làm nảy nở những xúc cảm, tình cảm tốt đẹp đối với
các chuẩn mực hội. Những xúc cảm, tình cảm tích cực đó như những “chất men” kích
thích người được giáo dục chuyển hóa ý thức cá nhân thành hành vi thói quen tương ứng.
Kinh nghiệm thực tiễn giáo dục cho thấy:
- Nếu ý thức về các chuẩn mực hội của người được giáo dục bị hạn chế thì tình
cảm tương ứng cũng bị hạn chế, điều đó dẫn tới hành vi tương ứng mang tính chất hình thức,
thậm chí không hình thành hoặc rơi vào tình trạng sai lệch.
- Nếu người được giáo dục nhận thức đúng về các chuẩn mực hội không
tình cảm tương ứng thì hành vi tương ứng sẽ khô khan cứng nhắc thậm chí không hình
thành hay sai lệch: “Yêu nên tốt, ghét nên xấu”
- Nếu người được giáo dục nắm các chuẩn mực hội một cách không tự giác sẽ dẫn
đến tình trạng nói làm không đi đôi với nhau kết quả giáo dục hình thành bộ mặt
nhân cách giả tạo.
Đối với các trường phổ thông thì công tác giáo dục thái độ, niềm tin, tình cảm tích cực cho
học sinh đối với việc học tập, các mối quan hệ gia đình, bạn, hội, đối với tự nhiên
môi trường xung quanh điều ý nghĩa rất quan trọng. Giáo dục xây dựng niềm tin cho các
em vào chân lí, lẽ phải, giáo dục tình cảm yêu mến, kính trọng thầy giáo, cha mẹ; thân ái
với bạn bè,… đồng thời chú ý uốn nắn, điều chỉnh kịp thời những biểu hiện thái độ lệch
lạc, thiếu trong sáng làm ảnh hưởng tới hiệu quả quá trình giáo dục.
c. Tổ chức điều khiển người được giáo dục hình thành hành vi thói quen hành vi phù hợp
với các chuẩn mực xã hội đã quy định
Nhân cách của mỗi người được thể hiện bằng hành vi thói quen hành vi của họ
chứ không chỉ dừng sự hiểu biết của họ. Hành vi biểu hiện cụ thể nhất của bộ mặt tâm lí,
đạo đức của con người.
Mục đích của quá trình giáo dục hình thành người được giáo dục phẩm chất nhân cách
của người công dân, người lao động đáp ứng yêu cầu hội. Do đó, quá trình giáo dục quan
trọng nhất phải tổ chức, điều khiển người được giáo dục tham gia vào những mối quan hệ
hoạt động giao lưu để họ tự rèn luyện nhằm hình thành những hành vi phù hợp với các
chuẩn mực hội lặp đi lặp lại những hành vi đó thành thói quen tương ứng. Bởi hành vi
văn hóa khi đã trở thành thói quen sẽ mang tính bền vững tự động hóa trong cách ứng xử
của mọi tình huống cuộc sống hàng ngày của người được giáo dục.
Hành vi thói quen hành vi của mỗi người được hình thành trong quá trình hoạt động
được rèn luyện trong các tình huống cụ thể, đa dạng của cuộc sống. Giáo dục hành vi, thói
quen hành vi văn hóa kết quả của cả một quá trình học tập tu dưỡng rèn luyện lâu dài
của người được giáo dục.
Chính vậy, quá trình giáo dục phải tổ chức các hoạt động đa dạng phong phú dưới nhiều
hình thức khác nhau ngày càng phức tạp đồng thời chú ý bồi dưỡng cho người được giáo
dục ý thức tự rèn luyện, năng lực tự kiểm tra, tự đánh giá thường xuyên trên sở đó các thói
quen hành vi đạo đức của người được giáo dục mới được hình thành.
Lưu ý: những hành vi hình thành ở người được giáo dục phải thoả mãn các tiêu chí sau đây:
Hành vi đó có phù hợp với các chuẩn mực xã hội quy định hay không?
Hành vi đó có được thể hiện ở mọi nơi mọi lúc hay không?
Hành vi có được duy trì bền vững theo thời gian hay không?
Hành vi đó có động cơ đúng hay sai? Có ý nghĩa xã hội và cá nhân như thế nào?
Tóm lại: Các khâu trên đây của quá trình giáo dục tác động đồng bộ tới nhận thức, tình cảm,
hành vi thói quen của người được giáo dục mối quan hệ mật thiết với nhau, hỗ trợ cho
nhau thậm trí thâm nhập vào nhau: nhận thức sở điều kiện cần cho việc hình thành
tình cảm, hành vi tương ứng người được giáo dục; Niềm tin, tình cảm động lực thúc đẩy
nhân hoạt động để biến nhận thức thành hành động; Việc thể nghiệm hành vi rèn luyện
hành vi là yếu tố quyết định sự hình thành phát triển nhân cách của người được giáo dục.
Trong thực tiễn giáo dục, khi vận dụng các khâu của quá trình giáo dục đòi hỏi nhà giáo
dục không nhất thiết phải tuân theo trình tự các khâu nêu trên. Việc vận dụng các khâu sao
cho phù hợp với từng đối tượng, yêu cầu, nhiệm vụ giáo dục hoàn cảnh cụ thể nhằm phát
huy tính hiệu quả của quá trình giáo dục.
Câu 8: Trình bày các nhóm PP, các PPGD của QTGD. Giải thích: Tại sao phải lực chọn
phối hợp các ppgd trong tổ chức hđ giáo dục. Cho ví dụ.
Quá trình giáo dục một quá trình phức tạp, các phương pháp giáo dục được hiểu
trên nhiều bình diện khác nhau cách phân chia nhóm phương pháp giáo dục gọi tên
khác nhau.
Cách phân loại phổ biến các phương pháp giáo dục được đa số các nhà giáo dục lựa
chọn hiện nay là cách phân loại dựa trên cơ sở logic của quá trình giáo dục.
a. Nhóm các phương pháp hình thành ý thức cá nhân của người được giáo dục
Ý thức nhân một thể thống nhất giữa tri thức niềm tin của nhân về các
chuẩn mực hội quy định. vậy, quá trình giáo dục muốn hình thành ý thức nhân cho
người được giáo dục thì cần tác động tới nhận thức xúc cảm, tình cảm của người được
giáo dục đối với các chuẩn mực xã hội quy định.
