Từ nội dung thuyết trình của nhóm mình, lựa chọn một nội dung trong chủ trương vấn đề để liên hệ thực tế hiện nay | Bài tập lớn môn Lịch sử đảng cộng sản Việt Nam

Từ nội dung thuyết trình của nhóm mình, lựa chọn một nội dung trong chủ trương vấn đề để liên hệ thực tế hiện nay |  Tiểu luận môn Lịch sử đảng cộng sản Việt Nam được siêu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuận bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đón xem!

Thông tin:
11 trang 3 tháng trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Từ nội dung thuyết trình của nhóm mình, lựa chọn một nội dung trong chủ trương vấn đề để liên hệ thực tế hiện nay | Bài tập lớn môn Lịch sử đảng cộng sản Việt Nam

Từ nội dung thuyết trình của nhóm mình, lựa chọn một nội dung trong chủ trương vấn đề để liên hệ thực tế hiện nay |  Tiểu luận môn Lịch sử đảng cộng sản Việt Nam được siêu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuận bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đón xem!

21 11 lượt tải Tải xuống
lOMoARcPSD| 45470709
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
---o0o---
BÀI TẬP LỚN
Đề bài: Từ nội dung thuyết trình của nhóm mình, lựa chọn một nội dung
trong chủ trương vấn đề để liên hệ thực tế hiện nay.
Họ và tên: Tiêu Thị Thanh Phương
Mã sinh viên: 11203223
Lớp học phần: Lịch sử Đảng CSVN(122)_06
HÀ NỘI-2022 LỜI MỞ ĐẦU
Đại hội IX của Đảng (năm 2001), Đảng ta xác định mô hình kinh tế tổng quát của
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là “nền kinh tế thị trường định hướng
lOMoARcPSD| 45470709
2
xã hội chủ nghĩa”. Quan điểm này đã thể hiện nhận thức rõ ràng về đổi mới ở Việt
Nam, gắn cụ thể với một mô hình kinh tế nhằm bảo đảm về sự phù hợp giữa quan hệ
sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong tình hình mới.
Với mô hình này, đường lối phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2001 - 2010 là:
“Tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững... Tạo chuyển biến mạnh về giáo dục và đào
tạo, khoa học và công nghệ, phát huy nhân tố con người
. Tuy nhiên, trước các vấn đ
nổi cộm trong nước, như “các hoạt động khoa học và công nghệ chưa đáp ứng tốt yêu
cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa”; “cơ chế chính sách không đồng bộ
và chưa tạo động lực mạnh để phát triển”; “một số quan điểm, chủ trương chưa rõ,
chưa có sự nhận thức thống nhất và chưa được thông suốt ở các cấp, các ngành.
Trong cán bộ, đảng viên có những cách hiểu và cách làm không thống nhất về những
vấn đề như: xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phát huy
vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, đổi mới và phát triển doanh nghiệp nhà nước,
cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, chính sách về đất đai, kinh tế trang trại, nội
dung và bước đi công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ
và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế”.
Do đó, tại Đại hội này, Đảng ta tiếp tục nhấn mạnh “tận dụng mọi khả năng để đạt
trình độ công nghệ tiên tiến, đặc biệt là công nghệ thông tin và công nghệ sinh học,
tranh thủ ứng dụng ngày càng nhiều hơn, ở mức cao hơn và phổ biến hơn những
thành tựu mới về khoa học và công nghệ, từng bước phát triển kinh tế tri thức. Phát
huy nguồn lực trí tuệ và sức mạnh tinh thần của người Việt Nam; coi phát triển giáo
dục và đào tạo, khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực của sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa”. Như vậy, tại Đại hội IX, các yếu tố trụ cột của đổi mới
sáng tạo là nhân tố con người, kinh tế tri thức, khoa học và công nghệ, giáo dục và
đào tạo đã được nhìn nhận và được chỉ đạo thực hiện khá cụ thể. Đặc biệt là vai trò
của kinh tế tri thức, của sự sáng tạo, các phát minh khoa học, nguồn nhân lực lao
động chất lượng cao đã được Đảng ta chỉ ra rõ ràng hơn trong chỉ đạo phát triển kinh
tế. Cùng với đó, giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ được coi là nền tảng,
đồng thời là động lực của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Vì vậy, em chọn
đề tài “CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ GẮN VỚI PHÁT TRIỂN TRI
THỨC”.
PHẦN 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ ĐẠI HỘI IX.
I. Bối cảnh
a) Bối cảnh quốc tế
- Cách mạng khoa học và công nghệ, đặc biệt công nghệ thông tin và công nghệ
sinh học, tiếp tục có bước phát triển nhảy vọt, ngày càng trở thành lực lượng sản
xuất trực tiếp, thúc đẩy so phát triển kinh tế tri thức, làm chuyển dịch nhanh cơ cấu
kinh tế và biến đổi sâu sắc các lĩnh vực của đời sống xã hội.
- Tri thức và sở hữu trí tuệ có vai trò ngày càng quan trọng. Trình độ làm chủ
thông tin, tri thức có ý nghĩa quyết định sự phát triển.
lOMoARcPSD| 45470709
3
- Toàn cầu hoá diễn ra mạnh mẽ. Đây là xu thế khách quan, lôi cuốn các nước,
bao trùm hầu hết các lĩnh vực, vừa thúc đẩy hợp tác, vừa tăng sức ép cạnh tranh và
tuỳ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế. Quan hệ song phương, đa phương giữa các
quốc gia ngày càng sâu rộng cả trong kinh tế, văn hoá và bảo vệ môi trường, phòng
chống tội phạm, thiên tai và các đại dịch...
b) Bối cảnh trong nước
- Tình hình đất nước ta sau 15 năm đổi mới đã đạt được nhiều thành tựu quan
trọng, tạo thế và lực để thúc đẩy công cuộc đổi mới đi vào chiều sâu. Bên cạnh đó,
chúng ta còn phải đối phó với những thách thức: tụt hậu xa hơn về kinh tế so với
nhiều nước trong khu vực và trên thế giới, chệch hướng xã hội chủ nghĩa, nạn tham
nhũng quan liêu, “diễn biến hoà bình” do các thế lực thù địch gây ra.
- Nắm bắt cơ hội, vượt qua thách thức, phát triển mạnh mẽ trong thời kỳ mới là
vấn đề có ý nghĩa sống còn của Đảng và nhân dân ta. Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ IX diễn ra trong hoàn cảnh đó, nhằm hoạch định đường lối cho sự phát triển của
đất nước trong những năm 2001- 2005 và 2001-2010.
II. Tìm hiểu về đại hội
1. Thời gian, địa điểm -
Thời gian: Từ 19-22/4/2001
- Địa điểm: Thủ đô Hà Nội
- Số lượng đảng viên trong cả nước: 2.479.719
- Số lượng tham dự Đại hội: 1.168 đại biểu
- Ðại hội đã thông qua Báo cáo Chính trị với tiêu đề "Phát huy sức mạnh toàn dân
tộc, tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa".
2. Hoạt động
- Đại hội đã đánh giá chặng đường 71 năm lãnh đạo cách mạng Việt Nam
- Tổng kết đánh giá, kiểm điểm 15 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đại hội VI
và 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội VIII
- Đề ra chủ trương, nhiệm vụ nhằm kế thừa, phát huy những thành tựu, ưu điểm đã
đạt được; điều chỉnh bổ sung, phát triển đường lối đổi mới để tiếp tục đưa sự nghiệp
đổi mới của đất nước tiến lên trong thời đại mới.
- Xuất phát từ đặc điểm tình hình đất nước và quốc tế, Đại hội khẳng định tiếp tục
nắm vững hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa,
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đại hội cũng đã đề ra chiến lược
phát triển kinh tế xã hội 10 năm (2001-2010).
- Phát triển và hoàn thiện đường lối, định ra chiến lược phát triển đất nước trong 2
thập kỉ đầu của thế kỉ XXI.
