-
Thông tin
-
Hỏi đáp
Từ nội dung thuyết trình, lựa chọn 1 vấn đề liên hệ với thực tiễn hiện nay | Bài tập môn Lịch sử đảng cộng sản Việt Nam
Từ nội dung thuyết trình, lựa chọn 1 vấn đề liên hệ với thực tiễn hiện nay | Tiểu luận môn Lịch sử đảng cộng sản Việt Nam được siêu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuận bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đón xem!
Môn: Lịch sử Đảng Cộng Sản Việt Nam(LLLSD1101)
Trường: Đại học Kinh Tế Quốc Dân
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
lOMoAR cPSD| 45470709
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
VIỆN THƯƠNG MẠI VÀ KINH TẾ QUỐC TẾ
CHUYÊN NGÀNH: KINH TẾ QUỐC TẾ BÀI TẬP
MÔN HỌC: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
ĐỀ BÀI: Từ nội dung thuyết trình, lựa chọn 1 vấn đề liên hệ với thực tiễn hiện nay.
Họ và tên sinh viên : Hà Thị Thủy MSV : 11216912 Lớp tín chỉ : Giảng viên :
HÀ NỘI – 2022 lOMoAR cPSD| 45470709
Kế hoạch 5 năm đổi mới đầu tiên 1986-1990 và những
thành tựu to lớn của đất nước sau 35 năm thực hiện đổi mới
Đổi Mới là một chương trình cải cách toàn diện bao gồm kinh tế, đặc biệt là đổi mới
trong lĩnh vực kinh tế, chính trị và nhiều khía cạnh khác của đời sống xã hội do Đảng
Cộng sản Việt Nam, đứng đầu là Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh khởi xướng vào thập niên
1980. Chính sách Đổi mới được chính thức thực hiện từ Đại hội đại biểu Đảng Cộng sản
Việt Nam lần VI, năm 1986.
Trước Đổi mới (năm 1986), Việt Nam vốn là một nước nghèo, bị chiến tranh bom đạn
vùi sâu. Nhìn lại những năm tháng khốc liệt ấy, nỗi đau vẫn còn, nhưng đất nước ta đã kiên
định đi lên, khắc phục những hậu quả mà chiến tranh để lại. Trong cuộc chiến tranh xâm
lược Việt Nam, quân đội Mỹ không chỉ dùng các loại bom đạn gây thương vong mà còn sử
dụng cả chất độc da cam, nhằm triệt hạ nguồn sinh sống của nhân dân Việt Nam, ngăn chặn
bước tiến của các lực lượng vũ trang cách mạng. Theo các chuyên gia, phải mất đến hơn
100 năm nữa Việt Nam mới có thể dọn sạch hết bom mìn còn sót lại sau chiến tranh. Sau
chiến tranh, Mỹ và phương Tây đã áp đặt cấm vận kinh tế với Việt Nam trong suốt gần 20
năm. Tình hình khu vực và quốc tế cũng diễn biến phức tạp, gây nhiều bất lợi cho chúng
ta. Lương thực, hàng hóa nhu yếu phẩm hết sức thiếu thốn, đời sống nhân dân hết sức khó
khăn, khoảng 3/4 dân số sống dưới mức nghèo khổ.
Nhìn lại quá trình đổi mới, đó là hành trình gian nan mà đầy thiêng liêng. Đại hội VI
(1986) - Đại hội đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước. Đến năm 2022, công cuộc đổi
mới toàn diện đất nước đã trải qua hơn 35 năm. Thực tế chỉ rõ: Ba mươi năm đổi mới là
một giai đoạn lịch sử quan trọng trong sự nghiệp phát triển của nước ta, đánh dấu sự trưởng
thành về mọi mặt của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. Đổi mới mang tầm vóc và ý nghĩa
cách mạng, là quá trình cải biến sâu sắc, toàn diện, triệt để, là sự nghiệp cách mạng to lớn
của toàn Đảng, toàn dân vì mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh".