Các phương pháp giáo dục ưu thế trong việc tác động tới nhận thức, cảm xúc của
người được giáo dục đối với các chuẩn mực hội bao gồm: Đàm thoại, Kể chuyện, Giảng
giải, Nêu gương.
a.1. Đàm thoại
- Đàm thoại phương pháp trò chuyện chủ yếu giữa nhà giáo dục người được giáo dục về
các chủ đề liên quan đến các CMXH nói chung, các chuẩn mực đạo đức, pháp luật, thẩm
mỹ nói riêng bằng một hệ thống các câu hỏi do nhà giáo dục chuẩn bị trước.
- Các loại đàm thoại: tùy vào mục tiêu của hoạt động đàm thoại, ta các loại như: đàm thoại
gợi mở, đàm thoại củng cố, hệ thống hóa.
- Ý nghĩa của phương pháp đàm thoại:
+ Người được giáo dục hội giải thích, đánh giá những sự kiện, hiện tượng, trên sở
đó nắm vững các CMXH và rút ra những kết luận bổ ích cho bản thân.
+ Người được giáo dục điều kiện để khắc sâu, phát triển, hệ thống hoá những vấn đề
liên quan đến các CMXH, từ đó hình thành, phát triển xúc cảm, tình cảm tích cực đối với các
CMXH.
+ Hình thành phát triển được người được giáo dục niềm tin ý thức nhân của người
được giáo dục đổi với các CMXH quy định.
- Yêu cầu thực hiện phương pháp đàm thoại:
+ Công tác chuẩn bị đàm thoại: Nhà giáo dục cần xác định chủ đề, mục tiêu, nội dung của
buổi đàm thoại; xây dựng hệ thống câu hỏi (chính - phụ) thông báo cho người được GD
chuẩn bị trước.
+ Tổ chức đàm thoại: Người tổ chức nêu lên chủ đề, mục tiêu, nội dung các câu hỏi đặt ra
của buổi đàm thoại; Sau đó tổ chức trò chuyện giữa nhà giáo dục với người được giáo dục
giữa những người được giáo dục với nhau; Các ý kiến được lật đi lật lại cho đến khi hoàn
thành mục tiêu chủ đề đảm thoại.
+ Kết thúc đàm thoại: Nhà giáo dục cần kích thích những người được giáo dục rút ra những
kết luận, bài học cần thiết đối với bản thân những người xung quanh. Sau cùng nhà giáo
dục tổng kết đánh giá kết quả đàm thoại.
a.2. Kể chuyện
- phương pháp nhà giáo dục dùng lời nói, điệu bộ, cử chỉ, nét mặt để thuật lại một cách
sinh động một câu chuyện ý nghĩa giáo dục, tác động rất mạnh mẽ tới cảm xúc của
người nghe. vậy, kể chuyện phương pháp được sử dụng rất phổ biến trong quá trình
giáo dục với những người được giáo dục nhỏ tuổi.
- Ý nghĩa của phương pháp kể chuyện:
+ Người được giáo dục sẽ hình thành phát triển trí thức, xúc cảm tình cảm tích cực, niềm tin
đúng đắn đối với các CMXH.
+ Người được giáo dục sẽ học tập được những gương tốt tránh được những gương phản
diện với óc phế phản nhận xét, đánh giá thông qua nội dung câu chuyện.
- Yêu cầu khi thực hiện phương pháp kể chuyện:
+ Lựa chọn truyện kể: Nhà giáo dục cần trên sở mục tiêu giáo dục, với đối tượng giáo dục
cụ thể xác định chủ đề, lựa chọn cốt truyện, khối lượng phù hợp với trình độ nhận thức, đặc
điểm tâm sinh lý người được giáo dục.
+ Người kể chuyện phải thể hiện lời nói sinh động, giọng nói, cử chỉ, điệu bộ, nét mặt phải
phù hợp với các tình tiết, các nhân vật trong cốt truyện.
+ Sau khi kể chuyện: Đối với người được giáo dục tuổi nhỏ, nhà giáo dục thể yêu cầu trẻ
tập kể lại nêu một số câu hỏi cho người được giáo dục trao đổi nhằm khắc sâu những bài
học về các CMXH, củng cố niềm tin đối với các CMXH phát triển năng lực tưởng tượng
sáng tạo của người được giáo dục.
a.3. Giảng giải
- pp nhà giáo dục dùng lời nói để giải thích, chứng minh các CMXH đã được quy định,
nhằm giúp cho người được giáo dục hiểu nắm được ý nghĩa, nội dung, quy tắc thực hiện
các chuẩn mực này.
- Ý nghĩa phương pháp giảng giải:
| 1/16

Preview text:

1. Phân tích các chức năng xã hội của giáo dục. Rút ra kết luận sư phạm.
a. Chức năng kinh tế - sản xuất
Giáo dục tái sản xuất sức lao động xã hội, tạo nên sức lao động mới có chất lượng cao
hơn, thay thế sức lao động cũ đã lạc hậu, đã già cỗi hoặc đã mất đi bằng cách phát triển
những năng lực chung và năng lực chuyên biệt của con người, nhằm tạo ra một năng suất lao
động cao hơn, thúc đẩy sản xuất, phát triển kinh tế xã hội.
Xã hội hiện đại đặt ra những yêu cầu cao đối với chất lượng nguồn nhân lực: có trình
độ học vấn cao, có tay nghề vững vàng, năng động, sáng tạo, linh hoạt để thích nghi, đáp ứng
được những yêu cầu của tiến trình phát triển xã hội. Dạy học theo tiếp cận năng lực là một
trong giải pháp quan trọng để phát triển năng lực hành động cho người học trong các nhà
trường, đáp ứng được yêu cầu của thị trường lao động hiện nay. Kết luận sư phạm:
- Giáo dục luôn gắn kết với thực tiễn xã hội.
- Tiếp tục thực hiện mục tiêu: nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài.
- Hệ thống giáo dục nhà trường không ngừng đổi mới nhằm phát triển năng lực hành động
cho người học, đáp ứng tốt yêu cầu của thực tiễn nghề nghiệp.
b. Chức năng chính trị - xã hội
Giáo dục tác động đến cấu trúc xã hội, tức là tác động đến các bộ phận, các thành
phần xã hội (các giai cấp, các tầng lớp, các nhóm xã hội...) làm thay đổi tính chất mối quan
hệ giữa các bộ phận, thành phần đó bằng cách nâng cao trình độ văn hóa chung cho toàn thể xã hội.
