







Preview text:
lOMoAR cPSD| 57855709 CHƯƠNG 3:
3.1.1. Tổng quan về quan hệ pháp luật thừa kế có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam.
Pháp luật thừa kế có yếu tố nước ngoài là một bộ phận của tư pháp quốc tế. Bộ
phận pháp luật này được quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật quốc gia khác
nhau, trong các điều ước quốc tế liên quan mà quốc gia là thành viên trong đó có Việt
Nam, trong các án lệ liên quan của các nước, trong các nguồn pháp luật khác. Ở Việt
Nam, bộ phận pháp luật này được quy định, trước tiên, trong Bộ luật Dân sự và trong
các văn bản quy phạm pháp luật khác liên quan, ví dụ: trong Luật đất đai, Luật sở hữu
trí tuệ, Luật doanh nghiệp, Luật nhà ở, … Việt Nam cũng đã ký kết nhiều điều ước quốc
tế song phương liên quan trực tiếp đến vấn đề thừa kế có yếu tố nước ngoài, ví dụ: các
HĐTTTP, các hiệp định lãnh sự.
3.1.2. Các quy tắc giải quyết xung đột pháp luật về thừa kế theo pháp luật Việt Nam.
Pháp luật thừa kế có yếu tố nước ngoài của các nước và của Việt Nam quy định
khá phức tạp về thừa kế theo pháp luật. Tuy vậy, trong thực tiễn tư pháp, vấn đề thừa
kế theo pháp luật thường được đặt ra trong trường hợp thừa kế không có di chúc hoặc
thừa kế không có thỏa thuận cụ thể hợp pháp về thừa kế.
Đối với Việt Nam, vấn đề thừa kế theo pháp luật được quy định trong Bộ luật Dân sự,
Luật Sở hữu trí tuệ, Luật doanh nghiệp, Luật nhà ở và một trong những văn bản quy
phạm khác có liên quan. Theo quy định tại điều 680 Bộ luật dân sự năm 2015: “1. Thừa
kế được xác định theo pháp luật của nước mà người để lại di sản thừa kế có quốc tịch
ngay trước khi chết. 2. Việc thực hiện quyền thừa kế đối với bất động sản được xác định
theo pháp luật của nước nơi có bất động sản đó.”. Quy định này của Bộ luật dân sự 2015
cơ bản vẫn dữ lại những nội dung trước đây của Điều 767 Bộ luật Dân sự 2005.
Nội dung của Điều 680 của Bộ luật dân sự 2015 cơ bản là khá rõ ràng và phù
hợp với thông lệ tư pháp quốc tế và thực tiễn Việt Nam.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 4 Bộ luật dân sự 2015, Bộ luật dân sự là luật chung
điều chỉnh các quan hệ dân sự. Theo quy định tại khoản 1 Điều 663 Bộ luật dân sự 2015,
thì phần thứ năm của Bộ luật quy định về pháp luật áp dụng đối với quan hệ dân sự có
yếu tố nước ngoài. Trường hợp luật có quy định khác về pháp luật áp dụng đối với quan
hệ dân sự có yếu tố nước ngoài không trái với quy định từ Điều 664 đến Điều 671 của
Bộ luật dân sự năm 2015, thì luật đó được áp dụng, nếu trái thì quy định có liên quan
của Phần thứ năm của Bộ luật này được áp dụng.