I. Kế hoạch 5 năm đổi mới 1986-1990:
Trước hết, Việt Nam về cơ bản vẫn là nền kinh tế thuần nông, với đa số dân số sống ở
nông thôn, trình độ phát triển thấp, trải qua cuộc đấu tranh gian khổ lâu dài giành độc lập
dân tộc suốt từ trong Chiến tranh thế giới thứ hai, đến cuộc kháng chiến chống Pháp 9 năm
và sau đó là cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước hơn 20 năm. Chính đặc điểm này đã
làm cho các nhà lãnh đạo Việt Nam và Đảng cộng sản Việt Nam chiếm được cảm tình của
nhân dân, vượt lên trên tất cả các lực lượng đối lập khác và khẳng định tính chính danh lãnh
đạo của mình trong lịch sử đấu tranh giành độc lập và bảo vệ tổ quốc hào hùng của dân tộc Việt Nam.
Trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, Đại hội lần thứ VI của Đảng đánh
dấu một bước chuyển hướng và đổi mới quan trọng trong sự lãnh đạo của Đảng trên mọi
lĩnh vực. Trong lĩnh vực kinh tế, đó là chuyển hướng về bố trí cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu lOMoAR cPSD| 45470709
tư, đổi mới các chính sách kinh tế và cơ chế quản lý, nhằm khai thác mọi tiềm năng của đất
nước, giải phóng năng lực sản xuất, tăng nhanh sản phẩm xã hội, thực hiện mục tiêu ổn
định tình hình kinh tế - xã hội, ổn định và cải thiện đời sống nhân dân.
Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã đề ra mục tiêu và nhiệm vụ
kinh tế, xã hội cho chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Báo cáo
này trình bày những phương hướng và mục tiêu chủ yếu về phát triển kinh tế, xã hội trong
5 năm 1986-1990, để chỉ đạo việc xây dựng kế hoạch 5 năm 1986-1990.
Báo cáo chính trị đã xác định các mục tiêu chủ yếu về kinh tế, xã hội cho những năm
còn lại của chặng đường đầu tiên là: sản xuất đủ tiêu dùng và có tích luỹ; bước đầu tạo ra
một cơ cấu kinh tế hợp lý nhằm phát triển sản xuất; xây dựng và hoàn thiện một bước quan
hệ sản xuất mới phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; tạo ra
chuyển biến tốt về mặt xã hội; bảo đảm nhu cầu củng cố quốc phòng và an ninh, tất cả nhằm
ổn định mọi mặt tình hình kinh tế - xã hội, tiếp tục xây dựng những tiền đề cần thiết cho
việc đẩy mạnh công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa trong chặng đường tiếp theo.
Báo cáo chính trị đề ra ba chương trình kinh tế lớn: lương thực - thực phẩm, hàng tiêu
dùng, hàng xuất khẩu. Ba chương trình này liên quan chặt chẽ với nhau, là cơ sở và tiền đề
cho nhau. Lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng là những điều kiện vật chất quan trọng
nhất để ổn định tình hình kinh tế - xã hội và đời sống nhân dân; xuất khẩu là một yếu tố có
ý nghĩa quyết định để thực hiện hai chương trình đó và các hoạt động kinh tế khác. Ba
chương trình lớn là cốt lõi của nhiệm vụ kinh tế, xã hội trong 5 năm 1986-1990, không
những có ý nghĩa sống còn trong tình hình trước mắt, mà còn là những điều kiện ban đầu
không thể thiếu được để triển khai công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa trong chặng đường tiếp theo.
Để thực hiện ba chương trình kinh tế lớn nói trên, tạo tiền đề đẩy mạnh công nghiệp
hoá xã hội chủ nghĩa trong chặng đường tiếp theo, cần phát triển một số ngành công nghiệp
nặng và kết cấu hạ tầng cần thiết phù hợp với khả năng trước mắt. Chúng ta kết hợp chặt
chẽ nông nghiệp với công nghiệp, bao gồm công nghiệp nhẹ và công nghiệp nặng, để từng
bước hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý. Ngoài ra, chuyển biến được tình hình giá cả, tài
chính, tiền tệ là một vấn đề phức tạp và khó khăn nhưng đây là một đòi hỏi vô cùng bức
xúc của tình hình. Khoa học, kỹ thuật cũng là một động lực thúc đẩy phát triển kinh tế và
xã hội, phải vận dụng khoa học kỹ thuật trong việc nghiên cứu chiến lược phát triển, xác
định các chủ trương, chính sách, tổ chức quản lý kinh tế và xã hội. Đặc biệt, cần tập trung
lực lượng khoa học kỹ thuật của cả nước nghiên cứu và nhanh chóng áp dụng các thành tựu
khoa học, kỹ thuật phục vụ ba chương trình lớn lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu.