Giáo dục trở thành phương tiện, công cụ để khai sáng nhận thức, bồi dưỡng tình cảm,
củng cố niềm tin, kích thích hành động của tất cả các lực lượng xã hội, nhằm duy trì, củng cố
thể chế chính trị- xã hội cho một quốc gia nào đó.
Giáo dục xã hội chủ nghĩa góp phần làm cho cấu trúc xã hội trở nên thuần nhất, làm
cho các giai cấp, các tầng lớp, các thành phần xã hội.. ngày càng xích lại gần nhau.
Ở nước ta, giáo dục là sự nghiệp của Đảng, của Nhà nước và của toàn dân. Giáo dục
phục vụ cho mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Kết luận sư phạm:
- Người giáo viên luôn phải nắm vững quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng, pháp luật của nhà nước.
- Giúp học sinh hiểu, tin tưởng và thực hiện theo đường lối, chủ trương của Đảng, pháp luật của nhà nước
c. Chức năng tư tưởng – văn hóa
Giáo dục tham gia vào việc xây dựng một hệ tư tưởng chi phối toàn xã hội, xây dựng
một lối sống phổ biến trong xã hội bằng cách phổ cập giáo dục phổ thông với trình độ ngày
càng cao cho mọi tầng lớp xã hội.
Thông qua giáo dục, những tư tưởng xã hội được thấm đến từng con người, giáo dục
hình thành ở con người thế giới quan, giáo dục ý thức, hành vi phù hợp với chuẩn mực đạo
đức xã hội. Nhờ giáo dục, tất cả các giá trị văn hoá của nhân loại, của dân tộc, của cộng đồng
được bảo tồn và phát triển, trở thành hệ thống giá trị của từng con người. Kết luận sư phạm
- Đa dạng hóa các loại hình và phương thức đào tạo trong hệ thống giáo dục quốc dân, nhằm
tạo cơ hội cho người dân được đi học và học suốt đời
- Sử dụng sức mạnh của các phương tiện thông tin đại chúng.
Trong ba chức năng xã hội của giáo dục, chức năng kinh tế - sản xuất là chức năng
quan trọng nhất, nó là cơ sở để thực hiện chức năng chính trị - xã hội, chức năng tư tưởng – văn hóa.
Câu 2: Trình bày các tính chất của giáo dục (tính phổ biến vĩnh hằng, giáo dục chịu sự
quy định của xã hội, tính lịch sử, tính giai cấp)
a. Tính phổ biến, vĩnh hằng của giáo dục
- Giáo dục chỉ có ở xã hội loài người, nó là một phần không thể tách rời của đời sống xã hội,
giáo dục có ở mọi thời đại, mọi thiết chế xã hội khác nhau.
- Giáo dục xuất hiện cùng với sự xuất hiện của xã hội và nó mất đi khi xã hội không tồn tại,
là điều kiện không thể thiếu được cho sự tồn tại và phát triển của mỗi cá nhân và xã hội loài người.
=> Như vậy, giáo dục tồn tại cùng với sự tồn tại của xã hội loài người, là con đường đặc
trưng cơ bản để loài người tồn tại và phát triển.
b. Giáo dục chịu sự quy định của xã hội
- Giáo dục là một hoạt động gắn liền với tiến trình đi lên của xã hội, ở mỗi giai đoạn phát
triển của lịch sử đều có nền giáo dục tương ứng, khi xã hội chuyển từ hình thái kinh tế – xã
hội này sang hình thái kinh tế – xã hội khác thì toàn bộ hệ thống giáo dục tương ứng cũng biến đổi theo.
- Giáo dục phản ánh trình độ phát triển kinh tế – xã hội và đáp ứng các yêu cầu kinh tế – xã
hội trong những điều kiện cụ thể. Giáo dục luôn biến đổi trong quá trình phát triển của lịch sử
loài người, không có một nền giáo dục rập khuôn cho mọi hình thái kinh tế – xã hội, cho mọi
giai đoạn của mỗi hình thái kinh tế – xã hội cũng như cho mọi quốc gia, chính vì vậy giáo
dục mang tính lịch sử. Ở mỗi thời kì lịch sử khác nhau thì giáo dục khác nhau về mục đích,
nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức giáo dục. Các chính sách giáo dục luôn được hoàn
thiện dưới ảnh hưởng của những kinh nghiệm và các kết quả nghiên cứu.
c. Tính lịch sử của giáo dục
- Ở mỗi thời kỳ lịch sử khác nhau thì giáo dục có những đặc trưng khác nhau về mục tiêu,
nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức, yêu cầu, kết quả, môi trường. Mà mỗi quốc gia lại
có lịch sử dân tộc riêng, nên nền giáo dục của quốc gia này tất yếu khác với nền giáo dục của
quốc gia khác. Do vậy, không thể đem mô hình giáo dục của quốc gia này áp dụng rập khuôn cho quốc gia khác.
d. Tính giai cấp của giáo dục
- Trong xã hội có giai cấp, giáo dục bao giờ cũng mang tính giai cấp.
- Giáo dục thuộc về một giai cấp xác định – giai cấp thống trị xã hội.
- Giáo dục được sử dụng như một công cụ để duy trì và củng cố vai trò thống trị của mình.
- Giáo dục cũng được sử dụng như một công cụ, phương tiện để đấu tranh giai cấp – đối với
giai cấp bị bóc lột, bị thống trị nhằm lật đổ giai cấp thống trị
- Tính giai cấp của giáo dục thường được biểu hiện qua mục đích giáo dục và nó chi phối,
định hướng chính trị đối với sự vận động và phát triển của giáo dục.
- Theo V.I.Lênin: Trong xã hội có giai cấp, không thể có thêm một nền giáo dục, một nhà
trường nào lại đứng trên hay đứng ngoài giai cấp.
Ở Việt Nam, mục đích của Nhà nước ta là xóa bỏ áp bức bóc lột, từ đó hướng tới sự bình
đẳng, công bằng trong giáo dục. Khi chuyển sang cơ chế thị trường, nhà nước ta đã cố gắng
đưa ra những chính sách đảm bảo công bằng trong giáo dục như:
- Mọi công dân đều có quyền tiếp cận hệ thống giáo dục.
- Đảm bảo cho những học sinh, sinh viên có năng khiếu, tài năng tiếp tục được đào tạo lên
cao bất kể điều kiện kinh tế, hoàn cảnh, giới tính, dân tộc, tôn giáo v.v. .
- Tiến hành xóa mù chữ, phổ cập giáo dục.