Như vậy, đối với quan hệ thừa kế theo pháp luật có yếu tố nước ngoài, việt áp
dụng pháp luật về thừa kế theo pháp luật phải tuân thủ theo quy định tại Điều 680 nói
trên của Bộ luật dân sự 2015. Theo đó quan hệ thừa kế theo pháp luật, gồm nhiều nội
dung như xác định hàng thừa kế, diện thừa kế, phân chia tài sản thừa kế (gồm cả động
sản và bất động sản)... đều phải tuân theo pháp luật của nước nơi người để lại tài sản
thừa kế là công dân ngay trước khi chết. Việc thực hiện quyền thừa kế đối với bất động
sản ở Việt Nam được xác định theo khoản 2 Điều 680 Bộ luật dân sự 2015, phù hợp với lOMoAR cPSD| 57855709
các quy định của pháp luật Việt Nam. Điều này có nghĩa rằng người hưởng di sản thừa
kế hay người có quyền thừa kế thực hiện quyền thừa kế đối với bất động sản như thế
nào, có được sở hữu đối với di sản thừa kế hay không hoàn toàn do pháp luật của nước
nước nơi có bất động sản quy định Nếu bất động sản ở Việt Nam thì phải tuân theo pháp
luật Việt Nam. Trường hợp pháp luật Việt Nam có hạn chế người nước ngoài sở hữu bất
động sản hoặc họ chỉ có quyền sở hữu bất động sản với các điều kiện nhất định thì quy
định đó phải được tôn trọng. Việc xác định một di sản thừa kế là bất động sản hoặc động
sản phải được xác định theo Điều 677 Bộ luật dân sự 2015 phù hợp với Pháp luật nước
ngoài nơi có di sản thừa kế đó.
Trong trường hợp người để lại di sản thừa kế không có quốc tịch hoặc có hai hay
nhiều quốc tịch nước ngoài thì việc xác định pháp luật áp dụng về thừa kế theo pháp
luật phải tuân theo quy định tại Điều 672 Bộ luật dân sự 2015. Theo đó trong trường
hợp pháp luật được dẫn chiếu đến là pháp luật của nước mà cá nhân của quốc tịch nhưng
cá nhân đó là người không quốc tịch thì pháp luật áp dụng là pháp luật của nước nơi
người đó cư trú vào thời điểm phát sinh quan hệ dân sự có yếu tố nước nước ngoài. Nếu
người đó có nhiều nơi cư trú hoặc không xác định được nơi cư trú vào thời điểm phát
sinh quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài thì pháp luật áp dụng là pháp luật của nơi
người đó có mối liên hệ gắn bó nhất.
Trong trường hợp pháp luật được dẫn chiếu đến là pháp luật của nước mà cá nhân
có quốc tịch nhưng cá nhân đó là người có nhiều quốc tịch thì pháp luật áp dụng là pháp
luật của nơi người đó có quốc tịch và cư trú vào thời điểm phát sinh quan hệ dân sự có
yếu tố nước ngoài. Nếu người đó có nhiều nơi cư trú hoặc không xác định được nơi cư
trú hoặc nơi cư trú và nơi có quốc tịch khác nhau vào thời điểm phát sinh quan hệ dân
sự ở yếu tố nước ngoài thì pháp luật áp dụng là pháp luật của nước mà người đó có quốc
tịch và có mối hệ gắn bó lâu nhất.
Trong trường hợp pháp luật được dẫn chiếu đến là pháp luật của nước mà cá nhân có
quốc tịch, nhưng cá nhân đó là người có nhiều quốc tịch trong đó có quốc tịch Việt Nam
thì pháp luật áp dụng là pháp luật Việt Nam.
Việc áp dụng pháp luật nước ngoài theo dẫn chiếu của pháp luật dân sự Việt Nam
để giải quyết vấn đề thừa kế có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam phải tuân theo các quy
định tại Phần thứ năm Bộ luật dân sự 2015. Theo quy định tại Điều 670 Bộ luật dân sự
2015 pháp luật nước ngoài được dẫn chiếu đến không được áp dụng trong trường hợp
sau đây: (1) Hậu quả của việc áp dụng pháp luật nước ngoài trái với các nguyên tắc cơ
bản của pháp luật Việt Nam. (2) Nội dung của pháp luật nước ngoài không xác định
được mặc dù đã sử dụng các biện pháp cần thiết theo quy định của pháp luật tố tụng.