- Kiểm điểm sự lãnh đạo của Đảng, đề ra phương hướng, nhiệm vụ xây dựng Đảng
tangang tầm với đòi hỏi của dân tộc trong thời kỳ mới; sửa đổi, bổ sung Điều lệ
Đảng, bầu ra Ban Chấp hành Trung ương mới.
lOMoARcPSD| 45470709
4
- Báo cáo Chính trị “Phát huy sức mạnh toàn dân tộc, tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh
công nghiệp hoá hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa” đã trình bày 10 vấn đề:
1. Việt Nam trong thế kỷ XX và triển vọng trong thế kỷ XXI
2. Tình hình đất nước 5 năm qua và những bài học chủ yếu của 15 năm đổi mới
3. Về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta
4. Đường lối và chính sách phát triển kinh tế - xã hội
5. Phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, xây dựng nền văn hoá
tiêntiến, đậm đà bản sắc dân tộc
6. Tăng cường quốc phòng và an ninh
7. Mở rộng quan hệ đối ngoại và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế
8. Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân
9. Đẩy mạnh cải cách tổ chức và hoạt động của Nhà nước, phát huy dân chủ, tăng
cường pháp chế
10.Xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
Đảng
3. Nội dung:
Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Trung ương khóa IX gồm
150 uỷ viên
- Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương đã bầu Bộ Chính trị gồm 13
đồng chí, Ban Bí thư gồm 9 đồng chí. Đồng chí Nông Đức Mạnh được bầu làm Tổng
Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng *Đánh giá về nước ta trong thế kỷ XX:
- Thế kỷ XX là thế kỷ của những biến đổi to lớn, thế kỷ đấu tranh oanh liệt
giành lại độc lập, tự do, thống nhất Tổ quốc và xây dựng chủ nghĩa xã hội, thế kỷ của
những chiến công và thắng lợi có ý nghĩa lịch sử và thời đại
- Triển vọng trong thế kỷ XXI: Thế kỷ XXI sẽ tiếp tục có nhiều biến đổi, nhân
dân tacó cả cơ hội lớn và thách thức lớn
*Đánh giá kết quả thực hiện kế hoạch của 5 năm (1996-2000):
Khẳng định 5 nhóm thành tựu quan trọng sau:
+Kinh tế tăng trưởng khá
+Văn hoá, xã hội có những tiến bộ; đời sống nhân dân tiếp tục được cải thiện; tình
hình chính trị - xã hội cơ bản ổn định;
+Quốc phòng và an ninh được tăng cường;
+ Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng được chú trọng; hệ thống chính trị được củng
cố;
+Quan hệ đối ngoại không ngừng được mở rộng, hội nhập kinh tế quốc tế được tiến
hành chủ động và đạt nhiều kết quả tốt.
*Đánh giá quá trình thực hiện Nghị quyết Đại hội VIII còn bộc lộ những yếu kém,
khuyết điểm:
+ Nền kinh tế phát triển chưa vững chắc, hiệu quả và sức cạnh tranh thấp;
lOMoARcPSD| 45470709
5
+ Một số vấn đề văn hoá - xã hội bức xúc và gay gắt chậm được giải quyết;
+ Cơ chế, chính sách không đồng bộ và chưa tạo động lực mạnh để phát triển; +
Tình trạng tham nhũng, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống ở một bộ
phận không nhỏ cán bộ, đảng viên là rất nghiêm trọng.
*Tổng kết 10 năm thực hiện “Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến
năm 2000”:
Thực hiện Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội (1991 - 2000), chúng ta
đã đạt được những thành tựu to lớn và rất quan trọng. Tổng sản phẩm trong nước năm
2000 tăng gấp hai lần so với năm 1990. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội và năng lực
sản xuất tăng nhiều. Nền kinh tế từ tình trạng hàng hóa khan hiếm nghiêm trọng nay
sản xuất đã đáp ứng được các nhu cầu thiết yếu của nhân dân và nền kinh tế; từ cơ
chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp đã chuyển sang cơ chế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa; từ chỗ chủ yếu chỉ có hai thành phần kinh tế nhà nước và kinh tế
tập thể đã chuyển sang nền kinh tế có nhiều thành phần, trong đó kinh tế nhà nước
giữ vai trò chủ đạo. Ðời sống các tầng lớp nhân dân được cải thiện. Ðất nước đã ra
khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội; phá được thế bị bao vây cấm vận, mở rộng được
quan hệ đối ngoại và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
*Về những kinh nghiệm sau 15 năm thực hiện đường lối đổi mới, Ðại hội chỉ ra
những bài học kinh nghiệm chủ yếu.
+ Ðó là, trong quá trình đổi mới, phải kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác - -nin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
+ Ðổi mới phải dựa vào nhân dân, vì lợi ích của nhân dân, phù hợp với thực tiễn,
luôn luôn sáng tạo.
+ Ðổi mới phải kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
+ Ðường lối đúng đắn của Ðảng là nhân tố quyết định thành công của sự nghiệp đổi
mới.
*Về đường lối phát triển kinh tế - xã hội, Ðại hội IX của Ðảng nêu rõ:
+ Ðẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đưa
nước ta trở thành một nước công nghiệp;
+ Ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù
hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa;
+ Phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội
nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, hiệu quả, bền vững;
+ Tăng trưởng kinh tế đi liền với phát triển văn hóa, từng bước cải thiện đời sống vật
chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ và cải
thiện môi trường;
+ Kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc phòng - an ninh.
*Mục tiêu của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2001 - 2010 là: +Ðưa
nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất và tinh
lOMoARcPSD| 45470709
6
thần của nhân dân, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một
nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
+Nguồn lực con người, năng lực khoa học công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực
kinh tế, quốc phòng, an ninh được tăng cường; thể chế kinh tế thị trường định hướng
hội chủ nghĩa được hình thành về bản; vị thế của nước ta trên trường quốc tế
được nâng cao. III. Tổng kết
*Ý nghĩa: Đại hội IX của Đảng là đại hội của trí tuệ, dân chủ, đoàn kết, đổi mới, thể
hiện ý chí kiên cường và niềm hy vọng lớn lao của toàn Đảng, toàn dân trong thời
điểm trọng đại của dân tộc, mở đường cho đất nước ta nắm lấy cơ hội, vượt qua thách
thức tiến vào thế kỷ mới, thiên niên kỷ mới, thực hiện mục tiêu xây dựng một nước
Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh theo định
hướng xã hội chủ nghĩa.
PHẦN 2: LIÊN HỆ THỰC TIỄN.
Đối với nước ta, một nước nông nghiệp lạc hậu đi lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN,
cái thiếu nhất là sở vật chất - kỹ thuật của một nền sản xuất hiện đại. thế Đảng ta
xác định công nghiệp hoá (CNH) là nhiệm vụ trung tâm của suốt thời kỳ quá độ.
Sau 10 năm đổi mới, tại Đại hội toàn quốc lần thứ VIII, Đảng khẳng định rằng, nước
ta đã chuyển sang thời kỳ mới - thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá (CNH,
HĐH) đất nước. Mục tiêu của CNH, HĐH xây dựng nước ta thành một nước công
nghiệp sở vật chất - kỹ thuật hiện đại". Đến năm 2020, ra sức phấn đấu đưa nước
ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp". Đại hội IX lại nhấn mạnh "đến năm 2020
nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại".