- Đa dạng, mềm dẻo các loại hình đào tạo, các loại hình trường lớp nhằm tạo cơ hội học tập
cho mọi tầng lớp nhân dân.
Câu 3: Phân tích vai trò của giáo dục với sự phát triển nhân cách. Rút ra KLSP cần thiết.
- Nhân cách là hệ thống giá trị làm người mà cá nhân đạt được với sự trưởng thành về phẩm
chất và năng lực trong quá trình thực hiện các chức năng xã hội của mình, được xã hội đánh giá và thừa nhận.
- Sự phát triển nhân cách cá nhân (3) được biểu hiện qua những dấu hiệu sau:
+ Sự phát triển về mặt thể chất: Thể hiện ở sự tăng trưởng về chiều cao, trọng lượng, cơ
bắp, sự hoàn thiện chức năng các giác quan,...
+ Sự phát triển về mặt tâm lý: Thể hiện sự biến đổi cơ bản trong đời sống tâm lý của cá
nhân: trình độ nhận thức, thói quen, tình cảm, tâm tư, nguyện vọng, nhu cầu, ý chí, v.v...
+ Sự phát triển về mặt xã hội: Thể hiện ở thái độ, hành vi ứng xử trong các mối quan hệ
với những người xung quanh,...
- Các yếu tố ảnh hưởng (4) đến sự hình thành và phát triển nhân cách của mỗi cá nhân: yếu tố
di truyền – bẩm sinh; yếu tố môi trường; yếu tố hoạt động cá nhân; yếu tố giáo dục.
- Giáo dục là quá trình hoạt động phối hợp thống nhất giữa nhà giáo dục và người được giáo
dục nhằm hình thành và phát triển nhân cách theo những yêu cầu của xã hội.
- Vai trò của yếu tố giáo dục: Giáo dục giữ vai trò chủ đạo đối với quá trình hình thành và
phát triển nhân cách, bởi vì nó được thực hiện theo định hướng thống nhất vì mục đích nhân
cách lý tưởng mà xã hội đang yêu cầu.Vai trò chủ đạo được thể hiện ở chỗ:
+ Giáo dục không chỉ vạch ra chiều hướng, mục tiêu hình thành và phát triển nhân cách của
học sinh mà còn tổ chức, chỉ đạo, dẫn dắt học sinh thực hiện quá trình đó đến kết quả mong muốn.
+ Giáo dục là những tác động tự giác có điều khiển, có thể mang lại những tiến bộ mà các
yếu tố di truyền bẩm sinh hoặc môi trường, hoàn cảnh không thể tạo ra được do tác động tự phát.
+ Giáo dục có sức mạnh cải biến những nét tính cách, hành vi, phẩm chất lệch lạc không phù
hợp với yêu cầu, chuẩn mực của xã hội.
+ Giáo dục có tầm quan trọng đặc biệt đối với những người khuyết tật hoặc thiểu năng, giúp
họ phục hồi một phần chức năng đã mất hoặc phát triển các chức năng khác bù trừ, giúp cho
họ hoà nhập vào cuộc sống cộng đồng.
+ Giáo dục là những tác động có điều khiển và điều chỉnh cho nên không những thích ứng
với 3 yếu tố còn lại mà nó còn có khả năng kìm hãm hoặc thúc đẩy các yếu tố đó theo một gia
tốc phù hợp mà di truyền và môi trường không thể thực hiện được.
Chú ý: Liên hệ để xây dựng ví dụ minh họa cho từng nội dung - Kết luận sư phạm
+ Cần có nhận thức đúng đắn về vai trò của giáo dục đến sự hình thành và phát triển nhân cách.
+ Biến quá trình giáo dục thành quá trình tự giáo dục ở người học
+ Tổ chức quá trình giáo dục một cách khoa học, hợp lý:
⋅ Phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý HS ⋅ Vừa sức với HS
⋅ Tổ chức các hoạt động và giao lưu đa dạng, phong phú cho HS
⋅ Lựa chọn nội dung giáo dục phù hợp và các phương pháp giáo dục khoa học
⋅ Xây dựng mối quan hệ tốt đẹp giữa nhà giáo dục và người được giáo dục
⋅ Khơi dậy khả năng tiềm ẩn, tố chất di truyền, tính tích cực trong hoạt động cá nhân của học
sinh nhằm mang lại hiệu quả cho quá trình giáo dục
Câu 4: Nêu các khái niệm cơ bản của GDH. Mối quan hệ giữa các khái niệm. Cho ví dụ minh họa.
- Giáo dục theo nghĩa rộng: là quá trình tác động có mục đích, có tổ chức, có kế hoạch, có nội
dung và bằng phương pháp khoa học của nhà giáo dục tới người được giáo dục trong các cơ
quan giáo dục nhằm hình thành nhân cách cho họ.
- Giáo dục theo nghĩa hẹp: là quá trình hình thành cho người được giáo dục lý tưởng, động
cơ, niềm tin, tình cảm, những nét tính cách của nhân cách, những hành vi, thói quen cư xử
đúng đắn trong xã hội thông qua việc tổ chức hoạt động và giao lưu.
- Dạy học: là quá trình tác động qua lại giữa người dạy và người học nhằm giúp cho người
học lĩnh hội những tri thức khoa học, phát triển năng lực tư duy và năng lực hoạt động sáng
tạo, trên cơ sở đó hình thành thế giới quan và những phẩm chất nhân cách của người học theo mục đích giáo dục.
* Các khái niệm trên được phân biệt ở sự khác nhau về việc thực hiện chức năng trội của chúng:
- Chức năng trội của giáo dục (theo nghĩa rộng): phát triển nhân cách toàn diện ở người học
sinh bao gồm cả năng lực và phẩm chất
- Chức năng trội của giáo dục (theo nghĩa hẹp) : phát triển về mặt phẩm chất ở người học sinh
- Chức năng trội của dạy học: phát triển về mặt năng lực ở người học sinh.
Câu 5: Phân tích đặc điểm của quá trình giáo dục. Rút ra KLSP.
* Khái niệm: Quá trình giáo dục là một quá trình trong đó dưới vai trò chủ đạo của nhà giáo
dục, người được giáo dục tự giác, tích cực, chủ động tự giáo dục nhằm thực hiện tốt các nhiệm vụ giáo dục.
