/27
lOMoARcPSD| 61630826
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Chủ nghĩa Mác - Lênin là một trong những hệ tư tưởng chính trị có ảnh hưởng sâu rộng
và lâu dài nhất trong lịch sử cận - hiện đại. Tư tưởng này ra đời trong bối cảnh các mâu
thuẫn xã hội dưới chế độ tư bản chủ nghĩa ngày càng gay gắt, đặc biệt là sự đối lập giữa
giai cấp tư sản và giai cấp vô sản. Với hệ thống lý luận chặt chẽ, mang tính cách mạng
khoa học, Chủ nghĩa Mác - Lênin đã vượt qua những quan điểm hội chủ nghĩa
không tưởng trước đó, trở thành kim chỉ nam cho phong trào cộng sản công nhân
quốc tế. Sự vận dụng phát triển tưởng Mác - Lênin đã góp phần làm nên thành
công của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917, cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa đầu
tiên trong lịch sử loài người từ đó lan tỏa sang nhiều khu vực trên thế giới, đặc biệt
là Đông Âu, Châu Á, Mỹ Latinh và châu Phi.
Trong suốt thế kỷ XX, Chủ nghĩa Mác - Lênin không chỉ được tiếp thu triển khai
dưới hình thức hình hóa nhà nước hội tại Liên Xô, Trung Quốc, Việt Nam,
Cuba,... còn ảnh ởng mạnh mẽ đến phong trào giải phóng dân tộc sự hình thành
các thể chế chính trị mang tính chất xã hội chủ nghĩa tại nhiều quốc gia đang phát triển.
Thực tiễn lịch sử chứng minh rằng,tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau, tư tưởng
chính trị của Chủ nghĩa Mác - nin vẫn giữ được vai trò định hướng trong việc xây
dựng hệ thống chính trị, thiết chế nhà nước, tchức đảng xác định chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội của các quốc gia xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện
nay, khi thế giới đang trải qua những biến động mạnh mẽ của toàn cầu hóa, kinh tế thị
trường, sự chuyển dịch địa chính trị toàn cầu, việc nhìn lại nghiên cứu lại hệ
tưởng Mác - Lênin trong tính chất chính trị của nó là điều vô cùng cần thiết. Không chỉ
để hiểu rõ hơn về quá khứ và những bài học từ thực tiễn, mà còn để phân tích ch thức
các quốc gia hội chủ nghĩa hiện nay đã đang điều chỉnh duy luận, hình
tổ chức chính trị kinh tế để thích nghi với thời đại mới. Đối với sinh viên những
người đang nghiên cứu lĩnh vực chính trị học, việc bước đầu tìm hiểu hệ thống tư tưởng
chính trị của Chủ nghĩa Mác - Lênin không chỉ mang ý nghĩa lý luận cơ bản, mà còn có
giá trị thực tiễn khi nhìn vào vai trò của hệ ởng này trong tiến trình lịch sử chính
trị xã hội của nhân loại. Đây chính là lý do em lựa chọn đề tài: “Bước đầu tìm hiểu
về tư tưởng chính trị của Chủ nghĩa Mác - Lênin và ảnh hưởng đến các quốc gia xã hội
chủ nghĩa, với mong muốn làm các luận điểm cốt lõi trong hệ tư ởng này, đồng
thời soi chiếu chúng trong thực tiễn phát triển của các quốc gia hội chủ nghĩa tiêu
biểu. 2. Các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài
tưởng chính trị của Chủ nghĩa Mác - Lênin từ lâu đã trở thành một trong những hệ
tư tưởng có ảnh hưởng sâu rộng nhất trong lịch sử nhân loại hiện đại, không chỉ về mặt
triết học, lý luận mà còn trong thực tiễn vận hành và xây dựng mô hình chính trị xã hội
tại nhiều quốc gia. Vì vậy, đã có nhiều công trình nghiên cứu của các học giả đi sâu vào
phân tích, lý giải những nội dung cốt lõi của hệ tư tưởng này dưới nhiều góc nhìn khác
nhau.
lOMoARcPSD| 61630826
Một trong những công trình tiêu biểu thể kể đến bài viết của Nguyễn Thế Nghĩa
(2013) với bài viết “Sức sống của Chủ nghĩa Mác - Lênin trong thời đại ngày nay”,
đăng trên Tạp chí Khoa học hội Việt Nam, số 10. Tác giả nhấn mạnh rằng, thế
giới đang chứng kiến những biến động lớn về chính trị, kinh tế, ởng, song hệ
tưởng của Mác - Lênin vẫn chứng tỏ được sức sống mãnh liệt của mình. Bài viết không
chỉ phân ch những luận điểm cốt lõi mà còn đi sâu giải tính linh hoạt khả năng
thích nghi của chủ nghĩa Mác - Lênin khi được vận dụng vào thực tiễn các nước xã hội
chủ nghĩa. Đặc biệt, tác giả nhấn mạnh vai trò định hướng, tổ chức lãnh đạo của
Đảng Cộng sản trong quá trình cải biến xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Tiếp đến, công trình nghiên cứu của Phạm Thanh Hà (2022) với bài viết “Chủ nghĩa
hội - Tương lai của thế giới”, đăng trên Tạp chí Giáo dục Lý luận, số 335 + 336, đã mở
rộng hướng tiếp cận bằng cách so sánh sự vận dụng tư tưởng Mác - Lênin tại nhiều quốc
gia. Tác giả lập luận rằng chủ nghĩa hội không còn chỉ một tưởng của thế kỷ
XIX, mà là một xu hướng hiện thực trong thế kỷ XXI, thể hiện rõ qua sự điều chỉnh
luận và chính sách của các quốc gia như Trung Quốc, Việt Nam, Cuba. Qua đó, bài viết
cũng chỉ ra mối liên hệ giữa tư tưởng Mác - Lênin và sự đổi mới mô hình phát triển tại
các ớc hội chủ nghĩa, đặc biệt trong bối cảnh toàn cầu hóa, cạnh tranh chiến
lược và các thách thức xã hội mới.
Ngoài ra, nhiều bài viết, luận văn công trình chuyên khảo của các tác giả như Trần
Văn Giàu, Nguyễn Phú Trọng, Nguyễn Viết Thông, Hữu Nghĩa... đã góp phần hệ
thống hóa phát triển luận Mác - Lênin trong bối cảnh Việt Nam thế giới hiện
đại. Các công trình này không chỉ tập trung vào việc diễn giải nội dung bản của
tưởng chính trị Mác - Lênin mà còn đi sâu vào việc làm rõ phương pháp vận dụng linh
hoạt trong từng điều kiện cụ thể. Tuy nhiên, phần lớn các nghiên cứu vẫn còn mang tính
chuyên đề đơn lẻ, tập trung vào một hoặc i khía cạnh cụ thể, trong khi còn thiếu những
nghiên cứu tổng hợp, so sánh đối chiếu sự vận dụng tưởng chính trị của Chủ nghĩa
Mác - Lênin trong các hình nhà nước hội chủ nghĩa tiêu biểu. Việc đánh giá vai
trò của các nước như Liên Xô, Trung Quốc, Việt Nam, Cuba... trong tiến trình hiện thực
hóa tưởng Mác - nin vẫn còn nhiều khoảng trống cần tiếp tục được bổ sung
khai thác một cách có hệ thống.
3. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của đề tài bước đầu tìm hiểu một cách hệ thống toàn diện những nội
dung cốt lõi trong tưởng chính trị của Chủ nghĩa Mác - Lênin, một trong những hệ
tư tưởng có ảnh hưởng sâu rộng nhất đến lịch sử chính trị - xã hội của thế giới hiện đại.
Cụ thể, đề tài hướng đến việc nhận diện, phân tích và khái quát hóa các luận điểm chính
trị trọng yếu của Chủ nghĩa Mác - Lênin, bao gồm học thuyết về giai cấp đấu tranh
giai cấp, lý luận về nhà nước và chuyên chính vô sản, vai trò của Đảng Cộng sản, cũng
như con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội và mục tiêu hướng tới chủ nghĩa cộng sản.
Đây những nội dung đóng vai trò nền tảng trong việc hình thành hthống ởng
chính trị Mác - Lênin và trở thành kim chỉ nam lý luận cho nhiều phong trào cách mạng
trên thế giới. Không chỉ dừng lại ở lý luận, đề tài còn đặt mục tiêu khảo sát, phân tích
lOMoARcPSD| 61630826
đánh giá mức độ ảnh hưởng của tưởng Mác - Lênin đến quá trình vận hành
phát triển mô hình nhà nước xã hội chủ nghĩa ở một số quốc gia tiêu biểu như Liên Xô,
Trung Quốc, Việt Nam và Cuba. Việc nghiên cứu này không chỉ giúp làm rõ sự tiếp thu
vận dụng tưởng Mác - Lênin trong các điều kiện lịch sử - hội cụ thể, còn
chỉ ra những sự điều chỉnh linh hoạt về mặt đường lối, chính sách, nhằm thích nghi với
những thách thức thực tiễn trong từng giai đoạn phát triển. Thông qua quá trình nghiên
cứu, đề tài mong muốn cung cấp cho người học đặc biệt sinh viên các ngành khoa
học chính trị, triết học và quan hệ quốc tế cái nhìn khái quát nhưng sâu sắc về vai trò,
giá trị và tầm ảnh hưởng của Chủ nghĩa Mác - Lênin đối với quá trình xây dựng và bảo
vệ nhà nước xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, từ việc đối chiếu giữa lý luận và thực tiễn, đề
tài hướng đến việc nâng cao nhận thức về yêu cầu đổi mới trong duy chính trị hiện
nay, nhất là trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế và những biến động phức tạp
về địa chính trị và kinh tế trên toàn cầu. Qua đó, góp phần định hình duy khoa học,
phê phán thực tiễn hơn trong việc tiếp cận các vấn đề luận chính trị cũng như trong
công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở các nước trên thế giới hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đề tài “Bước đầu tìm hiểu về tưởng chính trị của Chủ nghĩa Mác - Lênin ảnh
hưởng đến các quốc gia hội chủ nghĩa” tập trung nghiên cứu hệ thống tư tưởng chính
trị của Chnghĩa Mác - Lênin quá trình vận dụng htưởng đó vào thực tiễn xây
dựng hình nhà nước hội chủ nghĩa tại một số quốc gia tiêu biểu. Cụ thể, đối tượng
nghiên cứu của đề tài bao gồm các luận điểm bản về chính trị trong tưởng Mác -
Lênin, như: học thuyết về giai cấp và đấu tranh giai cấp, lý luận về nhà nước và chuyên
chính vô sản, vai trò lịch sử của Đảng Cộng sản, con đường và mục tiêu hướng tới chủ
nghĩa hội chủ nghĩa cộng sản. Từ hệ tưởng nền tảng này, đề tài tiếp cận việc
khảo sát, phân tích và đánh giá cách các quốc gia xã hội chnghĩa đã tiếp thu, vận dụng
và điều chỉnh Chủ nghĩa Mác - Lênin trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể.
Về phạm vi nghiên cứu, bài tiểu luận giới hạn khảo sát ở bốn quốc gia có tính đại diện
tiêu biểu cho các hình hội chủ nghĩa: Liên Xô, quốc gia đầu tiên hiện thực hóa
ởng Mác - Lênin xây dựng chế độ hội chủ nghĩa trên quy toàn quốc;
Trung Quốc, quốc gia áp dụng Chủ nghĩa Mác - Lênin kết hợp với tư tưởng Mao Trạch
Đông để phù hợp với bối cảnh chính trị - xã hội; Việt Nam, điển hình cho một nước nửa
thuộc địa nửa phong kiến vận dụng sáng tạo tư tưởng Mác - Lênin trong cách mạng dân
tộc dân chủ và công cuộc đổi mới; và Cuba, một mô hình đặc biệt ở khu vực Mỹ Latinh
kiên định đi lên chủ nghĩa xã hội trong điều kiện bị bao vây, cấm vận kéo dài. Phạm vi
thời gian nghiên cứu trải dài từ thế kỷ XX đến thời điểm hiện tại, nhằm phản ánh đầy
đủ quá trình vận dụng tư tưởng chính trị Mác - Lênin từ khi được hiện thực hóa đến giai
đoạn điều chỉnh, cải cách phù hợp với yêu cầu của thời đại. Sự lựa chọn này không chỉ
giúp làm nổi bật tính ứng dụng linh hoạt của ởng Mác - Lênin, còn tạo
sở đối chiếu, phân tích rút ra những bài học luận thực tiễn quan trọng cho công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện nay.
lOMoARcPSD| 61630826
5. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình triển khai đề tài “Bước đầu tìm hiểu về tưởng chính trị của Chủ nghĩa
Mác - Lênin và ảnh ởng đến các quốc gia xã hội chủ nghĩa”, em áp dụng các phương
pháp nghiên cứu khoa học kết hợp giữa thuyết thực tiễn. Các phương pháp được
sử dụng bao gồm:
Đầu tiên là phương pháp phân tích - tổng hợp thuyết. Đây là phương pháp được dùng
để phân tích các nội dung cốt lõi của hệ tư tưởng chính trị Mác - Lênin, như: học thuyết
về giai cấp, đấu tranh giai cấp, nhà nước, chuyên chính sản, vai trò của Đảng Cộng
sản, con đường đi lên chủ nghĩa hội. Trên sở phân tích c tài liệu gốc (tác
phẩm của Marx, Engels, Lenin) các văn kiện Đảng, đề tài tiến nh tổng hợp nhằm
xây dựng hệ thống lý luận rõ ràng, lôgic và dễ tiếp cận.
Thứ hai, phương pháp lịch sử. Phương pháp này được vận dụng để tìm hiểu nguồn gốc
hình thành quá trình phát triển của Chủ nghĩa Mác - Lênin, cũng như các giai đoạn
vận dụng tưởng này trong thực tiễn tại các quốc gia như Liên Xô, Trung Quốc, Việt
Nam và Cuba. Qua đó có thể làm rõ bối cảnh lịch sử, điều kiện kinh tế - xã hội, và động
lực tư tưởng của từng thời kỳ.
Thứ ba là phương pháp phân tích tổng kết kinh nghiệm. Đề tài xem xét lại những thành
tựu và thất bại trong việc vận dụng Chủ nghĩa Mác - Lênin tại các quốc gia hội chủ
nghĩa, từ đó rút ra các kết luận có giá trị lý luận và thực tiễn. Các trường hợp cụ thể như
cải tổ của Liên Xô, cải cách mở cửa ở Trung Quốc, đổi mới tại Việt Nam hình
kiên định Cuba được phân tích như các bài học thực tiễn điển hình. Thứ tư, phương
pháp so sánh - đối chiếu. Được sử dụng nhằm nhận diện những điểm giống khác
nhau trong cách thức vận dụng luận Mác - Lênin ở các nước hội chủ nghĩa. Từ đó,
đánh giá tính thích nghi, khả năng linh hoạt và những giới hạn luận của hệ tưởng
này trong bối cảnh toàn cầu hóa và biến động hiện nay.