Trong trường hợp pháp luật nước ngoài không áp dụng theo một trong hai trường hợp
nêu trên thì pháp luật Việt Nam được áp dụng. Trong trường hợp pháp luật nước ngoài
được áp dụng nhưng có cách hiểu khác nhau thì theo Điều 667 Bộ luật dân sự 2015 việc
áp dụng phải theo sự giải thích của cơ quan có thẩm quyền tại nước ngoài đó
Liên quan đến các quy định trên của Bộ luật dân sự 2015, phần thứ tám Bộ luật
dân sự năm 2015 trong các trường hợp áp dụng pháp luật đối với người không quốc lOMoAR cPSD| 57855709
tịch, người nước ngoài có hai hay nhiều quốc tịch nước ngoài theo quy định của bộ luật
dân sự thì đương sự có nghĩa vụ chứng minh trước cơ quan có thẩm quyền của Việt
Nam về mối quan hệ gắn bó nhất của mình về quyền và nghĩa vụ công dân với hệ thống
pháp luật của nước được yêu cầu áp dụng. Trong trường hợp đương sự không chứng
minh được về mối quan hệ gắn bó nhất về quyền và nghĩa vụ công dân của mình đối
với hệ thống pháp luật được yêu cầu thì pháp luật Việt Nam được áp dụng. Vấn đề thừa
kế cũng được đề cập đến trong các mặt khác của Việt Nam. Ví dụ, Điều 40 luật sở hữu
trí tuệ 2005 sửa đổi bổ sung năm 2009 quy định: "Tổ chức, cá nhân được thừa kế quyền
tác giả theo quy định của pháp luật thừa về thừa kế ..." Khoản 4 Điều 186 Luật này quy
định "để thừa kế, kế thừa quyền đối với giống cây trồng ... theo quy định tại Chương XV của Luật này".
Luật đất đai 2013 có nhiều quy định liên quan đến thừa kế quyền sử dụng đất có
yếu tố nước ngoài. Ví dụ, khoản 1 Điều 167 Luật này quy định: "Người sử dụng đất
được thực hiện các quyền... thừa kế... quyền sử dụng đất theo quy định của Luật này".
Điểm d khoản 1 Điều 169 Luật này quy định: "Người Việt Nam định cư ở nước ngoài
thuộc diện được sở hữu nhà ở tại Việt Nam theo quy định của pháp luật về nhà ở được
nhận... thừa kế... nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở...". Điểm b khoản 2 Điều 186
Luật này quy định tiếp: "Người Việt Nam định cư ở nước ngoài được sở hữu nhà ở gắn
liền với quy định sử dụng đất ở Việt Nam có quyền... để thừa kế... nhà ở cho tổ chức,
cá nhân trong nước, người Việt Nam định cư ở nước ngoài thuộc diện được sở hữu nhà
ở tại Việt Nam để ở... Trường hợp tặng cho, để thừa kế cho đối tượng không thuộc diện
được sở hữu nhà ở tại Việt Nam thì đối tượng này thấy được hưởng giá trị của nhà ở
gắn liền với quyền sử dụng đất ở".
Nhiều quy định của Luật doanh nghiệp 2014 đề cập đến vấn đề thừa kế. Ví dụ,
khoản 1 Điều 54 luật này quy định: "Trường hợp thành viên là cá nhân chết thì người
hưởng thế kế theo... pháp luật của thành viên đó là người thành viên của công ty". Khoản
3 Điều 77 luật này quy định: "Trường hợp chủ sở hữu công ty là cá nhân chết thì người
thừa kế theo pháp luật là chủ sở hữu hoặc thành viên của công ty". Khoản 3
Điều 126 quy định: "Trường hợp cổ đông là cá nhân chết thì người thừa kế theo...
pháp luật của cổ đông đó là cổ đông của công ty"...
Mặc dù các quy định trên của luật quốc nội của Việt Nam không phải là các quy
phạm của tư pháp quốc tế, nhưng khi các quan hệ từ kể có yếu tố nước ngoài phát sinh
và luật áp dụng lại là luật Việt Nam thì các quy định tương ứng trong các lĩnh vực liên
quan kể trên sẽ được áp dụng.
3.3.3. Các quy tắc giải quyết xung đột pháp luật về thừa kế theo di chúc.
Trong thực tiễn tư pháp quốc tế xuất hiện hàng loạt các vấn đề xung đột pháp
luật liên quan trực tiếp đến chế định pháp luật thừa kế theo di chúc. Trong số những vấn
đề xung đột pháp luật đó, vấn đề xung đột pháp luật về năng lực hành vi lập di chúc,
thay đổi, hủy bỏ di chúc và vấn đề xung đột pháp luật về hình thức của di chúc luôn
được quan tâm chú ý giải quyết. Pháp luật và thực tiễn các nước và Việt Nam khác nhau lOMoAR cPSD| 57855709
về quy tắc và cách thức giải quyết xung đột pháp luật liên quan trực tiếp đến chế định
pháp luật thừa kế theo di chúc.
Đối với Việt Nam điều 681 bộ luật dân sự 2015 quy định:
Nghiên cứu Điều 681 Bộ luật dân sự 2015 cho thấy nội dung Điều luật này đã kế
thừa về cơ bản và phát triển tiếp tục các quy định của điều 768 bộ luật dân sự 2005 quy
định về thừa kế theo di chúc, theo đó "1. Năng lực lập di chúc, thay đổi và hủy bỏ di
chúc phải tuân theo pháp luật của nước mà người lập di chúc là công dân. 2. Hình thức
của di chúc phải tuân theo pháp luật của nước nơi lập di chúc". Nội dung của điều 681
bộ luật dân sự 2015 cơ bản là khá rõ ràng, phù hợp với hệ thống tư pháp quốc tế và có
cân nhắc đến thực tiễn Việt Nam.
Bên cạnh các quy định nêu trên của Điều 681 Bộ luật dân sự 2015, cũng cần chú
ý đến các quy định khác liên quan đến vấn đề này mà trước tiên là các quy định của Bộ
luật dân sự 2015 liên quan đến vấn đề thừa kế theo pháp luật nêu trên. Theo đó, thứ
nhất, đó là quy định tại khoản 1 Điều 681 Bộ luật dân sự 2015 về năng lực lập di chúc
thay đổi hoặc hủy bỏ di chúc được sát thủ theo pháp luật của nước mà người lập di chúc
của quốc tịch tại thời điểm lập, thay đổi hoặc hủy bỏ di chúc. Thứ hai, đó là quy định
tại câu đầu khoản 2 Điều 681 Bộ luật dân sự 2015 về hình thức của di chúc được xác
xác định theo pháp luật của nước nơi di chúc độc lập. Tuy vậy, việc áp dụng pháp luật
nước ngoài để công nhận tính hợp thức của di chúc cũng cần chú ý đến các quy định
của phần thứ năm Bộ luật dân sự 2015 về áp dụng/không áp dụng pháp luật nước ngoài.
Thứ ba, đối với những trường hợp phát triển quy tắc nêu trên, việc áp dụng quy tắc nơi
cư trú quy tắc quốc tịch và quy tắc nơi có bất động sản để công nhận tính hợp thức của
di chúc tại Việt Nam cũng cần cân nhắc để thực hiện các nước thực thi Công ước Haye
1961 về xung đột Pháp Luật liên quan đến hình thức của di chúc. Tuy vậy cũng cần chú
ý di chúc của người Việt Nam lập ở nước ngoài được công nhận là hợp thức tại Việt
Nam nếu tuân theo các quy định của pháp luật Việt Nam về hình thức của di chúc.
Việc thừa kế theo di chúc cũng được quy định trong nhiều văn bản quy phạm
pháp luật khác nhau. Ví dụ, Luật đất đai 2013 như đã nêu trên có nhiều quy định liên
quan đến thừa kế quyền sở hữu đất có yếu tố nước ngoài. Điểm d khoản 1 Điều 169
Luật này quy định: "Người Việt Nam định cư ở nước ngoài thuộc diện được sở hữu nhà
ở tại Việt Nam theo quy định của pháp luật về nhà ở được nhận... thừa kế... nhà ở gắn
liền với quyền sử dụng đất ở...". Điểm b khoản 2 Điều 186 Luật này quy định tiếp:
"Người Việt Nam định cư ở nước ngoài được sở hữu nhà ở gắn liền với quyền sở hữu
đất ở tại Việt Nam có các quyền... để thừa kế... nhà ở cho tổ chức, cá nhân trong nước,
người Việt Nam định cư ở nước ngoài thuộc diện được sở hữu nhà ở tại Việt Nam để ở...".
3.2. Tổng hợp các quy định pháp luật về quan hệ thừa kế trong các văn bản pháp
lý quốc tế và khu vực.
3.2.1. Điều ước quốc tế đa phương và khu vực. lOMoAR cPSD| 57855709
Đáng chú ý nhất trong các điều ước quốc tế là hệ thống các công ước quốc tế
được soạn thảo và thông qua trong khuân khổ Hội nghị La Haye về tư pháp quốc tế.
Bao gồm : Công ước La Haye 1961 về xung đột pháp luật liên quan đến hình thức di
chúc; Công ước La Haye 1973 về quản lý quốc tế bất động sản của người đã chết; Công
ước La Haye 1989 về pháp luật áp dụng cho vấn đề thừa kế bất động sản của người đã
chết. Bên cạnh đó, còn có Công ước Washington 1973 về pháp luật thống nhất đối với
hình thức di chúc quốc tế.
Tiêu biểu nhất trong các điều ước quốc tế có tính khu vực đó là: Bộ luật
Bustamante về thư pháp quốc tế được các nước Mỹ - La tinh thông qua 1928 tại Hội
nghị lần thứ 6 toàn châu Mỹ được tiến hành tại thủ đô của CuBa. Với tư cách là phụ
lục của Hiệp ước Havana.
Công ước La Haye 1961 về xung đột pháp luật liên quan đến hình thức di chúc
được thông qua tại La Haye ngày 05/10/1961. Trên thực tế Công ước là sự tổng hợp và
ghi nhận tất cả các quy tắc giải quyết xung đột pháp luật liên quan đến hình thức di chúc
mà các nước đã và đang sử dụng trong thực tiễn tư pháp quốc tế. Theo đó tùy thuộc vào
từng trường hợp cụ thể, các nước có thể áp dụng pháp luật của nước mà người lập di
chúc có quốc tịch vào thời điểm lập di chúc. Hoặc áp dụng pháp luật mà người lập di
chúc có nơi cư trú chính. Tuy vậy công ước cũng cho phép áp dụng pháp luật của nước
nơi có di sản là bất động sản của người lập di chúc hoặc nước có mối quan hệ gắn bó
mật thiết nhất với người lập di chúc. Đáng chú ý nhất là cá nhân có quyền lựa chọn hệ
thống pháp luật mà được suy luận là thích hợp nhất trong trường hợp cụ thể để lập di
chúc. Mặt khác công ước cũng quy định việc áp dụng các quy tắc khác nhau để giải
quyết xung đột ở đây không lệ thuộc vào các yêu cầu có đi có lại trong quan hệ tư pháp quốc tế.
Công ước La Haye 1973 về quản lý quốc tế bất động sản của người đã chết;
Công ước La Haye 1989 về pháp luật áp dụng cho vấn đề thừa kế bất động sản của
người đã chết được thông qua ngày 02/10/1973. Nội dung công ước là những quy định
về việc chứng thực quốc tế trong việc xác lập những người được quản lý bất đọng sản
của người đã chết. Cụ thể giấy chúng thực này phải do cơ quan có thẩm quyền của nước
nơi người chết thường trú trước khi chết được lập theo quy định của nước này. Tuy vậy,
Công ước cũng cho phép áp dụng pháp luật của nước mà người đã chết có quốc tịch vào
thời điểm chết. Để áp dụng pháp luật như vậy, cơ quan có thẩm quyền của nước mà
người đã chết có quốc tịch vào thời điểm chết và cơ quan có thẩm quyền của nước nơi
chết thường trú phải có thống nhất chung về vấn đề này. Việc cho phép áp dụng pháp
luật của nước mà người đã chết có quốc tịch vào thời điểm chết cũng được áp dụng khi
người này cư trú ở nước lập giấy chứng thực chưa đến 05 năm ngay trước ngày từ trần.
Giấy chứng thực này cho phép người nắm giữ có quyền tuyên bố áp dụng các biện pháp
cần thiết để bảo vệ bất động sản của người đã chết kể từ ngày giấy chứng thực này có hiệu lực. lOMoAR cPSD| 57855709
Công ước La Haye 1989 về pháp luật áp dụng cho vấn đề thừa kế bất động sản
của người đã chết được thông qua ngày 01/08/1989. Nội dụng công ước này cho phép
khả năng lựa chọn pháp luật có quan hệ gắn bó nhất để điều chỉnh vấn đề thừ kế bất
động sản. Hình thức của tuyên bố thừa kế cũng như nội dung của tuyên bố đó được xác
định theo pháp luật của nước nơi lập tuyên bố đó. Công ước cho phép các bên liên quan
lập thỏa thuận về việc thừa kế, về thời điểm phát sinh quan hệ thừa kế, về cách thức
thay đổi và chấm dứt quan hệ thừa kế đói với di sản là bất động sản. Công ước đã khẳng
định mối quan hệ qua lại rõ ràng giữa pháp luật của nước mà người đã để lại di sản
muốn di sản của mình được tuân theo và phạm vi di sản thừa kế. Công ước này cũng có
những quy định để phòng ngừa những hậu quả có thể phát sinh từ các động cơ kinh tế,
xã hội, chính trị liên quan đến việc thừa kế đó.
Công ước Washington 1973 về pháp luật thống nhất đối với hình thức di chúc
quốc tế thông qua ngày 26/10/1973. Công ước là sản phẩm của hoạt động nhất thể hóa
pháp luật theo hướng tạo lập các quy phạm thực chất thống nhất trong lĩnh vực hình
thức di trúc quốc tế, nhằm đưa ra một khuân mẫu chung về hình thức di chúc quốc tế.
Công ước đã đưa ra hai nhóm yêu cầu đối với các nước thamhf viên đã tham gia công ước:
Thứ nhất, các nước thành viên phải nội luật hóa các quy tắc về lập di trúc quốc
tế được ghi nhận cụ thể trong Công ước này và Phụ lục 1 đính kèm Công ước với những
thay đổi cần thiết phù hợp với thực tiễn quốc gia. Hoặc áp dụng trực tiếp các quy tắc
về lập di trúc quốc tế được ghi nhận cụ thể trong Công ước này và Phụ lục 1 đính kèm Công ước.
Thứ hai, các nước thành viên Công ước phải thiết lập định chế những người có
thẩm quyền trong lĩnh vực này. Ở ngoài nước có thể giao cho viên chức cơ quan lãnh
sự hoặc viên chức cơ quan đại diện ngoại giao. Theo nội dung Công ước di chúc phải
do chính tay người lập di chúc lập ra và phải có chữ kí của chính người lập di chúc.
Người lập di chúc quốc tế phải công bố về việc lập di chúc đó trước ít nhất hai người
làm chứng và người có thẩm quyền trong lĩnh vực này. Tuy nhiên người làm chứng và
người có thẩm quyền không nhất thiết phải biết nội dung di chúc. Trong trường hợp
người lập di chúc không thể kí vào bản di chúc thì phải thông báo ủy quyền cho người
có thẩm quyền trong lĩnh vực này kí thay vào di chúc theo pháp luật của nước sở tại nơi
có người có thẩm quyền trong lĩnh vực này.
3.2.2. Điều ước quốc tế song phương.
Vấn đề thừa kế luôn được quan tâm giải quyết trong nhiều hiệp định, đặc biệt là
các hiệp định song phương về tương trợ pháp lý và hiệp định lãnh sự mà Việt Nam là
thành viên. Vấn đề này thường được dành ra một chương, một mục riêng hoặc một số
điều cụ thể để quy định những vấn đề quy định cụ thể về những xung đột pháp luật và
xung đột quyền tài phán dân sự trong lĩnh vực thừa kế của công dân các nước kí kết hiệp định. lOMoAR cPSD| 57855709
Nội dung ý chí cơ bản của các hiệp định thường bao gồm một một số điều cơ bản sau:
Thứ nhất, nguyên tắc bình đẳng trong lĩnh vực thừa kế. Nguyên tắc này thường
được khẳng định trong các quy định đầu tiên của các chương, mục; nhóm, điều khoản
cụ thể về vấn đề thừa kế trong các các Hiệp định tương trợ pháp lý này. Ví dụ:
Điều 34 Hiệp định với Tiệp Khắc được Séc và Xlovakia kế thừa.
Điều 33 Hiệp định với Cuba.
Điều 42 Hiệp định với Hungary.
Điều 35 Hiệp định với Lào.
Điều Điều 38 Hiệp định với Cộng hòa Liên bang Nga...
Theo đó “công dân của các nước kí kết này được hưởng thừa kế trên lãnh thổ
của đất nước kia như công dân nước kí kết kia” , tức là các nước kí kết hiệp định thừa
nhận nguyên tắc không phân biệt đối xử, mà trước tiên là quy chế “đãi ngộ quốc gia”,
trong lĩnh vực thừa kế có yếu tố nước ngoài.
Thứ hai, thừa kế tài sản theo pháp luật. Đây là nội dung luôn được quan tâm giải
quyết và được quy định rõ ràng trong các Hiệp định tương trợ pháp lý. Ví dụ:
Điều 35 Hiệp định với Tiệp Khắc được Séc và Xlovakia kế thừa.
Điều 34 Hiệp định với Cuba.
Điều 43 Hiệp định với Hungary.
Điều 36 Hiệp định với Lào.
Điều Điều 39 Hiệp định với Cộng hòa Liên bang Nga...
Theo các quy định trên, pháp luật để áp dụng để giải quyết vấn đề thừa kế động
sản là pháp luật của nước kí kết mà người để lại động sản thừa kế là công dân tại thời
điểm người đó chết. Pháp luật để áp dụng để giải quyết vấn đề thừa kế bất động sản là
pháp luật nước kí kết nơi có bất động sản thừa kế.
Việc phân biệt di sản là bất động sản hay động sản cũng được quy định rất rõ
ràng trong các Hiệp định trên: Ví dụ:
Điều 35.3 Hiệp định với Tiệp Khắc được Séc và Xlovakia kế thừa.
Điều 34.3 Hiệp định với Cuba.
Điều 43.3 Hiệp định với Hungary.
Điều 36.3 Hiệp định với Lào.
Điều Điều 39.3 Hiệp định với Cộng hòa Liên bang Nga...
Thứ ba là vấn đề thừa kế theo di chúc,cũng được quan tâm và được quy định rõ
ràng trong các Hiệp định tương trợ pháp lý. Ví dụ:
Điều 36 Hiệp định với Tiệp Khắc được Séc và Xlovakia kế thừa.
Điều 35 Hiệp định với Cuba.
Điều 44 Hiệp định với Hungary.
Điều 37 Hiệp định với Lào. lOMoAR cPSD| 57855709
Điều Điều 40 Hiệp định với Cộng hòa Liên bang Nga...
Theo đó vấn đề thừa kế theo di trúc được thừa nhận. Xung đột pháp luật trong
lĩnh vực thừa kế theo di chúc được giải quyết thống nhất theo các nguyên tắc xung đột
pháp luật nhất định được các nước kí kết đưa vào hiệp định cụ thể.
Về cơ bản, hình thức của di chúc công dân các nước kí kết này được coi là hợp
pháp theo pháp luật nước kí kết kia. Nếu di chúc được lập, hủy bỏ phù hợp với pháp
luật của nước ký kết nơi lập, hủy bỏ di chúc đó hoặc phù hợp với pháp luật của nước
nước kí kết mà người để lại di sản là công dân vào thời điểm lập, hủy bỏ di chúc hoặc
vào thời điểm người đó chết. Hoặc phù hợp với pháp luật của nước nước kí kết nơi
người để lại di sản cư trú trong thời gian lập, hủy bỏ di chúc hoặc ngay trước khi chết.
Năng lực lập, hủy bỏ di chúc và hậu quả pháp lý của những sai sót về thể hiện ý
chí của người để lại di chúc được xác định theo pháp luật của nước kí kết mà người lập,
hủy bỏ di chúc là công dân vào thời điểm lập, hủy bỏ di chúc.
Thứ tư, vấn đề thừa kế đối với di sản của công dân nước kí kết này chết tại nước
kí kết mà không có người thừa kế theo pháp luật hoặc theo di chúc hợp pháp. Cũng
được quy định trong các Hiệp định tương trợ pháp lý rất rõ ràng. Theo đó, động sản
không có người thừa kế sẽ được chuyển giao nước kí kết mà người để lại di sản là công
dân vào thời điểm chết. Bất động sản không có người thừa kế sẽ thuộc về nước kí kết
nơi có bất động sản đó.
Ngoài ra, các Hiệp định tương trợ pháp lý cũng có các quy định điều chỉnh vấn
đề liên quan đến thẩm quyền giải quyết các vấn đề thừa kế và một số vấn đề khác.