Về đời sống nhân dân, cần giải quyết các vấn đề xã hội, từ việc làm đến đời sống vật
chất và văn hoá, bồi dưỡng sức dân, xây dựng các quan hệ xã hội tốt đẹp, lối sống lành
mạnh, thực hiện công bằng xã hội, với ý thức người lao động là lực lượng sản xuất lớn nhất,
là chủ thể của xã hội. Nhiệm vụ đặt ra là giảm cho được tỷ lệ tăng dân số, giải quyết công lOMoAR cPSD| 45470709
việc làm với mức cố gắng lớn nhất, thực hiện phân bố lại lao động, gắn lao động với khai
thác đất đai, phát triển ngành, nghề, vận động định canh, định cư, tinh giản biên chế hành
chính nhà nước, nhằm phát triển sản xuất, tăng năng suất lao động, nâng cao hiệu quả sản xuất xã hội.
Trong khi thực hiện các nhiệm vụ kinh tế, xã hội, chúng ta luôn luôn coi trọng bảo đảm
các nhu cầu củng cố quốc phòng an ninh, trước hết là nhu cầu thường xuyên về đời sống
và các hoạt động khác của lực lượng vũ trang; tổ chức tốt hơn hoạt động sản xuất, xây dựng
kinh tế của quân đội, góp phần xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật cho quốc phòng và kinh
tế, tự bảo đảm một phần nhu cầu của lực lượng vũ trang, góp thêm hàng hóa cho tiêu dùng xã hội và xuất khẩu.
Công cuộc đổi mới đã đạt được những thành tựu bước đầu rất quan trọng: GDP tăng
4,4%/năm; tổng giá trị sản xuất nông nghiệp tăng bình quân 3,8 - 4%/năm; công nghiệp
tăng bình quân 7,4%/năm, trong đó sản xuất hàng tiêu dùng tăng 13 -14%/năm; giá trị kim
ngạch xuất khẩu tăng 28%/năm. Việc thực hiện tốt ba chương trình mục tiêu phát triển về
lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu đã phục hồi được sản xuất, tăng
trưởng kinh tế, kiềm chế lạm phát,… Đây được đánh giá là thành công bước đầu cụ thể hóa
nội dung của công nghiệp hóa XHCN trong chặng đường đầu tiên. Sinh hoạt dân chủ trong
xã hội ngày càng được phát huy. Nông dân và phương thức hoạt động trong hệ thống chính
trị có một số đổi mới theo hướng phát huy dân chủ nội bộ và quyền làm chủ của nhân dân,
phát triển cùng quyền lực của các cơ quan dân cử, hiệu lực quản lý của chính quyền các cấp
được đề cao, bước đầu chỉnh đốn Đảng đi đôi với đổi mới sự lao động của đảng đối với nhà
nước và xã hội. Quốc phòng được giữ vững,an ninh quốc gia được đảm bảo từng bước phá
thế bao vây về kinh tế và chính trị,mở rộng quan hệ quốc tế tạo ra môi trường thuận lợi lớn
cho công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước.
Công cuộc đổi mới về thực chất là một cuộc cách mạng, có thành tựu, ưu điểm, tiến bộ
nhưng đồng thời cũng có nhiều khiếm khuyết, hạn chế, yếu kém. Đó là đất nước ta vẫn
chưa thoát khỏi khủng hoảng kinh tế-xã hội, nhiều vấn đề kinh tế xã hội nóng bỏng vẫn
chưa được giải quyết. Nền kinh tế còn mất cân đối lớn, lạm phát ở mức cao lao động còn
thiếu việc làm hiệu quả kinh tế thấp, nhiều cơ sở sản xuất bị đình đốn kéo dài,chưa có tích
lũy nội bộ nền kinh tế. Chế độ tiền lương bất hợp lý đời sống chủ yếu của nhiều người bằng
tiền lương (hoặc trợ cấp xã hội) và của một bộ phận nhân dân bị giảm sút. Tốc độ phát triển dân số còn cao.