CNH bước đi tất yếu của tất cả các nước trong quá trình tiến lên hiện đại. Trên phạm
vi toàn thế giới, CNH đã bắt đầu từ gần hai thế kỷ, lực lượng sản xuất hội đã phát
triển vượt bậc, của cải xã hội tăng gấp hàng trăm lần, đem lại sự giàu có, cường thịnh
cho nhiều quốc gia; nhưng đồng thời cũng để lại nhiều hậu quả trên phạm vi toàn cầu:
tài nguyên cạn kiệt, môi trường suy thoái, gia tăng nhanh khoảng cách giàunghèo
bất công xã hội, nhiều giá trị văn hóa, đạo đức bị mất đi... Rõ ràng, không thể tiếp tục
con đường CNH như trước đây được nữa mà phải điều chỉnh chiến lược, vận dụng tối
đa công nghệ mới, tri thức mới, giảm thiểu tiêu hao nguyên liệu, cấu lại công nghiệp,
chuyển ớng sang CNH sinh thái, nhằm bảo vệ ngôi nhà chung” của nhân loại. CNH
theo kiểu cổ điển không còn phù hợp nữa; nhân loại đang bước vào thời kỳ “hậu
công nghiệp” thực chất một thời kỳ phát triển mới, từ dựa vào tài nguyên thiên
nhiên chuyển sang dựa nhiều hơn vào nguồn lực trí tuệ con người. hội công nghiệp
đang chuyển lên hội tri thức. Tiền đề cho bước phát triển nhảy vọt đó do chính
CNH trong các nước TBCN tạo ra, đó là sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công
nghệ.
Sự phát triển kỳ diệu của khoa học công nghệ, đặc biệt cách mạng thông tin, cách
mạng tri thức, đã cho ra đời các công nghệ cao, như công nghệ thông tin, công nghệ
sinh học, công nghệ nanô; các công nghệ này hội tụ với nhau tạo thành nền tảng cho
lOMoARcPSD| 45470709
7
một hệ thống công nghệ mới của thế kỷ 21, công nghệ của nền kinh tế tri thức. Hệ
thống công nghệ mới ấy đang làm biến đổi sâu sắc các quá trình sản xuất, cách thức
sản xuất, kinh doanh và mọi lĩnh vực của đời sống hội loài người, làm cho nền kinh
tế tri thức toàn cầu đang hình thành trên thực tế.
"Nền kinh tế tri thức là nền kinh tế sử dụng có hiệu quả tri thức cho phát triển kinh tế
và xã hội, bao gồm cả việc khai thác kho tri thức toàn cầu, cũng như làm chủ và sáng
tạo tri thức cho những nhu cầu của riêng nh". Trong nền kinh tế công nghiệp, việc
tạo ra giá trị, nâng cao năng lực cạnh tranh chủ yếu dựa vào sự tối ưu hoá, hoàn thiện
cái đã có; còn trong kinh tế tri thức thì tạo ra giá trị, nâng cao năng lực cạnh tranh chủ
yếu là do tìm ra cái chưa biết; cái chưa biết là cái có giá trị nhất. Tìm ra cái chưa biết,
tạo ra cái mới cũng tức loại trừ cái đã biết. Vòng đời của một sản phẩm, một công
nghệ từ lúc nảy sinh, phát triển, chín muồi đến tiêu vong ngày càng t ngắn. Tốc độ
đổi mới rất nhanh chóng. Nền kinh tế tri thức hình thành và phát triển là nhờ năng lực
sáng tạo của con người, năng lực tạo ra tri thức mới và vận dụng tri thức, biến tri thức
thành của cải, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, phát triển con người phát triển hội.
Sáng tạo và đổi mới là động lực của sự phát triển kinh tế-xã hội, là nguồn gốc của nền
kinh tế tri thức ngày nay. Tài nguyên là có hạn, năng lực sáng tạo của con người là vô
hạn; một khi nền kinh tế dựa chủ yếu vào năng lực trí tuệ của con người, thì khả năng
của nền kinh tế là hết sức to lớn. Các nước phát triển đi tới kinh tế tri thức là một quá
trình tự nhiên hợp qui luật; các nước đi sau ý thức được sự vượt trội của kinh tế tri thức
so với kinh tế công nghiệp, đã chủ động đề ra chiến lược, chính sách, giải pháp để phát
triển kinh tế tri thức ngay trong quá trình CNH. Phát triển kinh tế tri thức xu thế phát
triển tất yếu khách quan, lôi cuốn tất cả các quốc gia, không loại trừ ai. Kinh tế tri thức
đang tạo ra những điều kiện khả năng mới để Việt Nam rút ngắn quá trình CNH,
HĐH đất nước.
Trong bối cảnh quốc tế mới, Việt Nam có thể bỏ qua các thế hệ công nghệ trung gian
để đi thẳng vào các công nghệ tiên tiến, công nghệ cao, nhằm phát triển nhanh nền kinh
tế, sớm bắt kịp xu thế chung của kinh tế thế giới. Đó là lợi thế các nước đi sau, là thời
cơ lớn không thể bỏ lỡ. Biết kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, chúng ta
nhất định chiến thắng được nghèo nàn, lạc hậu như đã từng chiến thắng giặc ngoại
xâm. Thực hiện CNH, HĐH rút ngắn là bắt buộc đối với chúng ta, nếu muốn đuổi kịp
các nước trong khu vực và trên thế giới.
Khả năng của con người Việt Nam nắm bắt và vận dụng công nghệ mới, tri thức mới
của thế giới cho sự phát triển của đất nước mình là khả quan hơn nhiều nước có cùng
trình độ kinh tế. Trí tuệ sáng tạo, sự năng động của các chủ thể kinh tế, nhất khu
vực kinh tế tư nhân, ngày càng thể hiện tiềm năng to lớn, sự bứt pvươn lên. Đã xuất
hiện nhiều hình kinh tế phát triển dựa vào tri thức ở nước ta. Yếu tố bản đưa đến
thành công của các mô hình này là: đã biết nắm bắt và sử dụng tri thức mới nhất trong
hoạch định chiến lược kinh doanh, lựa chọn công nghệ, tạo sản phẩm mới, cách tổ chức
sản xuất kinh doanh mới hiệu quả, tạo được sự bứt phá bằng các con đường phát
triển truyền thống không thể đạt được. Điều đó cũng chứng minh rằng chính sách
lOMoARcPSD| 45470709
8
chuyển sang nền kinh tế thị trường, hội nhập kinh tế thế giới, khuyến khích phát triển
kinh tế tư nhân... là rất đúng đắn, đó là những động lực to lớn cho phát triển mọi năng
lực sáng tạo.
Báo cáo chính trị tại Đại hội X của Đảng đã chỉ ra: "Tranh thủ cơ hội thuận lợi do bối
cảnh quốc tế tạo ra và tiềm năng, lợi thế của nước ta để rút ngắn quá trình CNH, HĐH
đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa gắn với phát triển kinh tế tri thức, coi kinh
tế tri thức yếu tố quan trọng của nền kinh tế CNH, HĐH”. Phát triển kinh tế tri
thức ở nước ta không có nghĩa là chuyển ngay sang các ngành công nghệ cao để có cơ
cấu kinh tế như các nước phát triển đã đạt tới, thực thi chiến lược phát triển dựa
vào tri thức, thực chất là vận dụng tri thức mới vào tất cả các lĩnh vực, các ngành kinh
tế, làm tăng nhanh giá trị gia tăng; giảm tiêu hao nguyên liệu lao động; tăng hiệu
quả sản xuất chất lượng sản phẩm; dịch chuyển nhanh cấu kinh tế theo ớng
HĐH, sớm thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, hội công bằng, dân chủ, văn
minh. Theo đó, mục tiêu năm 2020 Việt Nam cơ bản trở thành nước công nghiệp theo
hướng hiện đại được hiểu nền kinh tế tri thức đã bắt đầu hình thành, nền công
nghệ tiên tiến, tốc độ tăng trưởng hai con số, giá trị do tri thức tạo ra trong GDP chiếm
khoảng 40-50%, công nhân tri thức chiếm trên 30% lực lượng lao động, đã hình thành
hội thông tin, hội học tập, nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, an
ninh - quốc phòng vững mạnh.
hình phát triển của Việt Nam tiến hành đồng thời lồng ghép nhau hai quá
trình: chuyển tkinh tế nông nghiệp sang kinh tế công nghiệp từ kinh tế công nghiệp
lên kinh tế tri thức, trong khi đối với các nước đi trước đó là hai qtrình kế tiếp nhau.
Nền kinh tế Việt Nam đi theo mô hình kinh tế hai tốc độ, kết hợp các bước đi tuần tự
với các bước phát triển nhảy vọt. Một mặt tận dụng lao động, sở vật chất hiện có,
sử dụng tri thức mới, công nghệ mới để phát triển sản xuất, tạo việc làm, tăng thu nhập.
Mặt khác, đi thẳng vào hiện đại những khâu, những lĩnh vực, những ngành lợi thế,
phát triển các ngành, các vùng kinh tế mũi nhọn tạo thành đầu tàu sức kéo mạnh
toàn bộ nền kinh tế.
Nhiệm vụ trung tâm là sử dụng tri thức mới của thời đại kết hợp với sáng tạo tri thức
mới để nhanh chóng chuyển dịch cấu kinh tế theo hướng ng nhanh các ngành công
nghiệp dịch vụ hàm lượng tri thức cao, giá trị gia tăng cao trên cả ba hướng: tăng
cường sử dụng tri thức đđẩy nhanh CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn; đẩy nhanh
tốc độ đổi mới công nghệ, ứng dụng tối đa công nghệ thông tin trong các ngành công
nghiệp và dịch vụ truyền thống; tập trung sức để phát triển nhanh chọn lọc các ngành
kinh tế dựa vào công nghệ cao.
Để có thể phát triển kinh tế tri thức ở nước ta, phải cấp thiết tiến hành một cuộc đổi
mới mạnh mẽ, toàn diện, sâu sắc hơn nữa trên tất cả các lĩnh vực:
1- Đổi mới căn bản cách thức phát triển kinh tế: Chuyển đổi triệt để từ kinh tế
tậptrung bao cấp sang kinh tế thị trường, từ kinh tế hiện vật sang kinh tế giá trị, từ dựa
chủ yếu vào nguồn lực vật chất sang dựa chủ yếu vào nguồn lực trí tuệ, chuyển trọng
lOMoARcPSD| 45470709
9
tâm đầu từ đầu hữu hình sang đầu hình. Coi tri thức nguồn vốn quan trọng
nhất.
2- Đổi mới thể chế, chính sách, tổ chức quản lý: Tạo môi trường kinh doanh sôi
động,thúc đẩy sự cạnh tranh. Chính sách, pháp luật ràng, công khai, minh bạch, thúc
đẩy dân chủ, khuyến khích mạnh mẽ các khả năng sáng tạo. Vai trò của Nhà nước
chuyển từ chức năng điều khiển, chỉ huy sang chức năng kiến trúc sư của nền kinh tế
tri thức, định hướng phát triển, tạo môi trường thuận lợi và động viên mọi người, mọi
lực lượng phát huy năng lực sáng tạo xây dựng nền kinh tế tri thức. Thể chế chính sách
phải nhằm tạo lập một không gian (môi trường) thuận lợi cho các quá trình đổi mới,
thúc đẩy hình thành hệ thống đổi mới quốc gia hữu hiệu. Đó điều kiện để tiến nhanh
vào kinh tế tri thức.
3- Cải cách triệt để nền giáo dục, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao - yếu
tốquyết định sự thành công của chiến lược phát triển kinh tế tri thức.
Trong nền kinh tế tri thức, con người phải biết tđào tạo, luôn tiếp thu tri thức mới, có
năng lực sáng tạo, thường xuyên đổi mới cách nghĩ, cách làm, luôn thích nghi với sự
phát triển. Giáo dục, đào tạo ý nghĩa cùng quan trọng sản xuất vốn tri thức.
Nhà nước phải chính sách trọng dụng nhân tài, thực sự coi "hiền tài nguyên khí
quốc gia", tạo điều kiện làm việc thuận lợi, phát huy năng lực của những cán bộ giỏi,
đầu đàn trong các lĩnh vực khoa học-công nghệ, quản kinh doanh, văn học-nghệ
thuật…
Nhiệm vụ cấp bách tiến hành ngay một cuộc cách mạng toàn diện trong giáo dục:
cải cách triệt để, sâu sắc cả về mục tiêu, nội dung, phương pháp dạy học, hệ thống giáo
dục, phương thức tổ chức quản giáo dục - đào tạo. Chuyển trọng tâm của giáo dục
từ trang bị kiến thức sang bồi dưỡng, rèn luyện phương pháp tư duy, phương pháp giải
quyết vấn đề, năng lực sáng tạo, khả năng tự đào tạo, thích nghi sự phát triển.
Chuyển từ mô hình giáo dục truyền thống sang mô hình giáo dục mới: hệ thống học
tập suốt đời, phát triển nghề nghiệp liên tục.
4- Tăng cường năng lực khoa học công nghệ quốc gia, thiết lập hệ thống đổi
mớiquốc gia hữu hiệu - động lực mạnh mẽ cho phát triển kinh tế tri thức.
Chú trọng đặc biệt năng lực nghiên cứu bản để tiếp thu, làm chủ sáng tạo công
nghệ mới. Đồng thời, đổi mới cơ chế quản lý kinh tế và quản lý khoa học - công nghệ,
phát triển mạnh thị trường khoa học- công nghệ, thiết lập hệ thống đổi mới quốc gia
hữu hiệu. Hệ thống đổi mới quốc gia bao gồm các thiết chế, các hệ thống tổ chức tầm
quốc gia nhằm gắn chặt chẽ khoa học với sản xuất, thúc đẩy việc tạo ra và ứng dụng
nhanh chóng các kết quả nghiên cứu sáng tạo để đổi mới sản xuất, phát triển kinh tế.
Hiện nay, các nước phát triển, quan hệ khoa học - sản xuất đang chuyển từ mô hình
tuyến tính sang hình tác động qua lại giữa nhiều yếu tố. Trong hệ thống đổi mới
quốc gia theo hình tương tác, các yếu tố nghiên cứu triển khai, nỗ lực đổi mới, phân
tích thị trường, đa dạng hoá sản phẩm, nâng cao kỹ năng công nhân... gắn bó nhau, tác
động qua lại lẫn nhau.
lOMoARcPSD| 45470709
10
5- Phát triển và ứng dụng rộng rãi công nghệ thông tin trong các lĩnh vực kinh tế -
xãhội - động lực mạnh mẽ thúc đẩy đổi mới phát triển, tiến vào kinh tế tri thức.
Công nghệ thông tin chìa khoá để đi vào kinh tế tri thức. ng dụng phát triển công
nghệ thông tin sẽ góp phần giải phóng sức mạnh vật chất, trí tuệ và tinh thần của toàn
dân tộc, tạo động lực mạnh mẽ cho phát triển hệ thống đổi mới, phát triển nhanh
HĐH các ngành kinh tế, tăng cường năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp, hỗ trợ
hữu hiệu quá trình chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, nâng cao chất lượng cuộc sống
của nhân dân, đảm bảo an ninh, quốc phòng, tạo khả năng đi tắt đón đầu để thực hiện
thắng lợi sự nghiệp CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức
lOMoARcPSD| 45470709
11
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đại hội đại biểu toàn quốc lần tứ IX của Đảng, Đảng Cộng sản Việt Nam.Truy cập
ngày 29/9/2022 tại: https://daihoi13.dangcongsan.vn/cac-ky-dai-hoi/tu-dai-hoi-
dendai-hoi/dai-hoi-dai-bieu-toan-quoc-lan-thu-ix-253
2. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng, Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt
Nam, Hệ thống tư liệu- văn kiện Đảng. Truy cập ngày 29/9/2022 tại:
https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/ban-chap-hanh-trung-uong-dang/dai-
hoidang/lan-thu-ix
3. Chiến lược phát triển kinh tế- xã hội 2001-2010,Đại hội IX, Báo điện tử Đảng
Cộng sản Việt Nam.
4. Báo cáo chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII tại đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ IX, Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam.
5. Quan điểm của Đảng về đổi mới sáng tạo qua các kì đại hội. Truy cập ngày
29/9/2022 tại: https://mof.gov.vn/webcenter/portal/vclvcstc/pages_r/l/chi-tiet-tin?
dDocName=MOFUCM223091
6. Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.60, tr 181, 184, 171-173, 184
7. GS, VS. Đặng Hữu( 2011), Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Tạp chí
Quốcphòng Toàn dân
8. Đảng Cộng sản Việt Nam - Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb
Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2006, tr.87.
| 1/11

Preview text:

lOMoAR cPSD| 45470709
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN ---o0o--- BÀI TẬP LỚN
Đề bài: Từ nội dung thuyết trình của nhóm mình, lựa chọn một nội dung
trong chủ trương vấn đề để liên hệ thực tế hiện nay.
Họ và tên: Tiêu Thị Thanh Phương Mã sinh viên: 11203223
Lớp học phần: Lịch sử Đảng CSVN(122)_06
HÀ NỘI-2022 LỜI MỞ ĐẦU
Đại hội IX của Đảng (năm 2001), Đảng ta xác định mô hình kinh tế tổng quát của
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là “nền kinh tế thị trường định hướng lOMoAR cPSD| 45470709
xã hội chủ nghĩa”. Quan điểm này đã thể hiện nhận thức rõ ràng về đổi mới ở Việt
Nam, gắn cụ thể với một mô hình kinh tế nhằm bảo đảm về sự phù hợp giữa quan hệ
sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong tình hình mới.
Với mô hình này, đường lối phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2001 - 2010 là:
“Tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững... Tạo chuyển biến mạnh về giáo dục và đào
tạo, khoa học và công nghệ, phát huy nhân tố con người”. Tuy nhiên, trước các vấn đề
nổi cộm trong nước, như “các hoạt động khoa học và công nghệ chưa đáp ứng tốt yêu
cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa”; “cơ chế chính sách không đồng bộ
và chưa tạo động lực mạnh để phát triển”; “một số quan điểm, chủ trương chưa rõ,
chưa có sự nhận thức thống nhất và chưa được thông suốt ở các cấp, các ngành.
Trong cán bộ, đảng viên có những cách hiểu và cách làm không thống nhất về những
vấn đề như: xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phát huy
vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, đổi mới và phát triển doanh nghiệp nhà nước,
cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, chính sách về đất đai, kinh tế trang trại, nội
dung và bước đi công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ
và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế”.
Do đó, tại Đại hội này, Đảng ta tiếp tục nhấn mạnh “tận dụng mọi khả năng để đạt
trình độ công nghệ tiên tiến, đặc biệt là công nghệ thông tin và công nghệ sinh học,
tranh thủ ứng dụng ngày càng nhiều hơn, ở mức cao hơn và phổ biến hơn những
thành tựu mới về khoa học và công nghệ, từng bước phát triển kinh tế tri thức. Phát
huy nguồn lực trí tuệ và sức mạnh tinh thần của người Việt Nam; coi phát triển giáo
dục và đào tạo, khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực của sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa”. Như vậy, tại Đại hội IX, các yếu tố trụ cột của đổi mới
sáng tạo là nhân tố con người, kinh tế tri thức, khoa học và công nghệ, giáo dục và
đào tạo đã được nhìn nhận và được chỉ đạo thực hiện khá cụ thể. Đặc biệt là vai trò
của kinh tế tri thức, của sự sáng tạo, các phát minh khoa học, nguồn nhân lực lao
động chất lượng cao đã được Đảng ta chỉ ra rõ ràng hơn trong chỉ đạo phát triển kinh
tế. Cùng với đó, giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ được coi là nền tảng,
đồng thời là động lực của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Vì vậy, em chọn
đề tài “CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ GẮN VỚI PHÁT TRIỂN TRI THỨC”.
PHẦN 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ ĐẠI HỘI IX. I. Bối cảnh
a) Bối cảnh quốc tế -
Cách mạng khoa học và công nghệ, đặc biệt công nghệ thông tin và công nghệ
sinh học, tiếp tục có bước phát triển nhảy vọt, ngày càng trở thành lực lượng sản
xuất trực tiếp, thúc đẩy so phát triển kinh tế tri thức, làm chuyển dịch nhanh cơ cấu
kinh tế và biến đổi sâu sắc các lĩnh vực của đời sống xã hội. -
Tri thức và sở hữu trí tuệ có vai trò ngày càng quan trọng. Trình độ làm chủ
thông tin, tri thức có ý nghĩa quyết định sự phát triển. 2 lOMoAR cPSD| 45470709 -
Toàn cầu hoá diễn ra mạnh mẽ. Đây là xu thế khách quan, lôi cuốn các nước,
bao trùm hầu hết các lĩnh vực, vừa thúc đẩy hợp tác, vừa tăng sức ép cạnh tranh và
tuỳ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế. Quan hệ song phương, đa phương giữa các
quốc gia ngày càng sâu rộng cả trong kinh tế, văn hoá và bảo vệ môi trường, phòng
chống tội phạm, thiên tai và các đại dịch...
b) Bối cảnh trong nước -
Tình hình đất nước ta sau 15 năm đổi mới đã đạt được nhiều thành tựu quan
trọng, tạo thế và lực để thúc đẩy công cuộc đổi mới đi vào chiều sâu. Bên cạnh đó,
chúng ta còn phải đối phó với những thách thức: tụt hậu xa hơn về kinh tế so với
nhiều nước trong khu vực và trên thế giới, chệch hướng xã hội chủ nghĩa, nạn tham
nhũng quan liêu, “diễn biến hoà bình” do các thế lực thù địch gây ra. -
Nắm bắt cơ hội, vượt qua thách thức, phát triển mạnh mẽ trong thời kỳ mới là
vấn đề có ý nghĩa sống còn của Đảng và nhân dân ta. Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ IX diễn ra trong hoàn cảnh đó, nhằm hoạch định đường lối cho sự phát triển của
đất nước trong những năm 2001- 2005 và 2001-2010.
II. Tìm hiểu về đại hội
1. Thời gian, địa điểm -
Thời gian: Từ 19-22/4/2001
- Địa điểm: Thủ đô Hà Nội
- Số lượng đảng viên trong cả nước: 2.479.719
- Số lượng tham dự Đại hội: 1.168 đại biểu
- Ðại hội đã thông qua Báo cáo Chính trị với tiêu đề "Phát huy sức mạnh toàn dân
tộc, tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa". 2. Hoạt động
- Đại hội đã đánh giá chặng đường 71 năm lãnh đạo cách mạng Việt Nam
- Tổng kết đánh giá, kiểm điểm 15 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đại hội VI
và 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội VIII
- Đề ra chủ trương, nhiệm vụ nhằm kế thừa, phát huy những thành tựu, ưu điểm đã
đạt được; điều chỉnh bổ sung, phát triển đường lối đổi mới để tiếp tục đưa sự nghiệp
đổi mới của đất nước tiến lên trong thời đại mới.
- Xuất phát từ đặc điểm tình hình đất nước và quốc tế, Đại hội khẳng định tiếp tục
nắm vững hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa,
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đại hội cũng đã đề ra chiến lược
phát triển kinh tế xã hội 10 năm (2001-2010).
- Phát triển và hoàn thiện đường lối, định ra chiến lược phát triển đất nước trong 2
thập kỉ đầu của thế kỉ XXI.
