-
Thông tin
-
Hỏi đáp
Từ nội dung thuyết trình của nhóm bạn, lựa chọn một nội dung, rút ra bài học kinh nghiệm và liên hệ với thực tiễn hiện nay | Bài tiểu luận môn Lịch sử đảng cộng sản Việt Nam
Từ nội dung thuyết trình của nhóm bạn, lựa chọn một nội dung, rút ra bài học kinh nghiệm và liên hệ với thực tiễn hiện nay | Tiểu luận môn Lịch sử đảng cộng sản Việt Nam được siêu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuận bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đón xem!
Môn: Lịch sử Đảng Cộng Sản Việt Nam(LLLSD1101)
Trường: Đại học Kinh Tế Quốc Dân
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
lOMoAR cPSD| 40551442
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
VIỆN ĐÀO TẠO TT, CLC & POHE
---------------– & —--------------- lOMoAR cPSD| 40551442 Mục lục
I. Tổng quan đất nước sau 3 6 năm đổi mới:
1. Những thành tựu đạt được
2. Những thiếu sót còn tồn tại
II. Tổng quan ngành giáo dục sau 36 năm đổi mới:
1. Giáo dục rất quan trọng trong việc phát triển đất nước
2. Nhìn lại nền giáo dục Việt Nam thay đổi qua các thời kỳ
3. Những chuyển biến tích cực của nền giáo dục Việt Nam hiện nay
4. Những hạn chế, nhược điểm của nền giáo dục Việt Nam
III. Rút kinh nghiệm
IV. Liên hệ thực tiễn V. Kết luận lOMoAR cPSD| 40551442
I. Tổng quan đất nước sau 3 6 năm đổi mới:
1. Những thành tự đạt được
Nhìn tổng thể, qua 36 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý
nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ
nghĩa. Đồng thời cũng còn nhiều vấn đề lớn, phức tạp, nhiều hạn chế, yếu kém cần phải
tập trung giải quyết, khắc phục để đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững. Qua 36 năm
đổi mới, “đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội và tình trạng kém phát triển, trở
thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình, đang đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện
đại hoá và hội nhập quốc tế. Kinh tế tăng trưởng khá, nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa từng bước hình thành, phát triển. Chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng, an
ninh được tăng cường. Văn hoá - xã hội có bước phát triển; bộ mặt đất nước và đời sống
của nhân dân có nhiều thay đổi. Đặc biệt là nơi đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho
đất nước, giáo dục đại học ở Việt Nam luôn được cả xã hội quan tâm, do đó, đổi mới hệ
thống giáo dục đại học đang là một trong những nhiệm vụ quan trọng nhằm góp phần thực
hiện mục tiêu phát triển và hội nhập quốc tế của đất nước Dân chủ xã hội chủ nghĩa được
phát huy và ngày càng mở rộng. Trong hơn 36 năm đổi mới, giáo dục đại học đã đạt được
những thành tựu không nhỏ. Cùng với đó, đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng
cường, công tác xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền và cả hệ thống chính trị
được đẩy mạnh. Sức mạnh về mọi mặt của đất nước được nâng lên; độc lập, chủ quyền,
thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và chế độ xã hội chủ nghĩa được giữ vững. Quan hệ đối ngoại
ngày càng mở rộng và đi vào chiều sâu; vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế
được nâng cao”.Những thành tựu đó tạo tiền đề quan trọng để nước ta tiếp tục đổi mới và
phát triển mạnh mẽ trong những năm tới; khẳng định đường lối đổi mới của Đảng là đúng
đắn, sáng tạo; con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn của
Việt Nam và xu thế phát triển của lịch sử.
2. Những thiếu sót còn tồn tại
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, dự thảo cho rằng “chúng ta còn nhiều hạn
chế, khuyết điểm”. Những lợi thế của đất nước chúng ta vẫn chưa thể tận dụng triệt để.
Kinh tế phát triển chưa bền vững, chưa tương xứng với tiềm năng, yêu cầu và thực tế nguồn
lực được huy động. Trong 10 năm gần đây, kinh tế vĩ mô thiếu ổn định, tốc độ tăng trưởng
kinh tế suy giảm, phục hồi chậm. Chất lượng, hiệu quả, năng suất lao động xã hội và năng
lực cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp. Phát triển thiếu bền vững cả về kinh tế, văn hoá,
xã hội và môi trường. Nhiều vấn đề bức xúc nảy sinh, nhất là các vấn đề xã hội và quản lý
xã hội chưa được nhận thức đầy đủ và giải quyết có hiệu quả; còn tiềm ẩn những nhân tố
và nguy cơ mất ổn định xã hội. Trên một số mặt, một số lĩnh vực, một bộ phận nhân dân
chưa được thụ hưởng đầy đủ, công bằng thành quả của công cuộc đổi mới.