6. Đóng góp của đề tài
Đề tài “Bước đầu tìm hiểu về tưởng chính trị của Chủ nghĩa c - Lênin ảnh
hưởng đến các quốc gia hội chủ nghĩa” giá trị cả về mặt luận lẫn thực tiễn
trong việc nghiên cứu hệ tư tưởng chính trị có sức ảnh hưởng sâu sắc nhất trong thế kỷ
XX tiếp tục để lại dấu ấn nét trong thế kỷ XXI. Trước hết, đề tài góp phần hệ
thống hóa một ch logic, khoa học chọn lọc những nội dung cốt lõi trong
tưởng chính trị của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tập trung vào các học thuyết và luận điểm
trọng yếu như: đấu tranh giai cấp, luận về nhà nước và chuyên chính sản, vai trò
trung tâm của Đảng Cộng sản con đường đi lên chủ nghĩa hội. Đây nền tảng
quan trọng để người học, người nghiên cứu nắm bắt được hệ thống tri thức luận chính
trị Mác - Lênin một ch ràng, chính xác gắn với thực tiễn cách mạng. Thứ hai,
đề tài đóng góp trong việc soi chiếu, phân tích đánh giá việc vận dụng tưởng
Mác - Lênin vào thực tiễn xây dựng phát triển nhà nước một số quốc gia hội
chủ nghĩa tiêu biểu, bao gồm: Liên Xô, Trung Quốc, Việt Nam và Cuba. Qua đó, đề tài
không chỉ tả các hình vận dụng còn đi sâu phân tích những yếu tố thành
lOMoARcPSD| 61630826
công, hạn chế, nguyên nhân dẫn đến sự điều chỉnh, đổi mới trong duy tổ chức
chính trị ở từng quốc gia trong bối cảnh thế giới biến động.
Thứ ba, thông qua việc tổng hợp đối chiếu giữa luận thực tiễn, đề tài giúp khẳng
định sức sống lâu dài và giá trị của ởng chính trị Mác - Lênin, đồng thời cũng chỉ
ra rằng không thể áp dụng một cách máy móc, giáo điều mà cần phải linh hoạt vận dụng
vào điều kiện cụ thể của từng nước, từng thời kỳ. Điều y đặc biệt ý nghĩa trong
bối cảnh toàn cầu hóa, khi các quốc gia hội chủ nghĩa phải đối mặt với hàng loạt
thách thức từ kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế, sự phát triển của khoa học công nghệ
và yêu cầu dân chủ, pháp quyền hiện đại.
Cuối cùng, em mong kết quả nghiên cứu của đề tài có thể trở thành nguồn tài liệu tham
khảo hữu ích cho không chỉ sinh viên, giảng viên, nhà nghiên cứu còn cho những
người quan tâm đến chính trị học, lý luận Mác - Lênin, lý luận và thực tiễn về xây dựng
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung chính
của đề tài gồm 3 chương:
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ CỦA CHỦ NGHĨA
MÁC - LÊNIN
1.1. Bối cảnh lịch sử hình thành tư tưởng chính trị Mác - Lênin
1.2. Hệ thống tư tưởng chính trị cơ bản của Chủ nghĩa Mác - Lênin
1.2.1. Học thuyết về giai cấp và đấu tranh giai cấp
1.2.2. Lý luận về nhà nước và chuyên chính vô sản
1.2.3. Vai trò của Đảng Cộng sản
1.2.4. Con đường đi lên Chủ nghĩa Xã hội và mục tiêu hướng tới Chủ nghĩa Cộng sản.
CHƯƠNG 2. ẢNH HƯỞNG CỦA CHỦ NGHĨAC - LÊNIN ĐẾN CÁC QUỐC
GIA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA TIÊU BIỂU
2.1. Liên Xô - Mô hình đầu tiên vận dụng tư tưởng Mác - Lênin
2.2. Trung Quốc - Kết hợp Chủ nghĩa Mác - Lênin với tư tưởng Mao Trạch Đông
2.3. Việt Nam - Vận dụng sáng tạo tư tưởng Mác - Lênin vào thực tiễn
2.4. Cuba - Kiên định Chủ nghĩa Mác - Lênin trong điều kiện đặc thù
CHƯƠNG 3. NHỮNG TÁC ĐỘNG VÀ SỰ ĐIỀU CHỈNH CỦA CHỦ NGHĨA MÁC
- LÊNIN TRONG BỐI CẢNH HIỆN ĐẠI
3.1. Tác động tích cực của Chủ nghĩa Mác - Lênin
3.2. Hạn chế và thách thức trong quá trình vận dụng Chủ nghĩa Mác - Lênin
3.3. Sự điều chỉnh của các nước xã hội chủ nghĩa hiện nay
KẾT LUẬN
lOMoARcPSD| 61630826
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ CỦA CHỦ
NGHĨA MÁC - LÊNIN
1.1. Bối cảnh lịch sử hình thành tư tưởng chính trị Mác - Lênin
tưởng chính trị của Chủ nghĩa Mác - Lênin ra đời trong một bối cảnh lịch sử đặc biệt
của thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, khi chủ nghĩa bản đang bước vào giai đoạn phát
triển mạnh mẽ, nhưng đồng thời cũng bộc lộ những mâu thuẫn sâu sắc về kinh tế -
hội.
Trên phương diện kinh tế - xã hội, thời kỳ này là kết quả trực tiếp của cuộc Cách mạng
công nghiệp lần thứ nhất thứ hai, khiến cho phương thức sản xuất chuyển từ thủ công
sang cơ khí, và từ đó làm sâu sắc thêm sự phân hóa giai cấp. Giai cấp tư sản ngày càng
giàu mạnh và thống trị về chính trị - kinh tế, trong khi giai cấp vô sản, những người lao
động bị bóc lột rơi vào cảnh khốn cùng. Điều này dẫn đến nhiều cuộc khủng hoảng kinh
tế (1825, 1847...) strỗi dậy mạnh mẽ của phong trào công nhân Châu Âu, đặc
biệt Anh, Pháp Đức. Thực tiễn ấy đặt ra nhu cầu cấp thiết về một htưởng
chính trị mới, có khả năng lý giải và định hướng hành động cách mạng.
Về phương diện luận, chủ nghĩa Mác sự kế thừa và phát triển các thành tựu
tưởng lớn của nhân loại: Đầu tiên, từ triết học cổ điển Đức, đặc biệt là phép biện chứng
của Hégel và chủ nghĩa duy vật của Feuerbach, Mác và Ăngghen đã xây dựng nên phép
biện chứng duy vật và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Thứ hai, từ kinh tế chính trị học Anh,
tiêu biểu là Adam Smith và David Ricardo, Mác phát triển lý luận giá trị thặng dư, làm
bản chất bóc lột của tư bản chủ nghĩa. Thứ ba, từ chủ nghĩa hội không tưởng Pháp,
Mác kế thừa tinh thần nhân văn nhưng vượt lên bằng cách xác lập chủ nghĩa hội
khoa học dựa trên đấu tranh giai cấp và vai trò lịch sử của giai cấp công nhân.
Ngoài ra, thành tựu khoa học tự nhiên như thuyết tiến hóa của Darwin, thuyết tế bào,
định luật bảo toàn năng lượngđã củng cố thế giới quan duy vật biện chứng, m
nền tảng cho tư duy cách mạng của Mác - Ăngghen.
Sang đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa bản phát triển thành chủ nghĩa đế quốc, các mâu
thuẫn giai cấp và dân tộc ngày càng gay gắt. Trong bối cảnh đó, Vladimir Ilyich Lênin
đã vận dụng sáng tạo phát triển tư tưởng Mác phù hợp với thời đại mới, đặc biệt là
thông qua Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917, đưa luận Mác từ tầm vóc tưởng
trở thành hiện thực lịch sử. Lênin không chỉ khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng kiểu
mới còn mở rộng luận cách mạng sang c nước thuộc địa - nửa phong kiến, trong
đó có Việt Nam.
Như vậy, tư tưởng chính trị của Chủ nghĩa Mác - Lênin là sản phẩm của sự kết tinh giữa
điều kiện lịch sử cụ thể, sự phát triển nội tại của luận, thực tiễn đấu tranh cách
mạng. Nó ra đời như một tất yếu của thời đại, phản ánh nhu cầu hiện thực của giai cấp
công nhân các lực lượng tiến bộ trong hội, đặt nền móng tưởng cho sự hình
thành các nhà nước xã hội chủ nghĩa sau này.
lOMoARcPSD| 61630826
1.2. Hệ thống tư tưởng chính trị cơ bản của Chủ nghĩa Mác - Lênin
Sau khi hình thành phát triển trong bối cảnh lịch sử đầy biến động của châu Âu thế
kỷ XIX - đầu thế kỷ XX, Chủ nghĩa c - Lênin đã xây dựng nên một hệ thống
tưởng chính trị mang tính khoa học, ch mạng và toàn diện. Không chỉ dừng lại ở việc
phê phán chế độ tư bản chủ nghĩa, học thuyết này còn đưa ra những quan điểm nền tảng
về cách mạng hội, tổ chức nhà nước, vai trò của giai cấp công nhân, cũng như con
đường phát triển của nhân loại trong tương lai.
Hệ thống tư tưởng chính trị Mác - Lênin không được xây dựng một cách rời rạc
tính logic chặt chẽ, phản ánh quá trình vận động khách quan của lịch sử hội loài
người. Trong đó, các nội dung về đấu tranh giai cấp, vai trò của nhà nước, sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản, tưởng về một hội không còn áp bức, c lột đều liên kết
chặt chẽ với nhau, tạo thành nền tảng tưởng cho các phong trào cách mạng các
quốc gia xã hội chủ nghĩa sau này.
1.2.1. Học thuyết về giai cấp và đấu tranh giai cấp
Học thuyết về giai cấp đấu tranh giai cấp một trong những trụ cột quan trọng
trung tâm trong toàn bhệ thống tưởng chính trị của Chủ nghĩa Mác - Lênin. Theo
Karl Marx và Friedrich Engels, “Lịch sử tất cả các xã hội tồn tại từ trước đến ngày nay
chỉ là lịch sử đấu tranh giai cấp” một tuyên bố mang tính cốt lõi trong “Tuyên ngôn của
Đảng Cộng sảp”. (C.Mác & Ph.Ăng-ghen, 1848)
Khái niệm giai cấp, theo C.Mác, không đơn thuần dựa trên tiêu chí thu nhập hay địa vị
xã hội, mà được xác định chủ yếu bởi vị trí của các nhóm người trong quan hệ sản xuất,
đặc biệt là quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất. Những nhóm người nắm giữ tư liệu sản xuất
sẽ quyền kiểm soát nguồn lực kinh tế chính trị, trong khi các nhóm bị tước đoạt
tư liệu sản xuất phải lao động thuê để tồn tại. Mâu thuẫn giữa các nhóm lợi ích đó là cơ
sở dẫn đến đấu tranh giai cấp, một hình thức xung đột xã hội mang tính lịch sử tất yếu.
C.Mác Ph.Ăngghen chỉ rằng đấu tranh giai cấp động lực trực tiếp thúc đẩy sự
phát triển hội. Khi mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất quan hệ sản xuất trở nên
gay gắt, nó tất yếu dẫn đến cách mạng xã hội là điểm kết của một hình thái kinh tế - xã
hội và sự ra đời của hình thái mới.
Trong thời kỳ chủ nghĩa tư bản, Mác nhận định giai cấp vô sản là lực lượng cách mạng
duy nhất có thể thực hiện sứ mệnh lịch sử: lật đổ giai cấp tư sản, thiết lập chuyên chính
sản xây dựng chnghĩa hội. V.I. nin sau này đã phát triển luận điểm này
theo hướng thực tiễn, nhấn mạnh sự cần thiết phải thành lập một “Đảng kiểu mới” một
chính đảng cách mạng, được tổ chức chặt chẽ, có lý luận dẫn đường, làm lực lượng tiên
phong của giai cấp công nhân trong cuộc đấu tranh giai cấp. Lênin còn mở rộng lý luận
đấu tranh giai cấp trong điều kiện đặc thù của các quốc gia nửa thuộc địa - nửa phong
kiến như Việt Nam. Ông chỉ rằng, tại đây, cần kết hợp giữa đấu tranh giai cấp với
đấu tranh dân tộc để tạo thành mặt trận thống nhất chống đế quốc tay sai, một đóng
góp lý luận và thực tiễn quan trọng có ý nghĩa sâu sắc với cách mạng các nước phương
Đông.
lOMoARcPSD| 61630826
Tuy nhiên, Chủ nghĩa Mác - Lênin không cổ bạo lực cực đoan. Đấu tranh giai cấp
trong tư tưởng Mác - Lênin là một quá trình khách quan, diễn ra dưới nhiều hình thức:
kinh tế, chính trị, tư tưởng, trong đó đấu tranh chính trị giữ vai trò quyết định. Đặc biệt,
các nhà kinh điển đã nêu rõ rằng, đấu tranh giai cấp có thể diễn ra bằng con đường hòa
bình nếu điều kiện cho phép, nhưng trong nhiều trường hợp, cách mạng bằng bạo lực
không thể tránh khỏi do tính chất phản kháng mạnh mẽ từ phía giai cấp thống trị.
Trong bối cảnh hiện nay, một số ý kiến cho rằng học thuyết về đấu tranh giai cấp không
còn phù hợp với xã hội hiện đại. Tuy nhiên, thực tế vẫn cho thấy sự phân hóa giai tầng
sâu sắc, bất bình đẳng trong phân phối thu nhập, tài sản và cơ hội phát triển vẫn tồn tại,
kể cả ở các nước tư bản phát triển. Do đó, học thuyết này vẫn giữ nguyên giá trị phương
pháp luận trong việc nhận diện, phân tích định hướng giải pháp cho các mâu thuẫn
xã hội.
Tóm lại, học thuyết giai cấp và đấu tranh giai cấp của Chủ nghĩa Mác - Lênin không chỉ
làm sáng tỏ bản chất giai cấp của hội nhà nước, còn cung cấp sở luận
vững chắc cho việc thành lập nhà nước của giai cấp công nhân và con đường phát triển
tiến bộ hướng đến xóa bỏ mọi hình thức áp bức, bóc lột trong xã hội.
1.2.2. Lý luận về nhà nước và chuyên chính vô sản
Trong hệ thống tưởng chính trị của Chủ nghĩa Mác - Lênin, luận về nhà nước
chuyên chính vô sản giữ vị trí trung tâm, thể hiện một bước đột phá về nhận thức khoa
học - cách mạng đối với bản chất của nhà nước vai trò của trong tiến trình phát
triển hội. tưởng này không chỉ bác bỏ quan điểm siêu hình, duy tâm, cho rằng
nhà nước sản phẩm của trí hay đại diện cho lợi ích chung, còn chỉ : nhà
nước là sản phẩm lịch sử của xã hội có giai cấp và là công cụ chuyên chính của một giai
cấp đối với các giai cấp khác.