* Đặc điểm của quá trình giáo dục
(- Giáo dục là một quá trình có tính mục đích: Mọi tác động giáo dục đều có mục đích nhất
định. Mục đích giáo dục xuất phát từ những yêu cầu xã hội về phẩm chất nhân cách con
người, bị chi phối bởi trình độ kinh tế xã hội.)
a. Giáo dục là một quá trình có tính lâu dài: Quá trình giáo dục nhằm hình thành những
phẩm chất, những nhân cách của cá nhân nên nó đòi hỏi một thời gian lâu dài mới đạt được
kết quả. Tính chất lâu dài của quá trình giáo dục được xem xét ở các góc độ sau:
+ Quá trình giáo dục được thực hiện trong suốt cả cuộc đời con người từ khi sinh ra cho đến
khi không còn sống nữa (Giáo dục suốt đời).
+ Việc hình thành và trở nên bền vững, ổn định của một hành vi, thói quen của cá nhân đòi
hỏi một thời gian lâu dài đi từ nhận thức đến niềm tin, thái độ đến hành vi thói quen, công
việc đó không phải một sớm một chiều mà có được.
+ Bên cạnh đó, việc sửa đổi, cải tạo một nét nhân cách lại đòi hỏi lâu dài hơn.
+ Kết quả tác động giáo dục thường khó nhận thấy ngay và có thể kết quả đó lại bị biến đổi
hoặc bị mất đi. Do đó công tác giáo dục phải được tiến hành bền bỉ, liên tục theo một kế
hoạch ổn định, lâu dài; đồng thời, trong quá trình giáo dục người được giáo dục phải phát huy
cao độ tính tự giác, nỗ lực tự giáo dục kéo dài thì mới đạt được hiệu quả cả quá trình giáo dục.
Ví dụ: mất từ 21 - 66 ngày để hình thành 1 thói quen => để giáo dục 1 học sinh hình thành
hành vi và thói quen hành vi cũng cần ít nhất 21 ngày.
Kết luận sư phạm: Trong quá trình giáo dục nhà giáo dục không được nôn nóng, vội vàng,
đốt cháy giai đoạn, cần phải có đức tính kiên trì, bền bỉ, có tính tự kiềm chế cao.
b. Quá trình giáo dục chịu tác động bởi nhiều nhân tố phức hợp:
+ Tính phức tạp của quá trình giáo dục trước hết nằm ở đối tượng của nó. Đối tượng của quá
trình giáo dục là con người, thực chất là tâm hồn con người, cái người khác không trực tiếp
nhìn thấy. Mỗi cá nhân là một thế giới đầy bí ẩn và hết sức phức tạp, đòi hỏi phải có thời gian
và điều kiện mới có thể nhận thức được.
+ Thứ hai kết quả quá trình giáo dục chịu sự tác động của rất nhiều yếu tố khách quan, chủ
quan, bên trong, bên ngoài khác nhau. Vì vậy trong quá trình tiến hành giáo dục nhà giáo dục
cần quan tâm đến các điều kiện, các yếu tố khách quan, chủ quan, bên trong, bên ngoài của quá trình giáo dục.
⋅ Yếu tố khách quan: kinh tế - xã hội, KHCN, văn hóa, chính trị, tư tưởng, phong tục tập
quán, … Ví dụ: biến đổi khí hậu diễn ra ngày càng rõ rệt => chương trình giáo dục dành
nhiều % cho vấn đề môi trường hơn (trong Ngữ văn, Tiếng Anh, Tự nhiên và xã hội, Giáo dục công dân, …).
⋅ Yếu tố chủ quan: các thành tố của quá trình giáo dục, cách tổ chức, các yếu tố tâm lí, trình
độ, điều kiện, hoàn cảnh gia đình, .. của đối tượng giáo dục,... Ví dụ: giáo trình dạy học cho
trẻ tự kỷ. Đó là những nhu cầu cơ bản cần phải tồn tại đó là ăn uống ngủ nghỉ khác với giáo
trình dạy học cho trẻ bình thường. Muốn giáo dục có hiệu quả nhà giáo dục phải hiểu đối
tượng, nắm bắt được đối tượng.
+ Thứ ba, kết quả quá trình giáo dục không nhìn thấy ngay được, không đánh giá ngay được,
là những cái khó định tính, định lượng một cách chính xác. Kết quả giáo dục phải có thời
gian, có điều kiện , hoàn cảnh mới bộc lộ ra ngoài.
c. Quá trình giáo dục bao giờ cũng mang tính cá biệt, cụ thể:
Quá trình giáo dục được thực hiện trong cuộc sống, hoạt động và giao lưu của mỗi cá nhân.
Giáo dục phải chú ý tới những đặc điểm riêng biệt, cụ thể của đối tượng thì mới có hiệu quả
và tránh được những tác động một cách cứng nhắc, công thức giáo điều.
Tính cá biệt, cụ thể của quá trình giáo dục được thể hiện:
+ Mỗi học sinh đều là một cá thể có tính độc lập tương đối về trình độ được giáo dục, về kinh
nghiệm sống, về thái độ, về tình cảm, thói quen…nên việc quá trình tác động giáo dục phải đi
sát, phù hợp với đối tượng thể hiện sự nhận thức đúng đắn về đặc điểm này của quá trình giáo dục.
+ Quá trình giáo dục luôn phải giải quyết những mâu thuẫn, xung đột cụ thể giữa yêu cầu,
nhiệm vụ giáo dục và phẩm chất, năng lực tâm lý của người được giáo dục . Mâu thuẫn trong
quá trình giáo dục thường nảy khi học sinh phải giải quyết một nhiệm vụ giáo dục mới nhưng
trình độ giáo dục hiện có lại chưa đủ.
+ Quá trình giáo dục được diễn ra trong thời gian, thời điểm, không gian với những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể.
+ Kết quả quá trình giáo dục cũng mang tính cụ thể đối với từng loại đối tượng giáo dục, đối
với từng mặt, từng yêu cầu giáo dục hoặc tổng quát trọn vẹn của một quá trình giáo dục cho
những đối tượng cụ thể.
Vì giáo dục mang tính cá biệt, cụ thể tức là giáo dục phải phù hợp với từng cá nhân cụ thể,
từng điều kiện hoàn cảnh cụ thể mới có hiệu quả nên trong quá trình giáo dục, nhà giáo dục
phải thực sự thương yêu học sinh, quan tâm sâu sát học sinh để hiểu tường tận về các em, có
vậy mới có thể có cách tác động phù hợp với từng đối tượng.
d. Quá trình giáo dục thống nhất biến chứng với quá trình dạy học
- Giáo dục và dạy học là hai quá trình có cùng mục đích là hình thành và phát triển nhân
cách, tuy nhiên chúng không đồng nhất.