Đổi mới chính trị chưa đồng bộ với đổi mới kinh tế; năng lực và hiệu quả hoạt động của
hệ thống chính trị chưa ngang tầm nhiệm vụ. Việc tạo nền tảng để cơ bản trở thành một nước công nghiệp lOMoAR cPSD| 40551442
theo hướng hiện đại không đạt được mục tiêu đề ra. Niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân
dân vào Đảng, chế độ có mặt bị giảm sút. Những hạn chế, khuyết điểm trên đây đòi hỏi
toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta phải nỗ lực phấn đấu không ngừng để khắc phục, tiếp
tục đưa đất nước phát triển nhanh, bền vững theo con đường xã hội chủ nghĩa.
II. Tổng quan về giáo dục Việt Nam trong 3 6 năm đổi mới:
1. Giáo dục rất quan trọng trong việc phát triển đất nước:
Hiện nay, thị trường giáo dục toàn cầu đang trở thành một thị trường khổng lồ, không
những về quy mô mà còn về tỷ suất lợi nhuận. Đầu tư cho giáo dục là một trong những
việc làm cần thiết, bởi cả những giá trị vô hình - đào tạo cho những thế hệ tương lai có tri
thức tốt và hữu hình - những lợi nhuận mang lại cho nền kinh tế.
Và không chỉ hiện nay mà từ xa xưa, mảng giáo dục đã được đề cao và chú trọng. Trước
hết, ta nhìn lại mặt lịch sử, tính từ khi Văn Miếu - Quốc Tử Giám ra đời, giáo dục đại học
Việt Nam đã có bề dày trên cả ngàn năm. Sự nghiệp giáo dục đại học hình thành sau Cách
mạng Tháng Tám (năm 1945) cũng đã trải qua hơn 75 năm phát triển. Trong thời kỳ đổi
mới, Đảng ta luôn nhất quán khẳng định, giáo dục - đào tạo là quốc sách hàng đầu; đầu tư
cho giáo dục là đầu tư cho phát triển và giáo dục phải được ưu tiên, đi trước so với các lĩnh
vực khác. Toàn diện giáo dục - đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa
trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Sự cần
thiết phải đổi mới giáo dục được quy định bởi tình hình phát triển của đất nước và xu thế
chung của thế giới. Từ đó đến nay, công cuộc đổi mới giáo dục đại học được tiến hành ở
Việt Nam với mục tiêu là tạo ra sự chuyển biến căn bản, mạnh mẽ về chất lượng, hiệu quả
giáo dục, đào tạo nhằm đáp ứng ngày càng tốt hơn công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và
nhu cầu học tập của nhân dân. Sự cần thiết tái cấu trúc nền kinh tế theo hướng chất lượng,
hiệu quả, có sức cạnh tranh cao đòi hỏi giáo dục phải đáp ứng nhu cầu học tập của người
dân và nhanh chóng góp phần đào tạo ra đội ngũ nhân lực chất lượng cao. Nếu không có
sự đổi mới thì dẫn đến nguồn nhân lực kém chất lượng và sẽ là một trong những yếu tố cản
trở sự phát triển của đất nước.
Sau khi thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội vào năm 1996, Việt Nam đã từng
bước chuyển từ hội nhập kinh tế quốc tế sang hội nhập quốc tế sâu rộng và toàn diện trong
mọi lĩnh vực. Để có những “công dân toàn cầu”, đủ sức cạnh tranh trong thị trường nhân
lực thế giới thì tất yếu phải đổi mới giáo dục theo hướng vừa giữ được những nét đặc thù
của giáo dục trong nước, vừa tiệm cận các chuẩn mực chung của giáo dục thế giới. Như
vậy, nhu cầu phát triển nội tại của Việt Nam đòi hỏi giáo dục phải có sự “chuyển mình”
mạnh mẽ. Bên cạnh đó, nhu cầu thay đổi giáo dục còn xuất phát từ sự phát triển mạnh mẽ
của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Dưới tác động của cuộc cách mạng này, kiến
thức chuyên môn bị lạc hậu rất nhanh, tri thức mới và thông tin khoa học sẽ được tạo ra
với cấp số nhân. Do đó, đổi mới giáo dục nói chung, đổi mới giáo dục đại học nói riêng là
một xu thế toàn cầu và Việt Nam không thể nằm ngoài xu thế đó. Hiện nay, cuộc cạnh lOMoAR cPSD| 40551442
tranh giữa các quốc gia thực chất chính là cuộc cạnh tranh về nguồn nhân lực và khoa học
- công nghệ, cho nên, suy cho cùng, đây chính là sự cạnh tranh về chất lượng nguồn nhân
lực, yếu tố quyết định cơ hội phát triển.
2. Nhìn lại nền giáo dục Việt Nam thay đổi qua các thời kỳ
Giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám 1945
Từ cuối năm 1919 đã báo hiệu sự chấm dứt nền cựu học truyền thống Nho giáo để thay
thế bằng hệ thống tân học của chủ nghĩa thực dân Pháp. Cũng trong thời kỳ cuối thế kỷ
XIX đầu thế kỷ XX, trào lưu giáo dục Duy Tân yêu nước của Phan Bội Châu và Lương
Văn Can, Nguyễn Quyền đã khởi xướng cho khuynh hướng thực học, sử dụng chữ quốc
ngữ trong dạy và học, tiếp cận với các khoa học tự nhiên và kỹ nghệ, từ bỏ lối học từ chương khoa cử.