- Kiểm điểm sự lãnh đạo của Đảng, đề ra phương hướng, nhiệm vụ xây dựng Đảng
tangang tầm với đòi hỏi của dân tộc trong thời kỳ mới; sửa đổi, bổ sung Điều lệ
Đảng, bầu ra Ban Chấp hành Trung ương mới. 3 lOMoAR cPSD| 45470709
- Báo cáo Chính trị “Phát huy sức mạnh toàn dân tộc, tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh
công nghiệp hoá hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa
” đã trình bày 10 vấn đề:
1. Việt Nam trong thế kỷ XX và triển vọng trong thế kỷ XXI
2. Tình hình đất nước 5 năm qua và những bài học chủ yếu của 15 năm đổi mới
3. Về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta
4. Đường lối và chính sách phát triển kinh tế - xã hội
5. Phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, xây dựng nền văn hoá
tiêntiến, đậm đà bản sắc dân tộc
6. Tăng cường quốc phòng và an ninh
7. Mở rộng quan hệ đối ngoại và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế
8. Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân
9. Đẩy mạnh cải cách tổ chức và hoạt động của Nhà nước, phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế
10.Xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng 3. Nội dung:
Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Trung ương khóa IX gồm 150 uỷ viên -
Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương đã bầu Bộ Chính trị gồm 13
đồng chí, Ban Bí thư gồm 9 đồng chí. Đồng chí Nông Đức Mạnh được bầu làm Tổng
Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng *Đánh giá về nước ta trong thế kỷ XX: -
Thế kỷ XX là thế kỷ của những biến đổi to lớn, thế kỷ đấu tranh oanh liệt
giành lại độc lập, tự do, thống nhất Tổ quốc và xây dựng chủ nghĩa xã hội, thế kỷ của
những chiến công và thắng lợi có ý nghĩa lịch sử và thời đại -
Triển vọng trong thế kỷ XXI: Thế kỷ XXI sẽ tiếp tục có nhiều biến đổi, nhân
dân tacó cả cơ hội lớn và thách thức lớn
*Đánh giá kết quả thực hiện kế hoạch của 5 năm (1996-2000):
Khẳng định 5 nhóm thành tựu quan trọng sau:
+Kinh tế tăng trưởng khá
+Văn hoá, xã hội có những tiến bộ; đời sống nhân dân tiếp tục được cải thiện; tình
hình chính trị - xã hội cơ bản ổn định;
+Quốc phòng và an ninh được tăng cường;
+ Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng được chú trọng; hệ thống chính trị được củng cố;
+Quan hệ đối ngoại không ngừng được mở rộng, hội nhập kinh tế quốc tế được tiến
hành chủ động và đạt nhiều kết quả tốt.
*Đánh giá quá trình thực hiện Nghị quyết Đại hội VIII còn bộc lộ những yếu kém, khuyết điểm:
+ Nền kinh tế phát triển chưa vững chắc, hiệu quả và sức cạnh tranh thấp; 4 lOMoAR cPSD| 45470709
+ Một số vấn đề văn hoá - xã hội bức xúc và gay gắt chậm được giải quyết;
+ Cơ chế, chính sách không đồng bộ và chưa tạo động lực mạnh để phát triển; +
Tình trạng tham nhũng, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống ở một bộ
phận không nhỏ cán bộ, đảng viên là rất nghiêm trọng.
*Tổng kết 10 năm thực hiện “Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000”:
Thực hiện Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội (1991 - 2000), chúng ta
đã đạt được những thành tựu to lớn và rất quan trọng. Tổng sản phẩm trong nước năm
2000 tăng gấp hai lần so với năm 1990. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội và năng lực
sản xuất tăng nhiều. Nền kinh tế từ tình trạng hàng hóa khan hiếm nghiêm trọng nay
sản xuất đã đáp ứng được các nhu cầu thiết yếu của nhân dân và nền kinh tế; từ cơ
chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp đã chuyển sang cơ chế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa; từ chỗ chủ yếu chỉ có hai thành phần kinh tế nhà nước và kinh tế
tập thể đã chuyển sang nền kinh tế có nhiều thành phần, trong đó kinh tế nhà nước
giữ vai trò chủ đạo. Ðời sống các tầng lớp nhân dân được cải thiện. Ðất nước đã ra
khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội; phá được thế bị bao vây cấm vận, mở rộng được
quan hệ đối ngoại và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
*Về những kinh nghiệm sau 15 năm thực hiện đường lối đổi mới, Ðại hội chỉ ra
những bài học kinh nghiệm chủ yếu.
+ Ðó là, trong quá trình đổi mới, phải kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
+ Ðổi mới phải dựa vào nhân dân, vì lợi ích của nhân dân, phù hợp với thực tiễn, luôn luôn sáng tạo.
+ Ðổi mới phải kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
+ Ðường lối đúng đắn của Ðảng là nhân tố quyết định thành công của sự nghiệp đổi mới.
*Về đường lối phát triển kinh tế - xã hội, Ðại hội IX của Ðảng nêu rõ:
+ Ðẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đưa
nước ta trở thành một nước công nghiệp;
+ Ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù
hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa;
+ Phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội
nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, hiệu quả, bền vững;
+ Tăng trưởng kinh tế đi liền với phát triển văn hóa, từng bước cải thiện đời sống vật
chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường;
+ Kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc phòng - an ninh.
*Mục tiêu của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2001 - 2010 là: +Ðưa
nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất và tinh 5 lOMoAR cPSD| 45470709
thần của nhân dân, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một
nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
+Nguồn lực con người, năng lực khoa học và công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực
kinh tế, quốc phòng, an ninh được tăng cường; thể chế kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa được hình thành về cơ bản; vị thế của nước ta trên trường quốc tế
được nâng cao. III. Tổng kết
*Ý nghĩa: Đại hội IX của Đảng là đại hội của trí tuệ, dân chủ, đoàn kết, đổi mới, thể
hiện ý chí kiên cường và niềm hy vọng lớn lao của toàn Đảng, toàn dân trong thời
điểm trọng đại của dân tộc, mở đường cho đất nước ta nắm lấy cơ hội, vượt qua thách
thức tiến vào thế kỷ mới, thiên niên kỷ mới, thực hiện mục tiêu xây dựng một nước
Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh theo định
hướng xã hội chủ nghĩa.
PHẦN 2: LIÊN HỆ THỰC TIỄN.
Đối với nước ta, một nước nông nghiệp lạc hậu đi lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN,
cái thiếu nhất là cơ sở vật chất - kỹ thuật của một nền sản xuất hiện đại. Vì thế Đảng ta
xác định công nghiệp hoá (CNH) là nhiệm vụ trung tâm của suốt thời kỳ quá độ.
Sau 10 năm đổi mới, tại Đại hội toàn quốc lần thứ VIII, Đảng khẳng định rằng, nước
ta đã chuyển sang thời kỳ mới - thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá (CNH,
HĐH) đất nước. Mục tiêu của CNH, HĐH là xây dựng nước ta thành một nước công
nghiệp có cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại". Đến năm 2020, ra sức phấn đấu đưa nước
ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp". Đại hội IX lại nhấn mạnh "đến năm 2020
nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại".
CNH là bước đi tất yếu của tất cả các nước trong quá trình tiến lên hiện đại. Trên phạm
vi toàn thế giới, CNH đã bắt đầu từ gần hai thế kỷ, lực lượng sản xuất xã hội đã phát
triển vượt bậc, của cải xã hội tăng gấp hàng trăm lần, đem lại sự giàu có, cường thịnh
cho nhiều quốc gia; nhưng đồng thời cũng để lại nhiều hậu quả trên phạm vi toàn cầu:
tài nguyên cạn kiệt, môi trường suy thoái, gia tăng nhanh khoảng cách giàunghèo và
bất công xã hội, nhiều giá trị văn hóa, đạo đức bị mất đi... Rõ ràng, không thể tiếp tục
con đường CNH như trước đây được nữa mà phải điều chỉnh chiến lược, vận dụng tối
đa công nghệ mới, tri thức mới, giảm thiểu tiêu hao nguyên liệu, cơ cấu lại công nghiệp,
chuyển hướng sang CNH sinh thái, nhằm bảo vệ “ngôi nhà chung” của nhân loại. CNH
theo kiểu cổ điển không còn phù hợp nữa; và nhân loại đang bước vào thời kỳ “hậu
công nghiệp” mà thực chất là một thời kỳ phát triển mới, từ dựa vào tài nguyên thiên
nhiên chuyển sang dựa nhiều hơn vào nguồn lực trí tuệ con người. Xã hội công nghiệp
đang chuyển lên xã hội tri thức. Tiền đề cho bước phát triển nhảy vọt đó là do chính
CNH trong các nước TBCN tạo ra, đó là sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ.
