Từ những đường lối đổi mới của Đại hội VI, rút ra bài học kinh nghiệm để liên | Bài tập lớn môn Lịch sử đảng cộng sản Việt Nam

Từ những đường lối đổi mới của Đại hội VI, rút ra bài học kinh nghiệm để liên | Tiểu luận môn Lịch sử đảng cộng sản Việt Nam được siêu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuận bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đón xem!

Thông tin:
14 trang 3 tháng trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Từ những đường lối đổi mới của Đại hội VI, rút ra bài học kinh nghiệm để liên | Bài tập lớn môn Lịch sử đảng cộng sản Việt Nam

Từ những đường lối đổi mới của Đại hội VI, rút ra bài học kinh nghiệm để liên | Tiểu luận môn Lịch sử đảng cộng sản Việt Nam được siêu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuận bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đón xem!

23 12 lượt tải Tải xuống
lOMoARcPSD| 45474828
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
BÀI TẬP LỚN
HỌC PHẦN LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
Đề tài: Từ những đường lối đổi mới của Đại hội VI, rút ra bài học kinh nghiệm để liên
hệ với thực tiễn hiện nay.
Họ và tên: Nguyễn Thị Liên Linh
Mã sinh viên: 11218670
Lớp tín chỉ: LLDL1102(122)_23
GV hướng dẫn: TS. Nguyễn Thị Thắm
Hà Nội, 10/2022
Mục lục
Nôi dung
Lời mở đầu ........................................................................................................................... 2
lOMoARcPSD| 45474828
2
1. Lý thuyết: ....................................................................................................................... 3
1.1 Đổi mới về kinh tế: ................................................................................................... 3
1.2 Đổi mới về xã hội: .................................................................................................... 4
1.3 Đổi mới về an ninh quốc phòng: .............................................................................. 4
1.4 Đổi mới trong chính sách đối ngoại: ......................................................................... 4
1.5 Đổi mới trong lãnh đạo: ........................................................................................... 4
2. Bài học kinh nghiệm: ..................................................................................................... 5
2.1 Kết hợp chặt chgiữa đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy nhiệm vụ phát triển
kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt ........................................................... 5
2.2 Xây dựng Đảng về chính trị có tầm quan trọng đặc biệt........................................... 5
2.3 Coi trọng xây dựng Đảng về tư tưởng, lý luận trong quá trình đổi mới .................... 6
2.4 Vấn đề xây dng Đảng về đạo đức ngày càng được chú trọng ............................... 6
2.5 Xây dựng Đảng về tổ chức và cán bộ có vai trò quyết định ..................................... 6
3. Liên hệ thc tế:3.1 Nhận thức và giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế
và đổi mới ........................................................................................................................ 7
chính trị .......................................................................................................................... 7
3.2 Những thành tựu to lớn của đất nước sau 35 năm thực hiện đường lối đổi mới do
Đảng khởi xướng và lãnh đạo: .................................................................................... 10
Lời kết ................................................................................................................................ 13
Lời mở đầu
Sau thắng lợi đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, miền Nam được hoàn
toàn giải phóng, đất nước thống nhất, non sông thu về một mối, cả nước đi lên chủ nghĩa
hội. Trong niềm vui chiến thắng, ới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân cả nước bắt
tay vào hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục và phát triển kinh tế, từng bước xây
dựng cơ sở vật chất - kthuật của chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước. Từ thời chiến
chuyển sang thời bình, đòi hỏi Đảng phải đổi mới tư duy, thay đổi nội dung và phương
thức lãnh đạo cho phù hợp với tình hình mới. Thực hiện Nghị quyết của Đại hội lần thứ
IV, thứ V các nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương trong thời gian của các
nhiệm kỳ đại hội đó, nhân dân ta đã giành được những thành tựu quan trọng trên các
lĩnh vực, cải biến được một phần cấu của nền kinh tế- hội, đặt những sở đầu
tiên cho sự phát triển mới. Song, chúng ta chưa tiến xa được bao nhiêu, trái lại còn gặp
nhiều khó khăn khuyết điểm mới. Trong thời kỳ kế hoạch năm năm 1981-1985,
chúng ta không thực hiện được mục tiêu đã đề ra bản ổn định tình hình kinh tế -
xã hội, ổn định đời sống của nhân dân. Sai lầm về tổng điều chỉnh giá, lương, tiền cuối
năm 1985 đã đưa nền kinh tế của đất nước ta đến những khó khăn mới. Nền kinh tế -
hội nước ta đã lâm vào khủng hoảng trầm trọng. Tình hình đất nước đang đòi hỏi
Đảng phải tích cực chuẩn bị và tiến hành Đại hội lần thứ VI theo yêu cầu đổi mới mạnh
lOMoARcPSD| 45474828
3
mẽ, phải nhìn thẳng vào sự thật, nói sự thật, đánh giá đúng thực trạng của đất nước.
Từ đó xác định đúng mục tiêu nhiệm vụ của cách mạng trong chặng đường trước
mắt, đề ra chủ trương, chính sách đúng để xoay chuyển tình thế, đưa đất nước vượt qua
khó khăn, tiến lên phía trước. Đại hội VI diễn ra đã đưa ra những đường lối đổi mới cho
đất nước. Thông qua tìm hiểu, em thấy rằng các đường lối đổi đổi mới này một nội
dung đáng được khai thác. Qua đó em đã lựa chọn đề tài “Từ những đường lối đổi
mới của Đại hội VI, rút ra bài học kinh nghiệm để liên hệ với thực tiễn hiện nay”
1. Lý thuyết:
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng họp tại Nội từ ngày 15 đến 18-
121986. Dự Đại hội 1129 đại biểu thay mặt cho gần 1,9 triệu đảng viên trong toàn
Đảng. Đến dự Đại hội có 32 đoàn đại biểu quốc tế.
Đại hội khẳng định quyết tâm đổi mới công tác lãnh đạo của Đảng theo tinh thần cách
mạng và khoa học. Đại hội nhận định: Năm năm qua là một đoạn đường đầy thử thách
đối với Đảng và nhân dân ta. Cách mạng nước ta diễn ra trong bối cảnh quốc tế trong
nước những thuận lợi bản, nhưng cũng nhiều khó khăn phức tạp. Thực hiện
những nhiệm vụ, mục tiêu do Đại hội thứ V đề ra, nhân dân ta đã anh dũng phấn đấu
đạt được những thành tựu quan trọng trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, giành
những thắng lợi to lớn trong cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ quốc làm nghĩa vụ quốc tế.
Đại hội cũng nhận rõ: Tình hình kinh tế - hội đang những khó khăn gay gắt; sản
xuất tăng chậm; hiệu quả sản xuất và đầu tư thấp; phân phối lưu thông có nhiều rối ren;
những mất cân đối lớn trong nền kinh tế chậm được thu hẹp; quan hệ sản xuất hội
chủ nghĩa chậm được củng cố; đời sống nhân dân lao động còn nhiều khó khăn… Nhìn
chung, chúng ta chưa thực hiện được mục tiêu tổng quát do Đại hội lần thứ V đề ra
về cơ bản ổn định tình hình kinh tế - xã hội, ổn định đời sống nhân dân.
Trên cơ sở phân tích, đánh giá tình hình đất nước, tự phê bình về những sai lầm khuyết
điểm, đổi mới tư lý luận trải qua nhiều tìm tòi, khảo nghiệm từ thực tiễn, Đại hội đề ra
đường lối đổi mới.
1.1 Đổi mới về kinh tế:
Khẳng định đổi mới là yêu cầu bức thiết, ý nghĩa sống còn đối với nước ta, Đại hội
đã đề ra đường lối đổi mới, trước hết là đổi mới cơ cấu kinh tế:
- Thực hiện nhất quán chính sách phát triển nhiều thành phần kinh tế.
- Đổi mới chế quản lý, xóa bỏ chế tập trung quan liêu, hành chính, bao cấp,
chuyển sang hạch toán, kinh doanh, kết hợp kế hoạch với thị trường.
- Thực hiện cải tạo xã hội chủ nghĩa thường xuyên với hình thức, bước đi thích hợp,
làm cho quan hệ sản xuất phù hợp lực lượng sản xuất phát triển. - Đổi mới
chế quản lý kinh tế, giải quyết cho được những vấn đề cấp bách về phân phối, lưu
thông.
- Xây dựng tổ chức thực hiện một cách thiết thực, hiệu quả các chính sách xã hội.
- Bảo đảm nhu cầu củng cố quốc phòng và an ninh.
Nhiệm vụ bao trùm, mục tiêu tổng quát trong những năm còn lại của chặng đường
đầu tiên là:
+ Sản xuất đủ tiêu dùng và có tích lũy, bước đầu tạo ra một cơ cấu kinh tế hợp lý +
Đặc biệt chú trọng ba chương trình kinh tế lớn là: Lương thực - Thực phẩm, hàng
lOMoARcPSD| 45474828
4
tiêu dùng và hàng xuất khẩu, coi đó là sự cụ thể hóa nội dung công nghiệp hóa
trong chặng đường đầu của thời kỳ quá độ.
Bên cạnh đó, Đại hội đã đề ra 5 phương hướng lớn nhằm phát triển kinh tế là:
- Bối trí lại cơ cấu sản xuất.
- Điều chỉnh cơ cấu đầu tư xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa.
- Sử dụng và cải tạo đúng đắn các thành phần kinh tế.
- Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, phát huy mạnh mẽ động lực khoa học - kỹ thuật.-
Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại.
Đại hội nhấn mạnh: “Tư tưởng chỉ đạo của kế hoạch và các chính sách kinh tế là giải
phóng mọi năng lực sản xuất hiện có, khai thác mọi khả năng tiềm tàng của đất nước
và sử dụng có hiệu quả sự giúp đỡ quốc tế để phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất
đi đôi với xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa”.
1.2 Đổi mới về xã hội:
Đại hội khẳng định chính sách xã hội bao trùm mọi mặt của cuộc sống con người, cần
có chính sách cơ bản, lâu dài, xác định được những nhiệm vụ phù hợp với yêu cầu,
khả năng trong chặng đường đầu tiên.
Đại hội đã đề ra bốn nhóm chính sách xã hội bao gồm:
- Kế hoạch hóa dân số, giải quyết việc làm của người lao động.
- Thực hiện công bằng hội, bảo đảm an toàn hội, khôi phục trật tự kỷ cương
trong mọi lĩnh vực xã hội.
- Chăm lo đáp ứng các nhu cầu giáo dục, văn hóa, bảo vệ tăng cường sức khỏe
của nhân dân.
- Xây dựng chính sách bảo trợ xã hội.
1.3 Đổi mới về an ninh quốc phòng:
- Đề cao cảnh giác, tăng cường khả năng quốc phòng an ninh của đất ớc.
- Quyết đánh thắng các kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt của địch.- Bảo
đảm chủ động trong mọi tình huống để bảo vệ Tổ quốc.
1.4 Đổi mới trong chính sách đối ngoại:
Đối ngoại góp phần quan trọng o cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới hòa bình,
độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
- Tăng cường tình hữu nghị hợp tác toàn diện với Liên Xô và các nước xã hội
chủ nghĩa
- Bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc lợi ích của nhân dân hai nước,
hòa bình ở Đông Nam Á và trên thế giới.
- Kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại, phấn đấu giữ vững hoà
bình Đông Dương, Đông Nam Á trên thế giới, tăng cường quan hệ đặc biệt
giữa 3 nước Đông Dương.
1.5 Đổi mới trong lãnh đạo:
- Cần phải đổi mới duy, trước hết duy kinh tế, đổi mới công tác tưởng.-
Đổi mới công tác cán bộ và công tác làm việc, giữ vững các nguyên tắc tổ chức và
sinh hoạt Đảng.
lOMoARcPSD| 45474828
5
- Tăng cường đoàn kết nhất trí trong Đảng.