Giai đoạn 1945-1954
Cách mạng tháng Tám thành công, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thành lập,
lịch sử giáo dục nước nhà sang một trang mới. Chính phủ đã ký sắc lệnh quan trọng thành
lập Nha bình dân học vụ, chống nạn mù chữ. Cùng với việc chống nạn mù chữ, Chính phủ
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã có những chủ trương cải tổ và xây dựng bước đầu đối với
toàn bộ hệ thống giáo dục quốc gia. Năm 1950, Trung ương Đảng và Chính phủ đã quyết
định tiến hành cuộc cải cách giáo dục. Cuộc cải cách này quyết định thực hiện hệ thống
trường phổ thông 9 năm và chương trình giảng dạy mới. Trong chín năm kháng chiến chống
thực dân Pháp, sự nghiệp giáo dục từ phổ thông đến đại học không những được duy trì và
không ngừng phát triển mà còn có sự biến đổi về chất. Các trường từ giáo dục phổ thông
đến đại học đều giảng dạy bằng tiếng Việt. Cuộc cải cách giáo dục năm 1950 đến 1954 dù
có mặt còn hạn chế, nhưng đã thay đổi cơ bản nền giáo dục thực dân cũ, xây dựng nền tảng
cho một nền giáo dục mới: dân tộc, khoa học, đại chúng.
Giai đoạn 1954-1975
Mở các trường học sinh miền Nam trên đất Bắc để đón nhận các em học sinh miền Nam ra
Bắc học tập; tiến hành cải cách giáo dục năm 1956 đã đặt cơ sở cho việc hình thành Hệ
thống giáo dục phổ thông 10 năm gồm 3 cấp học. Hàng loạt trường trung học chuyên
nghiệp mới được mở ra ở cả trung ương và địa phương. Mạng lưới các trường đại học và
quy mô đào tạo không ngừng được mở rộng. Tàng vạn thanh niên tiêu biểu của cả nước
thời kỳ này đã được cử ra nước ngoài học tập trở thành những trí thức, nhà khoa học là
nguồn lực to lớn, góp phần phụng sự kháng chiến thắng lợi, xây dựng Tổ quốc. lOMoAR cPSD| 40551442
Giai đoạn 1975-1986
Tháng 1/1979, Bộ Chính trị ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã ban
hành Nghị quyết về cải cách giáo dục. Việc cải cách bắt đầu từ giáo dục phổ thông, song
song với việc tiến hành bồi dưỡng giáo viên, theo hướng cải cách giáo dục, từng bước cải
cách sư phạm. Trong thời kỳ này đánh dấu việc thực hiện nhiệm vụ quốc tế với hai nước
bạn Lào, Campuchia; mở rộng quan hệ hợp tác, đối ngoại đa dạng với Liên Xô, các nước XHCN ở Đông Âu
Giai đoạn 1996 đến nay
Giáo dục trong giai đoạn này đã đáp ứng được cơ bản nhu cầu học tập ngày càng tăng của
nhân dân. Thực hiện được các mục tiêu lớn trong Chiến lược phát triển giáo dục: nâng cao
dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài phục vụ cho sự nghiệp phát triển đất nước và
hội nhập quốc tế thành công. Nền giáo dục toàn dân được thực hiện. Hệ thống trường lớp
và quy mô giáo dục phát triển nhanh, thực hiện nền giáo dục toàn dân, đáp ứng nhu cầu
học tập ngày càng tăng của nhân dân và nâng cao trình độ đào tạo, trình độ và kỹ năng
nghề nghiệp cho người lao động. Công bằng xã hội trong tiếp cận giáo dục có nhiều tiến
bộ, nhất là đối với người dân tộc thiểu số, lao động nông thôn, các đối tượng chính sách và
người có hoàn cảnh khó khăn, bình đẳng giới được bảo đảm. Chất lượng giáo dục và đào
tạo được nâng lên, góp phần đáp ứng yêu cầu nhân lực phục vụ cho phát triển kinh tế - xã
hội, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Công tác phát triển đội ngũ được đặc biệt chú trọng để
củng cố và đổi mới. Cơ sở vật chất kỹ thuật của hệ thống giáo dục và đào tạo được tăng
thêm và từng bước hiện đại hóa. Xã hội hóa giáo dục và hợp tác quốc tế được đẩy mạnh,
đạt nhiều kết quả quan trọng.