Theo Karl Marx và Friedrich Engels, nhà nước ra đời khi hội phân hóa thành các giai
cấp lợi ích kinh tế đối kháng, mâu thuẫn giữa chúng không thể điều hòa. Trong
hoàn cảnh đó, để duy trì trật tự xã hội và bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị, một thiết
chế cưỡng chế đặc biệt tức nhà ớc được hình thành. Như Marx đã viết trong Tuyên
ngôn của Đảng Cộng sản” (1848): “Chính quyền hiện đại chẳng qua chỉ là một ủy ban
quản lý chung cho toàn bộ giai cấp tư sản.” (C.Mác & Ph.Ăng-ghen, 1848). Từ đó, ông
Engels kết luận rằng: nhà nước không mang tính trung lập, mà là công cụ để một giai
cấp thống trị bóc lột và áp bức các giai cấp khác.
Trong hội bản, nhà nước tư sản chính bộ máy thống trị của giai cấp sản, nhằm
bảo vệ quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa và quyền lợi giai cấp tư hữu tư liệu sản xuất.
Dưới danh nghĩa pháp luật, dân chủ và tự do, thực chất là duy trì địa vị thống trị kinh tế
- chính trị của thiểu số giàu có đối với đa số lao động nghèo khổ.
Từ việc phân tích bản chất giai cấp của nhà nước, Marx và Engels khẳng định: giai cấp
vô sản, để thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình là xóa bỏ chế độ bóc lột và xây dựng xã
hội cộng sản thì phải thiết lập một nhà nước kiểu mới, đó chuyên chính sản.
Chuyên chính vô sản, hiểu theo đúng nghĩa Mác-xít, là nền chuyên chính của đại đa số
lao động đối với thiểu số bóc lột, nhằm thủ tiêu những tàn của hội cũ, cải tạo
lOMoARcPSD| 61630826
hội trên nền tảng mới tổ chức lại đời sống kinh tế, chính trị, hội theo nguyên tắc
của chủ nghĩa xã hội. Đây không phải là sự “đàn áp toàn dân” mà là hình thức dân chủ
cao hơn, bởi nó mở rộng quyền lực cho giai cấp đông đảo nhất - giai cấp công nhân
các tầng lớp lao động trong khi kiên quyết trấn áp mọi âm mưu phản cách mạng của
giai cấp bị lật đổ.
V.I. Lênin, người kế thừa phát triển học thuyết Mác, đã cụ thể hóa luận về nhà
nước chuyên chính sản trong điều kiện chủ nghĩa bản đã phát triển lên giai
đoạn đế quốc. Trong c phẩm kinh điển “Nhà nước và cách mạng” (1917), Lênin nhấn
mạnh rằng: chuyên chính sản công cụ để đập tan bộ máy nhà nước sản, thiết
lập nền dân chủ sản, tiến hành quốc hữu hóa liệu sản xuất lớn, thực hiện chế độ
công hữu, đồng thời tổ chức lại toàn bộ hệ thống quản lý xã hội một cách dân chủ.
Khác với nhà ớc tư sản vốn là “bộ máy đàn áp của giai cấp tư sản đối với giai cấp
sản”, nhà nước chuyên chính sản bộ máy tổ chức cách mạng của giai cấp công
nhân, không chỉ thực hiện trấn áp giai cấp sản còn tổ chức sản xuất xây
dựng xã hội mới. Lênin gọi đây là “nửa nhà ớc”, nó mang tính chuyển tiếp, chỉ tồn
tại trong một giai đoạn lịch sử nhất định, và sẽ dần tiêu vong cùng với sự tiêu vong của
đối kháng giai cấp khi chủ nghĩa cộng sản được thiết lập hoàn chỉnh. Đặc biệt, trong
điều kiện các quốc gia nửa thuộc địa nửa phong kiến, Lênin mở rộng luận cách
mạng bằng cách kết hợp đấu tranh giai cấp với đấu tranh giải phóng dân tộc, xác định:
cách mạng vô sản ở c nước này phải gắn với cách mạng dân tộc dân chủ, dưới sự lãnh
đạo của Đảng kiểu mới, nhằm lật đổ ách thống trị thực n phong kiến, tiến tới y
dựng chính quyền nhân dân.
Lý luận về nhà nước và chuyên chính vô sản đã trở thành sở lý luận quan trọng cho
các cuộc cách mạng vô sản thế kỷ XX, đặc biệt là: Cách mạng Tháng Mười Nga (1917):
nơi lần đầu tiên thiết lập nhà ớc chuyên chính sản do Đảng Bolshevik lãnh đạo.
Các quốc gia xã hội chủ nghĩa khác như Trung Quốc, Việt Nam, Cuba,... đều vận dụng
luận này vào thực tiễn, phù hợp với điều kiện mỗi nước. Tuy nhiên, trong bối cảnh
hiện đại, luận này không còn được vận dụng một cách máy móc hay giáo điều. Các
nước xã hội chủ nghĩa đã đang những điều chỉnh linh hoạt: kết hợp giữa chuyên
chính sản pháp quyền hội chủ nghĩa, mở rộng dân chủ, hoàn thiện thể chế quản
trị công, đảm bảo quyền con người, đồng thời vẫn giữ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng
sản và bản chất nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
tưởng về nhà nước chuyên chính sản của Chủ nghĩa Mác - Lênin không chỉ
làm sáng tỏ bản chất của nhà nước từ góc độ giai cấp, còn vạch ra con đường lịch
sử để nhân loại đi tới giải phóng cả về chính trị, kinh tế lẫn hội. không ít tranh
luận và thách thức trong quá trình vận dụng, đây vẫn là nền tảng lý luận bản cho việc
xây dựng mô hình nhà nước kiểu mới nơi giai cấp lao động nắm quyền lực chính trị và
tổ chức đời sống xã hội một cách công bằng, dân chủ và tiến bộ.
1.2.3. Vai trò của Đảng Cộng sản
Trong hệ thống tư tưởng chính trị của Chủ nghĩa Mác - Lênin, Đảng Cộng sản giữ vai
trò trung tâm và có ý nghĩa quyết định đối với sự nghiệp cách mạng của giai cấp vô sản
lOMoARcPSD| 61630826
và nhân dân lao động. Karl Marx, Friedrich Engels và đặc biệt là V.I. Lênin đều khẳng
định rằng, để lật đổ ách thống trị của giai cấp sản thiết lập chế độ hội chủ nghĩa,
giai cấp ng nhân không thể thiếu một chính đảng cách mạng kiểu mới đó chính
Đảng Cộng sản.
Theo Chủ nghĩa Mác - Lênin, Đảng Cộng sản là tổ chức chính trị cao nhất của giai cấp
công nhân, đại diện cho lợi ích căn bản, lâu dài toàn diện của giai cấp sản cũng
như các tầng lớp nhân dân lao động. Đảng không chỉ phản ánh ý chí của giai cấp công
nhân, mà còn lực ợng khả năng tổ chức, lãnh đạo toàn bộ tiến trình cách mạng
với tính mục tiêu, tính kỷ luật khả năng định hướng luận vững chắc. V.I. Lênin
từng nhấn mạnh: “Không luận cách mạng thì không thể phong trào cách mạng”,
thhiện vai trò của Đảng như một lực lượng vừa luận, vừa thực tiễn. Ông cũng
chỉ rõ rằng ý thức xã hội chủ nghĩa không thể tự phát hình thành trong quần chúng lao
động phải được đưa vào từ bên ngoài thông qua đội ngũ đảng cách mạng tiên phong,
được trang bị bằng lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học.
Ba yếu tố nền tảng của một Đảng cách mạng kiểu mới được Lênin xác định bao gồm:
tư tưởng, chính trị và tổ chức. Về tư tưởng, Đảng phải kiên định với hệ tư tưởng xã hội
chủ nghĩa, nếu xa rời tức gia tăng ảnh hưởng hệ tưởng sản. Về chính trị,
Đảng phải tổ chức dũng cảm tố cáo, vạch trần những bất công của chế độ tư sản, tổ
chức đấu tranh chính trị nhằm giành quyền lực về tay giai cấp công nhân. Về tổ chức,
Đảng phải là tổ chức tập trung chặt chẽ, thống nhất, kỷ luật sắt liên hệ mật thiết
với quần chúng nhân dân theo nguyên tắc tập trung dân chủ và chủ nghĩa tập thể. Đáng
chú ý, nin cũng nhấn mạnh đến vai trò của các tổ chức quần chúng như Công đoàn,
Đoàn thanh niên trong xây dựng chủ nghĩa hội. Ông gọi đó “trường học của chủ
nghĩa cộng sản”, lực lượng nòng cốt để Đảng gắn bó, giáo dục và tổ chức quần chúng
vào công cuộc kiến thiết hội mới. Đồng thời, ông khẳng định nhiệm vụ làm trong
sạch Đảng, đấu tranh chống quan liêu, chủ nghĩa cơ hội, nâng cao chất lượng đảng viên
yêu cầu thường trực cấp thiết, đặc biệt trong giai đoạn Đảng đã trở thành Đảng
cầm quyền.
Trong thời đại ngày nay, tưởng về xây dựng Đảng kiểu mới của Chủ nghĩa Mác Lênin
vẫn giữ nguyên giá trị định hướng. Trong “Một số vấn đề luận thực tiễn về chủ
nghĩa hội và con đường đi lên chủ nghĩa hội Việt Nam, Tổng thư Nguyễn
Phú Trọng đã nhấn mạnh: “Nhận thức sâu sắc sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản nhân
tố quyết định thắng lợi của công cuộc đổi mới và bảo đảm cho đất nước phát triển theo
đúng định hướng hội chủ nghĩa, chúng ta đặc biệt chú trọng công tác xây dựng, chỉnh
đốn Đảng, coi đây nhiệm vụ then chốt, ý nghĩa sống còn đối với Đảng chế độ
xã hội chủ nghĩa.” (Nguyễn Phú Trọng, 2021). Thực tiễn ở Việt Nam trong suốt hơn 90
năm kể từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã cho thấy vai trò tiên phong, sáng suốt
của Đảng trong việc tổ chức, lãnh đạo nhân dân giành độc lập dân tộc, xây dựng chế độ
mới và tiến hành công cuộc đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đảng không chỉ
đưa ra chủ trương, đường lối đúng đắn, n trực tiếp chỉ đạo, triển khai thực hiện
các nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh, hội nhập quốc tế xây
lOMoARcPSD| 61630826
dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Như vậy, trong hệ thống tư tưởng chính
trị của Chủ nghĩa Mác - Lênin, Đảng Cộng sản yếu tố trung tâm, bảo đảm tính cách
mạng, tính tổ chức, tính lý luận khoa học và tính thực tiễn sâu sắc của quá trình chuyển
hóa xã hội từ tư bản chủ nghĩa lên chủ nghĩa xã hội. Đây là nhân tố quyết định sự thành
bại của cả một phong trào cách mạng, đồng thời là trụ cột dẫn đường cho các dân tộc đi
theo con đường xã hội chủ nghĩa ngày nay.
1.2.4. Con đường đi lên Chủ nghĩa Xã hội và mục tiêu hướng tới Chủ nghĩa Cộng
sản.
Một trong những nội dung cốt lõi và có ý nghĩa định hướng chiến lược trong tưởng
chính trị của Chủ nghĩa Mác - Lênin chính là quan điểm về con đường đi lên chủ nghĩa
hội mục tiêu cuối cùng là xây dựng một hội cộng sản, hội tưởng không
còn áp bức, bóc lột, bất công và con người được phát triển toàn diện. Quan niệm này
không chỉ đóng vai trò định nh về mặt luận còn trở thành kim chỉ nam cho
phong trào cộng sản quốc tế cũng như các quốc gia xã hội chủ nghĩa. Theo Karl Marx
và Friedrich Engels, sự phát triển của xã hội loài người tuân theo quy luật khách quan,
vận động qua các hình thái kinh tế - xã hội khác nhau. Chủ nghĩabản không phải là
đích đến cuối cùng của lịch sử, chỉ một giai đoạn phát triển tạm thời. Khi mâu
thuẫn giữa lực lượng sản xuất mang tính xã hội hóa cao và quan hệ sản xuất tư bản chủ
nghĩa mang tính chiếm hữu tư nhân ngày càng gay gắt, tất yếu sẽ dẫn đến sự ra đời của
một hình thái kinh tế - hội mới: chủ nghĩa hội. Đây thời kỳ quá độ tất yếu để
chuẩn bị những điều kiện vật chất, tinh thần thể chế chính trị hội cho sự ra đời
của chủ nghĩa cộng sản.
Trong tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” (1848), Marx và Engels khẳng định
rằng, giai cấp vô sản là sản phẩm của xã hội tư bản, chính là lực lượng duy nhất có khả
năng lật đổ chế độ bản xây dựng hội mới. Tuy nhiên, để thực hiện được sứ
mệnh lịch sử ấy, giai cấp sản cần một chính đảng tiên phong, đủ bản lĩnh trí
tuệ, đó chính là Đảng Cộng sản - tổ chức đại diện cho lợi ích lâu dài, toàn diện của giai
cấp công nhân và nhân dân lao động.
Kế thừa và phát triển tư tưởng của Marx - Engels, Lenin đã cụ thể hóa đường lối quá độ
lên chủ nghĩa hội trong điều kiện hiện thực của nước Nga đầu thế kỷ XX. Lenin
người đầu tiên chỉ ra rằng, chủ nghĩa xã hội không nhất thiết phải ra đời từ các nước tư
bản phát triển, hoàn toàn thể bắt đầu từ một quốc gia còn lạc hậu về kinh tế nhưng
điều kiện chính trị - hội thuận lợi sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản.
Từ đó, Lenin khẳng định: con đường đi lên chủ nghĩa hội phải được xây dựng trên
nền tảng luận của Chủ nghĩa Mác, nhưng cần được vận dụng sáng tạo linh hoạt
vào từng hoàn cảnh cụ thể.
Theo tư tưởng của Chủ nghĩa Mác - Lênin, chủ nghĩa hội một hội quá độ, nơi
các tàn tích của chế độ vẫn tồn tại, nhưng đang được cải tạo toàn diện. giai
đoạn này, chế độ tư hữu lớn về tư liệu sản xuất bị xóa bỏ, nền kinh tế tập thể và sở hữu
toàn dân được hình thành, nhà nước chuyên chính sản nắm vai trò trung tâm trong
tổ chức xã hội, đồng thời thiết lập nền dân chủ xã hội chủ nghĩa - nền dân chủ rộng rãi
lOMoARcPSD| 61630826
nhất cho nhân dân lao động. Mục tiêu cuối cùng chủ nghĩa hội hướng tới chính
là xã hội cộng sản, nơi con người sống trong tự do, bình đẳng, không còn sự phân chia
giai cấp, không còn nhà nước mang tính cưỡng chế, mỗi người đều có điều kiện phát
triển toàn diện. Chủ nghĩa cộng sản giai đoạn phát triển cao nhất, thể hiện tưởng
nhân đạo sâu sắc của Chủ nghĩa Mác - Lênin, được đặc trưng bởi nguyên tắc phân phối
“làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu” phản ánh sự phát triển vượt bậc của cả trình
độ sản xuất và ý thức xã hội.