II. Những thành tựu to lớn của đất nước sau 35 năm thực hiện đường lối đổi mới
do Đảng khởi xướng và lãnh đạo: Thành tựu:
Sự nghiệp đổi mới ở nước ta đang đi vào chiều sâu và đạt được những thành tựu to lớn.
35 năm đổi mới ở Việt Nam là giai đoạn lịch sử quan trọng đánh dấu sự trưởng thành mọi
mặt về sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Sự nghiệp đổi mới mang tầm vóc và ý
nghĩa cách mạng, là quá trình cải biến sâu sắc, toàn diện và triệt để, là sự nghiệp cách mạng lOMoAR cPSD| 45470709
to lớn mà Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo thực hiện thành công. Việt Nam đã đạt
được những thành tự to lớn, có ý nghĩa lịch sử, đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội và
tình trạng kém phát triển, trở thành nước đang phát triển, đang đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa và hội nhập quốc tế mạnh mẽ và sâu rộng. Kinh tế tăng trưởng cao và ổn định;
quốc phòng, an ninh được tăng cường; văn hóa, xã hội có bước phát triển mới; đời sống
nhân dân từng bước được nâng lên; Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và hệ thống
chính trị được củng cố; độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ và chế độ xã
hội chủ nghĩa được giữ vững. Quan hệ đối ngoại ngày càng mở rộng và đi vào chiều sâu.
Vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao.
Kinh tế: Đổi mới kinh tế và chính trị từ năm 1986 đã thúc đẩy phát triển kinh tế, nhanh
chóng đưa Việt Nam từ một trong những quốc gia nghèo nhất trên thế giới trở thành quốc
gia thu nhập trung bình thấp. Nếu như trong giai đoạn đầu đổi mới (19861990) mức tăng
trưởng GDP bình quân hàng năm chỉ đạt 4,4%, thì giai đoạn 1991-1995 GDP bình quân đã
tăng gấp đôi, đạt 8,2%/năm; các giai đoạn sau đó đều có mức tăng trưởng khá cao; giai
đoạn 2016-2019 đạt mức bình quân 6,8%. Liên tiếp trong 4 năm, từ năm 2016 - 2019, Việt
Nam đứng trong top 10 nước tăng trưởng cao nhất thế giới, là một trong 16 nền kinh tế mới
nổi thành công nhất. Đặc biệt, trong năm 2020, trong khi phần lớn các nước có mức tăng
trưởng âm hoặc đi vào trạng thái suy thoái do tác động của dịch COVID-19, kinh tế Việt
Nam vẫn tăng trưởng dương 2,91%, thuộc nhóm nước có tốc độ tăng trưởng cao nhất trong
khu vực và trên thế giới. Nếu như năm 1989 mới đạt 6,3 tỷ USD/năm, thì đến năm 2020 đã
đạt khoảng 268,4 tỷ USD/năm. Đời sống nhân dân cả về vật chất và tinh thần được cải thiện
rõ rệt, năm 1985 bình quân thu nhập đầu người năm 1985 mới đạt 159 USD/năm, thì đến
năm 2020 đạt khoảng 2.750 USD/năm. Từ 2002 đến 2018, GDP đầu người tăng 2,7 lần, đạt
trên 2.700 USD năm 2019, với hơn 45 triệu người thoát nghèo. Tỉ lệ nghèo giảm mạnh từ
hơn 70% xuống còn dưới 6% (3,2 USD/ngày theo sức mua ngang giá).
Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu của Việt Nam năm 2020 được xếp thứ 42/131 nước,
đứng đầu nhóm 29 quốc gia có cùng mức thu nhập. Xếp hạng về phát triển bền vững của
Việt Nam đã tăng từ thứ 88 năm 2016 lên thứ 49 năm 2020, cao hơn nhiều so với các nước
có cùng trình độ phát triển kinh tế.
Đối ngoại: 35 năm đổi mới cũng là một chặng đường hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng
trên nhiều cấp độ, đa dạng về hình thức, theo nguyên tắc và chuẩn mực của thị trường toàn
cầu của Việt Nam. Việt Nam đã thiết lập được nhiều quan hệ đối tác chiến lược về kinh tế.