Sự phát triển kỳ diệu của khoa học và công nghệ, đặc biệt là cách mạng thông tin, cách
mạng tri thức, đã cho ra đời các công nghệ cao, như công nghệ thông tin, công nghệ
sinh học, công nghệ nanô; các công nghệ này hội tụ với nhau tạo thành nền tảng cho 6 lOMoAR cPSD| 45470709
một hệ thống công nghệ mới của thế kỷ 21, công nghệ của nền kinh tế tri thức. Hệ
thống công nghệ mới ấy đang làm biến đổi sâu sắc các quá trình sản xuất, cách thức
sản xuất, kinh doanh và mọi lĩnh vực của đời sống xã hội loài người, làm cho nền kinh
tế tri thức toàn cầu đang hình thành trên thực tế.
"Nền kinh tế tri thức là nền kinh tế sử dụng có hiệu quả tri thức cho phát triển kinh tế
và xã hội, bao gồm cả việc khai thác kho tri thức toàn cầu, cũng như làm chủ và sáng
tạo tri thức cho những nhu cầu của riêng mình". Trong nền kinh tế công nghiệp, việc
tạo ra giá trị, nâng cao năng lực cạnh tranh chủ yếu là dựa vào sự tối ưu hoá, hoàn thiện
cái đã có; còn trong kinh tế tri thức thì tạo ra giá trị, nâng cao năng lực cạnh tranh chủ
yếu là do tìm ra cái chưa biết; cái chưa biết là cái có giá trị nhất. Tìm ra cái chưa biết,
tạo ra cái mới cũng tức là loại trừ cái đã biết. Vòng đời của một sản phẩm, một công
nghệ từ lúc nảy sinh, phát triển, chín muồi đến tiêu vong ngày càng rút ngắn. Tốc độ
đổi mới rất nhanh chóng. Nền kinh tế tri thức hình thành và phát triển là nhờ năng lực
sáng tạo của con người, năng lực tạo ra tri thức mới và vận dụng tri thức, biến tri thức
thành của cải, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, phát triển con người và phát triển xã hội.
Sáng tạo và đổi mới là động lực của sự phát triển kinh tế-xã hội, là nguồn gốc của nền
kinh tế tri thức ngày nay. Tài nguyên là có hạn, năng lực sáng tạo của con người là vô
hạn; một khi nền kinh tế dựa chủ yếu vào năng lực trí tuệ của con người, thì khả năng
của nền kinh tế là hết sức to lớn. Các nước phát triển đi tới kinh tế tri thức là một quá
trình tự nhiên hợp qui luật; các nước đi sau ý thức được sự vượt trội của kinh tế tri thức
so với kinh tế công nghiệp, đã chủ động đề ra chiến lược, chính sách, giải pháp để phát
triển kinh tế tri thức ngay trong quá trình CNH. Phát triển kinh tế tri thức là xu thế phát
triển tất yếu khách quan, lôi cuốn tất cả các quốc gia, không loại trừ ai. Kinh tế tri thức
đang tạo ra những điều kiện và khả năng mới để Việt Nam rút ngắn quá trình CNH, HĐH đất nước.
Trong bối cảnh quốc tế mới, Việt Nam có thể bỏ qua các thế hệ công nghệ trung gian
để đi thẳng vào các công nghệ tiên tiến, công nghệ cao, nhằm phát triển nhanh nền kinh
tế, sớm bắt kịp xu thế chung của kinh tế thế giới. Đó là lợi thế các nước đi sau, là thời
cơ lớn không thể bỏ lỡ. Biết kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, chúng ta
nhất định chiến thắng được nghèo nàn, lạc hậu như đã từng chiến thắng giặc ngoại
xâm. Thực hiện CNH, HĐH rút ngắn là bắt buộc đối với chúng ta, nếu muốn đuổi kịp
các nước trong khu vực và trên thế giới.
Khả năng của con người Việt Nam nắm bắt và vận dụng công nghệ mới, tri thức mới
của thế giới cho sự phát triển của đất nước mình là khả quan hơn nhiều nước có cùng
trình độ kinh tế. Trí tuệ sáng tạo, sự năng động của các chủ thể kinh tế, nhất là ở khu
vực kinh tế tư nhân, ngày càng thể hiện tiềm năng to lớn, sự bứt phá vươn lên. Đã xuất
hiện nhiều mô hình kinh tế phát triển dựa vào tri thức ở nước ta. Yếu tố cơ bản đưa đến
thành công của các mô hình này là: đã biết nắm bắt và sử dụng tri thức mới nhất trong
hoạch định chiến lược kinh doanh, lựa chọn công nghệ, tạo sản phẩm mới, cách tổ chức
sản xuất kinh doanh mới có hiệu quả, tạo được sự bứt phá mà bằng các con đường phát
triển truyền thống không thể đạt được. Điều đó cũng chứng minh rằng chính sách 7 lOMoAR cPSD| 45470709
chuyển sang nền kinh tế thị trường, hội nhập kinh tế thế giới, khuyến khích phát triển
kinh tế tư nhân... là rất đúng đắn, đó là những động lực to lớn cho phát triển mọi năng lực sáng tạo.
Báo cáo chính trị tại Đại hội X của Đảng đã chỉ ra: "Tranh thủ cơ hội thuận lợi do bối
cảnh quốc tế tạo ra và tiềm năng, lợi thế của nước ta để rút ngắn quá trình CNH, HĐH
đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa gắn với phát triển kinh tế tri thức, coi kinh
tế tri thức là yếu tố quan trọng của nền kinh tế và CNH, HĐH”. Phát triển kinh tế tri
thức ở nước ta không có nghĩa là chuyển ngay sang các ngành công nghệ cao để có cơ
cấu kinh tế như các nước phát triển đã đạt tới, mà thực thi chiến lược phát triển dựa
vào tri thức, thực chất là vận dụng tri thức mới vào tất cả các lĩnh vực, các ngành kinh
tế, làm tăng nhanh giá trị gia tăng; giảm tiêu hao nguyên liệu và lao động; tăng hiệu
quả sản xuất và chất lượng sản phẩm; dịch chuyển nhanh cơ cấu kinh tế theo hướng
HĐH, sớm thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh. Theo đó, mục tiêu năm 2020 Việt Nam cơ bản trở thành nước công nghiệp theo
hướng hiện đại được hiểu là nền kinh tế tri thức đã bắt đầu hình thành, có nền công
nghệ tiên tiến, tốc độ tăng trưởng hai con số, giá trị do tri thức tạo ra trong GDP chiếm
khoảng 40-50%, công nhân tri thức chiếm trên 30% lực lượng lao động, đã hình thành
xã hội thông tin, xã hội học tập, có nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, an
ninh - quốc phòng vững mạnh.
Mô hình phát triển của Việt Nam là tiến hành đồng thời và lồng ghép nhau hai quá
trình: chuyển từ kinh tế nông nghiệp sang kinh tế công nghiệp và từ kinh tế công nghiệp
lên kinh tế tri thức, trong khi đối với các nước đi trước đó là hai quá trình kế tiếp nhau.
Nền kinh tế Việt Nam đi theo mô hình kinh tế hai tốc độ, kết hợp các bước đi tuần tự
với các bước phát triển nhảy vọt. Một mặt tận dụng lao động, cơ sở vật chất hiện có,
sử dụng tri thức mới, công nghệ mới để phát triển sản xuất, tạo việc làm, tăng thu nhập.