Tuy nhiên, quá trình đi lên chủ nghĩa hội không thể tuân theo một khuôn mẫu duy
nhất, mà đòi hỏi sự linh hoạt, sáng tạo trong việc vận dụng các nguyên lý vào từng điều
kiện cụ thể. Sự đa dạng trong con đường phát triển của các quốc gia hội chủ nghĩa
như Liên Xô, Trung Quốc, Việt Nam, Cuba… cho thấy việc vận dụng tưởng chính
trị của Chủ nghĩa Mác - Lênin không phải là máy móc, giáo điều, mà cần gắn liền với
thực tiễn lịch sử, trình độ phát triển kinh tế, văn hóa, hội nguyện vọng của nhân
dân từng quốc gia. Đặc biệt, trong điều kiện hiện nay, khi thế giới đang chứng kiến
nhiều biến động sâu sắc về chính trị, kinh tế, công nghệ tưởng, việc tiếp tục nghiên
cứu vận dụng luận về con đường đi lên chủ nghĩa hội mục tiêu hướng tới
chủ nghĩa cộng sản càng trở nên cấp thiết. Không chỉ là vấn đề lý luận, đó còn là cơ sở
để các quốc gia hội chủ nghĩa hoạch định chiến lược phát triển bền vững, tiến tới
một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Chương 1 đã trình bày những cơ sở lý luận quan trọng m nền tảng cho tư tưởng chính
trị của Chủ nghĩa Mác - Lênin. Tớc hết, tư tưởng này ra đời trong bối cảnh lịch sử đặc
biệt của châu Âu thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, khi chủ nghĩa tư bản phát triển đến giai
đoạn cao, bộc lộ các mâu thuẫn nội tại làm sâu sắc thêm sự đối lập giữa giai cấp
sản và sản. Những tiền đề kinh tế - xã hội, tiền đề lý luận thành tựu khoa học
tự nhiên đã tạo điều kiện chín muồi để hình thành nên một học thuyết chính trị - xã hội
mang tính cách mạng khoa học: Chủ nghĩa Mác - Lênin. Thông qua hệ thống
tưởng chính trị bản, Chủ nghĩa Mác - Lênin đã đặt nền móng cho phong trào cách
mạng của giai cấp công nhân các dân tộc bị áp bức. Các nội dung cốt lõi như học
thuyết về giai cấp đấu tranh giai cấp, luận về nhà nước chuyên chính sản,
vai trò của Đảng Cộng sản con đường đi lên chủ nghĩa hội đều phản ánh sâu sắc
bản chất khoa học và cách mạng của học thuyết này. Đặc biệt, những tư tưởng đó không
chỉ mang ý nghĩa luận còn trở thành kim chỉ nam cho hành động trong suốt quá
trình đấu tranh giải phóng xây dựng hội mới nhiều quốc gia. Những nội dung
được trình bày trong chương 1 là cơ sở để tiếp tục phân tích ảnh hưởng cụ thể của Chủ
nghĩa Mác - Lênin đến quá trình cách mạng phát triển các quốc gia hội chủ
nghĩa tiêu biểu, nội dung trọng tâm của chương 2.
CHƯƠNG 2. ẢNH HƯỞNG CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN ĐẾN CÁC
QUỐC GIA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA TIÊU BIỂU
Sau khi đã tìm hiểu hệ thống tưởng chính trị bản của Chủ nghĩa Mác - nin
chương trước, thể thấy rằng học thuyết này không chỉ mang tính luận còn
lOMoARcPSD| 61630826
ảnh hưởng mạnh mẽ đến thực tiễn cách mạng trên toàn thế giới. Nhiều quốc gia, đặc
biệt trong thế kỷ XX, đã lựa chọn Chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng để
xây dựng mô hình xã hội mới, mô hình xã hội chủ nghĩa nhằm xóa bỏ bất công giai cấp,
giải phóng dân tộc và phát triển đất nước theo hướng tiến bộ.
Tuy nhiên, qtrình tiếp nhận vận dụng Chủ nghĩa Mác - Lênin ở mỗi quốc gia lại
không hoàn toàn giống nhau. Tùy vào hoàn cảnh lịch sử, điều kiện kinh tế - hội
đặc điểm văn hóa - chính trị, các nước đã những cách triển khai riêng, vừa kế thừa
lý luận gốc, vừa sáng tạo để phù hợp với thực tế. Điều y cũng phản ánh tính linh hoạt
và khả năng thích nghi của học thuyết Mác - Lênin trong từng bối cảnh cụ thể.
Trong chương này, em sẽ tập trung phân tích ảnh hưởng của Chủ nghĩa Mác - Lênin đến
một số quốc gia xã hội chủ nghĩa tiêu biểu như: Liên Xô, Trung Quốc, Việt Nam, Cuba.
2.1. Liên Xô - Mô hình đầu tiên vận dụng tư tưởng Mác - Lênin
Liên Xô (tên đầy đủ là Liên bang Cộng hòa hội chủ nghĩa viết) quốc gia đầu
tiên trên thế giới hiện thực hóa một cách toàn diện hệ thống tư tưởng chính trị của Chủ
nghĩa Mác - Lênin vào quá trình tổ chức, lãnh đạo cách mạng và xây dựng mô hình nhà
nước hội chủ nghĩa. Sự hình thành phát triển của Liên không chỉ đánh dấu
bước ngoặt trong lịch sử dân tộc Nga mà còn làm thay đổi cấu trúc quyền lực và bản đồ
tưởng chính trị toàn cầu, ảnh hưởng mạnh mẽ đến phong trào cách mạng vô sản quốc
tế trong suốt thế kỷ XX.
Trong bối cảnh đầu thế kỷ XX, nước Nga hoàng gia vẫn còn mang đặc điểm của một
quốc gia nửa phong kiến, nửa bản, nơi sự bóc lột, bất bình đẳng chuyên chế còn
tồn tại sâu sắc. Những mâu thuẫn giữa giai cấp thống trị và quần chúng nhân dân ngày
càng trở nên gay gắt. Trong hoàn cảnh đó, Vladimir Ilyich Lenin đã vận dụng sáng tạo
những luận điểm của chủ nghĩa Mác vào điều kiện cụ thể của nước Nga, đặc biệt là
luận về vai trò lịch sử của giai cấp công nhân sự cần thiết phải một chính đảng
kiểu mới - một Đảng tiên phong của giai cấp vô sản, tổ chức chặt chẽ, vững vàng về
lý luận, thống nhất về hành động và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ.
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 dưới sự lãnh đạo của Đảng Bolshevik do Lenin
tổ chức và lãnh đạo, đã trở thành hiện thân cụ thể đầu tiên của lý tưởng chính trị Mác -
Lênin. Cuộc cách mạng thành công đã lật đổ chế độ sản lâm thời, mở ra thời kỳ
chuyên chính sản đầu tiên trong lịch sử nhân loại, thiết lập một nhà nước mới Nhà
nước Xô viết của những người lao động.
Ngay sau khi giành chính quyền, chính phủ Xô viết đã ban hành hàng loạt sắc lệnh cách
mạng nhằm thực hiện các nhiệm vụ kinh tế, xã hội, quân sự, đồng thời tiến hành cải tổ
toàn diện cơ cấu chính trị. Nhà nước Xô viết ra đời là hiện thân của quyền lực thuộc về
nhân dân lao động, trong đó các viết (hội đồng) đại diện công nhân, nông dân
binh lính đóng vai trò trung tâm. Đây là hình thực tiễn hóa luận nhà nước kiểu
mới theo Chủ nghĩa Mác - Lênin, thể hiện đặc trưng “dân chủ sản” và đối lập hoàn
toàn với mô hình dân chủ tư sản đương thời.
Về kinh tế, trong giai đoạn đầu, Lenin thực hiện Chính sách Kinh tế Mới (NEP) như
một giải pháp linh hoạt để phục hồi nền kinh tế bị tàn phá sau nội chiến. Tuy nhiên, kể
lOMoARcPSD| 61630826
từ cuối thập niên 1920, dưới sự lãnh đạo của Joseph Stalin, Liên Xô bắt đầu chuyển
sang nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung. Các kế hoạch 5 năm lần lượt được triển khai,
nhằm công nghiệp hóa toàn diện đất nước, tập thể hóa nông nghiệp, quốc hữu hóa các
liệu sản xuất quan trọng, thiết lập quan hệ sản xuất hội chủ nghĩa. Chỉ trong
vòng khoảng hai thập kỷ, Liên đã hoàn thành công cuộc chuyển hóa từ một nước
nông nghiệp lạc hậu sang một quốc gia công nghiệp hàng đầu thế giới. Tốc độ tăng
trưởng nhanh chóng về công nghiệp, quốc phòng hạ tầng sở đã biến Liên thành
một siêu cường quân sự, đóng vai trò quyết định trong việc đánh bại phát xít Đức trong
Chiến tranh Thế giới thứ hai. Điều này không chỉ chứng minh hiệu quả của một
hình phát triển theo định hướng hội chnghĩa n củng cố niềm tin của nhiều
quốc gia về tính đúng đắn và khả thi của Chủ nghĩa Mác - Lênin.
hình Liên nhanh chóng trở thành hình mẫu tưởng cho c lực ợng cách
mạng ở nhiều quốc gia. Tư tưởng Mác - Lênin thông qua kinh nghiệm của Liên đã
trở thành kim chỉ nam trong quá trình thành lập nhà nước xã hội chủ nghĩa tại hàng loạt
quốc gia như Trung Quốc, Việt Nam, Cuba, Triều Tiên, các nước Đông Âu… Phong
trào cộng sản và công nhân quốc tế phát triển mạnh mẽ, tạo thành một hệ thống hội
chủ nghĩa thế giới với vai trò trung tâm của Liên Xô. Liên cũng giữ vai trò quan
trọng trong việc ủng hộ các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc tại Châu Á, Châu Phi
Mỹ Latinh, thể hiện rõ tinh thần quốc tế vô sản. Đây là một trong những yếu tố làm nên
vị thế chính trị, quân stưởng to lớn của Liên trên trường quốc tế trong suốt
thế kỷ XX.
Dẫu có những thành tựu to lớn, hình phát triển của Liên cũng bộc lộ nhiều hạn
chế. chế tập trung quyền lực quá mức, thiếu dân chủ, việc xem nhẹ vai trò của thị
trường và đổi mới công nghệ, cùng với sự bảo thủ trong hệ thống chính trị đã dẫn đến
nh trạng quan liêu, trì trệ, mất cân bằng phát triển. Những cải cách muộn ng dưới
thời Mikhail Gorbachev với chính sách Cải tổ (Perestroika) Công khai hóa (Glasnost)
tuy mang tính cấp thiết nhưng lại thiếu chiều sâu, thiếu sự thống nhất giữa cải cách
chính trị và kinh tế, dẫn đến sự bất ổn nội bộ sự tan của Liên vào năm 1991.
Sự sụp đổ của Liên Xô một mất t lớn đối với phong trào hội chủ nghĩa toàn
cầu, song đồng thời cũng để lại những bài học sâu sắc: đó tầm quan trọng của việc
gắn luận với thực tiễn, cần thiết phải cải cách kịp thời đúng hướng, đảm bảo sự
tham gia của quần chúng và duy trì tính dân chủ, minh bạch trong quản lý xã hội.
Liên Xô là minh chứng sống động và có giá trị lịch sử đặc biệt cho quá trình hiện thực
hóa tư tưởng chính trị của Chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn cách mạng và quản trị
quốc gia. Những thành công ban đầu trong việc xây dựng một xã hội không có giai cấp
bóc lột, phát triển độc lập và tự chủ đã trở thành động lực mạnh mẽ cho nhiều quốc gia
khác. Tuy nhiên, những sai lầm trong chính sách và quản lý, sự bảo thủ lý luận và thiếu
thích ứng với thời đại cũng cảnh báo nghiêm túc đối với các nước hội chủ nghĩa
hiện nay. Bài học từ Liên không chỉ niềm tự hào còn tấm gương để soi
chiếu, điều chỉnh phát triển ởng Mác - Lênin một cách linh hoạt, sáng tạo
phù hợp với từng điều kiện lịch sử xã hội cụ thể.
lOMoARcPSD| 61630826
2.2. Trung Quốc - Kết hợp Chủ nghĩa Mác - Lênin với tư tưởng Mao Trạch Đông
Trung Quốc là một trong những quốc gia tiêu biểu vận dụng tư tưởng chính trị của Chủ
nghĩa Mác - Lênin vào công cuộc cách mạng giải phóng dân tộc và y dựng chủ nghĩa
xã hội. Tuy nhiên, điểm đặc biệt của Trung Quốc là họ không tiếp thu một cách nguyên
xi mô hình từ Liên Xô, đã sự điều chỉnh, sáng tạo phù hợp với bối cảnh lịch sử,
điều kiện kinh tế - hội, đặc điểm dân tộc của mình. Qtrình kết hợp giữa Chủ
nghĩa Mác - Lênin với tư tưởng Mao Trạch Đông đã tạo nên một hệ tư tưởng mang tính
bản địa hóa, ảnh ởng lâu dài đến con đường phát triển của Trung Quốc từ năm
1949 đến nay.
Sự kết hợp này bắt nguồn từ bối cảnh Trung Quốc nửa đầu thế kỷ XX, khi đất nước bị
xâu bởi chiến tranh, nạn đói ngoại xâm, đặc biệt ách đô hộ của các đế quốc
phương Tây Nhật Bản. Đảng Cộng sản Trung Quốc thành lập năm 1921 tiếp thu lý
luận Mác - Lênin thông qua ảnh hưởng từ Liên Xô và Quốc tế Cộng sản. Tuy nhiên, với
xuất phát điểm một nước nông nghiệp lạc hậu, lực lượng công nhân chiếm tỷ lệ rất
nhỏ trong xã hội, việc vận dụng máy móc mô hình cách mạng vô sản kiểu Nga không
phù hợp. Từ đó, Mao Trạch Đông đã đưa ra nhiều điều chỉnh mang tính chiến lược.
ởng Mao Trạch Đông được định hình trong quá trình lãnh đạo cách mạng Trung
Quốc, đặc biệt là trong thời kỳ Vạn lý Trường chinh (1934 - 1935) và cuộc kháng chiến
chống Nhật (1937 - 1945). Mao cho rằng, trong điều kiện Trung Quốc, nông dân chứ
không phải công nhân mới là lực lượng cách mạng chủ lực. Chiến lược cách mạng “từ
nông thôn bao vây thành thị, tiến tới giành chính quyền trung ương” là một sự sáng tạo
lớn trong luận Mác - Lênin đã chứng minh tính đúng đắn khi Đảng Cộng sản Trung
Quốc giành thắng lợi hoàn toàn vào năm 1949.