- Đảng cần phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, thực hiện “dân
biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”
Qua đó, tăng cường hiệu lực quản lý của Nhà nước là điều kiện tất yếu để huy động lực
lượng quần chúng.
2. Bài học kinh nghiệm:
Trong tiến trình 35 năm đổi mới, xây dựng, chỉnh đốn Đảng luôn được coi vấn đề
“then chốt”, bảo đảm cho Đảng giữ vững phát huy vai trò lãnh đạo sự nghiệp cách
mạng. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã tổng kết 5 bài học lớn; trong
đó, bài học hàng đầuvề xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Đây là cơ sở quan trọng để Đảng
ta tiếp tục vận dụng, phát huy và phát triển sáng tạo trong lãnh đạo, chỉ đạo, vững vàng
vượt qua những khó khăn, thách thức trong giai đoạn cách mạng mới.
2.1 Kết hợp chặt chẽ giữa đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy nhiệm vụ phát triển
kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam (tháng 12-1986)
quyết định đường lối đổi mới toàn diện đất nước cả về kinh tế, chính trị, n hóa,
hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại. Năm 1986, đất nước khủng hoảng kinh tế - xã hội
trầm trọng, lạm phát 774,7%, tổng thu nhập quốc dân khoảng 14 tỷ USD với hơn 50
triệu dân, thu nhập bình quân đầu người khoảng 280 USD. Trong hoàn cảnh đời sống
nhân dân cùng khó khăn, với trách nhiệm của Đảng cầm quyền, Đảng nhận thức
đổi mới là mệnh lệnh của cuộc sống, là trách nhiệm của Đảng đối với đất nước và nhân
dân. Làm sao đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng, phát triển đất nước, chăm lo đời sống
của nhân dân? Ngay từ đầu, Đảng chủ trương kết hợp chặt chẽ giữa đổi mới kinh tế với
đổi mới chính trị, lấy nhiệm vụ phát triển kinh tế trung tâm, xây dựng Đảng then
chốt; phải tập trung phát triển kinh tế và từ thành tựu kinh tế mà từng bước đổi mới hệ
thống chính trị, đổi mới tư duy lý luận, trước hết là tư duy kinh tế, đổi mới phong cách
làm việc, phương thức lãnh đạo của Đảng.
2.2 Xây dựng Đảng về chính trị có tầm quan trọng đặc biệt
Thực tiễn đổi mới cho thấy, y dựng Đảng về chính trị tầm quan trọng đặc biệt
nhằm giữ vững lý tưởng, mục tiêu, bảo đảm nh đúng đắn của Cương lĩnh, đường lối,
rèn luyện bản lĩnh chính trị cho đội ngũ đảng viên, bảo đảm dẫn dắt sự nghiệp cách
mạng phát triển đúng hướng, đi đến thắng lợi. Cương lĩnh, đường lối của Đảng phải
xuất phát từ thực tiễn đất nước, vì lợi ích của dân, lấy dân làm gốc. Có thể thấy rõ, Đại
hội VI của Đảng (tháng 12-1986) là bước phát triển mạnh mẽ trong xây dựng Đảng về
chính trị, đi đến quyết định đường lối đổi mới. Đường lối đổi mới cũng dựa trên thái độ
tự phê bình thẳng thắn, nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói sự thật,
khắc phục bệnh nóng vội, chủ quan, duy ý chí. Đại hội VI nhấn mạnh bài học xây dựng
Đảng ngang tầm nhiệm vụ chính trị của Đảng cầm quyền lãnh đạo nhân dân tiến hành
cách mạng hội chủ nghĩa. Một bài học sâu sắc của Đại hội VI là: “Đảng phải luôn
luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng hành động theo quy luật khách quan. Năng lực
nhận thức hành động theo quy luật điều kiện bảo đảm sự lãnh đạo đúng đắn của
Đảng”.
lOMoARcPSD| 45474828
6
2.3 Coi trọng xây dựng Đảng về tư tưởng, lý luận trong quá trình đổi mới
Quá trình đổi mới, Đảng coi trọng xây dựng Đảng về tưởng, luận bao gồm ng
tác giáo dục, bồi ỡng nâng cao nhận thức tư tưởng, trình độ lý luận trong Đảng
bảo vệ vững chắc nền tảng tưởng của Đảng chủ nghĩa Mác - Lênin, tưởng Hồ
Chí Minh. Đại hội VI của Đảng bước đổi mới duy luận. Nếu không tư duy
mới về chủ nghĩa xã hội và con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội với những đặc trưng
quy luật cần được nhận thức đúng như chỉ dẫn của V.I. -nin Chủ tịch Hồ Chí
Minh, chắc chắn sẽ không có đường lối đổi mới xuất hiện tại Đại hội VI của Đảng. Khi
hình chế độ hội chủ nghĩa sụp đổ Liên c nước Đông Âu c đảng
cộng sản các nước này đã rời bỏ chủ nghĩa Mác - Lênin, hạ vũ khí trước những đòn
tiến công hiểm độc của kẻ thù tư tưởng và cả sự phản bội trong nội bộ, Đảng Cộng sản
Việt Nam vẫn kiên định và nhận rõ bản chất cách mạng, khoa học của chủ nghĩa Mác -
-nin.
2.4 Vấn đề xây dựng Đảng về đạo đức ngày càng được chú trọng
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến việc giáo dục đạo đức cách
mạng cho cán bộ, đảng viên. Người coi đạo đức là cái gốc của người cách mạng. Trong
công cuộc đổi mới, do tác động bởi mặt trái của kinh tế thị trường chính sách mở
cửa, những tiêu cực nảy sinh, phát triển trong đời sống xã hội và trong đội ngũ cán bộ,
đảng viên. Tháng 1-1994, Đảng xác định tham nhũng, lãng phí một trong bốn nguy
cơ lớn. Ngày 26-6-1992, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ban hành Nghị quyết số 03-
NQ/TW, “Về một số nhiệm vụ đổi mới chỉnh đốn Đảng”. Nghị quyết nêu rõ: Xây
dựng đạo đức cách mạng và lối sống lành mạnh của cán bộ, đảng viên trong điều kiện
kinh tế thị trường mở rộng giao lưu quốc tế. Cán bộ, đảng viên phải đặt lợi ích của
Tổ quốc, của nhân dân lên trước hết. Nêu cao tinh thần yêu nước, ý chí tự lực tự cường,
gương mẫu trong lao động, cần kiệm xây dựng bảo vệ đất ớc, làm cho n giàu
nước mạnh; giữ gìn, phát huy truyền thống và bản sắc tốt đẹp của dân tộc”.
2.5 Xây dựng Đảng về tổ chức và cán bộ có vai trò quyết định
Để bảo đảm hoạt động lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, nhiệm vụ xây dựng Đảng về tổ
chức cán bộ vai trò quyết định. Đảng không ngừng kiện toàn hệ thống tổ chức
đảng từ Trung ương đến sở, phát triển đội ngũ đảng viên, xây dựng đội ngũ cán bộ
lãnh đạo các cấp ngang tầm nhiệm vụ. Đại hội VI (năm 1986), toàn Đảng có gần 1,9
triệu đảng viên; đến Đại hội XIII (năm 2021), Đảng ta hơn 5,1 triệu đảng viên. Từ
yêu cầu của thực tiễn đổi mới, Hội nghị Trung ương 4 khóa X (tháng 1-2007) đã quyết
định sắp xếp lại bộ máy tổ chức của Đảng và hệ thống chính trị. Các cơ quan tham mưu
giúp Trung ương, Bộ Chính trị, Ban thư lãnh đạo gồm 8 ban không nhất thiết
Trung ương ban nào thì địa phương cũng như vậy; Chính phủ gồm 22 bộ, quan
ngang bộ ổn định cho đến nay. Các tổ chức lớn trong bộ máy được thu gọn, nhưng
thực tế các đơn vị (cục, vụ, viện, phòng, ban) trong đó lại nhiều lên, dẫn đến bộ
máy phình to ra; biên chế vẫn tăng.
lOMoARcPSD| 45474828
7
3. Liên hệ thực tế: 3.1 Nhận thức và giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa đổi mới
kinh tế và đổi mới
chính trị
Đổi mới kinh tế kết hợp với đổi mới chính trị là vấn đề cốt lõi trong đường lối đổi mới
của Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong đó lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời
từng bước đổi mới chính trị trên snghiên cứu chuẩn bị nghiêm túc, không cho
phép gây mất ổn định chính trị.
Sau hơn 35 năm đổi mới cho thấy, mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế đổi mới chính
trị được Đảng ta đặc biệt quan tâm nhận thức và giải quyết đúng đắn, phù hợp với từng
giai đoạn cách mạng. Việc nhận thức giải quyết đúng đắn mối quan hệ này cũng
khâu đột phá trong đổi mới tư duy và thực tiễn lãnh đạo sự nghiệp đổi mới của Đảng.
Hiện nay những quan điểm xuyên tạc, bóp méo hay cố tình phủ định những thành
công của Đảng trong nhận thức giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế đổi
mới chính trị. Để bác bỏ những luận điểm này, chúng ta cần chỉ những thành công
cụ thể của Đảng trong nhận thức và giải quyết mối quan hệ này trong quá trình đổi mới.
Đảng ta hiểu rất rõ rằng không thể tiến hành đổi mới chính trị một cách vội vã khi chưa
đủ căn cứ, mrộng n chủ không giới hạn, không mục tiêu cụ thể không đi
đôi với tập trung thì dẫn đến sự mất ổn định về chính trị, gây thiệt hại cho sự nghiệp đổi
mới. Cho nên, ngay từ khi mới bắt đầu quá trình đổi mới, Đảng xác định ổn định kinh
tế “không phải là hạn chế các hoạt động kinh tế, mà là một quá trình vận động tiến lên,
vừa phát triển, vừa điều chỉnh các quan hệ tỷ lệ của nền kinh tế quốc dân”. n ổn định
chính trị không nghĩa bảo thủ, trì trệ, ngược lại nó có vai trò quan trọng bảo đảm
điều kiện cho các lĩnh vực khác như kinh tế, văn hóa, hội được đổi mới, phát triển,
làm cho quá trình đổi mới trở nên toàn diện hơn, bền vững hơn. Ổn định chính trị cũng
đồng thời góp phần tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực, hiệu quả quản
của Nhà nước, phát huy quyền m chủ của nhân dân. “Ổn định phát triển gắn liền
với nhau trong quá trình vận động tiến lên, ổn định để phát triển có phát triển mới
ổn định được”.
Rút kinh nghiệm từ những sai lầm vô nguyên tắc của Đảng cộng sản Liên xô trong cải
tổ, ngay từ khi bắt đầu tiến hành đổi mới, Đảng ta đã nhận thức trước hết cần tập
trung đổi mới kinh tế, trên cơ sở đó từng bước đổi mới chính trị.
Tiếp tục tinh thần của Đại hội VI, Đại hội VII (1991) xác định rất đúng Về quan hệ
giữa đổi mới kinh tế đổi mới chính trị, phải tập trung làm tốt đổi mới kinh tế, đáp
ứng những đòi hỏi cấp bách của nhân dân về đời sống, việc làm và các nhu cầu hội
khác, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, coi đó là điều kiện quan
trọng để tiến hành thuận lợi đổi mới trong nh vực chính trị. Đồng thời với đổi mới
kinh tế phải từng bước đổi mới tchức phương thức hoạt động của hệ thống chính
trị, phát huy ngày càng tốt quyền làm chủ và năng lực sáng tạo của nhân dân trên các
lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, hội”. Đặc biệt, Đại hội rút ra bài học kinh nghiệm
cùng quý báu cho việc đổi mới chính trị trong quan hệ với đổi mới kinh tế: “Vì chính
trị đúng chạm đến các mối quan hệ đặc biệt phức tạp và nhạy cảm trong xã hội nên việc
đổi mới trong hệ thống chính trị nhất thiết phải trên sở nghiên cứu chuẩn bị rất
lOMoARcPSD| 45474828
8
nghiêm túc, không cho phép gây mất ổn định chính trị, dẫn đến sự rối loạn. Nhưng
không vậy tiến hành chậm trễ đổi mới hệ thống chính trị, nhất về tổ chức bộ
máy và cán bộ, mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và các đoàn thể nhân dân, bởi đó là
điều kiện để thúc đẩy phát triển kinh tế, hội thực hiện dân chủ”. Đây vừa bài
học kinh nghiệm quý báu, vừa nguyên tắc quan trọng Đảng ta quán triệt trong
suốt quá trình đổi mới.
Không mẫu hình sẵn cho quá trình đổi mới chính trị, nên Đảng ta vừa phải tìm tòi
vừa sáng tạo, vừa làm, vừa rút kinh nghiệm. Mặc dù là thận trọng, nhưng không vì thế
Đảng trì trệ, bảo thủ, chậm trễ trong đổi mới hệ thống chính trị. Đây tinh thần
khoa học, thực tiễn và cách mạng của Đảng ta.
Tổng kết 10 thực hiện sự nghiệp đổi mới, Đại hội VIII (1996) tiếp tục khẳng định bài
học: xác định rõ đổi mới không phải là thay đổi mục tiêu XHCN mà là quan niệm đúng
đắn hơn về CNXH thực hiện mục tiêu ấy bằng những hình thức, bước đi biện
pháp phù hợp. Đổi mới phải được thực hiện trên sở bảo vệ, kế thừa phát huy
truyền thống quý báu của dân tộc và những thành tựu cách mạng đã đạt được. Phê phán
nghiêm túc sai lầm, khuyết điểm phải đi đôi với khẳng định những việc làm đúng, không
phủ nhận sạch trơn quá khứ, không hoang mang, mất phương hướng, từ thái cực này
chuyển sang thái cực khác. Trên tinh thần lập trường, quan điểm này, Đại hội tiếp tục
khẳng định “Kết hợp ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh
tế làm trọng tâm, đồng thời từng bước đổi mới chính trị”; tập trung trước hết vào việc
thực hiện thắng lợi nhiệm vụ đổi mới kinh tế, khắc phục những khủng hoảng kinh tế -
hội, tạo tiền đề cần thiết về vật chất tinh thần để giữ vững ổn định chính trị, xây
dựng và củng cố niềm tin của nhân dân, tạo thuận lợi để đổi mới các mặt khác của đời
sống xã hội. Đây là nhận thức đúng cả về mặt lý luận cả về mặt thực tiễn.
Tại Đại hội XI (2011), Đảng đưa ra quan điểm “Đổi mới chính trị phải đồng bộ với đổi
mới kinh tế theo lộ trình thích hợp, trọng tâm là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường xã
hội chủ nghĩa, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, xây dựng Nnước pháp quyền
hội chủ nghĩa, mở rộng dân chủ trong Đảng trong hội gắn với tăng ờng kỷ
luật, kỷ cương”. Như vậy, về đổi mới kinh tế, Đại hội XI tập trung vào đổi mới, hoàn
thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN. Về đổi mới chính trị, tập trung ba
lĩnh vực bản, trọng yếu: Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng; xây dựng Nhà
nước pháp quyền XHCN, mở rộng dân chủ trong Đảng trong hội gắn với tăng
cường kỷ luật, kỷ cương. Trong đó, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng cấp thiết
hàng đầu. Đặc biệt, bắt đầu từ Đại hội XI, Đảng ta xác định quan hệ “giữa đổi mới
kinh tế đổi mới chính trị” một trong các quan hệ lớn cần giải quyết tốt trong thời
kỳ quá độ đi lên CNXH.
Tổng kết việc thực hiện Nghị quyết Đại hội XI về đổi mới chính trị, Đại hội XII (2016)
đã rút ra kết luận “Đổi mới chính trị chưa đồng bộ với đổi mới kinh tế, năng lực và hiệu
quả hoạt động của hệ thống chính trị chưa ngang tầm nhiệm vụ”. Từ thực trạng này, Đại
hội XII đề ra mục tiêu chung: “đổi mới mạnh mẽ, toàn diện và đồng bộ, có bước đi phù
hợp trên các lĩnh vực, nhất giữa kinh tế và chính trị”. Đồng thời đề ra mục tiêu cụ thể:
“Đến năm 2020, phấn đấu bản hoàn thiện đồng bộ hệ thống thể chế kinh tế thị trường
định hướng hội chủ nghĩa theo các tiêu chuẩn phổ biến của nền kinh tế thị trường
hiện đại hội nhập quốc tế; bảo đảm tính đồng bộ giữa thể chế kinh tế thể chế chính
lOMoARcPSD| 45474828
9
trị; giữa Nhà nước và thị trường; bảo đảm sự hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với phát
triển văn hóa, phát triển con người, thực hiện tiến bộ, công bằng hội, bảo đảm an
sinh xã hội, bảo vệ môi trường, phát triển hội bền vững chủ động tích cực hội nhập
kinh tế quốc tế gắn với xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ; bảo đảm tính công khai,
minh bạch, tính dự o được thể hiện trong xây dựng thực thi thể chế kinh tế, tạo
điều kiện ổn định, thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội”. Từ mục tiêu cụ thể y, Đại
hội XII đề ra yêu cầu đối với đổi mới thể chế kinh tế: “Tập trung hoàn thiện thể chế kinh
tế thị trường đồng bộ, hiện đại trên sở tuân thủ đầy đủ các quy luật của kinh tế thị
trường hội nhập kinh tế quốc tế. Tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý, chế chính
sách, thực hiện đồng bộ các giải pháp để phát triển, vận hành thông suốt, hiệu quả, đồng
bộ và khả thi các loại thị trường và bảo đảm cạnh tranh bình đẳng, minh bạch (...) Nhà
nước sử dụng thể chế, các nguồn lực, công cụ điều tiết, chế, chính sách phân phối,
phân phối lại để phát triển văn hóa, thực hiện dân chủ, tiến bộ, công bằng xã hội...”. Đối
với đổi mới chính trị: tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Nhà ớc pháp quyền XHCN do
Đảng lãnh đạo nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị. Xây dựng Nhà
nước phải tiến hành đồng bộ cả lập pháp, hành pháp, pháp được tiến hành đồng
bộ với đổi mới hệ thống chính trị theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả; gắn với đổi
mới kinh tế, văn hóa, hội. Đối với xây dựng Đảng: đẩy mạnh hơn nữa công tác xây
dựng Đảng, nhất là xây dựng Đảng về đạo đức.Trọng tâm là kiên quyết, kiên trì tiếp tục
thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI. Đối với phát huy dân chủ XHCN: bảo đảm
tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Dân chủ phải được thực hiện đầy đủ,
nghiêm túc trên tất cả các lĩnh vực của đời sống hội. Tăng cường, củng cố tổ chức,
đổi mới phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân để phát
huy hiệu quả quyền làm chủ của nhân dân. Đại hội XII tiếp tục coi quan hệ giữa đổi
mới kinh tế và đổi mới chính trịmột trong các quan hệ lớn cần giải quyết trong thời
kỳ quá độ lên CNXH ở Việt
Nam.
Kế thừa tinh thần Đại hội XI, XII, tại Đại hội XIII, Đảng tiếp tục coi quan hệ giữa đổi
mới kinh tế và đổi mới chính trịmột trong các quan hệ lớn cần giải quyết trong thời
kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam; khẳng định tiếp tục thực hiện “phát triển kinh tế
hội là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt”; đề ra nhiệm vụ “Tăng cường xây dựng,
chỉnh đốn Đảng, phát huy bản chất giai cấp công nhân của Đảng, nâng cao năng lực
lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng và hệ thống
chính trị trong sạch, vững mạnh, toàn diện, xây dựng Nhà nước tinh gọn, hoạt động hiệu
lực, hiệu quả”. Đồng thời “phát huy dân chủ hội chủ nghĩa, sức mạnh tổng hợp của
cả hệ thống chính trị và của nền văn hóa, con người Việt Nam”. Quan điểm này tiếp tục
chỉ đạo, soi sáng việc đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị trong thời gian tới của Đảng
ta.
Từ những khái quát nêu trên cho thấy, trong suốt hơn 35 năm thực hiện quá trình đổi
mới, Đảng ta đặc biệt quan tâm nhận thức và giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa đổi
mới kinh tế đổi mới chính trị. Đạt được điều này là do có sự lãnh đạo đúng đắn, khoa
học của Đảng nên đã lôi cuốn được đông đảo nhân nhân tham gia, ủng hộ. Cùng với
luôn bảo đảm sự phát triển đồng bộ của cả kinh tế chính trị, thực tiễn đất nước
quốc tế luôn được Đảng lấy làm tiêu chuẩn điều chỉnh mối quan hệ giữa đổi mới kinh
lOMoARcPSD| 45474828
10
tế và đổi mới chính trị. Đồng thời lấy lợi ích của nhân dân làm mục tiêu giải quyết mối
quan hệ này.
3.2 Những thành tựu to lớn của đất nước sau 35 năm thực hiện đường lối đổi mới do
Đảng khởi xướng và lãnh đạo:
Sự nghiệp đổi mới ở ớc ta đang đi vào chiều sâu và đạt được những thành tựu to lớn.
35 năm đổi mới Việt Nam giai đoạn lịch sử quan trọng đánh dấu sự trưởng thành
mọi mặt về sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Sự nghiệp đổi mới mang tầm
vóc ý nghĩa cách mạng, quá trình cải biến sâu sắc, toàn diện triệt để, sự
nghiệp cách mạng to lớn Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo thực hiện thành
công. Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn, ý nghĩa lịch sử, đã ra khỏi khủng
hoảng kinh tế - xã hội và tình trạng kém phát triển, trở thành nước đang phát triển, đang
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa hội nhập quốc tế mạnh mẽ sâu rộng.
Kinh tế tăng trưởng cao và ổn định; quốc phòng, an ninh được tăng cường; văn hóa, xã
hội bước phát triển mới; đời sống nhân dân từng bước được nâng lên; Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa hệ thống chính trị được củng cố; độc lập, chủ quyền, thống
nhất và toàn vẹn lãnh thổ và chế độ xã hội chủ nghĩa được giữ vững. Quan hệ đối ngoại
ngày càng mở rộng và đi vào chiều sâu. Vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc
tế ngày càng được nâng cao.
Trong suốt 35 năm qua, kinh tế Việt Nam đã đạt tốc độ tăng trưởng khá ấn tượng. Đổi
mới kinh tế chính trị từ năm 1986 đã thúc đẩy phát triển kinh tế, nhanh chóng đưa
Việt Nam từ một trong những quốc gia nghèo nhất trên thế giới trở thành quốc gia thu
nhập trung bình thấp. Nếu như trong giai đoạn đầu đổi mới (1986-1990) mức tăng
trưởng GDP bình quân hàng năm chỉ đạt 4,4%, thì giai đoạn 1991-1995 GDP bình quân
đã tăng gấp đôi, đạt 8,2%/năm; các giai đoạn sau đó đều mức tăng trưởng khá cao;
giai đoạn 2016-2019 đạt mức bình quân 6,8%. Liên tiếp trong 4 năm, từ năm 2016 -
2019, Việt Nam đứng trong top 10 nước tăng trưởng cao nhất thế giới, là một trong 16
nền kinh tế mới nổi thành công nhất. Đặc biệt, trong năm 2020, trong khi phần lớn các
nước mức tăng trưởng âm hoặc đi vào trạng thái suy thoái do tác động của dịch
COVID-19, kinh tế Việt Nam vẫn tăng trưởng dương 2,91%, góp phần làm cho GDP
trong 5 năm qua tăng trung bình 5,9 %/năm, thuộc nhóm nước tốc độ ng trưởng
cao nhất trong khu vực trên thế giới. Quy mô, trình độ nền kinh tế được nâng lên,
nếu như năm 1989 mới đạt 6,3 tỷ USD/năm, thì đến năm 2020 đã đạt khoảng 268,4 tỷ
USD/năm. Đời sống nhân dân cả về vật chất tinh thần được cải thiện rệt, năm
1985 bình quân thu nhập đầu người mới đạt 159 USD/năm, thì đến m 2020 đạt khoảng
2.750 USD/năm. Các cân đối lớn của nền kinh tế về tích luỹ tiêu dùng, tiết kiêm - đầu
tư, năng lượng, lương thực, lao độ ng - việ c m,… tiếp tục
được bảo đảm, góp phần
củng cố vững chắc nền tảng kinh tế vĩ mô. Từ 2002 đến 2018, GDP đầu người tăng 2,7
lần, đạt trên 2.700 USD năm 2019, với hơn 45 triệu người thoát nghèo. Tỷ lệ nghèo
giảm mạnh từ hơn 70% xuống còn dưới 6% (3,2 USD/ngày theo sức mua ngang giá).
Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu của Việt Nam năm 2020 được xếp thứ 42/131 nước,
đứng đầu nhóm 29 quốc gia có cùng mức thu nhập. Xếp hạng về phát triển bền vững
của Việt Nam đã tăng tthứ 88 năm 2016 lên thứ 49 năm 2020, cao hơn nhiều so với
các nước có cùng trình độ phát triển kinh tế.
lOMoARcPSD| 45474828
11
35 năm đổi mới cũng là một chặng đường hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng trên nhiều
cấp độ, đa dạng về hình thức, theo nguyên tắc chuẩn mực của thtrường toàn cầu
của Việt Nam. Việt Nam đã thiết lập được nhiều quan hệ đối tác chiến lược về kinh tế.
Từ khi gia nhập WTO đến nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ đối c chiến lược, toàn
diện với nhiều nước, trong đó có tất cả các nước P5 (Mỹ, Nga, Trung Quốc, Pháp, Anh)
hầu hết các nước chủ chốt trong trong khu vực trên thế giới; đã trên 70 nước
công nhận Việt Nam là nền kinh tế thị trường. Các đối tác FTA mà Việt Nam tham gia
độ phủ rộng hầu hết các châu lục với gần 60 nền kinh tế tổng GDP chiếm gần
90% GDP thế giới, trong đó có 15 nước thành viên G20 và 9/10 đối tác kinh tế - thương
mại lớn nhất của Việt Nam thuộc 3 trung tâm kinh tế lớn nhất thế giới Bắc Mỹ, Tây
Âu Đông Á. Năm 2020 phê chuẩn triển khai hiệu quả EVFTA; tham gia
Hiệp định Đối tác Kinh tế toàn diện khu vực (RCEP) và ký FTA Việt Nam - Anh)…
Nhờ nền tảng vững chắc, nền kinh tế Việt Nam đã thể hiện sức chống chịu đáng kể
trong những giai đoạn khủng hoảng, mới đây đại dịch Covid-19. Y tế đạt nhiều tiến
bộ lớn khi mức sống ngày càng cải thiện. Tỉ suất tử vong ở trẻ sơ sinh giảm từ 32,6 năm
1993 xuống còn 16,7 năm 2020 (trên 1.000 trẻ sinh). Tuổi thọ trung bình tăng từ 70,5
năm 1990 lên 75,4 m 2019, cao nhất giữa các quốc gia trong khu vực mức thu
nhập ơng đương. Chỉ số bao phủ chăm sóc sức khỏe toàn dân 73, cao n trung
bình khu vực trung bình thế giới. Theo báo cáo của BHXH Việt Nam, tính đến hết
tháng 7/2021, toàn quốc khoảng 16 triệu người tham gia BHXH (chiếm 32% lực
lượng lao động). Trong đó hơn 14,7 triệu người tham gia BHXH bắt buộc; gần 1,2
triệu người tham gia BHXH tự nguyện; n 13 triệu người tham gia Bảo hiểm thất
nghiệp; hơn 85 triệu người tham gia BHYT (đạt tỷ lệ bao phủ 87,1% dân số). Về triển
vọng, Việt Nam vẫn duy trì được sự ổn định kinh tế và đang trong xu hướng phục
hồi theo hình chữ V; là một trong những nền kinh tế tăng trưởng nhanh nhất khu vực
thế giới. Giai đoạn 2021-2025, Việt Nam tiếp tục thúc đẩy tăng trưởng kinh tế chủ yếu
theo chiều sâu, hoàn thiện hình tăng trưởng đồng bộ trên cả phương diện kinh tế -
kỹ thuật, kinh tế -hội và kinh tế - sinh thái, thúc đẩy phát triển trên nền tảng đổi mới
sáng tạo, nâng cao năng suất lao động, ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ, nâng
cao chất lượng nguồn nhân lực, phát huy lợi thế so sánh và chủ động hội nhập quốc tế.
Trong 35 năm đổi mới, các thành tựu xây dựng con người của nước ta còn được thể hiện
qua chỉ số HDI xu hướng tăng đều khá ổn định, cả vgiá trị tuyệt đối cũng như
thứ hạng. “Chỉ số phát triển con người (HDI) năm 2019 của Việt Nam là 0,704. Với kết
quả này Việt Nam đã lọt vào danh sách các nước phát triển con người cao và được xếp
thứ 117/189 quốc gia vùng lãnh thổ”. Chỉ số phát triển con người vừa thể hiện tính
nhân văn, vừa thước đo tổng hợp phản ánh sự phát triển của con người trên các
phương diện: sức khỏe tri thức thu nhập. HDI giúp tạo ra một cái nhìn tổng quát về
sự phát triển của một quốc gia, dựa vào năm tiêu chí: 1) con người là trung tâm của sự
phát triển; 2) người dân là mục tiêu của sự phát triển; 3) việc nâng cao vị thế của người
dân (bao gồm cả sự hưởng thụ và cống hiến); 4) chú trọng việc tạo lập sự bình đẳng cho
người dân về mọi mặt (thí dụ như tôn giáo, dân tộc, giới tính, quốc tịch,...); 5) tạo cơ
hội để lựa chọn tốt nhất cho người dân về kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa...”.
Việt Nam hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng trên nhiều cấp độ, đa dạng về hình thức,
theo nguyên tắc chuẩn mực của thị trường toàn cầu. Việt Nam đã gia nhập WTO,
lOMoARcPSD| 45474828
12
thiết lập được 30 đối tác chiến lược đối c chiến lược toàn diện; quan hệ ngoại
giao, kinh tế với 190/200 quốc gia và vùng lãnh thổ. Đặc biệt, WTO cùng với hơn hơn
500 hiệp định song phương đa phương trên nhiều lĩnh vực mà Việt Nam tham gia,
những cánh cửa lớn, đa chiều để Việt Nam định ớng hoàn thiện khung khổ thể chế
phát triển kinh tế thị trường và tự tin hội nhập ngày càng đầy đủ, hiệu quả hơn.
Việt Nam cũng là thành viên chủ động, tích cực có trách nhiệm cao trong các tổ chức
quốc tế. Việt Nam đã tham gia vào Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
(ASEAN), Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á-Thái Bình Dương (APEC), các tổ chức của
Liên hợp quốc... đóng góp tích cực đang trở thành nước vị thế vai trò ngày
càng cao khu vực, được cộng đồng quốc tế tôn trọng. Bên cạnh đó, Việt Nam đã được
tín nhiệm bầu vào các quan quan trọng của Liên hợp quốc, như: Hội đồng Nhân
quyền nhiệm kỳ 2014-2016, Ủy ban Di sản Thế giới của UNESCO nhiệm kỳ 2013-
2017, Hội đồng Kinh tế - Xã hội của Liên hợp quốc (ECOSOC) nhiệm kỳ 20162018.
Đặc biệt, năm 2020, Việt Nam đã hoàn thành tốt cùng lúc cả ba trọng trách: y viên
không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, Chủ tịch ASEAN Chủ tịch AIPA.
điều này góp phần nâng cao uy tín, vị thế Việt Nam trong khu vực và trên thế giới. Việc
Đại hội đồng Liên hợp quốc đã bỏ phiếu bầu 5 nước ủy viên không thường trực của Hội
đồng Bảo an nhiệm kỳ 2020 - 2021, ngày 7/6/2020, tại trụ sở Liên hợp quốc tại New
York (Mỹ), với số phiếu kỷ lục chưa từng (192/193 phiếu) trong 75 năm phát triển
của Liên Hợp quốc đã tiếp tục khẳng định vị thế và uy tín của Việt Nam. Có thể khẳng
định, Việt Nam đã thực sự chủ động, tích cực tham gia hội nhập quốc tế với một vị thế
mới, bắt kịp với xu thế của thời đại.
Những thành tựu của công cuộc đổi mới kể trên kết quả của quá trình phấn đấu liên
tục, bền bỉ của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XIII của Đảng khẳng định: “Những thành tựu đó sản phẩm kết tinh sức sáng tạo,
kết quả của cả một quá trình nlực phấn đấu bền bỉ, liên tục qua nhiều nhiệm kỳ của
toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta; tiếp tục khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa
hội của chúng ta là đúng đắn, phù hợp với quy luật khách quan, với thực tiễn Việt Nam
và xu thế phát triển của thời đại; đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo;
sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt
Nam. Cương lĩnh chính trị của Đảng tiếp tục ngọn cờ ởng, luận dẫn dắt dân
tộc ta vững vàng tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; nền tảng
để Đảng ta hoàn thiện đường lối xây dựng bảo vệ Tổ quốc Việt Nam hội chủ nghĩa
trong giai đoạn mới”. Trong bài phát biểu nhân kỷ niệm 90 năm thành lập Đảng Cộng
sản Việt Nam (1930 2020), Tổng thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú trọng đã nhấn
mạnh: “Thực tiễn phong phú, sinh động của cách mạng Việt Nam trong 90 năm qua đã
chứng tỏ, sự lãnh đạo đúng đắn sáng suốt của Đảng nhân tố hàng đầu quyết định
mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam”.
Những thành tựu to lớn qua 35 năm đổi mới đánh dấu một bước tiến chưa từng thấy
trên con đường xây dựng, phát triển đất nước, minh chứng thuyết phục cho tính chất ưu
việt của chế độ xã hội hội chủ nghĩa nhân dân ta đang xây dựng. Ý nghĩa to lớn
của những thành tựu đó không đơn thuần ở những con số mà quan trọng hơn những
nỗ lực cao nhất mà Đảng và Nhà nước ta đã tập trung một cách hiệu quả trong một thời
gian không dài, trong những điều kiện rất khó khăn, phức tạp, để cải thiện không
lOMoARcPSD| 45474828
13
ngừng nâng cao đời sống mọi mặt cho nhân dân. Đó cũng là cơ sở niềm tin để khơi dậy
khát vọng của nhân dân ta về một hội hội chủ nghĩa phồn vinh, hạnh phúc, hạnh
phúc của nhân dân.
Lời kết
Đại hội lần thứ VI của Đảng là Đại hội kế thừa và quyết tâm đổi
mới, đoàn kết tiến lên của Đảng ta. Các đường lối đổi mới được
đưa ra cũng đã phần nào gặt hái được những thành tựu nhất
định, song vẫn tồn đọng hạn chế. Đồng thời đây cũng là những
bài học kinh nghiệm xương máu, để cho Đảng ta rút kinh nghiệm,
tiếp tục chỉnh sửa, để đưa đất nước đi lên, ngang hàng thế giới.
Do hạn chế về kiến thức cũng như thời gian nên bài tập này của
em vẫn còn nhiều thiếu sót, mong rằng em sẽ nhận được những
lời đóng góp của để em có thể hoàn thiện bài tập này, Em xin
chân thành cảm ơn cô ạ!
lOMoARcPSD| 45474828
14
Tài liệu tham khảo:
1, Giáo trình “Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam”
2, https://daihoi13.dangcongsan.vn/cac-ky-dai-hoi/tu-dai-hoi-den-dai-hoi/dai-
hoidai-bieu-toan-quoc-lan-thu-vi-250
3, Võ Hồng Phúc: Những thành tựu về kinh tế - xã hội qua 20 năm đổi mới(1986 2005),
trong Việt Nam 20 năm đổi mới, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2006, tr. 141,143.
4, http://baochinhphu.vn/Kinh-te/Kinh-te-Viet-Nam-20162019-va-dinh-
huong2020/385934.vgp
5, https://baochinhphu.vn/Thoi-su/Mo-ra-giai-doan-moi-de-dat-nuoc-tien-
xa-honnhan-dan-am-no-hanh-phuc/421800.vgp
6, https://nhandan.com.vn/binh-luan-phe-phan/chi-so-phat-trien-con-nguoi-cuaviet-
nam-tang-vuot-bac-629395/
| 1/14

Preview text:

lOMoAR cPSD| 45474828
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN BÀI TẬP LỚN
HỌC PHẦN LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
Đề tài: Từ những đường lối đổi mới của Đại hội VI, rút ra bài học kinh nghiệm để liên
hệ với thực tiễn hiện nay.
Họ và tên: Nguyễn Thị Liên Linh Mã sinh viên: 11218670
Lớp tín chỉ: LLDL1102(122)_23
GV hướng dẫn: TS. Nguyễn Thị Thắm Hà Nội, 10/2022 Mục lục Nôi dung ̣
Lời mở đầu ........................................................................................................................... 2 lOMoAR cPSD| 45474828
1. Lý thuyết: ....................................................................................................................... 3
1.1 Đổi mới về kinh tế: ................................................................................................... 3
1.2 Đổi mới về xã hội: .................................................................................................... 4
1.3 Đổi mới về an ninh quốc phòng: .............................................................................. 4
1.4 Đổi mới trong chính sách đối ngoại: ......................................................................... 4
1.5 Đổi mới trong lãnh đạo: ........................................................................................... 4
2. Bài học kinh nghiệm: ..................................................................................................... 5
2.1 Kết hợp chặt chẽ giữa đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy nhiệm vụ phát triển
kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt ........................................................... 5
2.2 Xây dựng Đảng về chính trị có tầm quan trọng đặc biệt........................................... 5
2.3 Coi trọng xây dựng Đảng về tư tưởng, lý luận trong quá trình đổi mới .................... 6
2.4 Vấn đề xây dựng Đảng về đạo đức ngày càng được chú trọng ............................... 6
2.5 Xây dựng Đảng về tổ chức và cán bộ có vai trò quyết định ..................................... 6
3. Liên hệ thực tế:3.1 Nhận thức và giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế
và đổi mới ........................................................................................................................ 7
chính trị .......................................................................................................................... 7
3.2 Những thành tựu to lớn của đất nước sau 35 năm thực hiện đường lối đổi mới do
Đảng khởi xướng và lãnh đạo: .................................................................................... 10
Lời kết ................................................................................................................................ 13 Lời mở đầu
Sau thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, miền Nam được hoàn
toàn giải phóng, đất nước thống nhất, non sông thu về một mối, cả nước đi lên chủ nghĩa
xã hội. Trong niềm vui chiến thắng, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân cả nước bắt
tay vào hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục và phát triển kinh tế, từng bước xây
dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước. Từ thời chiến
chuyển sang thời bình, đòi hỏi Đảng phải đổi mới tư duy, thay đổi nội dung và phương
thức lãnh đạo cho phù hợp với tình hình mới. Thực hiện Nghị quyết của Đại hội lần thứ
IV, thứ V và các nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương trong thời gian của các
nhiệm kỳ đại hội đó, nhân dân ta đã giành được những thành tựu quan trọng trên các
lĩnh vực, cải biến được một phần cơ cấu của nền kinh tế- xã hội, đặt những cơ sở đầu
tiên cho sự phát triển mới. Song, chúng ta chưa tiến xa được bao nhiêu, trái lại còn gặp
nhiều khó khăn và khuyết điểm mới. Trong thời kỳ kế hoạch năm năm 1981-1985,
chúng ta không thực hiện được mục tiêu đã đề ra là cơ bản ổn định tình hình kinh tế -
xã hội, ổn định đời sống của nhân dân. Sai lầm về tổng điều chỉnh giá, lương, tiền cuối
năm 1985 đã đưa nền kinh tế của đất nước ta đến những khó khăn mới. Nền kinh tế -
xã hội nước ta đã lâm vào khủng hoảng trầm trọng. Tình hình đất nước đang đòi hỏi
Đảng phải tích cực chuẩn bị và tiến hành Đại hội lần thứ VI theo yêu cầu đổi mới mạnh 2 lOMoAR cPSD| 45474828
mẽ, phải nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật, đánh giá đúng thực trạng của đất nước.
Từ đó xác định đúng mục tiêu và nhiệm vụ của cách mạng trong chặng đường trước
mắt, đề ra chủ trương, chính sách đúng để xoay chuyển tình thế, đưa đất nước vượt qua
khó khăn, tiến lên phía trước. Đại hội VI diễn ra đã đưa ra những đường lối đổi mới cho
đất nước. Thông qua tìm hiểu, em thấy rằng các đường lối đổi đổi mới này là một nội
dung đáng được khai thác. Qua đó em đã lựa chọn đề tài “Từ những đường lối đổi
mới của Đại hội VI, rút ra bài học kinh nghiệm để liên hệ với thực tiễn hiện nay”
1. Lý thuyết:
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng họp tại Hà Nội từ ngày 15 đến 18-
121986. Dự Đại hội có 1129 đại biểu thay mặt cho gần 1,9 triệu đảng viên trong toàn
Đảng. Đến dự Đại hội có 32 đoàn đại biểu quốc tế.
Đại hội khẳng định quyết tâm đổi mới công tác lãnh đạo của Đảng theo tinh thần cách
mạng và khoa học. Đại hội nhận định: Năm năm qua là một đoạn đường đầy thử thách
đối với Đảng và nhân dân ta. Cách mạng nước ta diễn ra trong bối cảnh quốc tế và trong
nước có những thuận lợi cơ bản, nhưng cũng có nhiều khó khăn phức tạp. Thực hiện
những nhiệm vụ, mục tiêu do Đại hội thứ V đề ra, nhân dân ta đã anh dũng phấn đấu
đạt được những thành tựu quan trọng trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, giành
những thắng lợi to lớn trong cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế.
Đại hội cũng nhận rõ: Tình hình kinh tế - xã hội đang có những khó khăn gay gắt; sản
xuất tăng chậm; hiệu quả sản xuất và đầu tư thấp; phân phối lưu thông có nhiều rối ren;
những mất cân đối lớn trong nền kinh tế chậm được thu hẹp; quan hệ sản xuất xã hội
chủ nghĩa chậm được củng cố; đời sống nhân dân lao động còn nhiều khó khăn… Nhìn
chung, chúng ta chưa thực hiện được mục tiêu tổng quát do Đại hội lần thứ V đề ra là
về cơ bản ổn định tình hình kinh tế - xã hội, ổn định đời sống nhân dân.
Trên cơ sở phân tích, đánh giá tình hình đất nước, tự phê bình về những sai lầm khuyết
điểm, đổi mới tư lý luận trải qua nhiều tìm tòi, khảo nghiệm từ thực tiễn, Đại hội đề ra đường lối đổi mới.
1.1 Đổi mới về kinh tế:
Khẳng định đổi mới là yêu cầu bức thiết, có ý nghĩa sống còn đối với nước ta, Đại hội
đã đề ra đường lối đổi mới, trước hết là đổi mới cơ cấu kinh tế:
- Thực hiện nhất quán chính sách phát triển nhiều thành phần kinh tế.
- Đổi mới cơ chế quản lý, xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu, hành chính, bao cấp,
chuyển sang hạch toán, kinh doanh, kết hợp kế hoạch với thị trường.
- Thực hiện cải tạo xã hội chủ nghĩa thường xuyên với hình thức, bước đi thích hợp,
làm cho quan hệ sản xuất phù hợp và lực lượng sản xuất phát triển. - Đổi mới cơ
chế quản lý kinh tế, giải quyết cho được những vấn đề cấp bách về phân phối, lưu thông.
- Xây dựng và tổ chức thực hiện một cách thiết thực, hiệu quả các chính sách xã hội.
- Bảo đảm nhu cầu củng cố quốc phòng và an ninh.
Nhiệm vụ bao trùm, mục tiêu tổng quát trong những năm còn lại của chặng đường đầu tiên là:
+ Sản xuất đủ tiêu dùng và có tích lũy, bước đầu tạo ra một cơ cấu kinh tế hợp lý +
Đặc biệt chú trọng ba chương trình kinh tế lớn là: Lương thực - Thực phẩm, hàng 3 lOMoAR cPSD| 45474828
tiêu dùng và hàng xuất khẩu, coi đó là sự cụ thể hóa nội dung công nghiệp hóa
trong chặng đường đầu của thời kỳ quá độ.
Bên cạnh đó, Đại hội đã đề ra 5 phương hướng lớn nhằm phát triển kinh tế là:
- Bối trí lại cơ cấu sản xuất.
- Điều chỉnh cơ cấu đầu tư xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa.
- Sử dụng và cải tạo đúng đắn các thành phần kinh tế.
- Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, phát huy mạnh mẽ động lực khoa học - kỹ thuật.-
Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại.
Đại hội nhấn mạnh: “Tư tưởng chỉ đạo của kế hoạch và các chính sách kinh tế là giải
phóng mọi năng lực sản xuất hiện có, khai thác mọi khả năng tiềm tàng của đất nước
và sử dụng có hiệu quả sự giúp đỡ quốc tế để phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất
đi đôi với xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa”.
1.2 Đổi mới về xã hội:
Đại hội khẳng định chính sách xã hội bao trùm mọi mặt của cuộc sống con người, cần
có chính sách cơ bản, lâu dài, xác định được những nhiệm vụ phù hợp với yêu cầu,
khả năng trong chặng đường đầu tiên.
Đại hội đã đề ra bốn nhóm chính sách xã hội bao gồm:
- Kế hoạch hóa dân số, giải quyết việc làm của người lao động.
- Thực hiện công bằng xã hội, bảo đảm an toàn xã hội, khôi phục trật tự kỷ cương
trong mọi lĩnh vực xã hội.
- Chăm lo đáp ứng các nhu cầu giáo dục, văn hóa, bảo vệ và tăng cường sức khỏe của nhân dân.
- Xây dựng chính sách bảo trợ xã hội.
1.3 Đổi mới về an ninh quốc phòng:
- Đề cao cảnh giác, tăng cường khả năng quốc phòng và an ninh của đất nước.
- Quyết đánh thắng các kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt của địch.- Bảo
đảm chủ động trong mọi tình huống để bảo vệ Tổ quốc.
1.4 Đổi mới trong chính sách đối ngoại:
Đối ngoại góp phần quan trọng vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hòa bình,
độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
- Tăng cường tình hữu nghị và hợp tác toàn diện với Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa
- Bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc vì lợi ích của nhân dân hai nước, vì
hòa bình ở Đông Nam Á và trên thế giới.
- Kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại, phấn đấu giữ vững hoà
bình ở Đông Dương, Đông Nam Á và trên thế giới, tăng cường quan hệ đặc biệt
giữa 3 nước Đông Dương.
1.5 Đổi mới trong lãnh đạo:
- Cần phải đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế, đổi mới công tác tư tưởng.-
Đổi mới công tác cán bộ và công tác làm việc, giữ vững các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng. 4 lOMoAR cPSD| 45474828
- Tăng cường đoàn kết nhất trí trong Đảng.
- Đảng cần phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, thực hiện “dân
biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”
Qua đó, tăng cường hiệu lực quản lý của Nhà nước là điều kiện tất yếu để huy động lực lượng quần chúng.
2. Bài học kinh nghiệm:
Trong tiến trình 35 năm đổi mới, xây dựng, chỉnh đốn Đảng luôn được coi là vấn đề
“then chốt”, bảo đảm cho Đảng giữ vững và phát huy vai trò lãnh đạo sự nghiệp cách
mạng. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã tổng kết 5 bài học lớn; trong
đó, bài học hàng đầu là về xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Đây là cơ sở quan trọng để Đảng
ta tiếp tục vận dụng, phát huy và phát triển sáng tạo trong lãnh đạo, chỉ đạo, vững vàng
vượt qua những khó khăn, thách thức trong giai đoạn cách mạng mới.
2.1 Kết hợp chặt chẽ giữa đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy nhiệm vụ phát triển
kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam (tháng 12-1986)
quyết định đường lối đổi mới toàn diện đất nước cả về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã
hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại. Năm 1986, đất nước khủng hoảng kinh tế - xã hội
trầm trọng, lạm phát 774,7%, tổng thu nhập quốc dân khoảng 14 tỷ USD với hơn 50
triệu dân, thu nhập bình quân đầu người khoảng 280 USD. Trong hoàn cảnh đời sống
nhân dân vô cùng khó khăn, với trách nhiệm của Đảng cầm quyền, Đảng nhận thức rõ
đổi mới là mệnh lệnh của cuộc sống, là trách nhiệm của Đảng đối với đất nước và nhân
dân. Làm sao đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng, phát triển đất nước, chăm lo đời sống
của nhân dân? Ngay từ đầu, Đảng chủ trương kết hợp chặt chẽ giữa đổi mới kinh tế với
đổi mới chính trị, lấy nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then
chốt; phải tập trung phát triển kinh tế và từ thành tựu kinh tế mà từng bước đổi mới hệ
thống chính trị, đổi mới tư duy lý luận, trước hết là tư duy kinh tế, đổi mới phong cách
làm việc, phương thức lãnh đạo của Đảng.
2.2 Xây dựng Đảng về chính trị có tầm quan trọng đặc biệt
Thực tiễn đổi mới cho thấy, xây dựng Đảng về chính trị có tầm quan trọng đặc biệt
nhằm giữ vững lý tưởng, mục tiêu, bảo đảm tính đúng đắn của Cương lĩnh, đường lối,
rèn luyện bản lĩnh chính trị cho đội ngũ đảng viên, bảo đảm dẫn dắt sự nghiệp cách
mạng phát triển đúng hướng, đi đến thắng lợi. Cương lĩnh, đường lối của Đảng phải
xuất phát từ thực tiễn đất nước, vì lợi ích của dân, lấy dân làm gốc. Có thể thấy rõ, Đại
hội VI của Đảng (tháng 12-1986) là bước phát triển mạnh mẽ trong xây dựng Đảng về
chính trị, đi đến quyết định đường lối đổi mới. Đường lối đổi mới cũng dựa trên thái độ
tự phê bình thẳng thắn, nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật,
khắc phục bệnh nóng vội, chủ quan, duy ý chí. Đại hội VI nhấn mạnh bài học xây dựng
Đảng ngang tầm nhiệm vụ chính trị của Đảng cầm quyền lãnh đạo nhân dân tiến hành
cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Một bài học sâu sắc của Đại hội VI là: “Đảng phải luôn
luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan. Năng lực
nhận thức và hành động theo quy luật là điều kiện bảo đảm sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng”. 5 lOMoAR cPSD| 45474828
2.3 Coi trọng xây dựng Đảng về tư tưởng, lý luận trong quá trình đổi mới
Quá trình đổi mới, Đảng coi trọng xây dựng Đảng về tư tưởng, lý luận bao gồm công
tác giáo dục, bồi dưỡng nâng cao nhận thức tư tưởng, trình độ lý luận trong Đảng và
bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh. Đại hội VI của Đảng là bước đổi mới tư duy lý luận. Nếu không có tư duy
mới về chủ nghĩa xã hội và con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội với những đặc trưng
và quy luật cần được nhận thức đúng như chỉ dẫn của V.I. Lê-nin và Chủ tịch Hồ Chí
Minh, chắc chắn sẽ không có đường lối đổi mới xuất hiện tại Đại hội VI của Đảng. Khi
mô hình chế độ xã hội chủ nghĩa sụp đổ ở Liên Xô và các nước Đông Âu vì các đảng
cộng sản ở các nước này đã rời bỏ chủ nghĩa Mác - Lênin, hạ vũ khí trước những đòn
tiến công hiểm độc của kẻ thù tư tưởng và cả sự phản bội trong nội bộ, Đảng Cộng sản
Việt Nam vẫn kiên định và nhận rõ bản chất cách mạng, khoa học của chủ nghĩa Mác - Lê-nin.
2.4 Vấn đề xây dựng Đảng về đạo đức ngày càng được chú trọng
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến việc giáo dục đạo đức cách
mạng cho cán bộ, đảng viên. Người coi đạo đức là cái gốc của người cách mạng. Trong
công cuộc đổi mới, do tác động bởi mặt trái của kinh tế thị trường và chính sách mở
cửa, những tiêu cực nảy sinh, phát triển trong đời sống xã hội và trong đội ngũ cán bộ,
đảng viên. Tháng 1-1994, Đảng xác định tham nhũng, lãng phí là một trong bốn nguy
cơ lớn. Ngày 26-6-1992, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ban hành Nghị quyết số 03-
NQ/TW, “Về một số nhiệm vụ đổi mới và chỉnh đốn Đảng”. Nghị quyết nêu rõ: “Xây
dựng đạo đức cách mạng và lối sống lành mạnh
của cán bộ, đảng viên trong điều kiện
kinh tế thị trường và mở rộng giao lưu quốc tế. Cán bộ, đảng viên phải đặt lợi ích của
Tổ quốc, của nhân dân lên trước hết. Nêu cao tinh thần yêu nước, ý chí tự lực tự cường,
gương mẫu trong lao động, cần kiệm xây dựng và bảo vệ đất nước, làm cho dân giàu
nước mạnh; giữ gìn, phát huy truyền thống và bản sắc tốt đẹp của dân tộc”.
2.5 Xây dựng Đảng về tổ chức và cán bộ có vai trò quyết định
Để bảo đảm hoạt động lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, nhiệm vụ xây dựng Đảng về tổ
chức và cán bộ có vai trò quyết định. Đảng không ngừng kiện toàn hệ thống tổ chức
đảng từ Trung ương đến cơ sở, phát triển đội ngũ đảng viên, xây dựng đội ngũ cán bộ
lãnh đạo các cấp ngang tầm nhiệm vụ. Đại hội VI (năm 1986), toàn Đảng có gần 1,9
triệu đảng viên; đến Đại hội XIII (năm 2021), Đảng ta có hơn 5,1 triệu đảng viên. Từ
yêu cầu của thực tiễn đổi mới, Hội nghị Trung ương 4 khóa X (tháng 1-2007) đã quyết
định sắp xếp lại bộ máy tổ chức của Đảng và hệ thống chính trị. Các cơ quan tham mưu
giúp Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư lãnh đạo gồm 8 ban và không nhất thiết ở
Trung ương có ban nào thì địa phương cũng như vậy; Chính phủ gồm 22 bộ, cơ quan
ngang bộ và ổn định cho đến nay. Các tổ chức lớn trong bộ máy được thu gọn, nhưng
có thực tế là các đơn vị (cục, vụ, viện, phòng, ban) trong đó lại nhiều lên, dẫn đến bộ
máy phình to ra; biên chế vẫn tăng. 6 lOMoAR cPSD| 45474828
3. Liên hệ thực tế: 3.1 Nhận thức và giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa đổi mới
kinh tế và đổi mới chính trị
Đổi mới kinh tế kết hợp với đổi mới chính trị là vấn đề cốt lõi trong đường lối đổi mới
của Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong đó lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời
từng bước đổi mới chính trị trên cơ sở nghiên cứu và chuẩn bị nghiêm túc, không cho
phép gây mất ổn định chính trị.
Sau hơn 35 năm đổi mới cho thấy, mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính
trị được Đảng ta đặc biệt quan tâm nhận thức và giải quyết đúng đắn, phù hợp với từng
giai đoạn cách mạng. Việc nhận thức và giải quyết đúng đắn mối quan hệ này cũng là
khâu đột phá trong đổi mới tư duy và thực tiễn lãnh đạo sự nghiệp đổi mới của Đảng.
Hiện nay có những quan điểm xuyên tạc, bóp méo hay cố tình phủ định những thành
công của Đảng trong nhận thức và giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi
mới chính trị. Để bác bỏ những luận điểm này, chúng ta cần chỉ rõ những thành công
cụ thể của Đảng trong nhận thức và giải quyết mối quan hệ này trong quá trình đổi mới.
Đảng ta hiểu rất rõ rằng không thể tiến hành đổi mới chính trị một cách vội vã khi chưa
đủ căn cứ, mở rộng dân chủ không có giới hạn, không có mục tiêu cụ thể và không đi
đôi với tập trung thì dẫn đến sự mất ổn định về chính trị, gây thiệt hại cho sự nghiệp đổi
mới. Cho nên, ngay từ khi mới bắt đầu quá trình đổi mới, Đảng xác định ổn định kinh
tế “không phải là hạn chế các hoạt động kinh tế, mà là một quá trình vận động tiến lên,
vừa phát triển, vừa điều chỉnh các quan hệ tỷ lệ của nền kinh tế quốc dân”. Còn ổn định
chính trị không có nghĩa là bảo thủ, trì trệ, ngược lại nó có vai trò quan trọng bảo đảm
điều kiện cho các lĩnh vực khác như kinh tế, văn hóa, xã hội được đổi mới, phát triển,
làm cho quá trình đổi mới trở nên toàn diện hơn, bền vững hơn. Ổn định chính trị cũng
đồng thời góp phần tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý
của Nhà nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân. “Ổn định và phát triển gắn liền
với nhau trong quá trình vận động tiến lên, ổn định để phát triển và có phát triển mới ổn định được”.
Rút kinh nghiệm từ những sai lầm vô nguyên tắc của Đảng cộng sản Liên xô trong cải
tổ, ngay từ khi bắt đầu tiến hành đổi mới, Đảng ta đã nhận thức rõ trước hết cần tập
trung đổi mới kinh tế, trên cơ sở đó từng bước đổi mới chính trị.
Tiếp tục tinh thần của Đại hội VI, Đại hội VII (1991) xác định rất đúng “Về quan hệ
giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị, phải tập trung làm tốt đổi mới kinh tế, đáp
ứng những đòi hỏi cấp bách của nhân dân về đời sống, việc làm và các nhu cầu xã hội
khác, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, coi đó là điều kiện quan
trọng để tiến hành thuận lợi đổi mới trong lĩnh vực chính trị. Đồng thời với đổi mới
kinh tế phải từng bước đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính
trị, phát huy ngày càng tốt quyền làm chủ và năng lực sáng tạo của nhân dân trên các
lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội”. Đặc biệt, Đại hội rút ra bài học kinh nghiệm
vô cùng quý báu cho việc đổi mới chính trị trong quan hệ với đổi mới kinh tế: “Vì chính
trị đúng chạm đến các mối quan hệ đặc biệt phức tạp và nhạy cảm trong xã hội nên việc
đổi mới trong hệ thống chính trị nhất thiết phải trên cơ sở nghiên cứu và chuẩn bị rất 7 lOMoAR cPSD| 45474828
nghiêm túc, không cho phép gây mất ổn định chính trị, dẫn đến sự rối loạn. Nhưng
không vì vậy mà tiến hành chậm trễ đổi mới hệ thống chính trị, nhất là về tổ chức bộ
máy và cán bộ, mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và các đoàn thể nhân dân, bởi đó là
điều kiện để thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội và thực hiện dân chủ”. Đây vừa là bài
học kinh nghiệm quý báu, vừa là nguyên tắc quan trọng mà Đảng ta quán triệt trong
suốt quá trình đổi mới.