- Dạy học nhằm tổ chức, điều khiển để người học chiếm lĩnh có chất lượng và hiệu quả nội
đung học vấn; giáo dục hình thành những phẩm chất đạo đức, hành vi, thói quen. . . hai hoạt
động này không tách biệt mà có quan hệ biện chứng với nhau. Trên cơ sở thực hiện các
nhiệm vụ dạy học thì thế giới quan và các phẩm chất đạo đức của học sinh được hình thành
và phát triển, ngược lại, giáo dục tốt các phẩm chất sẽ thúc đẩy hoạt động đạt kết quả cao,
dạy học là quá trình điều khiển được, còn quá trình giáo dục là quá trình phức tạp khó kiểm soát.
(- Học sinh là khách thể (đối tượng) của quá trình giáo dục, là chủ thể của quá trình tự giáo
dục: Trong quá trình giáo dục học sinh luôn nhận các tác động giáo dục từ phía nhà giáo dục
các lực lượng giáo dục khác, khi đó học sinh là khách thể của quá trình giáo dục. Nhưng khi
tiếp nhận các tác động giáo dục đó, người học không hoàn toàn thụ động mà là một thực thể
xã hội, có ý thức mang tính tích cực, học sinh với tư cách là chủ thể của quá trình giáo dục
khi nó tự giác, chủ động và tích cực thực hiện các yêu cầu của giáo dục từ bên ngoài. Hiệu
quả quá trình giáo dục phụ thuộc rất lớn vào vào tính chủ thể này của người được giáo dục.)
Câu 6: Phân tích bản chất của QTGD. Rút ra KLSP.
- Khái niệm quá trình giáo dục (theo nghĩa hẹp)
- Những căn cứ xác định bản chất của quá trình giáo dục
+ Quá trình giáo dục là quá trình xã hội hóa cá nhân: Đây là quá trình biến cá nhân thành một
thành viên của xã hội, có đầy đủ các giá trị xã hội để tham gia vào các hoạt động xã hội.
+ Quan hệ giữa người giáo dục và người được giáo dục là quan hệ sư phạm: là quan hệ xã hội đặc thù.
- Bản chất của quá trình giáo dục: là quá trình tổ chức cuộc sống, tổ chức các hoạt động và
giao lưu cho người được giáo dục tham gia một cách tự giác, tích cực, độc lập, sáng tạo nhằm
chuyển hóa những yêu cầu và những chuẩn mực của xã hội quy định thành hành vi và thói
quen hành vi tương ứng ở họ trên cơ sở đó, thực hiện tốt các nhiệm vụ giáo dục.
a. Quá trình giáo dục – quá trình xã hội nhằm giúp đối tượng giáo dục biến các yêu cầu khách
quan thành yêu cầu chủ quan của cá nhân
Quá trình giáo dục nhằm hình thành và phát triển cá nhân con người trở thành những
thành viên xã hội. Quá trình giáo dục là quá trình làm cho đối tượng giáo dục ý thức được các
quan hệ xã hội và các giá trị của nó, biến những yêu cầu khách quan của xã hội thành ý thức,
thành niềm tin và thái độ, thành những thuộc tính, những phẩm chất nhân cách của cá nhân.
Bên cạnh đó, quá trình này cũng giúp đối tượng biết loại bỏ khỏi bản thân những quan niệm,
những biểu hiện tiêu cực, tàn dư cũ, lạc hậu không còn phù hợp với xã hội hiện đại.
b. Quá trình giáo dục là quá trình tổ chức cuộc sống, hoạt động và giao lưu cho đối tượng giáo dục
Hoạt động và giao lưu là hai mặt cơ bản, thống nhất trong cuộc sống của con người và
cũng là điều kiện tất yếu của sự hình thành và phát triển nhân cách của cá nhân. Tâm lý học
đã khẳng định: hoạt động và giao lưu vừa là nguồn gốc vừa là động lực của sự hình thành và
phát triển nhân cách.Nếu các hoạt động và giao lưu được tổ chức một cách khoa học, cá nhân
được tham gia vào các hoạt động và giao lưu đó thì sẽ có rất nhiều cơ hội tốt cho sự phát triển.
Chính vì vậy quá trình giáo dục vừa mang tính chất của hoạt động, vừa mang tính
chất của giao lưu. Giáo dục là một quá trình tác động qua lại mang tính xã hội giữa nhà giáo
dục và đối tượng giáo dục, giữa các đối tượng giáo dục với nhau và với các lực lượng, các
quan hệ xã hội trong và ngoài nhà trường. - Kết luận sư phạm
+ Cần tổ chức các hoạt động và giao lưu đa dạng, phong phú, hấp dẫn cho học sinh.
+ Bồi dưỡng tính tự tin và tinh thần tập thể cho học sinh trong khi tổ chức các hoạt động giáo dục
+ Phát huy tính tích cực của học sinh trong các hoạt động do nhường tổ chức….
Câu 7: Trình bày các khâu của quá trình giáo dục ở trường phổ thông hiện nay.
Quá trình giáo dục mang tính toàn vẹn. Từ lý luận và thực tiễn giáo dục, ta có thể thấy quá
trình giáo dục diễn ra theo các khâu cơ bản sau:
a. Tổ chức điều khiển người được GD nắm vững những tri thức về các chuẩn mực xã hội đã quy định
Các chuẩn mực xã hội là thước đo giá trị hành vi của con người được xã hội thừa
nhận, có tác dụng định hướng, điều tiết hành vi của cá nhân, của nhóm xã hội trong những
điều kiện nhất định. Nhiều loại chuẩn mực về đạo đức, pháp luật đã được lựa chọn và đưa
vào nội dung quá trình giáo dục. Muốn người được giáo dục tự giác tích cực thực hiện theo
các chuẩn mực xã hội đã quy định đòi hỏi nhà giáo dục cần phải tác động tới nhận thức của
người được giáo dục, giúp cho người được giáo dục nắm vững được những tri thức về các
chuẩn mực xã hội bao gồm:
- Ý nghĩa xã hội và ý nghĩa cá nhân của các chuẩn mực xã hội quy định.
- Nội dung của các chuẩn mực (bao gồm các khái niệm tương ứng)
- Cách thức thực hiện theo các yêu cầu chuẩn mực đó.