Sau khi thành lập nước Cộng hòa Nhân n Trung Hoa, Trung Quốc từng bước hiện
thực hóa hình hội chủ nghĩa thông qua các chính sách như cải cách ruộng đất,
quốc hữu hóa doanh nghiệp nhân, xây dựng công nghiệp nặng tập thể hóa nông
nghiệp. Tuy nhiên, nhiều chính sách cực đoan và mang tính duy ý chí đã để lại hậu quả
nghiêm trọng. Chiến dịch “Đại nhảy vọt” (1958 - 1961) với mục tiêu đưa Trung Quốc
“đuổi kịp Anh trong 10 năm, vượt Mỹ trong 15 năm” đã gây ra nạn đói lớn, khiến hàng
chục triệu người thiệt mạng. Tiếp đó, Cách mạng Văn hóa (1966 - 1976), ới danh
nghĩa bảo vệ chủ nghĩa hội khỏi các tưởng sản, đã dẫn đến sự hỗn loạn toàn
diện trong xã hội: hệ thống giáo dục bị tê liệt, trí thức bị đàn áp, sản xuất đình trệ và uy
tín quốc tế của Trung Quốc suy giảm nghiêm trọng.
Sau khi Mao Trạch Đông qua đời, Trung Quốc bước vào một giai đoạn chuyển hướng.
Đặng Tiểu Bình, người kế thừa nhưng cũng là người cải cách đã khởi xướng chính sách
“cải cách mở cửa” từ năm 1978. Với quan điểm: “mèo trắng hay mèo đen không
quan trọng, miễn bắt được chuột”, Đặng chủ trương phát triển kinh tế thị trường
sự quản lý của nhà nước, trong khi vẫn giữ nguyên chế độ chính trị một đảng do Đảng
Cộng sản Trung Quốc lãnh đạo. Ông khẳng định rằng Trung Quốc vẫn đi theo con
đường xã hội chủ nghĩa, nhưng là chủ nghĩa xã hội mang đặc sắc Trung Quốc.
lOMoARcPSD| 61630826
Từ đó đến nay, Trung Quốc đã đạt được những thành tựu kinh tế nổi bật: tốc độ tăng
trưởng cao, đời sống nhân dân được cải thiện rệt, vai trò quốc tế ngày càng lớn mạnh.
Tuy nhiên, hình này cũng tồn tại nhiều vấn đề: chênh lệch giàu nghèo, môi trường
suy thoái, kiểm soát thông tin chặt chẽ thiếu dân chủ chính trị. vậy, Đảng Cộng
sản Trung Quốc vẫn khẳng định vai trò lãnh đạo toàn diện, đồng thời tiếp tục củng cố
hệ tưởng dựa trên sự kết hợp giữa Mác - Lênin, tưởng Mao Trạch Đông, luận
Đặng Tiểu Bình các tưởng lãnh đạo kế tiếp như “Ba đại biểu”, quan điểm phát
triển khoa học và “Tư tưởng Tập Cận Bình”.
Tóm lại, Trung Quốc là một ví dụ điển hình về sự vận dụng tư tưởng Mác - Lênin một
cách linh hoạt, có chọn lọc và không giáo điều. Việc kết hợp lý luận cách mạng quốc
tế với thực tiễn lịch sử dân tộc đã tạo nên một mô hình xã hội chủ nghĩa mang đặc sắc
riêng, vừa kế thừa di sản tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin, vừa phản ánh điều kiện
cụ thể của Trung Quốc. Đây cũng là điểm khác biệt quan trọng giúp Trung Quốc duy
trì sự ổn định chính trị, đạt được phát triển kinh tế vượt bậc và khẳng định vị thế toàn
cầu trong bối cảnh quốc tế đầy biến động.
2.3. Việt Nam - Vận dụng sáng tạo tư tưởng Mác - Lênin vào thực tiễn
Việt Nam một trong những quốc gia tiêu biểu không chỉ tiếp thu còn vận dụng
một cách sáng tạo tư tưởng chính trị của Chủ nghĩa Mác - Lênin vào quá trình đấu tranh
giành độc lập dân tộc cũng như xây dựng và phát triển đất nước. Từ một nước thuộc địa
nửa phong kiến, trình độ phát triển kinh tế thấp, dân trí hạn chế, lại chịu ách thống trị
tàn bạo của các thế lực thực dân và đế quốc trong gần một thế kỷ, Việt Nam đã lựa chọn
con đường cách mạng sản - con đường ch mạng đúng đắn được soi sáng bởi
tưởng Mác - Lênin để tiến hành sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng hội mới
không có áp bức, bóc lột.
Ngay từ đầu thế kỷ XX, Chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh tụ thiên tài của cách mạng Việt
Nam đã sớm tìm ra chân của thời đại: chỉ chủ nghĩa Mác - Lênin mới cứu được
dân tộc Việt Nam. Từ bản “Sơ thảo lần thứ nhất về vấn đề dân tộc thuộc địa” của
Lênin năm 1920 Hồ Chí Minh đã tìm thấy mối liên hệ giữa luận cách mạng sản
thực tiễn giải phóng dân tộc một quốc gia thuộc địa. Đây bước ngoặt tưởng
mang tính quyết định cho sự phát triển của cách mạng Việt Nam. Sự ra đời của Đảng
Cộng sản Việt Nam vào năm 1930 với vai trò lãnh đạo duy nhất, chính là kết tinh giữa
tinh thần yêu nước truyền thống với lý luận Mác - Lênin hình thành một tổ chức chính
trị đủ bản lĩnh, đủ tầm tư tưởng và lý luận để dẫn dắt dân tộc đi đến thắng lợi.
Việc vận dụng Chủ nghĩa Mác - Lênin ở Việt Nam được thực hiện không một cách máy
móc, giáo điều, mà luôn linh hoạt, sáng tạo, phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện cụ thể.
Điểm đặc sắc trong vận dụng của Việt Nam là sự kết hợp biện chứng giữa hai mục tiêu
dân tộc giai cấp. Trong điều kiện của một ớc nửa thuộc địa nửa phong kiến, mâu
thuẫn dân tộc mâu thuẫn bản, do đó Đảng ta xác định đúng đắn rằng nhiệm vụ giải
phóng dân tộc nhiệm vụ trung tâm, đồng thời gắn liền với nhiệm vụ giải phóng
giai cấp và cải tạo xã hội.
lOMoARcPSD| 61630826
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Việt Nam đã liên tiếp giành được những thắng lợi lịch sử
trọng đại: Cách mạng Tháng Tám giành chính quyền; kháng chiến chống thực dân Pháp
đế quốc Mỹ thành công, thống nhất đất nước vào năm 1975. Những thắng lợi ấy
không thể tách rời vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của
giai cấp công nhân, trung thành kiên định với Chủ nghĩa Mác - Lênin, đồng thời luôn
chủ động đổi mới tư duy và thực tiễn cách mạng.
Tuy nhiên, trong giai đoạn đầu sau thống nhất, do ảnh hưởng từ hình Liên
các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu, Việt Nam áp dụng cơ chế kế hoạch hóa tập trung,
quan liêu bao cấp. Mô hình này đã góp phần phục hồi nền kinh tế sau chiến tranh nhưng
cũng sớm bộc lộ nhiều hạn chế: năng suất lao động thấp, quản lý kém hiệu quả, cơ chế
phân phối ngang nhau... Trong bối cảnh khó khăn về cả đối nội lẫn đối ngoại, Đảng ta
đã dũng cảm và sáng suốt khởi xướng công cuộc Đổi mới tại Đại hội VI năm 1986. Đây
là một bước ngoặt tư duy lịch sử, tiếp tục khẳng định giá trị lý luận của Chủ nghĩa Mác
- Lênin nhưng đồng thời đổi mới cách thức thực hiện sao cho phù hợp với điều kiện của
Việt Nam và bối cảnh quốc tế.
Đổi mới không có nghĩa là từ bỏ chủ nghĩa xã hội, mà là tiếp tục đi lên chủ nghĩa xã hội
bằng con đường phù hợp hơn, đó là phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa. Theo đó, nền kinh tế chấp nhận sự tồn tại của nhiều thành phần kinh tế, nhưng
nhà nước vẫn giữ vai trò chủ đạo; phát triển các lực lượng sản xuất hiện đại nhưng gắn
với nâng cao công bằng hội, bảo đảm an sinh cho người dân. Đó cũng biểu hiện
sinh động cho thấy Đảng ta đã kiên định, song không giáo điều trong việc vận dụng
Chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn phát triển đất nước.
Sự nghiệp đổi mới Việt Nam thành công trước hết nhờ Đảng luôn kiên định nền
tảng tư tưởng Mác - Lênin, đồng thời vận dụng sáng tạo, kế thừa có chọn lọc các giá trị
tiến bộ của nhân loại chủ động thích ứng với tình hình mới. tưởng đó không
ngừng được bổ sung, phát triển thông qua các cương lĩnh, chiến lược phát triển kinh tế,
xã hội qua các kỳ Đại hội Đảng, khẳng định rõ hơn mô hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam
với đặc trưng: do nhân dân làm chủ, do Đảng lãnh đạo, có nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa, nền kinh tế nhiều thành phần, văn hóa mang tính nhân văn bản sắc dân
tộc, quốc phòng, an ninh vững mạnh, quan hệ đối ngoại rộng mở và độc lập tự chủ.
Thực tiễn 35 năm đổi mới đã chứng minh tính đúng đắn và hiệu quả của việc vận dụng
sáng tạo Chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam. Tốc độ tăng trưởng
kinh tế ổn định, đời sống nhân dân được cải thiện, vị thế quốc tế ngày càng được nâng
cao, nhất là hệ thống chính trị vẫn giữ được ổn định tất cả đã khẳng định rằng Việt
Nam đã lựa chọn đúng con đường phát triển. Đồng thời, thành công này cũng minh
chứng rõ ràng cho sức sống bền vững của tư tưởng Mác - Lênin nếu được vận dụng linh
hoạt, sáng tạo và phù hợp với thực tiễn.
2.4. Cuba - Kiên định Chủ nghĩa Mác - Lênin trong điều kiện đặc thù
Cuba một trong những quốc gia tiêu biểu khu vực Mỹ Latinh đã vận dụng Chủ
nghĩa Mác - Lênin để tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa và kiên định theo đuổi mô
hình này trong suốt hơn sáu thập kỷ, bất chấp những điều kiện ng đặc thù đầy
lOMoARcPSD| 61630826
thách thức. Với vị trí địa gần kề Hoa Kỳ - trung tâm của chủ nghĩa tư bản, Cuba đã
đang duy trì thể chếhội chủ nghĩa dưới áp lực cấm vận kinh tế kéo dài, những đợt
khủng hoảng tài chính toàn cầu và sự biến động của hệ thống quốc tế.
Ngày 26/7/1953 đã lật đổ chế độ độc tài Batista thân Mỹ và vào ngày 01/01/1959 dưới
sự lãnh đạo của Fidel Castro, Cách mạng Cuba thành công. Ngay sau đó, Cuba tuyên
bố đi theo con đường chủ nghĩa xã hội, quốc hữu hóa tài sản của giới tư sản và các công
ty ớc ngoài, đồng thời xác lập vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Cuba (thành lập
ngày 3/10/1965), được quy định là “lực lượng lãnh đạo xã hội và đất nước” trong Hiến
pháp. tưởng Mác - Lênin kết hợp với di sản tưởng của José Martí đã trở thành
kim chỉ nam dẫn dắt sự phát triển chính trị - xã hội của Cuba.
Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa hội, Cuba đã dựa trên hai nguyên tắc trcột:
quyền lãnh đạo chính trị của Đảng Cộng sản và vai trò chủ đạo của nhà nước trong nền
kinh tế. Nnước chuyên chính vô sản được thiết lập nhằm đảm bảo quyền lợi của đa
số nhân dân lao động. Hệ thống y tế, giáo dục an sinh hội được xây dựng đồng
bộ, hướng tới công bằng phát triển toàn diện con người. Cuba một trong những
quốc gia có tỷ lệ biết chữ cao nhất khu vực, tuổi thọ bình quân gần 80 tuổi và hệ thống
chăm sóc sức khỏe miễn phí hàng đầu thế giới.
Sau sự sụp đổ của Liên Xô (1991), Cuba đối mặt với thử thách nghiêm trọng khi mất đi
nguồn viện trợ bạn hàng chiến lược. Tuy nhiên, thay từ bỏ con đường hội chủ
nghĩa, Cuba đã u gọi nhân dân đoàn kết, tlực tự ờng điều chỉnh chính sách
phù hợp với tình hình mới. Từ năm 1993, Cuba bắt đầu nới lỏng kiểm soát kinh tế, thúc
đẩy hợp tác quốc tế mở cửa thương mại với các nước Mỹ Latinh, Châu Âu, Trung
Quốc, Ấn Độ…, giúp từng bước phục hồi nền kinh tế.
Từ năm 2008, Cuba chính thức triển khai tiến trình “cập nhật hóa” hình phát triển
kinh tế - hội. Đại hội VI (2011) và các kỳ Đại hội tiếp theo của Đảng Cộng sản Cuba
đã cụ thể hóa chtrương này, trong đó tập trung vào các vấn đề: khuyến khích kinh tế
tự doanh, mở rộng đầu tư nước ngoài, xóa bỏ dần bao cấp không cần thiết, cải cách hệ
thống tiền tệ thuế, tăng cường hiệu quả quản nnước… Những cải cách này
không phá vnền tảng hội chủ nghĩa nhằm hiện đại hóa nó, như lời Chủ tịch
Miguel Díaz - Canel khẳng định: Hiện đại hóa hình hội kinh tế nhưng vẫn
kiên định giữ vững hệ thống hội chủ nghĩa”. Quá trình đổi mới Cuba không chỉ
giới hạn trong lĩnh vực kinh tế mà còn đi kèm với đổi mới tư duy lý luận. Văn kiện các
kỳ Đại hội Đảng nhấn mạnh việc tiếp tục sáng tạo trên nền tảng Mác Lênin để xử
hiệu quả các vấn đề thực tiễn. Mô hình phát triển kinh tế - xã hội xã hội chủ nghĩa được
“khái niệm hóa” rõ ràng hơn, trong đó khẳng định vai trò của thị trường trong phân phối
nguồn lực nhưng dưới sự quản lý và điều tiết của nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Điểm đặc biệt trong mọi hoàn cảnh, Cuba vẫn kiên định mục tiêu phát triển hội
chủ nghĩa. Chủ tịch Miguel Díaz - Canel khẳng định rõ: hiện đại hóa hình kinh tế
hội nhưng vẫn giữ vững hệ thống chính trị hội chủ nghĩa. Điều này chứng tỏ,
Cuba không xem cải cách là sự từ bỏ lý tưởng Mác - Lênin, mà là phương thức để hiện
thực hóa trong điều kiện mới. Không chhình mẫu kiên định vởng, Cuba
lOMoARcPSD| 61630826
còn là nguồn cảm hứng cách mạng cho toàn khu vực Mỹ Latinh. Tấm gương đấu tranh
phát triển của Cuba đã cổ mạnh mẽ các phong trào chống đế quốc Venezuela,
Bolivia, Nicaragua… Lãnh tụ Fidel Castro từng được như “ngọn hải đăng” soi sáng
con đường độc lập hội chủ nghĩa cho các dân tộc thuộc địa. Những kết quả đạt
được là minh chứng rõ ràng cho sự thành công bước đầu của con đường Cuba lựa chọn:
GDP tăng trưởng, du lịch phát triển mạnh, giáo dục và y tế tiếp tục giữ vững chất lượng
cao, chỉ số phát triển con người (HDI) nằm trong nhóm cao của khu vực. Đặc biệt, Cuba
còn xuất khẩu đội ngũ chuyên gia y tế đi khắp thế giới, đóng góp vào ngân sách quốc
gia khẳng định vị thế quốc tế về nhân đạo. Cuba một minh chứng điển hình cho
khả năng thích nghi, kiên định sáng tạo trong vận dụng Chủ nghĩa Mác - Lênin.