Việt Nam đã thiết lập được nhiều quan hệ đối tác chiến lược về kinh tế; tích cực xây dựng
Cộng đồng ASEAN 2015 và hoàn thiện thị trường trong nước đầy đủ hơn theo cam kết
WTO. Đến nay, đã có 71 quốc gia công nhận nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường,
trong đó có các đối tác thương mại lớn của Việt Nam.
Từ khi gia nhập WTO đến nay, Việt Nam đã ký kết 15 FTA khu vực và song phương
và đang đàm phán 2 FTA với các đối tác khác. Các FTA mà Việt Nam tham gia có độ phủ
rộng hầu hết các châu lục với gần 60 nền kinh tế có tổng GDP chiếm gần 90% GDP thế
giới, trong đó có 15 nước thành viên G20 và 9/10 đối tác kinh tế - thương mại lớn nhất của lOMoAR cPSD| 45470709
Việt Nam thuộc 3 trung tâm kinh tế lớn nhất thế giới là Bắc Mỹ, Tây Âu và Đông Á. Do
đó, việc tham gia và thực thi các FTA sẽ mang lại những cơ hội lớn cho Việt Nam, tác động
tích cực tới phát triển kinh tế, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, doanh nghiệp và sản phẩm...
Việt Nam cũng là thành viên chủ động, tích cực và có trách nhiệm cao trong các tổ chức
quốc tế. Việt Nam đã tham gia vào ASEAN, APEC, các tổ chức của Liên hợp quốc... đóng
góp tích cực và đang trở thành nước có vị thế và vai trò ngày càng cao ở khu vực. Đặc biệt,
năm 2020, Việt Nam cùng lúc đảm nhận 3 trọng trách: Ủy viên không Thường trực Hội
đồng Bảo an Liên hợp quốc, Chủ tịch ASEAN và Chủ tịch AIPA. Trong bối cảnh vô cùng
khó khăn của đại dịch Covid-19 và những thiệt hại nặng nề do thiên tai bão lũ... song Việt
Nam đã hoàn thành tốt cả ba trọng trách, góp phần nâng cao uy tín, vị thế Việt Nam trong
khu vực và trên thế giới.
Văn hóa, xã hội: Hiện dân số của Việt Nam là hơn 97 triệu người, gồm 54 dân tộc, hơn
60% số dân sống ở nông thôn. Phát triển kinh tế đã giúp đất nước thoát khỏi tình trạng
khủng hoảng kinh tế - xã hội những năm 80 và cải thiện đáng kể đời sống của nhân dân.
Đến nay, hơn 60% số xã đạt chuẩn nông thôn mới. Việt Nam tập trung hoàn thành xóa mù
chữ, phổ cập giáo dục tiểu học vào năm 2000 và phổ cập giáo dục trung học cơ sở năm
2010; số sinh viên đại học, cao đẳng tăng gần 17 lần trong 35 năm qua. Hiện nay, Việt Nam
có 95% người lớn biết đọc, biết viết. Tuổi thọ trung binh tăng từ 62 tuổi (1990) lên 73,7
tuổi (2020). Chúng ta có điều kiện để chăm sóc tốt hơn những người có công, phụng dưỡng
các Bà Mẹ Việt Nam Anh hùng, chăm lo cho phần mộ của các liệt sĩ đã hy sinh cho Tổ
quốc. Hiện Việt Nam có khoảng 70% dân số sử dụng Internet, là một trong những nước có
tốc độ phát triển công nghệ tin học cao nhất thế giới. Năm 2019, chỉ số phát triển con người
(HDI) của Việt Nam đạt mức 0,704, thuộc nhóm nước có HDI cao của thế giới, nhất là so
với các nước có cùng trình độ phát triển.