Tuy nhiên, kết quả của quá trình nhận thức đó phụ thuộc vào trình độ văn hóa, kinh khái
niệm về đạo đức, về quyền lợi và nghĩa vụ, về quy tắc sống, chuẩn mực xã hội, những giá trị
văn hóa sẽ được hình thành.
b. Tổ chức điều khiển người được giáo dục hình thành niềm tin và tình cảm tích cực với các
chuẩn mực xã hội quy định
Trong quá trình giáo dục, niềm tin đối với các chuẩn mực xã hội được thể hiện ở
người được giáo dục theo các mức độ tăng dần như sau:
- Người được giáo dục nắm được kinh nghiệm sống, sự trải nghiệm của mỗi người, là sản
phẩm của quá trình học tập và tự tu dưỡng.
- Tin về mặt lý luận cũng như về mặt thực tiễn đối với tính chân lý đúng đắn của các chuẩn mực xã hội
- Mong muốn tuân theo những yêu cầu được phản ánh trong các chuẩn mực xã hội.
- Bước đầu có hành vi phù hợp với các chuẩn mực xã hội
- Hài lòng về hành vi của mình khi đã hoàn thành phù hợp với các chuẩn mực xã hội
- Tỏ thái độ không khoan nhượng đối với những hành vi của người khác có mâu thuẫn với
những chuẩn mực xã hội.
Chính niềm tin đó cùng với những tri thức tương ứng thu lượm được sẽ tạo nên ở
người được giáo dục ý thức đúng đắn. Trong quá trình hình thành ý thức nói chung, niềm tin
nói riêng cho người được giáo dục đã làm nảy nở những xúc cảm, tình cảm tốt đẹp đối với
các chuẩn mực xã hội. Những xúc cảm, tình cảm tích cực đó như là những “chất men” kích
thích người được giáo dục chuyển hóa ý thức cá nhân thành hành vi thói quen tương ứng.
Kinh nghiệm thực tiễn giáo dục cho thấy:
- Nếu ý thức về các chuẩn mực xã hội của người được giáo dục bị hạn chế thì tình
cảm tương ứng cũng bị hạn chế, điều đó dẫn tới hành vi tương ứng mang tính chất hình thức,
thậm chí không hình thành hoặc rơi vào tình trạng sai lệch.
- Nếu người được giáo dục có nhận thức đúng về các chuẩn mực xã hội mà không có
tình cảm tương ứng thì hành vi tương ứng sẽ khô khan cứng nhắc và thậm chí không hình
thành hay sai lệch: “Yêu nên tốt, ghét nên xấu”
- Nếu người được giáo dục nắm các chuẩn mực xã hội một cách không tự giác sẽ dẫn
đến tình trạng nói và làm không đi đôi với nhau và kết quả giáo dục là hình thành bộ mặt nhân cách giả tạo.
Đối với các trường phổ thông thì công tác giáo dục thái độ, niềm tin, tình cảm tích cực cho
học sinh đối với việc học tập, các mối quan hệ gia đình, bè bạn, xã hội, đối với tự nhiên và
môi trường xung quanh là điều có ý nghĩa rất quan trọng. Giáo dục xây dựng niềm tin cho các
em vào chân lí, lẽ phải, giáo dục tình cảm yêu mến, kính trọng thầy cô giáo, cha mẹ; thân ái
với bạn bè,… và đồng thời chú ý uốn nắn, điều chỉnh kịp thời những biểu hiện thái độ lệch
lạc, thiếu trong sáng làm ảnh hưởng tới hiệu quả quá trình giáo dục.
c. Tổ chức điều khiển người được giáo dục hình thành hành vi và thói quen hành vi phù hợp
với các chuẩn mực xã hội đã quy định
Nhân cách của mỗi người được thể hiện bằng hành vi và thói quen hành vi của họ
chứ không chỉ dừng ở sự hiểu biết của họ. Hành vi là biểu hiện cụ thể nhất của bộ mặt tâm lí,
đạo đức của con người.
Mục đích của quá trình giáo dục là hình thành ở người được giáo dục phẩm chất nhân cách
của người công dân, người lao động đáp ứng yêu cầu xã hội. Do đó, quá trình giáo dục quan
trọng nhất là phải tổ chức, điều khiển người được giáo dục tham gia vào những mối quan hệ
hoạt động và giao lưu để họ tự rèn luyện nhằm hình thành những hành vi phù hợp với các
chuẩn mực xã hội và lặp đi lặp lại những hành vi đó thành thói quen tương ứng. Bởi hành vi
văn hóa khi đã trở thành thói quen sẽ mang tính bền vững và tự động hóa trong cách ứng xử
của mọi tình huống cuộc sống hàng ngày của người được giáo dục.
Hành vi và thói quen hành vi của mỗi người được hình thành trong quá trình hoạt động và
được rèn luyện trong các tình huống cụ thể, đa dạng của cuộc sống. Giáo dục hành vi, thói
quen hành vi có văn hóa là kết quả của cả một quá trình học tập tu dưỡng và rèn luyện lâu dài
của người được giáo dục.
Chính vì vậy, quá trình giáo dục phải tổ chức các hoạt động đa dạng phong phú dưới nhiều
hình thức khác nhau và ngày càng phức tạp đồng thời chú ý bồi dưỡng cho người được giáo
dục ý thức tự rèn luyện, năng lực tự kiểm tra, tự đánh giá thường xuyên trên cơ sở đó các thói
quen hành vi đạo đức của người được giáo dục mới được hình thành.
Lưu ý: những hành vi hình thành ở người được giáo dục phải thoả mãn các tiêu chí sau đây: •
Hành vi đó có phù hợp với các chuẩn mực xã hội quy định hay không? •
Hành vi đó có được thể hiện ở mọi nơi mọi lúc hay không? •
Hành vi có được duy trì bền vững theo thời gian hay không? •
Hành vi đó có động cơ đúng hay sai? Có ý nghĩa xã hội và cá nhân như thế nào?
Tóm lại: Các khâu trên đây của quá trình giáo dục tác động đồng bộ tới nhận thức, tình cảm,
hành vi thói quen của người được giáo dục có mối quan hệ mật thiết với nhau, hỗ trợ cho
nhau thậm trí là thâm nhập vào nhau: nhận thức là cơ sở là điều kiện cần cho việc hình thành
tình cảm, hành vi tương ứng ở người được giáo dục; Niềm tin, tình cảm là động lực thúc đẩy
cá nhân hoạt động để biến nhận thức thành hành động; Việc thể nghiệm hành vi và rèn luyện
hành vi là yếu tố quyết định sự hình thành phát triển nhân cách của người được giáo dục.