Trong khi nhiều quốc gia hội chủ nghĩa rơi vào khủng hoảng hoặc thay đổi
hình, Cuba vẫn giữ vững lập trường và chứng minh rằng chủ nghĩa hội thể được
cập nhật, phát triển và hiện đại hóa trong bối cảnh toàn cầu hóa không đánh mất bản
chất cách mạng và nhân văn của nó.
Chương 2 đã tập trung phân tích cụ thể ảnh hưởng của tư tưởng chính trị Chủ nghĩa
Mác - Lênin đến các quốc gia hội chủ nghĩa tiêu biểu trên thế giới, gồm: Liên Xô,
Trung Quốc, Việt Nam Cuba. Mỗi quốc gia tuy bối cảnh lịch sử, điều kiện kinh
tế - hội đặc điểm văn hóa khác nhau, nhưng đều cho thấy một điểm chung sự
tiếp nhận, vận dụng phát triển tưởng Mác - Lênin một cách linh hoạt, sáng tạo
trong thực tiễn cách mạng. Liên quốc gia đầu tiên đưa luận Mác - Lênin vào
hiện thực, thiết lập nhà nước hội chủ nghĩa trở thành hình mẫu cho phong trào
cộng sản quốc tế. Trung Quốc, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản tưởng Mao
Trạch Đông đã kết hợp sáng tạo giữa Chủ nghĩa Mác - Lênin với điều kiện cụ thể của
nước mình, mđường cho công cuộc cải cách hiện đại hóa đất ớc. Việt Nam nổi
bật với quá trình “Việt hóa” ởng Mác - Lênin ới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh,
gắn kết giữa giải phóng dân tộc mục tiêu xã hội chủ nghĩa một cách hài hòa. Trong
khi đó, Cuba minh chứng sinh động về sự kiên định tưởng cách mạng trong điều
kiện đặc biệt khó khăn, đồng thời không ngừng đổi mới mô hình kinh tế xã hội để thích
ứng với thời đại. Những quốc gia tiêu biểu này không chỉ cho thấy sức sống bền vững
của tư tưởng Mác - Lênin mà còn phản ánhvai trò quyết định của việc vận dụng linh
hoạt lý luận vào thực tiễn quốc gia. Đây chính là tiền đề quan trọng để tiếp tục đánh giá
sâu hơn những tác động và sự điều chỉnh tư tưởng Mác - Lênin trong bối cảnh hiện đại
ở chương tiếp theo.
CHƯƠNG 3. NHỮNG TÁC ĐỘNG VÀ SỰ ĐIỀU CHỈNH CỦA CHỦ NGHĨA
MÁC - LÊNIN TRONG BỐI CẢNH HIỆN ĐẠI
3.1. Tác động tích cực của Chủ nghĩa Mác - Lênin
Chủ nghĩa Mác - nin, với cách hệ tưởng chính trị - hội mang tính cách
mạng và khoa học, đã tạo ra những ảnh hưởng to lớn sâu sắc không chỉ đối với các
nước lựa chọn con đường hội chủ nghĩa còn đối với phong trào đấu tranh của
nhân loại tiến bộ trên phạm vi toàn thế giới. Trong suốt thế kỷ XX cho đến nay,
lOMoARcPSD| 61630826
tưởng Mác - Lênin đã chứng minh vai trò định hướng luận, khơi dậy tinh thần đấu
tranh, tổ chức lực lượng quần chúng và chỉ đạo thực tiễn trong các cuộc cách mạng
sản, cách mạng dân tộc dân chủ sự nghiệp xây dựng chnghĩa hội nhiều quốc
gia.
Trước hết, Chủ nghĩa Mác - Lênin đã góp phần thức tỉnh giai cấp công nhân nhân
dân lao động trên toàn thế giới về vai trò lịch sử của họ. Luận điểm “lịch sử của tất cả
các hội cho đến nay lịch sử của đấu tranh giai cấp” (Karl Marx & Friedrich Engels,
1848) không chỉ bóc trần bản chất bóc lột của chủ nghĩabản, mà còn cổ vũ mạnh mẽ
phong trào đấu tranh giai cấp trên toàn cầu, đặt nền móng lý luận cho sự hình thành của
các Đảng Cộng sản và phong trào công nhân quốc tế. Tư tưởng của C.Mác và V.I.Lênin
đã khẳng định rõ vai trò cách mạng và sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản là lực lượng
duy nhất có khả năng tổ chức và lãnh đạo cuộc đấu tranh lật đổ chế độ bản chủ nghĩa,
xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ và tiến bộ hơn đó là xã hội xã hội chủ nghĩa.
Thứ hai, tư tưởng Mác - Lênin đã cung cấp cơ sở lý luận nền tảng để xây dựng một mô
hình chính trị kiểu mới, nhà nước của giai cấp công nhân nhân dân lao động. Tn
thực tế, mô hình nhà nước viết đầu tiên ra đời Liên năm 1917 là minh chứng
sống động cho việc vận dụng sáng tạo luận chính trị Mác - Lênin vào thực tiễn. Từ
đây, nhà nước không còn là công cụ bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị tư sản, mà tr
thành nhà nước phục vđông đảo quần chúng nhân dân, thực hiện công bằng hội,
bảo vệ quyền lợi người lao động và đấu tranh xóa bỏ bất công.
Thứ ba, Chủ nghĩa Mác - Lênin đóng vai trò then chốt trong việc thúc đẩy sự phát triển
toàn diện về kinh tế - hội nhiều quốc gia. Trong các nước hội chủ nghĩa như
Liên Xô, Trung Quốc, Việt Nam Cuba, tưởng Mác - Lênin đã dẫn dắt quá trình
xây dựng nền kinh tế nhà nước, từng bước xóa bỏ n phong kiến chủ nghĩa
bản, tiến tới nền kinh tế tập trung định hướng hội chủ nghĩa. có những hình
cách tiếp cận khác nhau, các nước này đều đã đạt được những thành tựu đáng kể
trong lĩnh vực giáo dục, y tế, an sinh hội công nghiệp hóa, qua đó nâng cao đời
sống nhân dân từng bước khẳng định tính ưu việt của con đường hội chủ nghĩa
trong điều kiện cụ thể của từng quốc gia.
Thứ tư, Chủ nghĩa Mác - Lênin còn là nền tảng để củng cố tinh thần quốc tế vô sản, tinh
thần đoàn kết giữa các dân tộc đang đấu tranh cho hòa bình, độc lập, dân chủ và tiến bộ
xã hội. Các phong trào giải phóng dân tộc ở Châu Á, Châu Phi và Mỹ Latinh trong thế
kỷ XX đều ít nhiều chịu ảnh ởng từ tinh thần quốc tế cách mạng do ởng Mác -
Lênin khơi nguồn. Tấm gương Cuba, Việt Nam, hay các nước từng theo hình
hội chủ nghĩa Đông Âu minh chứng cho khả năng lan tỏa sức ảnh hưởng của hệ
tư tưởng này.
Cuối cùng, trong bối cảnh hiện nay, khi các vấn đề bất bình đẳng xã hội, phân hóa giàu
nghèo, khủng hoảng môi trường và suy thoái đạo đức đang trở thành mối quan m toàn
cầu, nhiều giá trị cốt lõi của Chủ nghĩa Mác - Lênin như công bằng xã hội, phát triển
bền vững, sự điều tiết của nhà nước, quyền lực thuộc về nhân dân… vẫn giữ nguyên giá
trị định hướng. nhiều quốc gia hội chủ nghĩa, tưởng Mác - Lênin vẫn đang

Preview text:

lOMoAR cPSD| 61630826 MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Chủ nghĩa Mác - Lênin là một trong những hệ tư tưởng chính trị có ảnh hưởng sâu rộng
và lâu dài nhất trong lịch sử cận - hiện đại. Tư tưởng này ra đời trong bối cảnh các mâu
thuẫn xã hội dưới chế độ tư bản chủ nghĩa ngày càng gay gắt, đặc biệt là sự đối lập giữa
giai cấp tư sản và giai cấp vô sản. Với hệ thống lý luận chặt chẽ, mang tính cách mạng
và khoa học, Chủ nghĩa Mác - Lênin đã vượt qua những quan điểm xã hội chủ nghĩa
không tưởng trước đó, trở thành kim chỉ nam cho phong trào cộng sản và công nhân
quốc tế. Sự vận dụng và phát triển tư tưởng Mác - Lênin đã góp phần làm nên thành
công của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917, cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa đầu
tiên trong lịch sử loài người và từ đó lan tỏa sang nhiều khu vực trên thế giới, đặc biệt
là Đông Âu, Châu Á, Mỹ Latinh và châu Phi.
Trong suốt thế kỷ XX, Chủ nghĩa Mác - Lênin không chỉ được tiếp thu và triển khai
dưới hình thức mô hình hóa nhà nước và xã hội tại Liên Xô, Trung Quốc, Việt Nam,
Cuba,... mà còn ảnh hưởng mạnh mẽ đến phong trào giải phóng dân tộc và sự hình thành
các thể chế chính trị mang tính chất xã hội chủ nghĩa tại nhiều quốc gia đang phát triển.
Thực tiễn lịch sử chứng minh rằng, dù tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau, tư tưởng
chính trị của Chủ nghĩa Mác - Lênin vẫn giữ được vai trò định hướng trong việc xây
dựng hệ thống chính trị, thiết chế nhà nước, tổ chức đảng và xác định chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội của các quốc gia xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện
nay, khi thế giới đang trải qua những biến động mạnh mẽ của toàn cầu hóa, kinh tế thị
trường, và sự chuyển dịch địa chính trị toàn cầu, việc nhìn lại và nghiên cứu lại hệ tư
tưởng Mác - Lênin trong tính chất chính trị của nó là điều vô cùng cần thiết. Không chỉ
để hiểu rõ hơn về quá khứ và những bài học từ thực tiễn, mà còn để phân tích cách thức
các quốc gia xã hội chủ nghĩa hiện nay đã và đang điều chỉnh tư duy lý luận, mô hình
tổ chức chính trị kinh tế để thích nghi với thời đại mới. Đối với sinh viên và những
người đang nghiên cứu lĩnh vực chính trị học, việc bước đầu tìm hiểu hệ thống tư tưởng
chính trị của Chủ nghĩa Mác - Lênin không chỉ mang ý nghĩa lý luận cơ bản, mà còn có
giá trị thực tiễn khi nhìn vào vai trò của hệ tư tưởng này trong tiến trình lịch sử chính
trị xã hội của nhân loại. Đây chính là lý do mà em lựa chọn đề tài: “Bước đầu tìm hiểu
về tư tưởng chính trị của Chủ nghĩa Mác - Lênin và ảnh hưởng đến các quốc gia xã hội
chủ nghĩa, với mong muốn làm rõ các luận điểm cốt lõi trong hệ tư tưởng này, đồng
thời soi chiếu chúng trong thực tiễn phát triển của các quốc gia xã hội chủ nghĩa tiêu
biểu. 2. Các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Tư tưởng chính trị của Chủ nghĩa Mác - Lênin từ lâu đã trở thành một trong những hệ
tư tưởng có ảnh hưởng sâu rộng nhất trong lịch sử nhân loại hiện đại, không chỉ về mặt
triết học, lý luận mà còn trong thực tiễn vận hành và xây dựng mô hình chính trị xã hội
tại nhiều quốc gia. Vì vậy, đã có nhiều công trình nghiên cứu của các học giả đi sâu vào
phân tích, lý giải những nội dung cốt lõi của hệ tư tưởng này dưới nhiều góc nhìn khác nhau. lOMoAR cPSD| 61630826
Một trong những công trình tiêu biểu có thể kể đến là bài viết của Nguyễn Thế Nghĩa
(2013) với bài viết “Sức sống của Chủ nghĩa Mác - Lênin trong thời đại ngày nay”,
đăng trên Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 10. Tác giả nhấn mạnh rằng, dù thế
giới đang chứng kiến những biến động lớn về chính trị, kinh tế, tư tưởng, song hệ tư
tưởng của Mác - Lênin vẫn chứng tỏ được sức sống mãnh liệt của mình. Bài viết không
chỉ phân tích những luận điểm cốt lõi mà còn đi sâu lý giải tính linh hoạt và khả năng
thích nghi của chủ nghĩa Mác - Lênin khi được vận dụng vào thực tiễn các nước xã hội
chủ nghĩa. Đặc biệt, tác giả nhấn mạnh vai trò định hướng, tổ chức và lãnh đạo của
Đảng Cộng sản trong quá trình cải biến xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Tiếp đến, công trình nghiên cứu của Phạm Thanh Hà (2022) với bài viết “Chủ nghĩa xã
hội - Tương lai của thế giới”, đăng trên Tạp chí Giáo dục Lý luận, số 335 + 336, đã mở
rộng hướng tiếp cận bằng cách so sánh sự vận dụng tư tưởng Mác - Lênin tại nhiều quốc
gia. Tác giả lập luận rằng chủ nghĩa xã hội không còn chỉ là một lý tưởng của thế kỷ
XIX, mà là một xu hướng hiện thực trong thế kỷ XXI, thể hiện rõ qua sự điều chỉnh lý
luận và chính sách của các quốc gia như Trung Quốc, Việt Nam, Cuba. Qua đó, bài viết
cũng chỉ ra mối liên hệ giữa tư tưởng Mác - Lênin và sự đổi mới mô hình phát triển tại
các nước xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là trong bối cảnh toàn cầu hóa, cạnh tranh chiến
lược và các thách thức xã hội mới.