Không có mẫu hình sẵn cho quá trình đổi mới chính trị, nên Đảng ta vừa phải tìm tòi
vừa sáng tạo, vừa làm, vừa rút kinh nghiệm. Mặc dù là thận trọng, nhưng không vì thế
mà Đảng trì trệ, bảo thủ, chậm trễ trong đổi mới hệ thống chính trị. Đây là tinh thần
khoa học, thực tiễn và cách mạng của Đảng ta.

Tổng kết 10 thực hiện sự nghiệp đổi mới, Đại hội VIII (1996) tiếp tục khẳng định bài
học: xác định rõ đổi mới không phải là thay đổi mục tiêu XHCN mà là quan niệm đúng
đắn hơn về CNXH và thực hiện mục tiêu ấy bằng những hình thức, bước đi và biện
pháp phù hợp. Đổi mới phải được thực hiện trên cơ sở bảo vệ, kế thừa và phát huy
truyền thống quý báu của dân tộc và những thành tựu cách mạng đã đạt được. Phê phán
nghiêm túc sai lầm, khuyết điểm phải đi đôi với khẳng định những việc làm đúng, không
phủ nhận sạch trơn quá khứ, không hoang mang, mất phương hướng, từ thái cực này
chuyển sang thái cực khác. Trên tinh thần lập trường, quan điểm này, Đại hội tiếp tục
khẳng định “Kết hợp ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh
tế làm trọng tâm, đồng thời từng bước đổi mới chính trị”; tập trung trước hết vào việc
thực hiện thắng lợi nhiệm vụ đổi mới kinh tế, khắc phục những khủng hoảng kinh tế -
xã hội, tạo tiền đề cần thiết về vật chất và tinh thần để giữ vững ổn định chính trị, xây
dựng và củng cố niềm tin của nhân dân, tạo thuận lợi để đổi mới các mặt khác của đời
sống xã hội. Đây là nhận thức đúng cả về mặt lý luận cả về mặt thực tiễn.
Tại Đại hội XI (2011), Đảng đưa ra quan điểm “Đổi mới chính trị phải đồng bộ với đổi
mới kinh tế theo lộ trình thích hợp, trọng tâm là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường xã
hội chủ nghĩa, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa, mở rộng dân chủ trong Đảng và trong xã hội gắn với tăng cường kỷ
luật, kỷ cương”. Như vậy, về đổi mới kinh tế, Đại hội XI tập trung vào đổi mới, hoàn
thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN. Về đổi mới chính trị, tập trung ba
lĩnh vực cơ bản, trọng yếu: Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng; xây dựng Nhà
nước pháp quyền XHCN, mở rộng dân chủ trong Đảng và trong xã hội gắn với tăng
cường kỷ luật, kỷ cương. Trong đó, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng là cấp thiết
và hàng đầu. Đặc biệt, bắt đầu từ Đại hội XI, Đảng ta xác định quan hệ “giữa đổi mới
kinh tế và đổi mới chính trị” là một trong các quan hệ lớn cần giải quyết tốt trong thời
kỳ quá độ đi lên CNXH.
Tổng kết việc thực hiện Nghị quyết Đại hội XI về đổi mới chính trị, Đại hội XII (2016)
đã rút ra kết luận “Đổi mới chính trị chưa đồng bộ với đổi mới kinh tế, năng lực và hiệu
quả hoạt động của hệ thống chính trị chưa ngang tầm nhiệm vụ”. Từ thực trạng này, Đại
hội XII đề ra mục tiêu chung: “đổi mới mạnh mẽ, toàn diện và đồng bộ, có bước đi phù
hợp trên các lĩnh vực, nhất là giữa kinh tế và chính trị”. Đồng thời đề ra mục tiêu cụ thể:
“Đến năm 2020, phấn đấu cơ bản hoàn thiện đồng bộ hệ thống thể chế kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa theo các tiêu chuẩn phổ biến của nền kinh tế thị trường
hiện đại và hội nhập quốc tế; bảo đảm tính đồng bộ giữa thể chế kinh tế và thể chế chính 8 lOMoAR cPSD| 45474828
trị; giữa Nhà nước và thị trường; bảo đảm sự hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với phát
triển văn hóa, phát triển con người, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo đảm an
sinh xã hội, bảo vệ môi trường, phát triển xã hội bền vững chủ động tích cực hội nhập
kinh tế quốc tế gắn với xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ; bảo đảm tính công khai,
minh bạch, tính dự báo được thể hiện trong xây dựng và thực thi thể chế kinh tế, tạo
điều kiện ổn định, thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội”. Từ mục tiêu cụ thể này, Đại
hội XII đề ra yêu cầu đối với đổi mới thể chế kinh tế: “Tập trung hoàn thiện thể chế kinh
tế thị trường đồng bộ, hiện đại trên cơ sở tuân thủ đầy đủ các quy luật của kinh tế thị
trường và hội nhập kinh tế quốc tế. Tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý, cơ chế chính
sách, thực hiện đồng bộ các giải pháp để phát triển, vận hành thông suốt, hiệu quả, đồng
bộ và khả thi các loại thị trường và bảo đảm cạnh tranh bình đẳng, minh bạch (...) Nhà
nước sử dụng thể chế, các nguồn lực, công cụ điều tiết, cơ chế, chính sách phân phối,
phân phối lại để phát triển văn hóa, thực hiện dân chủ, tiến bộ, công bằng xã hội...”. Đối
với đổi mới chính trị
: tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN do
Đảng lãnh đạo là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị. Xây dựng Nhà
nước phải tiến hành đồng bộ cả lập pháp, hành pháp, tư pháp và được tiến hành đồng
bộ với đổi mới hệ thống chính trị theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả; gắn với đổi
mới kinh tế, văn hóa, xã hội. Đối với xây dựng Đảng: đẩy mạnh hơn nữa công tác xây
dựng Đảng, nhất là xây dựng Đảng về đạo đức.Trọng tâm là kiên quyết, kiên trì tiếp tục
thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI. Đối với phát huy dân chủ XHCN: bảo đảm
tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Dân chủ phải được thực hiện đầy đủ,
nghiêm túc trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Tăng cường, củng cố tổ chức,
đổi mới phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân để phát
huy hiệu quả quyền làm chủ của nhân dân. Đại hội XII tiếp tục coi quan hệ giữa đổi
mới kinh tế và đổi mới chính trị là một trong các quan hệ lớn cần giải quyết trong thời
kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam.
Kế thừa tinh thần Đại hội XI, XII, tại Đại hội XIII, Đảng tiếp tục coi quan hệ giữa đổi
mới kinh tế và đổi mới chính trị là một trong các quan hệ lớn cần giải quyết trong thời
kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam; khẳng định tiếp tục thực hiện “phát triển kinh tế xã
hội là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt”; đề ra nhiệm vụ “Tăng cường xây dựng,
chỉnh đốn Đảng, phát huy bản chất giai cấp công nhân của Đảng, nâng cao năng lực
lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng và hệ thống
chính trị trong sạch, vững mạnh, toàn diện, xây dựng Nhà nước tinh gọn, hoạt động hiệu
lực, hiệu quả”. Đồng thời “phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, sức mạnh tổng hợp của
cả hệ thống chính trị và của nền văn hóa, con người Việt Nam”. Quan điểm này tiếp tục
chỉ đạo, soi sáng việc đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị trong thời gian tới của Đảng ta.
Từ những khái quát nêu trên cho thấy, trong suốt hơn 35 năm thực hiện quá trình đổi
mới, Đảng ta đặc biệt quan tâm nhận thức và giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa đổi
mới kinh tế và đổi mới chính trị. Đạt được điều này là do có sự lãnh đạo đúng đắn, khoa
học của Đảng nên đã lôi cuốn được đông đảo nhân nhân tham gia, ủng hộ. Cùng với
luôn bảo đảm sự phát triển đồng bộ của cả kinh tế và chính trị, thực tiễn đất nước và
quốc tế luôn được Đảng lấy làm tiêu chuẩn điều chỉnh mối quan hệ giữa đổi mới kinh 9 lOMoAR cPSD| 45474828
tế và đổi mới chính trị. Đồng thời lấy lợi ích của nhân dân làm mục tiêu giải quyết mối quan hệ này.
3.2 Những thành tựu to lớn của đất nước sau 35 năm thực hiện đường lối đổi mới do
Đảng khởi xướng và lãnh đạo:
Sự nghiệp đổi mới ở nước ta đang đi vào chiều sâu và đạt được những thành tựu to lớn.
35 năm đổi mới ở Việt Nam là giai đoạn lịch sử quan trọng đánh dấu sự trưởng thành
mọi mặt về sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Sự nghiệp đổi mới mang tầm
vóc và ý nghĩa cách mạng, là quá trình cải biến sâu sắc, toàn diện và triệt để, là sự
nghiệp cách mạng to lớn mà Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo thực hiện thành
công. Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, đã ra khỏi khủng
hoảng kinh tế - xã hội và tình trạng kém phát triển, trở thành nước đang phát triển, đang
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế mạnh mẽ và sâu rộng.
Kinh tế tăng trưởng cao và ổn định; quốc phòng, an ninh được tăng cường; văn hóa, xã
hội có bước phát triển mới; đời sống nhân dân từng bước được nâng lên; Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa và hệ thống chính trị được củng cố; độc lập, chủ quyền, thống
nhất và toàn vẹn lãnh thổ và chế độ xã hội chủ nghĩa được giữ vững. Quan hệ đối ngoại
ngày càng mở rộng và đi vào chiều sâu. Vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc
tế ngày càng được nâng cao.
Trong suốt 35 năm qua, kinh tế Việt Nam đã đạt tốc độ tăng trưởng khá ấn tượng. Đổi
mới kinh tế và chính trị từ năm 1986 đã thúc đẩy phát triển kinh tế, nhanh chóng đưa
Việt Nam từ một trong những quốc gia nghèo nhất trên thế giới trở thành quốc gia thu
nhập trung bình thấp. Nếu như trong giai đoạn đầu đổi mới (1986-1990) mức tăng
trưởng GDP bình quân hàng năm chỉ đạt 4,4%, thì giai đoạn 1991-1995 GDP bình quân
đã tăng gấp đôi, đạt 8,2%/năm; các giai đoạn sau đó đều có mức tăng trưởng khá cao;
giai đoạn 2016-2019 đạt mức bình quân 6,8%. Liên tiếp trong 4 năm, từ năm 2016 -
2019, Việt Nam đứng trong top 10 nước tăng trưởng cao nhất thế giới, là một trong 16
nền kinh tế mới nổi thành công nhất. Đặc biệt, trong năm 2020, trong khi phần lớn các
nước có mức tăng trưởng âm hoặc đi vào trạng thái suy thoái do tác động của dịch
COVID-19, kinh tế Việt Nam vẫn tăng trưởng dương 2,91%, góp phần làm cho GDP
trong 5 năm qua tăng trung bình 5,9 %/năm, thuộc nhóm nước có tốc độ tăng trưởng
cao nhất trong khu vực và trên thế giới. Quy mô, trình độ nền kinh tế được nâng lên,
nếu như năm 1989 mới đạt 6,3 tỷ USD/năm, thì đến năm 2020 đã đạt khoảng 268,4 tỷ
USD/năm. Đời sống nhân dân cả về vật chất và tinh thần được cải thiện rõ rệt, năm
1985 bình quân thu nhập đầu người mới đạt 159 USD/năm, thì đến năm 2020 đạt khoảng
2.750 USD/năm. Các cân đối lớn của nền kinh tế về tích luỹ tiêu dùng, tiết kiêm - đầu
tư, năng lượng, lương thực, lao độ ng - việ c làm,… tiếp tục ̣ được bảo đảm, góp phần
củng cố vững chắc nền tảng kinh tế vĩ mô. Từ 2002 đến 2018, GDP đầu người tăng 2,7
lần, đạt trên 2.700 USD năm 2019, với hơn 45 triệu người thoát nghèo. Tỷ lệ nghèo
giảm mạnh từ hơn 70% xuống còn dưới 6% (3,2 USD/ngày theo sức mua ngang giá).
Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu của Việt Nam năm 2020 được xếp thứ 42/131 nước,
đứng đầu nhóm 29 quốc gia có cùng mức thu nhập. Xếp hạng về phát triển bền vững
của Việt Nam đã tăng từ thứ 88 năm 2016 lên thứ 49 năm 2020, cao hơn nhiều so với
các nước có cùng trình độ phát triển kinh tế. 10 lOMoAR cPSD| 45474828
35 năm đổi mới cũng là một chặng đường hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng trên nhiều
cấp độ, đa dạng về hình thức, theo nguyên tắc và chuẩn mực của thị trường toàn cầu
của Việt Nam. Việt Nam đã thiết lập được nhiều quan hệ đối tác chiến lược về kinh tế.
Từ khi gia nhập WTO đến nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ đối tác chiến lược, toàn
diện với nhiều nước, trong đó có tất cả các nước P5 (Mỹ, Nga, Trung Quốc, Pháp, Anh)
và hầu hết các nước chủ chốt trong trong khu vực và trên thế giới; đã có trên 70 nước
công nhận Việt Nam là nền kinh tế thị trường. Các đối tác FTA mà Việt Nam tham gia
có độ phủ rộng hầu hết các châu lục với gần 60 nền kinh tế có tổng GDP chiếm gần
90% GDP thế giới, trong đó có 15 nước thành viên G20 và 9/10 đối tác kinh tế - thương
mại lớn nhất của Việt Nam thuộc 3 trung tâm kinh tế lớn nhất thế giới là Bắc Mỹ, Tây
Âu và Đông Á. Năm 2020 phê chuẩn và triển khai có hiệu quả EVFTA; tham gia ký
Hiệp định Đối tác Kinh tế toàn diện khu vực (RCEP) và ký FTA Việt Nam - Anh)…
Nhờ có nền tảng vững chắc, nền kinh tế Việt Nam đã thể hiện sức chống chịu đáng kể
trong những giai đoạn khủng hoảng, mới đây là đại dịch Covid-19. Y tế đạt nhiều tiến
bộ lớn khi mức sống ngày càng cải thiện. Tỉ suất tử vong ở trẻ sơ sinh giảm từ 32,6 năm
1993 xuống còn 16,7 năm 2020 (trên 1.000 trẻ sinh). Tuổi thọ trung bình tăng từ 70,5
năm 1990 lên 75,4 năm 2019, cao nhất giữa các quốc gia trong khu vực có mức thu
nhập tương đương. Chỉ số bao phủ chăm sóc sức khỏe toàn dân là 73, cao hơn trung
bình khu vực và trung bình thế giới. Theo báo cáo của BHXH Việt Nam, tính đến hết
tháng 7/2021, toàn quốc có khoảng 16 triệu người tham gia BHXH (chiếm 32% lực
lượng lao động). Trong đó có hơn 14,7 triệu người tham gia BHXH bắt buộc; gần 1,2
triệu người tham gia BHXH tự nguyện; hơn 13 triệu người tham gia Bảo hiểm thất
nghiệp; hơn 85 triệu người tham gia BHYT (đạt tỷ lệ bao phủ 87,1% dân số). Về triển
vọng, Việt Nam vẫn duy trì được sự ổn định kinh tế vĩ mô và đang trong xu hướng phục
hồi theo hình chữ V; là một trong những nền kinh tế tăng trưởng nhanh nhất khu vực và
thế giới. Giai đoạn 2021-2025, Việt Nam tiếp tục thúc đẩy tăng trưởng kinh tế chủ yếu
theo chiều sâu, hoàn thiện mô hình tăng trưởng đồng bộ trên cả phương diện kinh tế -
kỹ thuật, kinh tế - xã hội và kinh tế - sinh thái, thúc đẩy phát triển trên nền tảng đổi mới
sáng tạo, nâng cao năng suất lao động, ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ, nâng
cao chất lượng nguồn nhân lực, phát huy lợi thế so sánh và chủ động hội nhập quốc tế.
Trong 35 năm đổi mới, các thành tựu xây dựng con người của nước ta còn được thể hiện
qua chỉ số HDI có xu hướng tăng đều và khá ổn định, cả về giá trị tuyệt đối cũng như
thứ hạng. “Chỉ số phát triển con người (HDI) năm 2019 của Việt Nam là 0,704. Với kết
quả này Việt Nam đã lọt vào danh sách các nước phát triển con người cao và được xếp
thứ 117/189 quốc gia và vùng lãnh thổ”. Chỉ số phát triển con người vừa thể hiện tính
nhân văn, vừa là thước đo tổng hợp phản ánh sự phát triển của con người trên các
phương diện: sức khỏe tri thức và thu nhập. HDI giúp tạo ra một cái nhìn tổng quát về
sự phát triển của một quốc gia, dựa vào năm tiêu chí: 1) con người là trung tâm của sự
phát triển; 2) người dân là mục tiêu của sự phát triển; 3) việc nâng cao vị thế của người
dân (bao gồm cả sự hưởng thụ và cống hiến); 4) chú trọng việc tạo lập sự bình đẳng cho
người dân về mọi mặt (thí dụ như tôn giáo, dân tộc, giới tính, quốc tịch,...); 5) tạo cơ
hội để lựa chọn tốt nhất cho người dân về kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa...”.
Việt Nam hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng trên nhiều cấp độ, đa dạng về hình thức,
theo nguyên tắc và chuẩn mực của thị trường toàn cầu. Việt Nam đã gia nhập WTO, 11 lOMoAR cPSD| 45474828
thiết lập được 30 đối tác chiến lược và đối tác chiến lược toàn diện; có quan hệ ngoại
giao, kinh tế với 190/200 quốc gia và vùng lãnh thổ. Đặc biệt, WTO cùng với hơn hơn
500 hiệp định song phương và đa phương trên nhiều lĩnh vực mà Việt Nam tham gia, là
những cánh cửa lớn, đa chiều để Việt Nam định hướng hoàn thiện khung khổ thể chế
phát triển kinh tế thị trường và tự tin hội nhập ngày càng đầy đủ, hiệu quả hơn.
Việt Nam cũng là thành viên chủ động, tích cực và có trách nhiệm cao trong các tổ chức
quốc tế. Việt Nam đã tham gia vào Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
(ASEAN), Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á-Thái Bình Dương (APEC), các tổ chức của
Liên hợp quốc... đóng góp tích cực và đang trở thành nước có vị thế và vai trò ngày
càng cao ở khu vực, được cộng đồng quốc tế tôn trọng. Bên cạnh đó, Việt Nam đã được
tín nhiệm bầu vào các cơ quan quan trọng của Liên hợp quốc, như: Hội đồng Nhân
quyền nhiệm kỳ 2014-2016, Ủy ban Di sản Thế giới của UNESCO nhiệm kỳ 2013-
2017, Hội đồng Kinh tế - Xã hội của Liên hợp quốc (ECOSOC) nhiệm kỳ 20162018.
Đặc biệt, năm 2020, Việt Nam đã hoàn thành tốt cùng lúc cả ba trọng trách: Ủy viên
không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, Chủ tịch ASEAN và Chủ tịch AIPA.
điều này góp phần nâng cao uy tín, vị thế Việt Nam trong khu vực và trên thế giới. Việc
Đại hội đồng Liên hợp quốc đã bỏ phiếu bầu 5 nước ủy viên không thường trực của Hội
đồng Bảo an nhiệm kỳ 2020 - 2021, ngày 7/6/2020, tại trụ sở Liên hợp quốc tại New
York (Mỹ), với số phiếu kỷ lục chưa từng có (192/193 phiếu) trong 75 năm phát triển
của Liên Hợp quốc đã tiếp tục khẳng định vị thế và uy tín của Việt Nam. Có thể khẳng
định, Việt Nam đã thực sự chủ động, tích cực tham gia hội nhập quốc tế với một vị thế
mới, bắt kịp với xu thế của thời đại.
Những thành tựu của công cuộc đổi mới kể trên là kết quả của quá trình phấn đấu liên
tục, bền bỉ của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XIII của Đảng khẳng định: “Những thành tựu đó là sản phẩm kết tinh sức sáng tạo, là
kết quả của cả một quá trình nỗ lực phấn đấu bền bỉ, liên tục qua nhiều nhiệm kỳ của
toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta; tiếp tục khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội của chúng ta là đúng đắn, phù hợp với quy luật khách quan, với thực tiễn Việt Nam
và xu thế phát triển của thời đại; đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo;
sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt
Nam. Cương lĩnh chính trị của Đảng tiếp tục là ngọn cờ tư tưởng, lý luận dẫn dắt dân
tộc ta vững vàng tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; là nền tảng
để Đảng ta hoàn thiện đường lối xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa
trong giai đoạn mới”. Trong bài phát biểu nhân kỷ niệm 90 năm thành lập Đảng Cộng
sản Việt Nam (1930 – 2020), Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú trọng đã nhấn
mạnh: “Thực tiễn phong phú, sinh động của cách mạng Việt Nam trong 90 năm qua đã
chứng tỏ, sự lãnh đạo đúng đắn và sáng suốt của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định
mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam”.
Những thành tựu to lớn qua 35 năm đổi mới đánh dấu một bước tiến chưa từng thấy
trên con đường xây dựng, phát triển đất nước, minh chứng thuyết phục cho tính chất ưu
việt của chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta đang xây dựng. Ý nghĩa to lớn
của những thành tựu đó không đơn thuần ở những con số mà quan trọng hơn là ở những
nỗ lực cao nhất mà Đảng và Nhà nước ta đã tập trung một cách hiệu quả trong một thời
gian không dài, trong những điều kiện rất khó khăn, phức tạp, để cải thiện và không 12 lOMoAR cPSD| 45474828
ngừng nâng cao đời sống mọi mặt cho nhân dân. Đó cũng là cơ sở niềm tin để khơi dậy
khát vọng của nhân dân ta về một xã hội xã hội chủ nghĩa phồn vinh, hạnh phúc, vì hạnh phúc của nhân dân. Lời kết
Đại hội lần thứ VI của Đảng là Đại hội kế thừa và quyết tâm đổi
mới, đoàn kết tiến lên của Đảng ta. Các đường lối đổi mới được
đưa ra cũng đã phần nào gặt hái được những thành tựu nhất
định, song vẫn tồn đọng hạn chế. Đồng thời đây cũng là những
bài học kinh nghiệm xương máu, để cho Đảng ta rút kinh nghiệm,
tiếp tục chỉnh sửa, để đưa đất nước đi lên, ngang hàng thế giới.
Do hạn chế về kiến thức cũng như thời gian nên bài tập này của
em vẫn còn nhiều thiếu sót, mong rằng em sẽ nhận được những
lời đóng góp của để em có thể hoàn thiện bài tập này, Em xin
chân thành cảm ơn cô ạ!
13 lOMoAR cPSD| 45474828
Tài liệu tham khảo:
1, Giáo trình “Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam”
2, https://daihoi13.dangcongsan.vn/cac-ky-dai-hoi/tu-dai-hoi-den-dai-hoi/dai-
hoidai-bieu-toan-quoc-lan-thu-vi-250
3, Võ Hồng Phúc: Những thành tựu về kinh tế - xã hội qua 20 năm đổi mới(1986 2005),
trong Việt Nam 20 năm đổi mới, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2006, tr. 141,143. 4,
http://baochinhphu.vn/Kinh-te/Kinh-te-Viet-Nam-20162019-va-dinh- huong2020/385934.vgp 5,
https://baochinhphu.vn/Thoi-su/Mo-ra-giai-doan-moi-de-dat-nuoc-tien-
xa-honnhan-dan-am-no-hanh-phuc/421800.vgp
6, https://nhandan.com.vn/binh-luan-phe-phan/chi-so-phat-trien-con-nguoi-cuaviet- nam-tang-vuot-bac-629395/ 14