Trong thực tiễn giáo dục, khi vận dụng các khâu của quá trình giáo dục đòi hỏi nhà giáo
dục không nhất thiết phải tuân theo trình tự các khâu nêu trên. Việc vận dụng các khâu sao
cho phù hợp với từng đối tượng, yêu cầu, nhiệm vụ giáo dục và hoàn cảnh cụ thể nhằm phát
huy tính hiệu quả của quá trình giáo dục.
Câu 8: Trình bày các nhóm PP, các PPGD của QTGD. Giải thích: Tại sao phải lực chọn
phối hợp các ppgd trong tổ chức hđ giáo dục. Cho ví dụ.
Quá trình giáo dục là một quá trình phức tạp, các phương pháp giáo dục được hiểu
trên nhiều bình diện khác nhau và có cách phân chia nhóm phương pháp giáo dục gọi tên khác nhau.
Cách phân loại phổ biến các phương pháp giáo dục được đa số các nhà giáo dục lựa
chọn hiện nay là cách phân loại dựa trên cơ sở logic của quá trình giáo dục.
a. Nhóm các phương pháp hình thành ý thức cá nhân của người được giáo dục
Ý thức cá nhân là một thể thống nhất giữa tri thức và niềm tin của cá nhân về các
chuẩn mực xã hội quy định. Vì vậy, quá trình giáo dục muốn hình thành ý thức cá nhân cho
người được giáo dục thì cần tác động tới nhận thức và xúc cảm, tình cảm của người được
giáo dục đối với các chuẩn mực xã hội quy định.
Các phương pháp giáo dục có ưu thế trong việc tác động tới nhận thức, cảm xúc của
người được giáo dục đối với các chuẩn mực xã hội bao gồm: Đàm thoại, Kể chuyện, Giảng giải, Nêu gương. a.1. Đàm thoại
- Đàm thoại là phương pháp trò chuyện chủ yếu giữa nhà giáo dục và người được giáo dục về
các chủ đề có liên quan đến các CMXH nói chung, các chuẩn mực đạo đức, pháp luật, thẩm
mỹ nói riêng bằng một hệ thống các câu hỏi do nhà giáo dục chuẩn bị trước.
- Các loại đàm thoại: tùy vào mục tiêu của hoạt động đàm thoại, ta có các loại như: đàm thoại
gợi mở, đàm thoại củng cố, hệ thống hóa.
- Ý nghĩa của phương pháp đàm thoại:
+ Người được giáo dục có cơ hội giải thích, đánh giá những sự kiện, hiện tượng, trên cơ sở
đó nắm vững các CMXH và rút ra những kết luận bổ ích cho bản thân.
+ Người được giáo dục có điều kiện để khắc sâu, phát triển, hệ thống hoá những vấn đề có
liên quan đến các CMXH, từ đó hình thành, phát triển xúc cảm, tình cảm tích cực đối với các CMXH.
+ Hình thành và phát triển được ở người được giáo dục niềm tin và ý thức cá nhân của người
được giáo dục đổi với các CMXH quy định.
- Yêu cầu thực hiện phương pháp đàm thoại:
+ Công tác chuẩn bị đàm thoại: Nhà giáo dục cần xác định rõ chủ đề, mục tiêu, nội dung của
buổi đàm thoại; xây dựng hệ thống câu hỏi (chính - phụ) và thông báo cho người được GD chuẩn bị trước.
+ Tổ chức đàm thoại: Người tổ chức nêu lên chủ đề, mục tiêu, nội dung và các câu hỏi đặt ra
của buổi đàm thoại; Sau đó tổ chức trò chuyện giữa nhà giáo dục với người được giáo dục và
giữa những người được giáo dục với nhau; Các ý kiến được lật đi lật lại cho đến khi hoàn
thành mục tiêu chủ đề đảm thoại.
+ Kết thúc đàm thoại: Nhà giáo dục cần kích thích những người được giáo dục rút ra những
kết luận, bài học cần thiết đối với bản thân và những người xung quanh. Sau cùng nhà giáo
dục tổng kết đánh giá kết quả đàm thoại. a.2. Kể chuyện
- Là phương pháp nhà giáo dục dùng lời nói, điệu bộ, cử chỉ, nét mặt để thuật lại một cách
sinh động một câu chuyện có ý nghĩa giáo dục, có tác động rất mạnh mẽ tới cảm xúc của
người nghe. Vì vậy, kể chuyện là phương pháp được sử dụng rất phổ biến trong quá trình
giáo dục với những người được giáo dục nhỏ tuổi.
- Ý nghĩa của phương pháp kể chuyện:
+ Người được giáo dục sẽ hình thành phát triển trí thức, xúc cảm tình cảm tích cực, niềm tin
đúng đắn đối với các CMXH.
+ Người được giáo dục sẽ học tập được những gương tốt và tránh được những gương phản
diện với óc phế phản nhận xét, đánh giá thông qua nội dung câu chuyện.
- Yêu cầu khi thực hiện phương pháp kể chuyện:
+ Lựa chọn truyện kể: Nhà giáo dục cần trên cơ sở mục tiêu giáo dục, với đối tượng giáo dục
cụ thể xác định chủ đề, lựa chọn cốt truyện, khối lượng phù hợp với trình độ nhận thức, đặc
điểm tâm sinh lý người được giáo dục.
+ Người kể chuyện phải thể hiện lời nói sinh động, giọng nói, cử chỉ, điệu bộ, nét mặt phải
phù hợp với các tình tiết, các nhân vật trong cốt truyện.
+ Sau khi kể chuyện: Đối với người được giáo dục tuổi nhỏ, nhà giáo dục có thể yêu cầu trẻ
tập kể lại và nêu một số câu hỏi cho người được giáo dục trao đổi nhằm khắc sâu những bài
học về các CMXH, củng cố niềm tin đối với các CMXH và phát triển năng lực tưởng tượng
sáng tạo của người được giáo dục. a.3. Giảng giải
- Là pp nhà giáo dục dùng lời nói để giải thích, chứng minh các CMXH đã được quy định,
nhằm giúp cho người được giáo dục hiểu và nắm được ý nghĩa, nội dung, quy tắc thực hiện các chuẩn mực này.
- Ý nghĩa phương pháp giảng giải: