



















Preview text:
  lOMoAR cPSD| 58707906 i 
UBND THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG 
TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG  BÁO CÁO TỔNG KẾT 
ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA SINH VIÊN 
THAM GIA HỘI NGHỊ SINH VIÊN NCKH NĂM HỌC 2022-2023 
TRUYỀN THUYẾT VỀ CÁC NỮ THẦN VIỆT NAM 
Thuộc Tiểu ban: Khoa học xã hội và Nhân văn 
Hải Phòng, tháng 5 năm 2023        lOMoAR cPSD| 58707906 ii 
KHOA NGỮ VĂN- KHOA HỌC XÃ HỘI  BÁO CÁO TỔNG KẾT 
ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA SINH VIÊN 
THAM GIA HỘI NGHỊ SINH VIÊN NCKH NĂM HỌC 2022-2023 
TRUYỀN THUYẾT VÀ TÍN NGƯƠNG THỜ NỮ THẦN CỦA NGƯỜI VIỆT 
Thuộc Tiểu ban: Khoa học xã hội và Nhân văn 
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Lan Anh,  Vũ Quỳnh Chi, 
Nguyễn Thị Thanh Huyền, Vũ Thị  Hồng Trang.  Nam, Nữ: Nữ  Dân tộc: Kinh 
Lớp: ĐHSPNV.K21 Khoa: Ngữ Văn & Khoa học xã hội  Năm thứ: 3  Số năm đào tạo: 4 
Ngành học: ĐHSP Ngữ Văn 
Người hướng dẫn: TS Đoàn Thị Ngọc Anh              lOMoAR cPSD| 58707906 iii                lOMoAR cPSD| 58707906 iv      MỤC LỤC 
MỞ ĐẦU............................................................................................................................1 
1. Tổng quan tình hình nghiên cứu..................................................................................1 
2. Lý do lựa chọn đề tài....................................................................................................3 
3. Mục tiêu đề tài...............................................................................................................4 
4. Phương pháp nghiên cứu.............................................................................................5  4.1. Phương  pháp  thống  kê,  phân 
loại..............................................................................5  4.2. Phương  pháp  phân  tích,  tổng 
hợp..............................................................................5  4.3. Phương  pháp  liên 
ngành............................................................................................5 
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu................................................................................5  5.1. Đối  tượng  nghiên 
cứu.................................................................................................5  5.2. Phạm  vi  nghiên 
cứu....................................................................................................6 
6. Đóng góp của đề tài.......................................................................................................6 
7. Cấu trúc của đề tài........................................................................................................6 
NỘI DUNG........................................................................................................................7 
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ THUYẾT CỦA ĐỀ TÀI..........................................................7 
1.1. Khái quát về truyền thuyết dân gian Việt Nam.......................................................7 
1.1.1. Thuât ngữ, kḥ  ái  niêm  truyền  thuyếṭ
 ........................................................................7  1.1.2. Đặc  trưng  của  truyền 
thuyết....................................................................................8 
1.2. Khái quát về nữ thần...............................................................................................11  1.2.1. Khái  niệm  nữ 
thần.................................................................................................11  1.2.2. Phân  loại  nữ 
thần..................................................................................................13 
1.3. Mối quan hệ giữa truyền thuyết, nghi lễ và lễ hội.................................................15 
Tiểu kết chương 1:..........................................................................................................16      lOMoAR cPSD| 58707906 v 
CHƯƠNG 2: HỆ THỐNG TRUYỀN THUYẾT CÁC NỮ THẦN VIỆT NAM........17 
2.1. Thống kê truyền thuyết nữ thần Việt Nam............................................................17 
2.1.1. Phạm vi khảo sát....................................................................................................17 
2.1.2. Số lượng truyền thuyết...........................................................................................17 
2.2. Nội dung của truyền thuyết nữ thần Việt Nam......................................................20 
2.2.1. Ca ngợi vẻ đẹp toàn diện của nhân vật..................................................................20 
2.2.2. Ca ngợi quyền năng, sức mạnh, bảo vệ con người, quê hương, đất nước...........23 
2.2.3. Ca ngợi công lao lao động và sáng tạo, xây dựng nền văn hoá...........................28 
2.2.4. Sự tôn vinh, thờ phụng nhân vật của tác giả dân gian........................................32 
2.3. Nghệ thuật của truyền thuyết các nữ thần Việt Nam............................................35 
2.3.1. Kết cấu....................................................................................................................35 
2.3.2. Motif.......................................................................................................................40 
2.3.2.1. Motif sự ra đời thần kỳ......................................................................................40 
2.3.2.2. Motif tài năng và tướng mạo khác thường.......................................................44 
2.3.2.3. Motif công trạng của người anh hùng lao động và sáng tạo văn hóa.............46 
2.3.2.4. Motif kết duyên kỳ ngộ......................................................................................49 
2.3.2.5. Motif chiến công thần kì....................................................................................51 
2.3.2.6. Motif hóa thân....................................................................................................54 
2.3.2.7. Motif hiển linh âm phù......................................................................................58 
2.3.3. Nhân vật.................................................................................................................62 
Tiểu kết chương 2:..........................................................................................................64 
CHƯƠNG 3: TÍN NGƯỠNG THỜ NỮ THẦN TRONG KHÔNG GIAN VĂN HÓA 
CỦA NGƯỜI VIỆT........................................................................................................66 
3.1. Đặc điểm của tín ngưỡng thờ nữ thần....................................................................66 
3.1.1. Đặc điểm về nguồn gốc của tín ngưỡng thờ nữ thần............................................66 
3.1.2. Đặc điểm về bản chất của tín ngưỡng thờ nữ thần...............................................69 
3.2. Tục thờ nữ thần của người Việt..............................................................................71 
3.2.1. Di tích, địa điểm thờ cúng của nữ thần.................................................................71 
3.2.2. Nghi lễ thờ cúng nữ thần.......................................................................................77 
3.2.3. Giá trị văn hóa của tục thờ nữ thần......................................................................79 
3.2. Mối quan hê gị ữa truyền thuyết các nữ thần Viêt Nam ṿ ới không gian văn hóa lễ 
hôị.....................................................................................................................................81 
Tiểu kết chương 3:..........................................................................................................85      lOMoAR cPSD| 58707906 vi 
KẾT LUÂṆ .....................................................................................................................86 
TÀI LIÊU THAM KḤ ẢO..............................................................................................87 
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU  Tên bảng   Trang 
Bảng 2.1: Bảng số lượng truyền thuyết về các nữ thần Việt Nam    13 
Bảng 2.2: Bảng thống kê kết cấu các truyện truyền thuyết nữ thần Việt Nam  36 
Bảng 2.3: Bảng thống kê các truyền thuyết sử dụng motif sự ra đời thần kỳ    42 
Bảng 2.4: Bảng thống kê motif tài năng và tướng mạo khác thường trong truyền  47  thuyết về nữ thần 
 Bảng 2.5: Bảng thống kê các truyền thuyết sử dụng motif công trạng người anh  49   
hùng lao động và sáng tạo văn hoá   
 Bảng 2.6: Bảng thống kê các truyền thuyết sử dụng motif kết duyên kỳ ngộ  52   
 Bảng 2.7: Bảng thống kê các truyền thuyết sử dụng motif chiến công thần k ì  55   
 Bảng 2.8: Bảng thống kê các truyền thuyết sử dụng motif hóa thâ n    59   
 Bảng 2.9: Bảng thống kê các truyền thuyết sử dụng motif hình thành sự vật    63  hiện tượng 
 Bảng 2.10: Bảng thống kê các truyền thuyết sử dụng motif hiển linh âm phù  64   
Các em sửa lại tên các bảng từ 2.5 đến 2.10 như bảng 2.4 cô đã sửa nhé. Sửa cả trong  phần chính văn nữa nhé 
Bổ sung thêm bảng 3.1 bảng di tích địa điểm thờ nữ thần nhé                  lOMoAR cPSD| 58707906 vii  DANH MỤC VIẾT TẮT  STT  Chữ viết tắt  Đọc là  1  PGS  Phó giáo sư  2  TS  Tiến sĩ  3  NXB  Nhà xuất bản  4  KHXH  Khoa học xã hội  5  SGK  Sách giáo khoa      lOMoAR cPSD| 58707906 1  MỞ ĐẦU 
1. Tổng quan tình hình nghiên cứu 
Để có được một cái nhìn sâu sắc và toàn diện về đề tài nghiên cứu “Truyền thuyết và 
tín ngưỡng thờ nữ thần của người Việt”, chúng tôi đã tìm và khảo sát từ nhiều nguồn tư liệu  khác nhau: 
Trong đó cuốn sách “Tổng tập văn học dân gian người Việt” do tác giả Kiều Thu 
Hoạch chủ biên của Viện Khoa học xã hội Việt Nam xuất bản năm 2004, là một bộ sách có 
giá trị lớn về mặt văn hóa và văn học, đã bao quát tương đối đầy đủ kho tàng văn học dân 
gian Việt Nam. Trong đó tập 4 và tập 5 của bộ sách này tác giả đã biên soạn phần truyền 
thuyết Việt Nam từ thời Hùng Vương đến thời Nguyễn một cách khoa học theo từng giai 
đoạn và thời kì lịch sử. 
Đã có rất nhiều công trình nghiên cứu, sưu tầm, ghi chép về các vị nữ thần. Cuốn sách 
đầu tiên phải kể đến đó là cuốn “Truyện các nữ thần Việt Nam” của nhóm tác giả Đỗ Thị 
Hảo và Mai Thị Ngọc Chúc. Bên cạnh đó trong cuốn “Thần nữ và Liệt nữ Việt Nam” của 
tác giả Mai Ngọc Chúc biên soạn, cũng có rất nhiều câu chuyện về các nữ thần Việt Nam. 
Đồng thời cũng phải kể đến cuốn “Truyền thuyết Việt Nam” của nhóm tác giả Vũ Ngọc 
Khánh biên soạn có rất nhiều các truyền thuyết về nữ thần, mẫu thần và thánh mẫu đã được 
các tác giả dày công sưu tầm. 
Những bài viết nghiên cứu về tín ngưỡng thờ nữ thần phải kể đến là “Công trình 
nghiên cứu Đạo Mẫu ở Việt Nam” (1996) gồm 2 tập do tác giả Ngô Đức Thịnh chủ biên 
kết hợp cùng với các tác giả khác đã tập hợp nhiều bài viết của nhiều tác giả nghiên cứu về 
nguồn gốc, các cách thức thể hiện và mối quan hệ của Đạo Mẫu với những yếu tố văn hóa 
khác như: truyền thuyết, thần tích, điện thờ, nghi lễ và lễ hội về Thánh Mẫu; “Tín ngưỡng 
thờ nữ thần trong hệ thống tín ngưỡng dân gian Việt Nam” của PGS.TS Đỗ Lan Hiền nghiên 
cứu về lý do khiến yếu tố nữ “lên ngôi” trong hệ thống văn hóa tâm linh của người Việt và 
vai trò của tín ngưỡng thờ nữ thần trong đời sống xã hội; “Đạo mẫu Việt Nam (Từ thờ nữ 
thần, Mẩu thần đến Mẫu Tam phủ, Tứ phủ)” của tác giả Ngô Đức Thịnh viết về những cơ 
sở xã hội và lịch sử đã tạo điều kiện cho sự tồn tại một cách mạnh mẽ và dai dẳng các tục 
thờ cúng nữ thần với thờ mẫu thần và mẫu Tam phủ, Tứ phủ, xem xét những tương đồng      lOMoAR cPSD| 58707906 2 
và khác biệt giữa thờ nữ thần với thờ mầu thần và Mầu Tam phủ, Tử phủ, cũng như việc 
thờ Mầu trong bổi cảnh chung của tín ngưỡng dân dã ở làng quê Việt Nam. 
Bên cạnh đó, một số luận văn thạc sĩ như: Truyền thuyết về nữ thần và Thánh Mẫu ở 
Hà Nam (Trần Thị Bổng); Luận văn thạc sĩ: Khảo sát truyền thuyết dân gian Bắc Giang 
(Phạm Thị Xuyến); Luận văn thạc sĩ: Truyền thuyết và lễ hội về nữ thần ở Hải Phòng (Lê 
Thị Hải Thanh); Luận văn thạc sĩ: Truyền thuyết nữ thần, Mẫu thần và Thánh Mẫu trong 
không gian văn hóa Hòa Bình và Thanh Hóa (Nguyễn Thị Thanh); Luận văn thạc sĩ: Tín 
ngưỡng thờ nữ thần vùng ven sông Hương ở Huế (Dương Hải Vân);... là gợi ý để chúng tôi 
nghiên cứu đề tài Truyền thuyết và tín ngưỡng thờ nữ thần của người Việt. 
Ngoài ra còn có rất nhiều những công trình nghiên cứu khác như cuốn: Văn hóa thờ 
nữ thần - Mẫu ở Việt Nam và Châu Á bản sắc và giá trị (Trung tâm nghiên cứu và bảo tồn 
văn hóa tín ngưỡng Việt Nam, Sở văn hóa, thể thao và du lịch Nam Định) với những 
bài tham luận như Nữ thần và tục thờ nữ thần ở Hải Phòng (Ngô Đăng Lợi); Tín ngưỡng 
thờ nữ thần ở Đồng Nai (Nguyễn Thị Nguyệt); Hệ thần nữ Việt: Nhìn từ góc độ đặc trưng 
vùng miền (Nguyễn Hữu Thông); Bản sắc và giá trị văn hóa thờ nữ thần ở Tây Nam Bộ 
(GS.TSKH. Trần Ngọc Thêm, Ths. Ngô Thanh An, Ths. Nguyễn Thị Lệ Hằng); Tục thờ nữ 
thần và mẫu thần ở Thái Bình (Đinh Đăng Tuy)... 
Dựa trên những công trình nghiên cứu và những bài viết của các tác giả chúng tôi đã 
nhận thấy được tầm quan trọng và cũng như là sự quan tâm của các nhà khoa học đối với 
các vấn đề về truyền thuyết các nữ thần. Tuy nhiên, vấn đề mà đề tài nghiên cứu này đặt ra 
là rất mới, một vấn đề chưa được nghiên cứu nhiều. Các công trình trên chỉ nghiên cứu từng 
nữ thần riêng lẻ hoặc nghiên cứu nữ thần theo từng vùng văn hoá mà chưa có công trình 
nào nghiên cứu một cách tổng hợp về truyền thuyết nữ thần Việt Nam. Trên cơ sở kế thừa 
thành quả nghiên cứu của những thế hệ đi trước, chúng tôi mạnh dạn lựa chọn đề tài “Truyền 
thuyết và tín ngưỡng thờ nữ thần của người Việt” để phân tích và chỉ ra những đặc trưng 
nhất về hệ thống truyền thuyết nữ thần ở Việt Nam. Đây là một việc làm hết sức thiết thực 
và có ý nghĩa. Với nghiên cứu khoa học này, chúng tôi mong được đóng góp một phần nhỏ 
bé vào công việc nghiên cứu văn học nói chung, và văn học dân gian Việt Nam nói riêng.      lOMoAR cPSD| 58707906 3 
2. Lý do lựa chọn đề tài 
Thời gian không ngừng qua đi, xã hội ngày càng phát triển trong sự giao thoa hội 
nhập, tiếp thu các thành tựu văn hoá của các nước trên thế giới tuy nhiên các tác phẩm dân 
gian vẫn tồn tại bền bỉ như dòng sông chảy mãi đến vô tận. Cất lên từ cuộc sống và phát 
triển qua bao thăng trầm lịch sử, văn học dân gian vẫn luôn là một bộ phận quan trọng trong 
nền văn học nước nhà; trong đó phải kể đến truyền thuyết. Truyền thuyết với cái cốt lõi là 
sự thực lịch sử, nó gắn bó chặt chẽ với lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc; với 
những địa danh thắng cảnh nổi tiếng; với nền văn hoá nghìn đời. 
Việt Nam là một đất nước thuộc nền văn minh nông nghiệp lúa nước nên sự đảm đang, 
khéo léo của người phụ nữ luôn là điều được đề cao. Trong kho tàng các câu chuyện truyền 
thuyết của dân tộc ta, ban đầu con người coi tự nhiên là những người mẹ: Mẹ Đất, Mẹ 
Nước, Mẹ Lúa, Mẹ Mưa....Những câu truyện về mẹ Nữ Oa sáng tạo ra đất trời, mẹ Âu Cơ 
sinh ra con cháu Việt Nam hay truyện về các bà mẹ đắp núi, đào sông, bảo vệ bờ cõi…tất 
cả đều đã khẳng định vai trò quan trọng của người phụ nữ. Cho dù có giai đoạn vị thế của 
họ bị vòng cương tỏa và luật lệ hà khắc của xã hội phong kiến trọng nam khinh nữ, hạ thấp 
và coi thường thì trên thực tế họ vẫn là những người luôn miệt mài, kiên trì giữ lửa cho mỗi 
gia đình, dòng tộc - những yếu tố hạt nhân của xã hội. Chính vì thế mà các cụ ta xưa khi 
chiết tự đã luận rằng, chữ “an” (安) gồm bộ “miên” - mái nhà (宀) và chữ “nữ” (女)hợp 
thành, tức dưới mái nhà nếu có người phụ nữ thì gia đình sẽ đi an vui. Và cũng chính vì vậy 
mà người Việt mới có quan niệm ra “phúc đức tại mẫu”. 
Trải qua quá trình hình thành, phát triển và sự bồi đắp về văn hóa, tín ngưỡng tâm 
linh, dân tộc ta đã hình thành nên tục thờ nữ thần, mẫu thần và thánh mẫu. Các vị thần này 
có thể là những nữ thần tự nhiên hay những người mẹ, những người phụ nữ có thực trong 
lịch sử đã anh dũng chiến đấu vì độc lập tự do của tổ quốc, những người có công lao xây 
dựng cuộc sống cộng đồng…. được nhân dân ghi nhớ và tôn phong, thờ phụng. Nhờ vậy 
mà họ đã sống mãi trong tâm thức của người dân Việt Nam và luôn luôn trường tồn cùng 
lịch sử dân tộc. Cho đến nay, hệ thống các nữ thần, mẫu thần và thánh mẫu ở nước ta được 
thờ phụng ngày càng nhiều, tiêu biểu là: Thánh Mẫu Liễu Hạnh, Thánh Mẫu Thoải, Thánh  Mẫu Thượng Ngàn...      lOMoAR cPSD| 58707906 4 
Quan điểm coi trọng vai trò, vị trí của người phụ nữ trong xã hội lâu dần tiếp biến với 
các yếu tố văn hóa khác trở thành một hình thức tín ngưỡng trong nhân gian: tín ngưỡng 
thờ nữ thần và mẫu thần. Ở khắp mọi nơi trên mọi miền tổ quốc không nơi đâu là không có 
đền chùa, miếu phủ thờ cúng và ghi nhớ công lao của người phụ nữ, trong số đó có cả những 
tiểu thư đài các, những vị phu nhân danh gia thế tộc cho đến cả những thôn nữ có gốc bình 
dân. Tư duy tôn kính những nữ nhân đôn hậu, hiền từ và có công trạng to lớn với quê hương 
bản quán, với dân tộc kết hợp với tín ngưỡng thần linh bản địa, Đạo giáo, Phật giáo đã hình 
thành nên tín ngưỡng thờ mẫu đặc sắc trong văn hóa dân gian Việt Nam mà trên thế giới ít 
nơi có được. Giá trị của tín ngưỡng thờ mẫu, thờ nữ thần và những câu chuyện truyền thuyết 
về các nàng chính là cái tâm hướng thiện, thể hiện đạo lí “Uống nước nhớ nguồn”, giáo 
dục con người biết ăn ở, đối nhân xử thế, thành tâm thờ phụng ông bà tổ tiên, cao hơn nữa 
đó là biết ơn những người có công với nhân dân và đất nước, biết ơn những người mẹ đã 
đem đến cho con người sự sống. Đã có nhiều bài báo, công trình nghiên cứu viết về các giá 
trị của tín ngưỡng thờ nữ thần cũng như tín ngưỡng thờ thánh mẫu tuy nhiên chúng tôi thấy 
rằng chưa có bài viết cũng như đề tài nào đi sâu nghiên cứu truyền thuyết về các nữ thần và 
tín ngưỡng thờ phụng họ. Vì vậy nghiên cứu về truyền thuyết và tín ngưỡng thờ nữ thần 
của người Việt là một đề tài hay và cần thiết, giúp chúng ta có được cái nhìn khái quát và 
sâu sắc hơn về giá trị văn hoá, tinh thần của truyền thuyết nữ thần cũng như tín ngưỡng thờ 
nữ thần trong quá trình hoàn thiện tâm hồn con người Việt Nam. 
Là một người con của đất nước Việt Nam, chúng tôi vô cùng tự hào về điều đó và 
mong muốn thông qua đề tài này đóng góp phần nào vào việc bảo tồn, phát huy giá trị văn 
hoá dân gian truyền thống của quê hương nói riêng và dân tộc nói chung. Đó cũng là cơ hội 
để chúng tôi trau dồi thêm kiến thức về văn hoá, văn học, đồng thời ứng dụng những kiến 
thức đã học vào thực tiễn nghiên cứu một vấn đề cụ thể. Trên cơ sở những lý do trên, chúng 
tôi chọn đề tài “Truyền thuyết và tín ngưỡng thờ nữ thần của người Việt” làm đề tài nghiên  cứu khoa học của mình. 
3. Mục tiêu đề tài 
Tìm hiểu sự phong phú đa dạng của truyền thuyết và tín ngưỡng thờ nữ thần của người  Việt.      lOMoAR cPSD| 58707906 5 
Bước đầu khảo sát truyện cổ dân gian về nữ thần để tiến hành khai thác và tìm hiểu 
những phương diện khác nhau trong hình tượng nữ thần ở Việt Nam và tín ngưỡng thờ cúng  các nữ thần. 
Nghiên cứu truyền thuyết và tín ngưỡng thờ nữ thần của người Việt giúp chúng ta có 
một cái nhìn sâu sắc và toàn diện truyền thống văn hóa tốt đẹp của con người nơi đây, đặc 
biệt là người phụ nữ. 
4. Phương pháp nghiên cứu 
 Trước đối tượng và phạm vi nghiên cứu, nhằm đạt được những mục đích đã đề ra, 
chúng tôi sẽ áp dụng một số phương pháp nghiên cứu chủ yếu sau: 
4.1. Phương pháp thống kê, phân loại 
Trong quá trình thực hiện đề tài chúng tôi thực hiện phương pháp thống kê, phân loại 
nhằm mục đích khảo sát truyền thuyết và tín ngưỡng thờ nữ thần của người Việt. 
4.2. Phương pháp phân tích, tổng hợp 
Chúng tôi sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp để tiếp cận đối tượng nghiên cứu 
một cách cụ thể, chi tiết, phân tích truyền thuyết các nữ thần dưới góc độ đặc trưng thể loại. 
Từ những phân tích cụ thể sẽ khái quát, đánh giá một cách tổng hợp những giá trị văn học, 
văn hóa mà truyền thuyết về các nữ thần mang lại. 
4.3. Phương pháp liên ngành 
Truyền thuyết là một thể loại có đặc trưng nguyên hợp đặc thù trong các loại hình văn 
học dân gian với mối quan hệ chặt chẽ với lịch sử, dân tộc học, văn hóa học, văn học dân 
gian… Tìm hiểu truyền thuyết các nữ thần và những yếu tố liên quan đến tín ngưỡng, tục 
thờ chúng tôi sử dụng hướng tiếp cận liên ngành (dân tộc học, văn hóa học, tôn giáo học, 
khoa học về lịch sử, địa lý v.v…) để lý giải một hiện tượng độc đáo trong văn học, văn hóa  dân gian người Việt. 
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 
5.1. Đối tượng nghiên cứu 
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là “Truyền thuyết và tín ngưỡng thờ nữ thần của 
người Việt” (các truyền thuyết kể về cuộc đời, công lao của và tín ngưỡng thờ các nữ thần)      lOMoAR cPSD| 58707906 6 
Từ việc xác định những văn bản là truyền thuyết dân gian về các nữ thần, chúng tôi 
tìm hiểu những đặc sắc về nội dung và nghệ thuật, qua đó có cái nhìn tổng quan về truyền 
thuyết và tín ngưỡng thờ nữ thần của người Việt. 
5.2. Phạm vi nghiên cứu 
Phạm vi tư liệu: Các truyền thuyết về nữ thần đã được sưu tầm trong cuốn “Truyện 
các nữ thần Việt Nam” của nhóm tác giả Đỗ Thị Hảo, Mai Thị Ngọc Chúc   
Phạm vi nghiên cứu: Truyền thuyết và tín ngưỡng thờ nữ thần của người Việt dưới 
góc độ thể loại (phân tích nội dung và nghệ thuật, tìm hiểu kết cấu, môtip truyền thuyết về 
các nữ thần) và mối quan hệ với tín ngưỡng, văn hóa dân gian. 
6. Đóng góp của đề tài 
Thực hiện đề tài này, chúng tôi đã tập trung tìm hiểu, khảo sát và tập hợp truyền thuyết 
đặc biệt chú ý và làm nổi bật các yếu tố văn học dân gian địa phương, đặc trưng vùng miền. 
Nghiên cứu đề tài này, chúng tôi đã giải quyết được những vấn đề sau: 
Đây là công trình nghiên cứu về truyền thuyết và tín ngưỡng thờ nữ thần của người 
Việt một cách tương đối hoàn thiện. Đề tài đưa ra một cái nhìn phân tích, hệ thống về vấn 
đề nghiên cứu trên các phương diện: khảo sát tư liệu, nguồn gốc hình thành, đặc trưng, chức 
năng, quan niệm nghệ thuật, phương thức phản ánh đặc biệt về thế giới, con người, ý nghĩa 
tâm linh, đời sống văn hóa tín ngưỡng còn nhiều bí ẩn trong dân gian. 
Đề tài đưa ra được những đánh giá, nhận xét về giá trị nội dung và nghệ thuật của 
chuỗi truyền thuyết và tín ngưỡng thờ nữ thần của người Việt dưới góc độ của khoa nghiên 
cứu văn học dân gian. Đề tài góp phần tái dựng diễn biến lưu truyền của truyền thuyết về 
các nữ thần, thông qua việc tìm hiểu mối quan hệ qua lại giữa truyền thuyết dân gian và tục 
thờ nữ thần; truyền thuyết dân gian và các di tích vật thể. 
7. Cấu trúc của đề tài 
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phần nội dung chính bao gồm: 
Chương 1: Cơ sở lí thuyết của đề tài 
Chương 2: Hệ thống truyền thuyết các nữ thần của người Việt 
Chương 3: Tín ngưỡng thờ nữ thần trong không gian văn hóa Việt      lOMoAR cPSD| 58707906 7  NỘI DUNG 
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ THUYẾT CỦA ĐỀ TÀI 
1.1. Khái quát về truyền thuyết dân gian Việt Nam 
1.1.1. Thuât ngữ, kḥ ái niêm truyền thuyếṭ 
“Thuât ng ̣ ữ legend (truyền thuyết)” bắt nguồn từ tiếng Latinh legere - nghĩa là đọc. 
Ban đầu, thuât ng ̣ ữ này xuất hiên ̣ ở Châu Âu để chỉ tên gọi của môt đọ ạn tài liêu đ ̣ ọc để 
chỉ môt cụ ốn sách chứa đựng những lí giải về cuôc đ ̣ ời các vị Thánh được sắp xếp theo 
trât ṭ ự của lịch Thiên chúa và được đọc, dùng trong những ngày lễ hay nghi thức thiêng 
liêng. Song đến cuối thời kì trung đại ở Châu Âu, chữ truyền thuyết có nghĩa là những câu 
chuyên c ̣ ó thực hay đã được hư cấu.   
Có rất nhiều quan niêm, đ ̣ịnh nghĩa về truyền thuyết. 
Trong giáo trình “Văn học dân gian” của Trường Đại học Sư phạm Hà Nội do NXB 
Giáo dục xuất bản năm 1970, chương truyền thuyết do Đỗ Bình Trị chấp bút. Ông đã đưa 
ra định nghĩa: “Truyền thuyết là những truyện cố định líu đến lịch sử mà lại có sự kỳ diệu 
là lịch sử hoang đường hoặc là những truyền tưởng tượng ít nhiều gắn với lịch sử” [31, 28] 
Bài tiểu luận “Truyền thuyết anh hùng trong thời kì phong kiến” của Kiều Thu Hoạch 
của nhiều tác giả do NXB Khoa học xã hội xuất bản năm 1971, tác giả đã đưa ra một quan 
niệm về truyền thuyết khá thuyết phục: “Truyền thuyết là một thể loại truyện kể truyền 
miệng, nằm trong loại hình tự sự dân gian, nội dung cốt truyện của nó kể lại truyện tích của 
nhân vật lịch sử hoặc giải thích nguồn gốc các phong vật địa phương theo quan điểm của 
nhân dân, biện pháp nghệ thuật phổ biến của nó là khoa trương, phóng đại, đồng thời nó 
cũng sử dụng các yếu tố hư ảo, thần kì như cổ tích và thần thoại; nó khác cổ tích ở chỗ 
không nhằm phản ánh xung đột gia đình, sinh hoạt xã hội và số phận cá nhân mà thường 
phản ánh những vấn đề thuộc phạm vi quốc gia, dân tộc rộng lớn; nó khác thần thoại ở chỗ 
nhào nặn tự nhiên và xã hội trên cơ sở sự thật lịch sử cụ thể chứ không phải hoàn toàn trong 
trí tưởng tượng và bằng trí tưởng tượng”.[13, 15] 
Năm 2001, giáo trình Văn học dân gian Việt Nam của Trường Đại học Tổng hợp Hà 
Nội được biên soạn lại do NXB Đại học Quốc gia Hà Nội xuất bản, chủ biên là Lê Chí 
Quế. Ông đưa ra định nghĩa: “Truyền thuyết là một thể loại trong loại hình tự sự dân gian 
phản ảnh những sự kiện, nhân vật lịch sử, danh nhân văn hoá hay nhân vật tôn giáo thông      lOMoAR cPSD| 58707906 8 
qua sự hư cấu nghệ thuật thần kì” [24, 49]. Chúng ta có thể thấy đây là một định nghĩa rất 
ngắn gọn nhưng vẫn bám sát đặc trưng thể loại trên cả hai phương diện nội dung và nghệ 
thuật, phù hợp với nhiệm vụ nghiên cứu, giảng dạy VHDG trong nhà trường. 
Trong “SGK lớp 10 - Tập 1”, ông Chu Xuân Diên cho rằng “Truyền thuyết là những 
truyện kể dân gian về các sự kiện và nhân vật lịch sử hoặc tôn giáo đã được trí tưởng tượng 
dân gian tô vẽ thêm bằng các yếu tố không có thực” [29, 17]. 
Tương tự, ông Đỗ Bình Trị trong “SGK lớp 10 - Tập 1” quan niệm “Truyền thuyết 
lịch sử là những truyện kể về lịch sử những thời quá khứ được trí tưởng tượng dân gian 
thêu dệt thêm, thể hiện mối quan tâm riêng, thái độ và cách đánh giá riêng của nhân dân đối 
với một số sự kiện và nhân vật lịch sử.” [29, 18] 
Hay đã từng có quan điểm truyền thuyết được nhắc đến là những truyện truyền tụng 
trong dân gian về những sự việc nhân vật có liên quan đến lịch sử được phản ánh qua trí 
tưởng tượng và hư cấu. 
Như vậy ta có thể thấy rằng, nói đến truyền thuyết là nói đến những tác phẩm tự sự 
dân gian mà yếu tố lịch sử là yếu tố cơ bản quyết định sự sáng tạo, lưu truyền và tồn tại tác 
phẩm. Lịch sử sẽ là nguồn cảm hứng cho các tác giả dân gian sáng tạo tác phẩm truyền 
thuyết. Và chính vì thế tách khỏi cái khung lịch sử, truyền thuyết chỉ còn là một sản phẩm 
tưởng tượng hoang đường, đáp ứng cho những yêu cầu khác nhau để phục vụ cho việc tạo 
ra những tác phẩm thuộc thể loại khác mà không phải là truyền thuyết nữa. Và vì ra đời 
sau thần thoại lại làm tiền đề cho sự ra đời của cổ tích, truyền thuyết vẫn có những yếu tố 
song trùng với thần thoại và có những nét gần gũi với một thể loại tự sự ra đời sau đó là 
truyện cổ tích. Và bên trong cái vỏ thần kỳ truyền thuyết lại hàm chứa những yếu tố gắn 
với lịch sử dân tộc thời kỳ dựng nước và giữ nước. 
1.1.2. Đặc trưng của truyền thuyết 
1.1.2.1. Đặc trưng về quá trình hình thành và phát triển 
Truyền thuyết Việt Nam ra đời và phát triển trong thời đại anh hùng Việt Nam, thời 
đại mà những yếu tố xã hội - lịch sử mang đặc trưng chung của thời đại anh hùng trong lịch 
sử nhân loại: đó là thời kỳ con người bứt ra khỏi đời sống dã man, bước vào chế độ văn 
minh đầu tiên. Thời kỳ được đánh dấu bằng những chiến công lao động và những biến đổi 
xã hội sâu sắc, nên còn được gọi là thời kỳ của “thanh kiếm sắt, cái cày và cái rìu bằng sắt”.      lOMoAR cPSD| 58707906 9 
Ở Việt Nam, nó được đánh dấu bằng sự kết thúc của thời kỳ tiền sử, sự khởi đầu của thời 
kỳ sơ sử, với sự hình thành của nhà nước Văn Lang đầu tiên, thuộc thời kì văn hoá kim khí 
mà đỉnh cao là văn hoá Đông Sơn. 
Việc sử dụng công cụ kim loại được coi như một cuộc cách mạng kỹ thuật. Đồ đồng 
cực kỳ phong phú về số lượng, đa dạng về loại hình, thể hiện trình độ cao về kỹ thuật chế 
tác và năng khiếu thẩm mỹ dồi dào của chủ nhân nó như những chiếc rìu, lưỡi cày đồng, 
xẻng, cuốc đồng, dao gặt… Công cụ sản xuất vô cùng phong phú, tuy còn thô sơ nhưng đã 
tiến bộ dẫn đến thành quả lao động được nâng cao, đời sống con người được cải thiện. Bên 
cạnh nhu cầu ăn, ở, người ta đã có nhu cầu thẩm mỹ, không chỉ là ăn no mặc ấm mà còn là 
ăn ngon, mặc đẹp, và sinh hoạt tiện lợi. Con người đã phần nào khám phá một số bí ẩn của 
thiên nhiên để phục vụ cộng đồng: sản xuất một số cây trồng theo mùa vụ, tìm ra một số 
giống cây quý, nhiều giống lúa nước và chế biến một số món ăn từ gạo, cấy ghép các loại  thực vật quý hiếm,... 
Đời sống được cải thiện nên nhu cầu mở rộng thêm các vùng định cư và sản xuất, khai 
thác thêm các thị trường mới để trao đổi sản phẩm, khám phá đất hoang… ngày càng dâng 
cao trong cộng đồng. Chiến tranh giữa các bộ tộc xảy ra liên miên nhằm xâm lấn đất đai, 
mở rộng địa bàn, thôn tính lẫn nhau dẫn đến sự hình thành nhà nước đầu tiên. Các bộ lạc 
có xu hướng hoặc là thâu tóm lẫn nhau hoặc đoàn kết để chống lại các bộ lạc lớn mạnh  khác. 
Hoàn cảnh đó đã tạo nên một không khí hào hùng cho thời đại mà Ăngghen nhận xét: 
“thời đại mà mỗi thành viên nam giới của bộ lạc đến tuổi thành niên đều là những chiến 
binh…”. Các thành viên trong cộng đồng có điều kiện bộc lộ phẩm chất anh hùng của mình, 
ý thức về lịch sử, dân tộc, chủ quyền lãnh thổ được nuôi dưỡng. Xuất hiện các cá nhân anh 
hùng và tập thể anh hùng. Và truyền thuyết ra đời nhằm tôn vinh sức mạnh, phẩm chất 
người anh hùng của mình, cộng đồng của mình. 
Tóm lại, thời đại truyền thuyết là thời đại có bước tiến vọt từ đồ đá sang đồ đồng sắt, 
từ hái lượm săn bắt sang trồng trọt lúa nước và định cư nông nghiệp, từ lối sống thô sơ đến 
sự ra đời của “nghề khéo” và “của ngon vật lạ”, từ mẫu hệ sang phụ quyền, từ bộ lạc sang 
liên minh bộ tộc và nhà nước phôi thai, tóm lại từ dã man sang văn minh, ở trên vùng châu 
thổ sông Hồng. Và nếu như thần thoại ra đời từ nhu cầu nhận thức của người nguyên thuỷ      lOMoAR cPSD| 58707906 10 
thì truyền thuyết ra đời từ nhu cầu tôn vinh, nhu cầu được tự hào về những chiến công vĩ 
đại cả về làm ăn, cả về chiến đấu của con người thời đại anh hùng. 
1.1.2.2. Truyền thuyết phản ánh lịch sử một cách độc đáo 
Truyền thuyết luôn gắn bó mật thiết với sự thật, với lịch sử, phản ánh những sự kiện 
trọng đại của dân tộc. Vì vậy mà một số nhân vật trong truyền thuyết cũng là nhân vật lịch 
sử, được nhân dân thừa nhận, tôn sùng. 
Tuy vậy, truyền thuyết vẫn là một thể tài của văn học dân gian chứ không phải sử học. 
Trong truyền thuyết có những sự kiện lịch sử nhưng không hoàn toàn chính xác mà chỉ là 
những tia khúc xa của lịch sử. Truyền thuyết khai sinh từ lịch sử nhưng truyền thuyết không 
phải là bản thân lịch sử. 
Truyền thuyết không chú ý đến việc đảm bảo tính tuần tự và trình tự thời gian sự kiện 
như lịch sử. Trong truyền thuyết, không phải nhân vật nào hay sự kiện nào cũng trở thành 
trung tâm phản ánh. Truyền thuyết có thể ghi lại sự kiện lịch sử của thời khuyết sử hoặc 
chọn lọc những sự kiện theo quan niệm của nhân dân. 
 Ngược lại, một số nhân vật lịch sử không được sử sách ghi lại nhiều như nhân vật 
Tiên Dung mị nương và Chử Đồng Tử nhưng trong truyền thuyết lại có một vị trí quan 
trọng, là vị thần trong tín ngưỡng dân gian. Theo sách “Lĩnh Nam chích quái”, sự hình 
thành đầm Dạ Trạch gắn liền với truyền thuyết Tiên Dung và Chử Đồng Tử. Lễ hội Chử 
Đồng Tử - Tiên Dung (hay còn gọi là lễ hội Đa Hòa - Dạ Trạch) được tổ chức ở hai ngôi 
đền là đền Đa Hòa (xã Bình Minh) và đền Hóa Dạ Trạch (xã Dạ Trạch) cùng huyện Khoái 
Châu, tỉnh Hưng Yên [22, 94]. Lễ hội hằng năm đều được tổ chức nhưng với quy mô tổng 
(tổng Mễ xưa có 9 làng) thì 3 năm một lần. Lễ mang giá trị văn hoá sâu sắc, là bức tranh về 
đời sống hết sức phong phú, sinh động của người Việt cổ trong việc khai phá đầm lầy, phù 
sa ven sông Hồng từ hàng ngàn năm về trước. Đây không chỉ là huyền thoại về tình yêu mà 
còn là minh chứng cho nền văn hóa lâu đời của dân tộc Việt Nam. 
Về mặt thời gian, không gian, nguyên nhân, diễn biến, kết quả của các sự kiện lịch sử 
trong truyền thuyết cũng không đảm bảo tính chính xác tuyệt đối. 
Truyền thuyết thường chú ý đến những nhân vật có xuất thân nông dân hoặc gần dân, 
thường kể về người anh hùng trong mối quan hệ với dân, nhân dân vừa là người tham gia, 
vừa là chỗ dựa tinh thần, động viên người anh hùng làm nên chiến thắng.      lOMoAR cPSD| 58707906 11 
Có thể nói, truyền thuyết không phản ánh lịch sử một cách chính xác nhưng hiểu 
truyền thuyết, ta có thể tìm ra những thứ mà không một tài liệu lịch sử nào ghi lại được. 
Bởi đó là sự kể lại của nhân nhân, là quan niệm của nhân dân, tâm tư, tình cảm, mong ước 
thầm kian của nhân dân qua mỗi giai đoạn lịch sử. Truyền thuyết cũng phản ánh tinh thần 
tự chủ, tự hào, niềm tin vào sức mạnh của bản thân nhân dân, khẳng định sự ủng hộ và giúp 
đỡ của nhân dân sẽ giúp người anh hùng hoàn thành nghiệp lớn. 
Nhà nghiên cứu Kiều Thu Hoạch khẳng định, tính chính xác lịch sử trong truyền 
thuyết không phải hoàn toàn ở sự phản ánh về thời gian, không gian, nhân danh, sự biến, 
trình tự biên niên của sự kiện mà chủ yếu là ở bản chất, ở cái cốt lõi của lịch sử. Đó là một 
thứ lịch sử văn hoá - tinh thần của nhân dân. Nó không giống như chính sử, nhưng lại luôn 
được dân gian thừa nhận đó chính là lịch sử đáng tin cậy (tín sử) của mình. 
Truyền thuyết là những sự kiện lịch sử qua nhận thức và tình cảm của nhân dân nên 
nhiều chi tiết mang đậm màu sắc nhân văn. Yếu tố tưởng tượng, hư cấu trong truyền thuyết 
làm cho hành trang của mỗi nhân vật anh hùng trở nên kỳ vĩ, nhân vật được sánh ngang tầm 
thần thánh, tạo nên một cốt truyện truyền cảm, sinh động, vừa chân thực vừa hấp dẫn, giúp 
cho truyền thuyết trở thành một tác phẩm nghệ thuật thực thụ chứ không phải là một tài liệu  sử học. 
1.2. Khái quát về nữ thần 
1.2.1. Khái niệm nữ thần 
Tuy chưa có ai thống kê một cách đầy đủ các nữ thần được nhân dân ta tôn vinh và 
thờ cúng, nhưng căn cứ vào cuốn “Truyện các nữ thần Việt Nam” của nhóm tác giả Đỗ Thị 
Hảo và Mai Thị Ngọc Chúc, chúng ta sẽ thấy đã có khoảng 75 vị nữ thần tiêu biểu được  nhân dân Việt tôn thờ. 
Trong cuốn “101 điều cần biết về tín ngưỡng và phong tục Việt Nam”, nhà Dân tộc 
học, nhà nghiên cứu văn hóa Trương Thìn đã đưa ra khái niệm về nữ thần như sau: “Nữ 
thần là những người phụ nữ (là nhân vật huyền thoại hoặc nhân vật lịch sử có thực), hoặc 
những vật thể được nhân cách hóa mang nữ tính, được phong làm thần linh (theo quan 
niệm dân gian). Họ là những lực lượng sáng tạo ra vũ trụ, ra loài người hoặc những anh 
hùng văn hóa có kì tích rực rỡ, những vị nữ tướng hy sinh vì dân, vì nước, những người      lOMoAR cPSD| 58707906 12 
phụ nữ giúp dân lập ấp dựng làng, truyền thụ các tri thức ngành nghề, những bà mẹ, người 
chị tài năng, đức hạnh tiêu biểu”. [27, 101] 
Có thể nói, khái niệm Nữ thần này khá chính xác, khái niệm đã cung cấp đầy đủ những 
yếu tố tạo nên một nữ thần. Nữ thần trước hết phải là phụ nữ, mang tính nữ. Và dù là nhân 
vật hư cấu hay nhân vật lịch sử có thật thì họ đều được phong là thần linh. Hình ảnh của họ 
đã đi sâu vào trong dòng chảy văn học dân tộc với vẻ đẹp toàn diện, tiêu biểu cho người 
phụ nữ với phẩm hạnh sáng ngời. Những người được suy tôn làm nữ thần hầu hết là những 
người có công với nhân dân, với tổ quốc. Công lao của họ rất lớn, họ là những nữ tướng có 
công đánh đuổi kẻ thù xâm lược, là những bà tổ nghề có công sáng tạo và truyền thụ nghề 
cho muôn dân, là những nữ nhân có công khai hoang, lập ấp, mở mang bờ cõi… Việc làm 
của các nữ thần đều xuất phát từ tình yêu quê hương, yêu đất nước và con người, vì mang 
tình yêu lớn lao nên họ đã đứng lên đấu tranh cho tổ quốc, thậm chí là hy sinh, bỏ qua cả 
thân phận "nữ nhi". Công lao của các nữ thần được sánh ngang với các vị nam thần, quốc 
công, tướng quân trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. 
Nữ thần là một hệ thống nhân vật độc đáo, xuyên suốt từ thần thoại đến truyền thuyết 
với nhiều địa vị và thân phận khác nhau. Khi tiếp cận một số truyền thuyết về nữ thần, 
chúng ta thường thấy nữ thần xuất hiện với thân phận là vợ, con gái hoặc thuộc hạ của nam 
thần, có xuất thân là nhân thần, vẻ ngoài thường là xinh đẹp, giỏi giang, tài năng xuất chúng. 
Tuy nhiên, diện mạo nguyên thủy của nữ thần lại thường xuất hiện trong những câu chuyện 
thần thoại cổ xưa nhất của thế giới với tướng mạo khác thường, thường có xuất thân là thiên 
thần hoặc nhân thần, song song bên cạnh các nam thần là những vị nữ thần đảm nhiệm các 
chức vụ khác nhau như: sinh ra con người (bà Nữ Oa, Tây Vương Mẫu - Trung Hoa); Bảo 
hộ hôn nhân và sinh đẻ (nữ thần Hera - Hy Lạp; nữ thần Frigg Bắc Âu); Nữ thần tình yêu 
và sắc đẹp (nữ thần Aphrodite - Hy Lạp; nữ thần Freyja - Bắc Âu); Nữ thần chiến tranh (nữ  thần Athena - Hy Lạp)... 
Dù ít mang diện mạo nguyên thủy như trong thần thoại nhưng các nữ thần trong truyền 
thuyết vẫn đảm nhiệm các nhiệm vụ quan trọng: khai dân lập ấp, mở mang bờ cõi, sáng tạo 
và truyền thụ nghề, chống quân xâm lược,... Chính các vị nữ thần này đã cùng với nam thần 
tạo nên một thế giới truyền thuyết hoàn chỉnh. Hình ảnh các nữ thần thường xuất hiện bên 
cạnh nam thần nhằm tôn vinh tầm quan trọng của người phụ nữ trong xã hội xưa và làm