Mặt khác, đi thẳng vào hiện đại ở những khâu, những lĩnh vực, những ngành có lợi thế,
phát triển các ngành, các vùng kinh tế mũi nhọn tạo thành đầu tàu có sức kéo mạnh toàn bộ nền kinh tế.
Nhiệm vụ trung tâm là sử dụng tri thức mới của thời đại kết hợp với sáng tạo tri thức
mới để nhanh chóng chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng nhanh các ngành công
nghiệp và dịch vụ hàm lượng tri thức cao, giá trị gia tăng cao trên cả ba hướng: tăng
cường sử dụng tri thức để đẩy nhanh CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn; đẩy nhanh
tốc độ đổi mới công nghệ, ứng dụng tối đa công nghệ thông tin trong các ngành công
nghiệp và dịch vụ truyền thống; tập trung sức để phát triển nhanh có chọn lọc các ngành
kinh tế dựa vào công nghệ cao.
Để có thể phát triển kinh tế tri thức ở nước ta, phải cấp thiết tiến hành một cuộc đổi
mới mạnh mẽ, toàn diện, sâu sắc hơn nữa trên tất cả các lĩnh vực: 1-
Đổi mới căn bản cách thức phát triển kinh tế: Chuyển đổi triệt để từ kinh tế
tậptrung bao cấp sang kinh tế thị trường, từ kinh tế hiện vật sang kinh tế giá trị, từ dựa
chủ yếu vào nguồn lực vật chất sang dựa chủ yếu vào nguồn lực trí tuệ, chuyển trọng 8 lOMoAR cPSD| 45470709
tâm đầu tư từ đầu tư hữu hình sang đầu tư vô hình. Coi tri thức là nguồn vốn quan trọng nhất. 2-
Đổi mới thể chế, chính sách, tổ chức quản lý: Tạo môi trường kinh doanh sôi
động,thúc đẩy sự cạnh tranh. Chính sách, pháp luật rõ ràng, công khai, minh bạch, thúc
đẩy dân chủ, khuyến khích mạnh mẽ các khả năng sáng tạo. Vai trò của Nhà nước
chuyển từ chức năng điều khiển, chỉ huy sang chức năng kiến trúc sư của nền kinh tế
tri thức, định hướng phát triển, tạo môi trường thuận lợi và động viên mọi người, mọi
lực lượng phát huy năng lực sáng tạo xây dựng nền kinh tế tri thức. Thể chế chính sách
phải nhằm tạo lập một không gian (môi trường) thuận lợi cho các quá trình đổi mới,
thúc đẩy hình thành hệ thống đổi mới quốc gia hữu hiệu. Đó là điều kiện để tiến nhanh vào kinh tế tri thức. 3-
Cải cách triệt để nền giáo dục, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao - yếu
tốquyết định sự thành công của chiến lược phát triển kinh tế tri thức.
Trong nền kinh tế tri thức, con người phải biết tự đào tạo, luôn tiếp thu tri thức mới, có
năng lực sáng tạo, thường xuyên đổi mới cách nghĩ, cách làm, luôn thích nghi với sự
phát triển. Giáo dục, đào tạo có ý nghĩa vô cùng quan trọng – sản xuất vốn tri thức.
Nhà nước phải có chính sách trọng dụng nhân tài, thực sự coi "hiền tài là nguyên khí
quốc gia", tạo điều kiện làm việc thuận lợi, phát huy năng lực của những cán bộ giỏi,
đầu đàn trong các lĩnh vực khoa học-công nghệ, quản lý kinh doanh, văn học-nghệ thuật…
Nhiệm vụ cấp bách là tiến hành ngay một cuộc cách mạng toàn diện trong giáo dục:
cải cách triệt để, sâu sắc cả về mục tiêu, nội dung, phương pháp dạy học, hệ thống giáo
dục, phương thức tổ chức quản lý giáo dục - đào tạo. Chuyển trọng tâm của giáo dục
từ trang bị kiến thức sang bồi dưỡng, rèn luyện phương pháp tư duy, phương pháp giải
quyết vấn đề, năng lực sáng tạo, khả năng tự đào tạo, thích nghi sự phát triển.
Chuyển từ mô hình giáo dục truyền thống sang mô hình giáo dục mới: hệ thống học
tập suốt đời, phát triển nghề nghiệp liên tục. 4-
Tăng cường năng lực khoa học và công nghệ quốc gia, thiết lập hệ thống đổi
mớiquốc gia hữu hiệu - động lực mạnh mẽ cho phát triển kinh tế tri thức.
Chú trọng đặc biệt năng lực nghiên cứu cơ bản để tiếp thu, làm chủ và sáng tạo công
nghệ mới. Đồng thời, đổi mới cơ chế quản lý kinh tế và quản lý khoa học - công nghệ,
phát triển mạnh thị trường khoa học- công nghệ, thiết lập hệ thống đổi mới quốc gia
hữu hiệu. Hệ thống đổi mới quốc gia bao gồm các thiết chế, các hệ thống tổ chức ở tầm
quốc gia nhằm gắn bó chặt chẽ khoa học với sản xuất, thúc đẩy việc tạo ra và ứng dụng
nhanh chóng các kết quả nghiên cứu sáng tạo để đổi mới sản xuất, phát triển kinh tế.
Hiện nay, ở các nước phát triển, quan hệ khoa học - sản xuất đang chuyển từ mô hình
tuyến tính sang mô hình tác động qua lại giữa nhiều yếu tố. Trong hệ thống đổi mới
quốc gia theo mô hình tương tác, các yếu tố nghiên cứu triển khai, nỗ lực đổi mới, phân
tích thị trường, đa dạng hoá sản phẩm, nâng cao kỹ năng công nhân... gắn bó nhau, tác động qua lại lẫn nhau. 9 lOMoAR cPSD| 45470709 5-
Phát triển và ứng dụng rộng rãi công nghệ thông tin trong các lĩnh vực kinh tế -
xãhội - động lực mạnh mẽ thúc đẩy đổi mới và phát triển, tiến vào kinh tế tri thức.
Công nghệ thông tin là chìa khoá để đi vào kinh tế tri thức. ứng dụng và phát triển công
nghệ thông tin sẽ góp phần giải phóng sức mạnh vật chất, trí tuệ và tinh thần của toàn
dân tộc, tạo động lực mạnh mẽ cho phát triển hệ thống đổi mới, phát triển nhanh và
HĐH các ngành kinh tế, tăng cường năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp, hỗ trợ
hữu hiệu quá trình chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, nâng cao chất lượng cuộc sống
của nhân dân, đảm bảo an ninh, quốc phòng, tạo khả năng đi tắt đón đầu để thực hiện
thắng lợi sự nghiệp CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức 10 lOMoAR cPSD| 45470709
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đại hội đại biểu toàn quốc lần tứ IX của Đảng, Đảng Cộng sản Việt Nam.Truy cập
ngày 29/9/2022 tại: https://daihoi13.dangcongsan.vn/cac-ky-dai-hoi/tu-dai-hoi-
dendai-hoi/dai-hoi-dai-bieu-toan-quoc-lan-thu-ix-253
2. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng, Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt
Nam, Hệ thống tư liệu- văn kiện Đảng. Truy cập ngày 29/9/2022 tại:
https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/ban-chap-hanh-trung-uong-dang/dai- hoidang/lan-thu-ix
3. Chiến lược phát triển kinh tế- xã hội 2001-2010,Đại hội IX, Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam.
4. Báo cáo chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII tại đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ IX, Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam.
5. Quan điểm của Đảng về đổi mới sáng tạo qua các kì đại hội. Truy cập ngày
29/9/2022 tại: https://mof.gov.vn/webcenter/portal/vclvcstc/pages_r/l/chi-tiet-tin? dDocName=MOFUCM223091
6. Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.60, tr 181, 184, 171-173, 184
7. GS, VS. Đặng Hữu( 2011), Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Tạp chí Quốcphòng Toàn dân
8. Đảng Cộng sản Việt Nam - Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb
Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2006, tr.87. 11