Ngoài ra, nhiều bài viết, luận văn và công trình chuyên khảo của các tác giả như Trần
Văn Giàu, Nguyễn Phú Trọng, Nguyễn Viết Thông, Lê Hữu Nghĩa... đã góp phần hệ
thống hóa và phát triển lý luận Mác - Lênin trong bối cảnh Việt Nam và thế giới hiện
đại. Các công trình này không chỉ tập trung vào việc diễn giải nội dung cơ bản của tư
tưởng chính trị Mác - Lênin mà còn đi sâu vào việc làm rõ phương pháp vận dụng linh
hoạt trong từng điều kiện cụ thể. Tuy nhiên, phần lớn các nghiên cứu vẫn còn mang tính
chuyên đề đơn lẻ, tập trung vào một hoặc vài khía cạnh cụ thể, trong khi còn thiếu những
nghiên cứu tổng hợp, so sánh đối chiếu sự vận dụng tư tưởng chính trị của Chủ nghĩa
Mác - Lênin trong các mô hình nhà nước xã hội chủ nghĩa tiêu biểu. Việc đánh giá vai
trò của các nước như Liên Xô, Trung Quốc, Việt Nam, Cuba... trong tiến trình hiện thực
hóa tư tưởng Mác - Lênin vẫn còn nhiều khoảng trống cần tiếp tục được bổ sung và
khai thác một cách có hệ thống.
3. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của đề tài là bước đầu tìm hiểu một cách hệ thống và toàn diện những nội
dung cốt lõi trong tư tưởng chính trị của Chủ nghĩa Mác - Lênin, một trong những hệ
tư tưởng có ảnh hưởng sâu rộng nhất đến lịch sử chính trị - xã hội của thế giới hiện đại.
Cụ thể, đề tài hướng đến việc nhận diện, phân tích và khái quát hóa các luận điểm chính
trị trọng yếu của Chủ nghĩa Mác - Lênin, bao gồm học thuyết về giai cấp và đấu tranh
giai cấp, lý luận về nhà nước và chuyên chính vô sản, vai trò của Đảng Cộng sản, cũng
như con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội và mục tiêu hướng tới chủ nghĩa cộng sản.
Đây là những nội dung đóng vai trò nền tảng trong việc hình thành hệ thống tư tưởng
chính trị Mác - Lênin và trở thành kim chỉ nam lý luận cho nhiều phong trào cách mạng
trên thế giới. Không chỉ dừng lại ở lý luận, đề tài còn đặt mục tiêu khảo sát, phân tích lOMoAR cPSD| 61630826
và đánh giá mức độ ảnh hưởng của tư tưởng Mác - Lênin đến quá trình vận hành và
phát triển mô hình nhà nước xã hội chủ nghĩa ở một số quốc gia tiêu biểu như Liên Xô,
Trung Quốc, Việt Nam và Cuba. Việc nghiên cứu này không chỉ giúp làm rõ sự tiếp thu
và vận dụng tư tưởng Mác - Lênin trong các điều kiện lịch sử - xã hội cụ thể, mà còn
chỉ ra những sự điều chỉnh linh hoạt về mặt đường lối, chính sách, nhằm thích nghi với
những thách thức thực tiễn trong từng giai đoạn phát triển. Thông qua quá trình nghiên
cứu, đề tài mong muốn cung cấp cho người học đặc biệt là sinh viên các ngành khoa
học chính trị, triết học và quan hệ quốc tế cái nhìn khái quát nhưng sâu sắc về vai trò,
giá trị và tầm ảnh hưởng của Chủ nghĩa Mác - Lênin đối với quá trình xây dựng và bảo
vệ nhà nước xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, từ việc đối chiếu giữa lý luận và thực tiễn, đề
tài hướng đến việc nâng cao nhận thức về yêu cầu đổi mới trong tư duy chính trị hiện
nay, nhất là trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế và những biến động phức tạp
về địa chính trị và kinh tế trên toàn cầu. Qua đó, góp phần định hình tư duy khoa học,
phê phán và thực tiễn hơn trong việc tiếp cận các vấn đề lý luận chính trị cũng như trong
công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở các nước trên thế giới hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đề tài “Bước đầu tìm hiểu về tư tưởng chính trị của Chủ nghĩa Mác - Lênin và ảnh
hưởng đến các quốc gia xã hội chủ nghĩa” tập trung nghiên cứu hệ thống tư tưởng chính
trị của Chủ nghĩa Mác - Lênin và quá trình vận dụng hệ tư tưởng đó vào thực tiễn xây
dựng mô hình nhà nước xã hội chủ nghĩa tại một số quốc gia tiêu biểu. Cụ thể, đối tượng
nghiên cứu của đề tài bao gồm các luận điểm cơ bản về chính trị trong tư tưởng Mác -
Lênin, như: học thuyết về giai cấp và đấu tranh giai cấp, lý luận về nhà nước và chuyên
chính vô sản, vai trò lịch sử của Đảng Cộng sản, con đường và mục tiêu hướng tới chủ
nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Từ hệ tư tưởng nền tảng này, đề tài tiếp cận việc
khảo sát, phân tích và đánh giá cách các quốc gia xã hội chủ nghĩa đã tiếp thu, vận dụng
và điều chỉnh Chủ nghĩa Mác - Lênin trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể.
Về phạm vi nghiên cứu, bài tiểu luận giới hạn khảo sát ở bốn quốc gia có tính đại diện
tiêu biểu cho các mô hình xã hội chủ nghĩa: Liên Xô, quốc gia đầu tiên hiện thực hóa
tư tưởng Mác - Lênin và xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa trên quy mô toàn quốc;
Trung Quốc, quốc gia áp dụng Chủ nghĩa Mác - Lênin kết hợp với tư tưởng Mao Trạch
Đông để phù hợp với bối cảnh chính trị - xã hội; Việt Nam, điển hình cho một nước nửa
thuộc địa nửa phong kiến vận dụng sáng tạo tư tưởng Mác - Lênin trong cách mạng dân
tộc dân chủ và công cuộc đổi mới; và Cuba, một mô hình đặc biệt ở khu vực Mỹ Latinh
kiên định đi lên chủ nghĩa xã hội trong điều kiện bị bao vây, cấm vận kéo dài. Phạm vi
thời gian nghiên cứu trải dài từ thế kỷ XX đến thời điểm hiện tại, nhằm phản ánh đầy
đủ quá trình vận dụng tư tưởng chính trị Mác - Lênin từ khi được hiện thực hóa đến giai
đoạn điều chỉnh, cải cách phù hợp với yêu cầu của thời đại. Sự lựa chọn này không chỉ
giúp làm nổi bật tính ứng dụng và linh hoạt của tư tưởng Mác - Lênin, mà còn tạo cơ
sở đối chiếu, phân tích và rút ra những bài học lý luận thực tiễn quan trọng cho công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện nay. lOMoAR cPSD| 61630826
5. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình triển khai đề tài “Bước đầu tìm hiểu về tư tưởng chính trị của Chủ nghĩa
Mác - Lênin và ảnh hưởng đến các quốc gia xã hội chủ nghĩa”, em áp dụng các phương
pháp nghiên cứu khoa học kết hợp giữa lý thuyết và thực tiễn. Các phương pháp được sử dụng bao gồm:
Đầu tiên là phương pháp phân tích - tổng hợp lý thuyết. Đây là phương pháp được dùng
để phân tích các nội dung cốt lõi của hệ tư tưởng chính trị Mác - Lênin, như: học thuyết
về giai cấp, đấu tranh giai cấp, nhà nước, chuyên chính vô sản, vai trò của Đảng Cộng
sản, và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Trên cơ sở phân tích các tài liệu gốc (tác
phẩm của Marx, Engels, Lenin) và các văn kiện Đảng, đề tài tiến hành tổng hợp nhằm
xây dựng hệ thống lý luận rõ ràng, lôgic và dễ tiếp cận.
Thứ hai, phương pháp lịch sử. Phương pháp này được vận dụng để tìm hiểu nguồn gốc
hình thành và quá trình phát triển của Chủ nghĩa Mác - Lênin, cũng như các giai đoạn
vận dụng tư tưởng này trong thực tiễn tại các quốc gia như Liên Xô, Trung Quốc, Việt
Nam và Cuba. Qua đó có thể làm rõ bối cảnh lịch sử, điều kiện kinh tế - xã hội, và động
lực tư tưởng của từng thời kỳ.
Thứ ba là phương pháp phân tích tổng kết kinh nghiệm. Đề tài xem xét lại những thành
tựu và thất bại trong việc vận dụng Chủ nghĩa Mác - Lênin tại các quốc gia xã hội chủ
nghĩa, từ đó rút ra các kết luận có giá trị lý luận và thực tiễn. Các trường hợp cụ thể như
cải tổ của Liên Xô, cải cách mở cửa ở Trung Quốc, đổi mới tại Việt Nam và mô hình
kiên định ở Cuba được phân tích như các bài học thực tiễn điển hình. Thứ tư, phương
pháp so sánh - đối chiếu. Được sử dụng nhằm nhận diện những điểm giống và khác
nhau trong cách thức vận dụng lý luận Mác - Lênin ở các nước xã hội chủ nghĩa. Từ đó,
đánh giá tính thích nghi, khả năng linh hoạt và những giới hạn lý luận của hệ tư tưởng
này trong bối cảnh toàn cầu hóa và biến động hiện nay.
6. Đóng góp của đề tài
Đề tài “Bước đầu tìm hiểu về tư tưởng chính trị của Chủ nghĩa Mác - Lênin và ảnh
hưởng đến các quốc gia xã hội chủ nghĩa” có giá trị cả về mặt lý luận lẫn thực tiễn
trong việc nghiên cứu hệ tư tưởng chính trị có sức ảnh hưởng sâu sắc nhất trong thế kỷ
XX và tiếp tục để lại dấu ấn rõ nét trong thế kỷ XXI. Trước hết, đề tài góp phần hệ
thống hóa một cách logic, khoa học và có chọn lọc những nội dung cốt lõi trong tư
tưởng chính trị của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tập trung vào các học thuyết và luận điểm
trọng yếu như: đấu tranh giai cấp, lý luận về nhà nước và chuyên chính vô sản, vai trò
trung tâm của Đảng Cộng sản và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Đây là nền tảng
quan trọng để người học, người nghiên cứu nắm bắt được hệ thống tri thức lý luận chính
trị Mác - Lênin một cách rõ ràng, chính xác và gắn với thực tiễn cách mạng. Thứ hai,
đề tài có đóng góp trong việc soi chiếu, phân tích và đánh giá việc vận dụng tư tưởng
Mác - Lênin vào thực tiễn xây dựng và phát triển nhà nước ở một số quốc gia xã hội
chủ nghĩa tiêu biểu, bao gồm: Liên Xô, Trung Quốc, Việt Nam và Cuba. Qua đó, đề tài
không chỉ mô tả các mô hình vận dụng mà còn đi sâu phân tích những yếu tố thành lOMoAR cPSD| 61630826
công, hạn chế, nguyên nhân dẫn đến sự điều chỉnh, đổi mới trong tư duy và tổ chức
chính trị ở từng quốc gia trong bối cảnh thế giới biến động.
Thứ ba, thông qua việc tổng hợp và đối chiếu giữa lý luận và thực tiễn, đề tài giúp khẳng
định sức sống lâu dài và giá trị của tư tưởng chính trị Mác - Lênin, đồng thời cũng chỉ
ra rằng không thể áp dụng một cách máy móc, giáo điều mà cần phải linh hoạt vận dụng
vào điều kiện cụ thể của từng nước, từng thời kỳ. Điều này đặc biệt có ý nghĩa trong
bối cảnh toàn cầu hóa, khi các quốc gia xã hội chủ nghĩa phải đối mặt với hàng loạt
thách thức từ kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế, sự phát triển của khoa học công nghệ
và yêu cầu dân chủ, pháp quyền hiện đại.
Cuối cùng, em mong kết quả nghiên cứu của đề tài có thể trở thành nguồn tài liệu tham
khảo hữu ích cho không chỉ sinh viên, giảng viên, nhà nghiên cứu mà còn cho những
người quan tâm đến chính trị học, lý luận Mác - Lênin, lý luận và thực tiễn về xây dựng
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung chính
của đề tài gồm 3 chương:
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN
1.1. Bối cảnh lịch sử hình thành tư tưởng chính trị Mác - Lênin
1.2. Hệ thống tư tưởng chính trị cơ bản của Chủ nghĩa Mác - Lênin
1.2.1. Học thuyết về giai cấp và đấu tranh giai cấp
1.2.2. Lý luận về nhà nước và chuyên chính vô sản
1.2.3. Vai trò của Đảng Cộng sản
1.2.4. Con đường đi lên Chủ nghĩa Xã hội và mục tiêu hướng tới Chủ nghĩa Cộng sản.
CHƯƠNG 2. ẢNH HƯỞNG CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN ĐẾN CÁC QUỐC
GIA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA TIÊU BIỂU
2.1. Liên Xô - Mô hình đầu tiên vận dụng tư tưởng Mác - Lênin
2.2. Trung Quốc - Kết hợp Chủ nghĩa Mác - Lênin với tư tưởng Mao Trạch Đông
2.3. Việt Nam - Vận dụng sáng tạo tư tưởng Mác - Lênin vào thực tiễn
2.4. Cuba - Kiên định Chủ nghĩa Mác - Lênin trong điều kiện đặc thù
CHƯƠNG 3. NHỮNG TÁC ĐỘNG VÀ SỰ ĐIỀU CHỈNH CỦA CHỦ NGHĨA MÁC
- LÊNIN TRONG BỐI CẢNH HIỆN ĐẠI
3.1. Tác động tích cực của Chủ nghĩa Mác - Lênin
3.2. Hạn chế và thách thức trong quá trình vận dụng Chủ nghĩa Mác - Lênin
3.3. Sự điều chỉnh của các nước xã hội chủ nghĩa hiện nay KẾT LUẬN lOMoAR cPSD| 61630826 NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN
1.1. Bối cảnh lịch sử hình thành tư tưởng chính trị Mác - Lênin
Tư tưởng chính trị của Chủ nghĩa Mác - Lênin ra đời trong một bối cảnh lịch sử đặc biệt
của thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, khi chủ nghĩa tư bản đang bước vào giai đoạn phát
triển mạnh mẽ, nhưng đồng thời cũng bộc lộ những mâu thuẫn sâu sắc về kinh tế - xã hội.
Trên phương diện kinh tế - xã hội, thời kỳ này là kết quả trực tiếp của cuộc Cách mạng
công nghiệp lần thứ nhất và thứ hai, khiến cho phương thức sản xuất chuyển từ thủ công
sang cơ khí, và từ đó làm sâu sắc thêm sự phân hóa giai cấp. Giai cấp tư sản ngày càng
giàu mạnh và thống trị về chính trị - kinh tế, trong khi giai cấp vô sản, những người lao
động bị bóc lột rơi vào cảnh khốn cùng. Điều này dẫn đến nhiều cuộc khủng hoảng kinh
tế (1825, 1847...) và sự trỗi dậy mạnh mẽ của phong trào công nhân ở Châu Âu, đặc
biệt là ở Anh, Pháp và Đức. Thực tiễn ấy đặt ra nhu cầu cấp thiết về một hệ tư tưởng
chính trị mới, có khả năng lý giải và định hướng hành động cách mạng.