3. Những chuyển biến tích cực của nền giáo dục Việt Nam hiện nay
Sau hơn 30 năm đổi mới, được sự quan tâm và đầu tư thích đáng của Đảng và Nhà nước,
giáo dục Việt Nam đã có nhiều thay đổi, đạt được nhiều thành tựu lớn, đóng góp quan trọng
vào sự phát triển của đất nước. Tuy nhiên, giáo dục Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế, yếu
kém cũng như đối mặt với nhiều thách thức. Nhằm đón lấy những cơ hội to lớn của thời
đại kinh tế tri thức và cách mạng 4.0, giáo dục Việt Nam cần đổi mới về tư duy và cách
làm cũng như cần thay đổi cách dạy, cách học và cách đánh giá kết quả học tập của học sinh, sinh viên.
Quy mô giáo dục và mạng lưới cơ sở giáo dục phổ thông phát triển. Việt Nam đã hoàn
thành phổ cập giáo dục tiểu học vào năm 2000; hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học đúng
độ tuổi mức độ I vào năm 2014; hoàn thành phổ cập giáo dục trung học cơ sở vào năm
2010. Năm 2017, Việt Nam đã hoàn thành phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi. lOMoAR cPSD| 40551442
Nhiều chính sách công bằng trong tiếp cận giáo dục, đặc biệt đối với trẻ dân tộc thiểu số,
trẻ ở vùng khó khăn được thực hiện. Trước hết là ưu tiên đầu tư cho các địa bàn có nhiều
khó khăn, phát hành công trái giáo dục để hỗ trợ cho các tỉnh miền núi, vùng khó khăn xây
dựng trường học kiên cố, đạt chuẩn chất lượng và thực hiện xóa đói giảm nghèo, thông qua
đó tạo nhiều cơ hội cho trẻ tiếp cận nhiều hơn với dịch vụ giáo dục.
Cơ sở hạ tầng cho giáo dục được đầu tư thích đáng. Các trường lớp của Việt Nam đã và
đang phấn đấu đạt chuẩn quốc gia, tiêu chuẩn về hạ tầng cơ sở đảm bảo cho việc dạy và
học có chất lượng tương đương với các nước khác trong khu vực.
Chất lượng giáo dục, đào tạo được nâng lên và có bước phát triển mới. Một trong những
minh chứng cho điều này là việc ghi dấu ấn của học sinh Việt Nam trên sân chơi trí tuệ thế
giới như các kỳ thi Olympic các môn ở khu vực và quốc tế, Chương trình Đánh giá Sinh
viên Quốc tế (PISA)...Năm 2012, Việt Nam lần đầu tiên tham gia cuộc thi PISA và xếp thứ
17 về Toán, thứ 8 về Khoa học, thứ 19 về Đọc. Trong khi đó, Mỹ chỉ xếp 36 về Toán, 28
về Khoa học và 23 về Đọc. Việt Nam cũng đã đào tạo nhiều thế hệ học sinh giỏi tham gia
các kỳ thi Học sinh giỏi quốc tế, mang về nhiều huy chương cho đất nước.
Công tác xây dựng xã hội học tập đã có nhiều chuyển biến tích cực: Mạng lưới cơ sở giáo
dục thường xuyên tiếp tục được củng cố, phát triển. Các nghiên cứu quốc tế cũng đánh giá
cao thành tựu của giáo dục Việt Nam. giáo dục Việt Nam trong 20 năm qua cho thấy rằng
mặc dù vẫn đang còn ở mức độ thu nhập trung bình thấp nhưng Việt Nam đã vượt trội so
với phần lớn các nước trong các cuộc thi đánh giá, tỷ lệ học sinh đến trường cũng như số
lượng năm học được hoàn thành.
Chất lượng giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục phát triển cả về số lượng và chất lượng,
với cơ cấu ngày càng hợp lý; trong đó, chất lượng của đội ngũ nhà giáo và CBQLGD đã
góp phần quyết định thành quả của sự nghiệp giáo dục trong những năm qua: Chất lượng
giáo dục phổ thông được quốc tế ghi nhận, đánh giá cao. Kết quả các kỳ thi olympic quốc
tế của học sinh Việt Nam ở các môn toán, lý, hóa,... đạt được thành tích rất đáng tự hào.
Nhiều mô hình giáo dục, phương pháp dạy học tích cực được đưa vào ứng dụng trong thực
tiễn. Chất lượng giáo dục đại học được cải thiện rõ rệt, tự chủ đại học được thúc đẩy, nâng
cao chất lượng đào tạo và nghiên cứu khoa học.
Chương trình đào tạo hiện nay đã có nhiều tiến bộ hơn trước. Các chương trình cũ thiếu
tính áp dụng thực tế đã được đổi mới cho phù hợp với sự phát triển nhanh chóng của xã hội hiện nay. lOMoAR cPSD| 40551442
4. Hạn chế , nhược điểm của ngành GD Việt Nam hiện nay:
Rõ nhất đó chính là tư duy giáo dục của Việt Nam hiện nay. Sự lạc hậu về tư duy, chương
trình, nội dung, phương pháp đào tạo, phương thức quản lý giáo dục là nguyên nhân chính
của sự nghèo nàn, yếu kém về chất lượng giáo dục. Điển hình là nền giáo dục Việt Nam
hiện nay đang quá tập trung vào yếu tố lý thuyết, gần như lấn át việc thực hành. Sự coi nhẹ
việc thực hành dẫn đến không trang bị đủ các trang thiết bị học tập đầy đủ dẫn đến tình
trạng “giáo viên dạy chay, học sinh học chay”, không có các lớp thực hành, không có các
lớp sinh hoạt ngoại khóa khiến cho việc học trở nên tù túng, thiếu hụt tư duy sáng tạo, khả
năng cập nhật xã hội, tin tức khi bước ra trường đời. Chương trình đào tạo đều do bộ biên
soạn, thiếu tính chất quốc tế, ít được công nhận, nền giáo dục nước ta vẫn đang là một nền
giáo dục kín, đây là nền giáo dục mang lại bất lợi cho đất nước trong thời kỳ hội nhập toàn cầu.
Thực tại cho thấy ngành giáo dục vẫn còn một số hạn chế, bất cập. Đó là công tác quản lý
nhà nước, quản trị nhà trường còn bất cập, trách nhiệm còn chồng chéo; việc kiện toàn Hội
đồng trường các cơ sở giáo dục đại học còn chậm, hoạt động chưa thực chất, chưa phát huy
tốt vai trò của Hội đồng trường. Nhà trường mắc một loại bệnh đó chính là “bệnh thành
tích”. Họ có thể làm mọi thứ để duy trì và đẩy thành tích lên cao nhất có thể, mặc kệ chất
lượng thật sự có ra sao. Các kỳ thi cử luôn khiến các em học sinh “sống dở, chết dở” vì áp
lực nhà trường và gia đình. Áp lực sinh là các tệ nạn như quay cóp, gian lận… để có được
“điểm ảo”, những năm gần đây còn có thực trạng mua điểm, mua bằng cấp.
Tình trạng thừa, thiếu giáo viên cục bộ vẫn chưa được giải quyết triệt để ở một số địa
phương; chất lượng đội ngũ giáo viên chưa đồng đều, còn một bộ phận giáo viên chưa đáp
ứng được yêu cầu đổi mới, cá biệt có những giáo viên vi phạm đạo đức nhà giáo, gây bức
xúc xã hội. Ở thiểu số có một bộ phận giáo viên vì lợi ích mà bán rẻ lương tâm nghề nghiệp.
Là quy hoạch mạng lưới cơ sở giáo dục mầm non, phổ thông ở một số địa phương chưa
phù hợp, còn tình trạng thiếu trường, lớp ở một số khu đô thị, khu công nghiệp; thiếu đất
cho xây dựng trường học, đặc biệt là ở các thành phố lớn; quy hoạch mạng lưới các cơ sở
giáo dục đại học và sư phạm còn chậm.
Là hệ thống quản lý, quản trị, kết nối, khai thác dữ liệu ngành phục vụ công tác quản lý,
điều hành, dạy học còn chưa đồng bộ; một số nơi hạ tầng công nghệ thông tin, thiết bị kết
nối còn thiếu, đặc biệt ở các vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó
khăn,chưa đáp ứng yêu cầu chuyển đổi số.
Và bất cập nữa là công tác truyền thông về giáo dục còn hạn chế, chưa tạo được đồng thuận
cao trong xã hội khi bắt đầu triển khai nhiều chủ trương, chính sách mới của ngành. Truyền
thông nội bộ ngành chưa hiệu quả, còn những ý kiến trái chiều ngay trong đội ngũ giáo lOMoAR cPSD| 40551442
viên khi triển khai chính sách mới. Tình trạng sinh viên tốt nghiệp ra trường không tìm
được việc làm còn nhiều; chất lượng nguồn nhân lực chất lượng cao chưa đáp ứng được
yêu cầu phát triển đất nước. Cơ chế, chính sách về tự chủ đại học còn thiếu và chưa đồng bộ.
III. Rút kinh nghiệm:
Ngày nay, bất cứ quốc gia nào cũng được nhận thức giáo dục, đào tạo chính là động lực để
phát triển xã hội; muốn đổi mới giáo dục, trước hết phải đổi mới tư duy, nhận thức, ý thức
trách nghiệm của các nhà quản lý giáo dục, xây dựng tinh thần chủ động, dám nghĩ dám
làm, dám chịu trách nhiệm của họ. Quản lý nhà nước về giáo dục đào tạo có thể coi là khâu
then chốt để thực hiện thắng lợi các hoạt động giáo dục trong nhà trường.
Đội ngũ quản lý giáo dục là một bộ phận của nguồn nhân lực giáo dục, là lực lượng tiên
phong tham gia xây dựng và phát triển nhà trường. Việc đổi mới nhận thức, tư duy của các
nhà quản lý giáo dục đòi hỏi sự đổi mới tương ứng với phát triển nguồn nhân lực quản lý
giáo dục. Vì vậy, đội ngũ quản lý giáo dục phải nắm rõ vai trò quản lý của mình, họ phải
được chuẩn hoá, đảm bảo chất lượng, đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, đặc biệt chú trọng
nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất, lối sống, lương tâm, năng lực quản lý của nhà giáo
nhằm đáp ứng những đòi hỏi ngày càng coa về sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá và hội nhập quốc tế.
Một trong những đặc thù của thời kỳ hội nhập, toàn cầu hóa là sự kết nối và chia sẻ dữ liệu.
Trong bối cảnh đó, đội ngũ các nhà quản lý giáo dục đã nhanh chóng đổi mới tư duy, nhận
thức, năng lực sáng tạo trong quản lý, nhằm giúp họ có khả năng làm việc độc lập và ra
quyết định dựa trên cơ sở phân tích các chứng cứ và dữ liệu, có “kỹ năng công nghệ”
(technology skill), có khả năng thích nghi với các thách thức và yêu cầu công việc thay đổi
liên tục để tránh nguy cơ bị tụt hậu.
Đổi mới tư duy quản lý giáo dục là đổi mới từ nhận thức đến hành động trong các hoạt
động giáo dục, nhằm tạo ra cách nhìn, cách nghĩ và cách làm mới về giáo dục. Đây là vấn
đề quan trọng có vai trò định hướng cho toàn bộ quá trình đổi mới căn bản, toàn diện giáo
dục và đào tạo. Nội dung của đổi mới tư duy quản lý giáo dục, đó là: Đổi mới về xây dựng
nguồn nhân lực giáo dục và đào tạo, bảo đảm đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục có được môi
trường thuận lợi để họ cống hiến và trưởng thành; xây dựng cơ chế tuyển chọn giảng viên
và có cơ chế chính sách đãi ngộ để tạo động lực cho họ phát huy cao nhất khả năng của
mình. Đổi mới về xây dựng chương trình, nội dung, phương pháp dạy học cho các đối
tượng, bậc học, cấp học, cần có tư duy hệ thống trong xây dựng nội dung, chương trình
giảng dạy để khắc phục sự trùng lặp giữa các môn học, cấp học, bậc học và các đối tượng
khác nhau; qua đó, thực hiện chuẩn hóa, hiện đại hóa nội dung, chương trình giảng dạy.
Đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và phương pháp học, xem đây là một trong các khâu
đột phá để nâng cao chất lượng giáo dục. lOMoAR cPSD| 40551442
Những hạn chế, yếu kém của nguồn nhân lực là một trong những nhân tố chủ yếu ảnh
hưởng đến năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Việt Nam đang trong thời kỳ cơ cấu dân
số vàng, nhóm dân số trong độ tuổi lao động rất đông nhưng việc chớp thời cơ dân số vàng
của Việt Nam vẫn chưa được sử dụng hiệu quả. Tình trạng người lao động thiếu định hướng
trong việc chọn ngành nghề từ bậc phổ thông cũng khiến cho cung lao động gặp vấn đề.
Với tâm lý bằng cấp, học sinh chọn học đại học hoặc sau đại học mà không chú trọng đến
cầu nhân lực cũng như học nghề. Điều này nhiều phần là do các thầy cô chưa có định
hướng, hướng nghiệp rõ ràng cho các em ngay từ bậc trung học phổ thông. Trong bối cảnh
thời đại đổi mới diễn ra với tốc độ rất nhanh, cuộc cách mạng 4.0 đang diễn ra hết sức
mạnh mẽ khắp trên thế giới. Đầu tư cho giáo dục là giải pháp sinh lợi cho tương lai. Để
Việt Nam có thể bắt kịp với xu hướng thế giới thì chúng ta phải đầu tư mạnh về trang thiết
bị học tập trước hết là khang trang sau đó là hiện đại cho lớp trẻ ngày nay - những mầm
non tương lai của đất nước. Đầu tư cho giáo dục là một trong những việc làm cần thiết, bởi
cả những giá trị vô hình và hữu hình. Chúng ta là một nước đang phát triển, tình trạng kém
chất lượng và thiếu đầu tư của hệ thống giáo dục đã tạo nên hiện tượng chảy máu chất xám
và hiện tượng “đói nghèo, lạc hậu” trong giáo dục. Trong thời đại Internet, việc giáo viên,
sinh viên hay học sinh sử dụng hệ thống máy tính cho việc học tập và giảng dạy đã trở nên
rất phổ biến tại nhiều quốc gia. Chiếc máy tính giờ đây không còn đóng khung trong quan
niệm là một vật dụng văn phòng, bởi nếu biết cách ứng dụng hợp lý, đây hoàn toàn có thể
là một phương tiện hiện đại, hỗ trợ rất tốt cho quá trình dạy và học tại các nhà trường.
Và quan trọng hơn hết là đổi mới phương pháp học tập, học hỏi, tiếp thu từ các nước có
nền giáo dục phát triển trên thế giới. Như học tập Nhật Bản lấy giáo dục đạo đức và nhân
cách làm nền tảng cơ bản. Học tập Phần Lan “học ít thực hành nhiều” để học sinh có thể
ứng dụng vào cuộc sống, học tập Mỹ tự do, công bằng trong giáo dục, học tập Úc thúc đẩy
sự sáng tạo, khác biệt trong giáo dục, học tập Singapore đầu tư vào công nghệ và chất
lượng giáo viên. IV. Liên hệ thực tiễn:
Đối mặt với những khó khăn và thách thức lớn khiến nền giáo dục nước ta bị trì trệ và
chậm phát triển. Chúng ta phải nhìn nhận lại những vấn đề đang gây cản trở và có biện pháp tốt hơn.
Một ví dụ điển hình về việc đầu tư thông minh trong giáo dục là việc nhận thức đúng về
vai trò của chiếc máy tính trong học đường: Không phải ngẫu nhiên mà năm 2008 - 2009
là năm được Bộ Giáo dục và đào tạo chọn là năm ứng dụng CNTT trong giáo dục. Thời
gian qua, ngành giáo dục nước ta đã tập trung đào tạo nhiều giáo viên về CNTT, cũng như
tạo điều kiện tối đa về việc số hóa học đường. Ngày càng nhiều trường học đã nhận thức
đúng đắn về tầm quan trọng trong việc ứng dụng các thiết bị “hi-tech” cho việc giảng dạy
và học tập tại trường, nhưng để tạo được một cú đột phá thật sự trong việc số hóa học
đường thì không phải là chuyện đơn giản, do việc đầu tư một khoản tiền tương đối lớn để
trang bị máy móc không phải dễ. Gần đây nhất, Trường Quốc tế TP.HCM (IS) đã nâng cấp
trang thiết bị bằng việc trang bị 285 laptop HP Pavilion tx2500 (máy tính dạng bảng), được
sử dụng trong việc giảng dạy hầu hết các môn học tại trường, đặc biệt ở những môn học
cần có độ tương tác cao và sự cập nhật liên tục như CNTT, tiếng Anh, tiếng Việt, địa lý, đồ lOMoAR cPSD| 40551442
họa, vẽ… cũng như tạo điều kiện để học sinh giải trí hiệu quả và lành mạnh sau những giờ học căng thẳng
Hệ thống giáo dục đã xây dựng nhiều trường tư thục và quốc tế, liên kết nước ngoài, chú
trọng mặt học ngoại ngữ, các hoạt động ngoại khóa, tham gia các tổ chức phi lợi nhuận.
Các trường cấp 2, cấp 3, đại học đã chủ động mở ra các tổ đội, CLB cho các bạn học sinh,
sinh viên có cơ hội phát triển sở thích, điểm mạnh của bản thân. Các thầy cô và nhà trường
cũng đã dần loại bỏ những tư tưởng cũ, thay thế vào đó là hội nhập, hiện đại, mở mang
hơn. Điển hình như ở trường Đại học Kinh tế Quốc dân, đoàn trường và hội sinh viên đã
tạo điều kiện nhất có thể để thành lập các tổ đội, CLB giúp các bạn sinh viên cải thiện, rèn
luyện các kỹ năng mềm, phát triển điểm mạnh của bản thân. Nhiều CLB phát triển mạnh
mẽ, độ phủ sóng lớn, được mạng lưới các trường đại học, thành đoàn Hà Nội và sinh viên
thành phố biết đến. Ngoài ra, trường cũng rất linh hoạt trong việc kết nối với các chương
trình, sự kiện bên ngoài, mang về nhiều dự án hợp tác cho sinh viên, mở rộng độ phủ sóng của sinh viên NEU.
Các nhà trường đã tích hợp, đổi mới, thêm nhiều nội dung giáo dục mang tính thời sự, toàn
cầu như: phòng chống tham nhũng, sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả, bảo vệ môi
trường, đa dạng sinh học và bảo tồn thiên nhiên, các nội dung giáo dục địa phương; giáo
dục trật tự an toàn giao thông, phòng chống các tệ nạn xã hội…; tổ chức các cuộc thi sáng
tạo khoa học kỹ thuật, các hoạt động văn hóa – thể thao,… theo hướng tăng cường tính
giao lưu, hợp tác nhằm bồi dưỡng hứng thú học tập, rèn luyện kỹ năng sống.
Hiệp hội các trường đại học, cao đẳng Việt Nam đã bắt đầu mở rộng quan hệ, làm việc với
các trường đại học hàng đầu trên thế giới để trao đổi về liên kết đào tạo, chuyển giao
chương trình đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao để đáp ứng nhu cầu các doanh nghiệp
nước ngoài đầu tư vào Việt Nam. Sự liên kết, hợp tác đào tạo, giảng dạy giữa các trường
đại học giữa các quốc gia trên thế giới giúp các bạn học sinh có cơ hội đi du học liên kết,
săn được học bổng, chúng ta cũng có thể có những chính sách để “gửi gắm nhân tài” Việt
Nam đi học hỏi kiến thức của các nước phát triển.
Việt Nam cũng đã bắt kịp xu hướng “kỷ nguyên số” trong giảng dạy qua hình thức học
online, các khóa học qua mạng, phát triển, mua các phần mềm giảng dạy trực tuyến và đi
kèm là các công cụ phục vụ cho học trực tuyến, phát triển các ngành đào tạo từ xa. Các
hình thức học giảng dạy và học tập được hỗ trợ bằng điện tử luôn nhận được sự quan tâm
của Đảng, Nhà nước và các tầng lớp Nhân dân. Đảng ta đã ban hành Nghị quyết số
29NQ/TW, ngày 4/11/2013 “Về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng
yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa và hội nhập quốc tế” với chủ trương tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và
học theo hướng hiện đại. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong
dạy và học. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra lOMoAR cPSD| 40551442
phương hướng: “Chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát
triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học; từ học chủ yếu trên lớp sang tổ chức hình
thức học tập đa dạng, chú ý dạy và học trực tuyến, qua internet, truyền hình...”. Cùng với
đó, Chính phủ cũng Quyết định phê duyệt Đề án “Xây dựng xã hội học tập giai đoạn 2011
- 2020” với việc tăng cường xây dựng cơ sở vật chất và hạ tầng công nghệ thông tin phục
vụ cho việc đào tạo từ xa, đào tạo trực tuyến; ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông
trong việc cung ứng các chương trình học tập cho mọi người. Để hoàn thành chỉ tiêu trong
các mục tiêu phát triển bền vững, với quyết tâm “không để trẻ em nào ở lại phía sau”, trong
nhiều năm qua, Việt Nam đã rất nỗ lực thực hiện nhiều hành động thiết thực xóa nạn mù
chữ trên cả nước nói chung và xóa mù chữ cho trẻ em dân tộc thiểu số và miền núi nói
riêng bằng nhiều hình thức cả trực tiếp và gián tiếp. Chính phủ đã chỉ đạo xây dựng và ban
hành nhiều cơ chế, chính sách ưu tiên đầu tư phát triển giáo dục và đào tạo vùng đồng bào
dân tộc thiểu số và miền núi. Kết quả Điều tra thu thập thông tin về hiện trạng kinh tế xã
hội của 53 dân tộc thiểu số năm 2019 do Tổng cục Thống kê thực hiện tại hơn 56,4 nghìn
thôn thuộc các xã vùng dân tộc thiểu số trên toàn quốc tính đến ngày 1/10/2019 đã cho thấy
bức tranh rõ nét hơn về tình hình phổ cập cũng như cơ sở vật chất, điều kiện giáo dục dành
cho trẻ em khu vực này. Theo kết quả Điều tra, Việt Nam có trên 1,4 triệu trẻ em vùng dân
tộc thiểu số trong độ tuổi học tiểu học - cấp học phổ cập xóa nạn mù chữ, tương đương độ
tuổi từ 5-9 tuổi; trong đó, các dân tộc Tày, Thái, Khmer, Mường, Mông, Nùng là các dân
tộc có trẻ em trong độ tuổi học tiểu học đông nhất. Trong nhiều năm qua, nhờ sự nỗ lực
của Đảng, Nhà nước, các bộ ngành liên quan và các địa phương, công tác giáo dục, xóa
nạn mù chữ cho trẻ em đồng bào dân tộc thiểu số đã đạt được những thành tựu đáng khích
lệ. Tỷ lệ trẻ em dân tộc thiểu số trong độ tuổi đi học phổ thông nhưng không đi học đã giảm
gần hai lần, từ 26,4 năm 2009 xuống còn 15,5 năm 2019. V. Kết luận
Nhìn lại đoạn đường phát triển của giáo dục nước nhà, trong những thập kỷ qua, nền giáo
dục Việt Nam có những bước phát triển, có những thành tựu đáng ghi nhận, góp phần quan
trọng vào nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực cho công cuộc xây dựng, bảo vệ và đổi mới
đất nước. Nhưng đồng thời nền giáo dục đang ẩn chứa rất nhiều yếu kém, bất cập, chính
những yếu kém, bất cập này đã làm cho chúng ta đã lùi đi rất nhiều so với các nước trong
khu vực và quốc tế. Bài viết này đã nêu lên được phần nào những đánh giá thực trạng khách
quan về nền giáo dục Việt Nam hiện nay, và có tham khảo một số ý kiến đóng góp của các
Giáo sư, Tiến sĩ, … làm trong ngành giáo dục nhằm cải tạo nền giáo dục. Qua bài viết này
mong muốn rằng mọi người sẽ có cái nhìn khách quan hơn về chất lượng giáo dục nước
nhà, từ đó mỗi cá nhân sẽ tự vạch ra những con đường riêng, hướng đi riêng, cũng như
những giải pháp cho phù hợp với vai trò của mình. Có được như vậy thì tôi tin chắc rằng
trong một tương lai không xa Việt Nam của chúng ta sẽ được bè bạn quốc tế biết đến như
là một đất nước có nền giáo dục tiến bộ và có chất lượng. Người Việt Nam sẽ ngẩn cao đầu lOMoAR cPSD| 40551442
và tự hào vỗ ngực xưng tên “ Tôi là người Việt Nam” -------------------------------------------
--- HẾT ------------------------------------------------------