Những thành tựu của công cuộc đổi mới kể trên là kết quả của quá trình phấn đấu liên
tục, bền bỉ của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII
của Đảng khẳng định: “Những thành tựu đó là sản phẩm kết tinh sức sáng tạo, là kết quả
của cả một quá trình nỗ lực phấn đấu bền bỉ, liên tục qua nhiều nhiệm kỳ của toàn Đảng,
toàn dân, toàn quân ta; tiếp tục khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của chúng ta
là đúng đắn, phù hợp với quy luật khách quan, với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển
của thời đại; đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo; sự lãnh đạo của Đảng là
nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.”. Trong bài phát biểu
nhân kỷ niệm 90 năm thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (1930 – 2020), Tổng Bí thư, Chủ
tịch nước Nguyễn Phú trọng đã nhấn mạnh: “Thực tiễn phong phú, sinh động của cách
mạng Việt Nam trong 90 năm qua đã chứng tỏ, sự lãnh đạo đúng đắn và sáng suốt của Đảng
là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam”. Hạn chế: lOMoAR cPSD| 45470709
Bên cạnh những thành tựu, mặt tích cực là cơ bản, chúng ta cũng còn không ít khuyết
điểm, hạn chế và đang phải đối mặt với những thách thức mới trong quá trình phát triển đất
nước. Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận còn bất cập, chưa làm rõ một số vấn
đề đặt ra trong quá trình đổi mới để định hướng trong thực tiễn, cung cấp cơ sở khoa học
cho hoạch định đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước. Lý luận về chủ
nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội còn có một số vấn đề phải qua tổng kết
thực tiễn để tiếp tục làm rõ.
Kinh tế: Kinh tế phát triển chưa bền vững, chưa tương xứng với tiềm năng, yêu cầu và
thực tế nguồn lực được huy động. Chất lượng, hiệu quả, năng suất lao động xã hội và năng
lực cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp. Phát triển thiếu bền vững cả về kinh tế, văn hóa,
xã hội và môi trường. Nhiều vấn đề bức xúc nảy sinh, nhất là các vấn đề xã hội và quản lý
xã hội chưa được nhận thức đầy đủ và giải quyết có hiệu quả; còn tiềm ẩn những nhân tố
và nguy cơ mất ổn định xã hội. Trên một số mặt, một số lĩnh vực, một bộ phận nhân dân
chưa được thụ hưởng đầy đủ, công bằng thành quả của công cuộc đổi mới. Năng lực và
hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị chưa ngang tầm nhiệm vụ.
Xã hội: khoảng cách giàu nghèo gia tăng; chất lượng giáo dục, chăm sóc y tế còn không
ít hạn chế; văn hóa, đạo đức xã hội có mặt xuống cấp; tội phạm và các tệ nạn xã hội diễn
biến phức tạp. Đặc biệt, tình trạng tham nhũng, lãng phí, suy thoái về tư tưởng chính trị và
đạo đức, lối sống vẫn diễn ra trong một bộ phận cán bộ, đảng viên. Trong khi đó, các thế
lực xấu, thù địch lại luôn tìm mọi thủ đoạn để can thiệp, chống phá, gây mất ổn định, thực
hiện âm mưu “diễn biến hòa bình” nhằm xóa bỏ chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Đối ngoại: Nguy cơ mà Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII của Đảng
(năm 1994) nêu lên vẫn tồn tại, có mặt diễn biến phức tạp, như nguy cơ "diễn biến hòa
bình" của các thế lực thù địch với những thủ đoạn mới tinh vi và thâm độc chống phá nước
ta và những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa". Niềm tin của cán bộ, đảng viên và
nhân dân vào Đảng, chế độ có mặt bị giảm sút. Đó là cuộc đấu tranh rất gay go, gian khổ,
đòi hỏi phải có tầm nhìn mới, bản lĩnh mới và sức sáng tạo mới. Đi lên theo định hướng xã
hội chủ nghĩa là một quá trình không ngừng củng cố, tăng cường, phát huy các nhân tố xã
hội chủ nghĩa để các nhân tố đó ngày càng chi phối, áp đảo và chiến thắng. Thành công hay
thất bại là phụ thuộc trước hết vào sự đúng đắn của đường lối, bản lĩnh chính trị, năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Bài học:
Cả lý luận và thực tiễn đều cho thấy, xây dựng chủ nghĩa xã hội là kiến tạo một kiểu xã
hội mới về chất, hoàn toàn không hề đơn giản, dễ dàng. Đây là cả một sự nghiệp sáng tạo
vĩ đại, đầy thử thách, khó khăn, một sự nghiệp tự giác, liên tục, hướng đích lâu dài, không
thể nóng vội. Sức mạnh nhân dân là cội nguồn sâu xa của thắng lợi, của phát triển.
Luôn luôn coi lợi ích quốc gia - dân tộc là tối thượng. Trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng
cần kiên định độc lập, tự chủ đồng thời chủ động và tích cực hội nhập quốc tế. Kết hợp phát
huy sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế lOMoAR cPSD| 45470709
nhằm tạo ra sức mạnh tổng hợp để phát triển đất nước nhanh và bền vững. Phát huy sức
mạnh toàn dân tộc là cơ sở để kết hợp sức mạnh thời đại, làm cho sức mạnh toàn dân tộc
mạnh hơn, dựa trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ,
không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng, cùng có lợi, xây dựng và bảo vệ
vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Công cuộc đổi mới là sự nghiệp vĩ đại, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết
định thành công của công cuộc đổi mới. Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
Đảng, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh là nhiệm vụ then chốt. Đảng phải thường
xuyên tự chỉnh đốn, tự đổi mới.
Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, là khâu then chốt trong công
tác xây dựng Đảng. Xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ
năng lực và phẩm chất, ngang tầm nhiệm vụ có ý nghĩa quyết định đến công tác xây dựng
Đảng trong sạch, vững mạnh, lãnh đạo thành công sự nghiệp đổi mới.
Sức mạnh của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng được bắt nguồn và nhân
lên từ sức mạnh của nhân dân. Phải luôn luôn quán triệt quan điểm "dân là gốc", vì lợi ích
của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy vai trò làm chủ, tinh thần trách nhiệm, sức sáng
tạo và mọi nguồn lực của nhân dân; phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc. Đây là bài
học về “nhân dân” và “phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc”. Củng cố, bồi dưỡng quan
hệ mật thiết giữa các tổ chức trong hệ thống chính trị, trước hết là mối quan hệ máu thịt
giữa Đảng với nhân dân, là vấn đề trọng đại, cấp thiết, có ý nghĩa sống còn đối với cách mạng Việt Nam.
Trong thế giới toàn cầu hóa như hiện nay, sự phát triển của mỗi quốc gia - dân tộc không
thể biệt lập, đứng bên ngoài những tác động của thế giới và thời đại, của thời cuộc và cục
diện của nó. Chính vì vậy, chúng ta phải chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, thực hiện
đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển, đa phương hóa, đa dạng
hóa các quan hệ quốc tế trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, không
can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng, cùng có lợi.
Và điều hết sức quan trọng là phải luôn luôn kiên định và vững vàng trên nền tảng tư
tưởng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin - học thuyết khoa học và cách mạng của giai cấp
công nhân và quần chúng lao động. Nó sẽ còn tiếp tục phát triển và có sức sống trong thực
tiễn cách mạng cũng như trong thực tiễn phát triển của khoa học. Chúng ta cần tiếp thu, bổ
sung một cách có chọn lọc trên tinh thần phê phán và sáng tạo những thành tựu mới nhất
về tư tưởng và khoa học để chủ nghĩa, học thuyết của chúng ta luôn luôn tươi mới, luôn
luôn được tiếp thêm sinh lực mới, mang hơi thở của thời đại, không rơi vào xơ cứng, trì trệ,
lạc hậu so với cuộc sống. Nhận xét:
Như vậy, có thể nói, việc thực hiện đường lối đổi mới đã đem lại những chuyển biến rõ
rệt, hết sức sâu sắc và tích cực ở Việt Nam: Kinh tế phát triển, lực lượng sản xuất được tăng lOMoAR cPSD| 45470709
cường; nghèo đói giảm nhanh, liên tục; đời sống nhân dân được cải thiện, nhiều vấn đề xã
hội được giải quyết; chính trị, xã hội ổn định, quốc phòng, an ninh được bảo đảm; đối ngoại
và hội nhập quốc tế ngày càng được mở rộng; thế và lực của quốc gia được tăng cường;
niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng được củng cố.
Tổng kết 20 năm đổi mới, Đại hội Đảng lần thứ X (năm 2006) đã nhận định, sự nghiệp
đổi mới đã giành được “những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử”. Trên thực tế, xét trên
nhiều phương diện, người dân Việt Nam ngày nay đang có các điều kiện sống tốt hơn so
với bất cứ thời kỳ nào trước đây. Đó là một trong những lý do giải thích vì sao sự nghiệp
đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo được toàn dân Việt Nam đồng
tình, hưởng ứng và tích cực phấn đấu thực hiện. Những thành tựu đổi mới tại Việt Nam đã
chứng minh rằng, phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa không những có hiệu quả
tích cực về kinh tế mà còn giải quyết được các vấn đề xã hội tốt hơn nhiều so với các nước
tư bản chủ nghĩa có cùng mức phát triển kinh tế.
Những kết quả, thành tích đặc biệt đạt được của Việt Nam trong bối cảnh đại dịch
COVID-19 và suy thoái kinh tế toàn cầu bắt đầu từ đầu năm 2020 được nhân dân và bạn bè
quốc tế ghi nhận, đánh giá cao, thể hiện tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Mới đây, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng một lần nữa lại khẳng định và
nhấn mạnh: “Qua 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, lý luận về đường lối đổi mới, về
chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng được hoàn thiện
và từng bước được hiện thực hóa. Chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa
lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện hơn so với những năm trước đổi mới. Với tất cả sự
khiêm tốn, chúng ta vẫn có thể nói rằng: Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực,
vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay.”
Những thành tựu to lớn qua 35 năm đổi mới đánh dấu một bước tiến chưa từng thấy
trên con đường xây dựng, phát triển đất nước, minh chứng thuyết phục cho tính chất ưu việt
của chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta đang xây dựng. Ý nghĩa to lớn của những
thành tựu đó không đơn thuần ở những con số mà quan trọng hơn là ở những nỗ lực cao
nhất mà Đảng và Nhà nước ta đã tập trung một cách hiệu quả trong một thời gian không
dài, trong những điều kiện rất khó khăn, phức tạp, để cải thiện và không ngừng nâng cao
đời sống mọi mặt cho nhân dân. Đó cũng là cơ sở niềm tin để khơi dậy khát vọng của nhân
dân ta về một xã hội xã hội chủ nghĩa phồn vinh, hạnh phúc, vì hạnh phúc của nhân dân. Tài liệu tham khảo:
1.Võ Hồng Phúc: Những thành tựu về kinh tế - xã hội qua 20 năm đổi mới(1986 2005),
trong Việt Nam 20 năm đổi mới, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2006, tr. 141
2.Võ Hồng Phúc: Những thành tựu về kinh tế - xã hội qua 20 năm đổi mới(1986 2005),
trong Việt Nam 20 năm đổi mới, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2006, tr. 143. lOMoAR cPSD| 45470709
3.http://baochinhphu.vn/Kinh-te/Kinh-te-Viet-Nam-20162019-va-dinh- huong2020/385934.vgp
4.https://baochinhphu.vn/Thoi-su/Mo-ra-giai-doan-moi-de-dat-nuoc-tien-xa-honnhan-
dan-am-no-hanh-phuc/421800.vgp
5.https://dangcongsan.vn/xay-dung-dang/niem-tin-moi-dong-luc-moi-573466.html
6.http://baochinhphu.vn/Khoa-hoc-Cong-nghe/Viet-Nam-giu-thu-hang-cao-ve-Chiso-
Doi-moi-sang-tao-toan-cau/405951.vgp
7.http://baochinhphu.vn/Kinh-te/Phat-trien-ben-vung-la-viec-phai-lam/416696.vgp
8.https://tienphong.vn/bao-phu-bao-hiem-y-te-dat-87-dan-so-post1366894.tpo
9.https://nhandan.com.vn/binh-luan-phe-phan/chi-so-phat-trien-con-nguoi-cua- vietnam-tang-vuot-bac-629395/
10.https://nhandan.com.vn/binh-luan-phe-phan/chi-so-phat-trien-con-nguoi-cua- vietnam-tang-vuot-bac-629395/
11.Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I,
Nxb. Chính trị quốc gia Sự Thật, Hà Nội, 2021, tr.25 - 26
12.https://dangcongsan.vn/xay-dung-dang/ky-niem-trong-the-90-nam-ngay-thanhlap-
dang-cong-san-viet-nam-547821.html