Về phương diện lý luận, chủ nghĩa Mác là sự kế thừa và phát triển các thành tựu tư
tưởng lớn của nhân loại: Đầu tiên, từ triết học cổ điển Đức, đặc biệt là phép biện chứng
của Hégel và chủ nghĩa duy vật của Feuerbach, Mác và Ăngghen đã xây dựng nên phép
biện chứng duy vật và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Thứ hai, từ kinh tế chính trị học Anh,
tiêu biểu là Adam Smith và David Ricardo, Mác phát triển lý luận giá trị thặng dư, làm
rõ bản chất bóc lột của tư bản chủ nghĩa. Thứ ba, từ chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp,
Mác kế thừa tinh thần nhân văn nhưng vượt lên bằng cách xác lập chủ nghĩa xã hội
khoa học dựa trên đấu tranh giai cấp và vai trò lịch sử của giai cấp công nhân.
Ngoài ra, thành tựu khoa học tự nhiên như thuyết tiến hóa của Darwin, thuyết tế bào,
và định luật bảo toàn năng lượng… đã củng cố thế giới quan duy vật biện chứng, làm
nền tảng cho tư duy cách mạng của Mác - Ăngghen.
Sang đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản phát triển thành chủ nghĩa đế quốc, các mâu
thuẫn giai cấp và dân tộc ngày càng gay gắt. Trong bối cảnh đó, Vladimir Ilyich Lênin
đã vận dụng sáng tạo và phát triển tư tưởng Mác phù hợp với thời đại mới, đặc biệt là
thông qua Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917, đưa lý luận Mác từ tầm vóc tư tưởng
trở thành hiện thực lịch sử. Lênin không chỉ khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng kiểu
mới mà còn mở rộng lý luận cách mạng sang các nước thuộc địa - nửa phong kiến, trong đó có Việt Nam.
Như vậy, tư tưởng chính trị của Chủ nghĩa Mác - Lênin là sản phẩm của sự kết tinh giữa
điều kiện lịch sử cụ thể, sự phát triển nội tại của lý luận, và thực tiễn đấu tranh cách
mạng. Nó ra đời như một tất yếu của thời đại, phản ánh nhu cầu hiện thực của giai cấp
công nhân và các lực lượng tiến bộ trong xã hội, đặt nền móng tư tưởng cho sự hình
thành các nhà nước xã hội chủ nghĩa sau này. lOMoAR cPSD| 61630826
1.2. Hệ thống tư tưởng chính trị cơ bản của Chủ nghĩa Mác - Lênin
Sau khi hình thành và phát triển trong bối cảnh lịch sử đầy biến động của châu Âu thế
kỷ XIX - đầu thế kỷ XX, Chủ nghĩa Mác - Lênin đã xây dựng nên một hệ thống tư
tưởng chính trị mang tính khoa học, cách mạng và toàn diện. Không chỉ dừng lại ở việc
phê phán chế độ tư bản chủ nghĩa, học thuyết này còn đưa ra những quan điểm nền tảng
về cách mạng xã hội, tổ chức nhà nước, vai trò của giai cấp công nhân, cũng như con
đường phát triển của nhân loại trong tương lai.
Hệ thống tư tưởng chính trị Mác - Lênin không được xây dựng một cách rời rạc mà có
tính logic chặt chẽ, phản ánh quá trình vận động khách quan của lịch sử xã hội loài
người. Trong đó, các nội dung về đấu tranh giai cấp, vai trò của nhà nước, sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản, và lý tưởng về một xã hội không còn áp bức, bóc lột đều liên kết
chặt chẽ với nhau, tạo thành nền tảng tư tưởng cho các phong trào cách mạng và các
quốc gia xã hội chủ nghĩa sau này.
1.2.1. Học thuyết về giai cấp và đấu tranh giai cấp
Học thuyết về giai cấp và đấu tranh giai cấp là một trong những trụ cột quan trọng và
trung tâm trong toàn bộ hệ thống tư tưởng chính trị của Chủ nghĩa Mác - Lênin. Theo
Karl Marx và Friedrich Engels, “Lịch sử tất cả các xã hội tồn tại từ trước đến ngày nay
chỉ là lịch sử đấu tranh giai cấp” một tuyên bố mang tính cốt lõi trong “Tuyên ngôn của
Đảng Cộng sảp”
. (C.Mác & Ph.Ăng-ghen, 1848)
Khái niệm giai cấp, theo C.Mác, không đơn thuần dựa trên tiêu chí thu nhập hay địa vị
xã hội, mà được xác định chủ yếu bởi vị trí của các nhóm người trong quan hệ sản xuất,
đặc biệt là quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất. Những nhóm người nắm giữ tư liệu sản xuất
sẽ có quyền kiểm soát nguồn lực kinh tế và chính trị, trong khi các nhóm bị tước đoạt
tư liệu sản xuất phải lao động thuê để tồn tại. Mâu thuẫn giữa các nhóm lợi ích đó là cơ
sở dẫn đến đấu tranh giai cấp, một hình thức xung đột xã hội mang tính lịch sử tất yếu.
C.Mác và Ph.Ăngghen chỉ rõ rằng đấu tranh giai cấp là động lực trực tiếp thúc đẩy sự
phát triển xã hội. Khi mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trở nên
gay gắt, nó tất yếu dẫn đến cách mạng xã hội là điểm kết của một hình thái kinh tế - xã
hội và sự ra đời của hình thái mới.
Trong thời kỳ chủ nghĩa tư bản, Mác nhận định giai cấp vô sản là lực lượng cách mạng
duy nhất có thể thực hiện sứ mệnh lịch sử: lật đổ giai cấp tư sản, thiết lập chuyên chính
vô sản và xây dựng chủ nghĩa xã hội. V.I. Lênin sau này đã phát triển luận điểm này
theo hướng thực tiễn, nhấn mạnh sự cần thiết phải thành lập một “Đảng kiểu mới” một
chính đảng cách mạng, được tổ chức chặt chẽ, có lý luận dẫn đường, làm lực lượng tiên
phong của giai cấp công nhân trong cuộc đấu tranh giai cấp. Lênin còn mở rộng lý luận
đấu tranh giai cấp trong điều kiện đặc thù của các quốc gia nửa thuộc địa - nửa phong
kiến như Việt Nam. Ông chỉ rõ rằng, tại đây, cần kết hợp giữa đấu tranh giai cấp với
đấu tranh dân tộc để tạo thành mặt trận thống nhất chống đế quốc và tay sai, một đóng
góp lý luận và thực tiễn quan trọng có ý nghĩa sâu sắc với cách mạng các nước phương Đông. lOMoAR cPSD| 61630826
Tuy nhiên, Chủ nghĩa Mác - Lênin không cổ vũ bạo lực cực đoan. Đấu tranh giai cấp
trong tư tưởng Mác - Lênin là một quá trình khách quan, diễn ra dưới nhiều hình thức:
kinh tế, chính trị, tư tưởng, trong đó đấu tranh chính trị giữ vai trò quyết định. Đặc biệt,
các nhà kinh điển đã nêu rõ rằng, đấu tranh giai cấp có thể diễn ra bằng con đường hòa
bình nếu điều kiện cho phép, nhưng trong nhiều trường hợp, cách mạng bằng bạo lực
là không thể tránh khỏi do tính chất phản kháng mạnh mẽ từ phía giai cấp thống trị.
Trong bối cảnh hiện nay, một số ý kiến cho rằng học thuyết về đấu tranh giai cấp không
còn phù hợp với xã hội hiện đại. Tuy nhiên, thực tế vẫn cho thấy sự phân hóa giai tầng
sâu sắc, bất bình đẳng trong phân phối thu nhập, tài sản và cơ hội phát triển vẫn tồn tại,
kể cả ở các nước tư bản phát triển. Do đó, học thuyết này vẫn giữ nguyên giá trị phương
pháp luận trong việc nhận diện, phân tích và định hướng giải pháp cho các mâu thuẫn xã hội.
Tóm lại, học thuyết giai cấp và đấu tranh giai cấp của Chủ nghĩa Mác - Lênin không chỉ
làm sáng tỏ bản chất giai cấp của xã hội và nhà nước, mà còn cung cấp cơ sở lý luận
vững chắc cho việc thành lập nhà nước của giai cấp công nhân và con đường phát triển
tiến bộ hướng đến xóa bỏ mọi hình thức áp bức, bóc lột trong xã hội.
1.2.2. Lý luận về nhà nước và chuyên chính vô sản
Trong hệ thống tư tưởng chính trị của Chủ nghĩa Mác - Lênin, lý luận về nhà nước và
chuyên chính vô sản giữ vị trí trung tâm, thể hiện một bước đột phá về nhận thức khoa
học - cách mạng đối với bản chất của nhà nước và vai trò của nó trong tiến trình phát
triển xã hội. Tư tưởng này không chỉ bác bỏ quan điểm siêu hình, duy tâm, cho rằng
nhà nước là sản phẩm của lý trí hay là đại diện cho lợi ích chung, mà còn chỉ rõ: nhà
nước là sản phẩm lịch sử của xã hội có giai cấp và là công cụ chuyên chính của một giai
cấp đối với các giai cấp khác.
Theo Karl Marx và Friedrich Engels, nhà nước ra đời khi xã hội phân hóa thành các giai
cấp có lợi ích kinh tế đối kháng, và mâu thuẫn giữa chúng không thể điều hòa. Trong
hoàn cảnh đó, để duy trì trật tự xã hội và bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị, một thiết
chế cưỡng chế đặc biệt tức nhà nước được hình thành. Như Marx đã viết trong “Tuyên
ngôn của Đảng Cộng sản”
(1848): “Chính quyền hiện đại chẳng qua chỉ là một ủy ban
quản lý chung cho toàn bộ giai cấp tư sản.” (C.Mác & Ph.Ăng-ghen, 1848). Từ đó, ông
và Engels kết luận rằng: nhà nước không mang tính trung lập, mà là công cụ để một giai
cấp thống trị bóc lột và áp bức các giai cấp khác.
Trong xã hội tư bản, nhà nước tư sản chính là bộ máy thống trị của giai cấp tư sản, nhằm
bảo vệ quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa và quyền lợi giai cấp tư hữu tư liệu sản xuất.
Dưới danh nghĩa pháp luật, dân chủ và tự do, thực chất là duy trì địa vị thống trị kinh tế
- chính trị của thiểu số giàu có đối với đa số lao động nghèo khổ.
Từ việc phân tích bản chất giai cấp của nhà nước, Marx và Engels khẳng định: giai cấp
vô sản, để thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình là xóa bỏ chế độ bóc lột và xây dựng xã
hội cộng sản thì phải thiết lập một nhà nước kiểu mới, đó là chuyên chính vô sản.
Chuyên chính vô sản, hiểu theo đúng nghĩa Mác-xít, là nền chuyên chính của đại đa số
lao động đối với thiểu số bóc lột, nhằm thủ tiêu những tàn dư của xã hội cũ, cải tạo xã lOMoAR cPSD| 61630826
hội trên nền tảng mới và tổ chức lại đời sống kinh tế, chính trị, xã hội theo nguyên tắc
của chủ nghĩa xã hội. Đây không phải là sự “đàn áp toàn dân” mà là hình thức dân chủ
cao hơn, bởi nó mở rộng quyền lực cho giai cấp đông đảo nhất - giai cấp công nhân và
các tầng lớp lao động trong khi kiên quyết trấn áp mọi âm mưu phản cách mạng của giai cấp bị lật đổ.
V.I. Lênin, người kế thừa và phát triển học thuyết Mác, đã cụ thể hóa lý luận về nhà
nước và chuyên chính vô sản trong điều kiện chủ nghĩa tư bản đã phát triển lên giai
đoạn đế quốc. Trong tác phẩm kinh điển “Nhà nước và cách mạng” (1917), Lênin nhấn
mạnh rằng: chuyên chính vô sản là công cụ để đập tan bộ máy nhà nước tư sản, thiết
lập nền dân chủ vô sản, tiến hành quốc hữu hóa tư liệu sản xuất lớn, thực hiện chế độ
công hữu, đồng thời tổ chức lại toàn bộ hệ thống quản lý xã hội một cách dân chủ.
Khác với nhà nước tư sản vốn là “bộ máy đàn áp của giai cấp tư sản đối với giai cấp vô
sản”, nhà nước chuyên chính vô sản là bộ máy tổ chức cách mạng của giai cấp công
nhân, không chỉ thực hiện trấn áp giai cấp tư sản cũ mà còn tổ chức sản xuất và xây
dựng xã hội mới. Lênin gọi đây là “nửa nhà nước”, vì nó mang tính chuyển tiếp, chỉ tồn
tại trong một giai đoạn lịch sử nhất định, và sẽ dần tiêu vong cùng với sự tiêu vong của
đối kháng giai cấp khi chủ nghĩa cộng sản được thiết lập hoàn chỉnh. Đặc biệt, trong
điều kiện các quốc gia nửa thuộc địa và nửa phong kiến, Lênin mở rộng lý luận cách
mạng bằng cách kết hợp đấu tranh giai cấp với đấu tranh giải phóng dân tộc, xác định:
cách mạng vô sản ở các nước này phải gắn với cách mạng dân tộc dân chủ, dưới sự lãnh
đạo của Đảng kiểu mới, nhằm lật đổ ách thống trị thực dân phong kiến, tiến tới xây
dựng chính quyền nhân dân.
Lý luận về nhà nước và chuyên chính vô sản đã trở thành cơ sở lý luận quan trọng cho
các cuộc cách mạng vô sản thế kỷ XX, đặc biệt là: Cách mạng Tháng Mười Nga (1917):
nơi lần đầu tiên thiết lập nhà nước chuyên chính vô sản do Đảng Bolshevik lãnh đạo.
Các quốc gia xã hội chủ nghĩa khác như Trung Quốc, Việt Nam, Cuba,... đều vận dụng
lý luận này vào thực tiễn, phù hợp với điều kiện mỗi nước. Tuy nhiên, trong bối cảnh
hiện đại, lý luận này không còn được vận dụng một cách máy móc hay giáo điều. Các
nước xã hội chủ nghĩa đã và đang có những điều chỉnh linh hoạt: kết hợp giữa chuyên
chính vô sản và pháp quyền xã hội chủ nghĩa, mở rộng dân chủ, hoàn thiện thể chế quản
trị công, đảm bảo quyền con người, đồng thời vẫn giữ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng
sản và bản chất nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Tư tưởng về nhà nước và chuyên chính vô sản của Chủ nghĩa Mác - Lênin không chỉ
làm sáng tỏ bản chất của nhà nước từ góc độ giai cấp, mà còn vạch ra con đường lịch
sử để nhân loại đi tới giải phóng cả về chính trị, kinh tế lẫn xã hội. Dù không ít tranh
luận và thách thức trong quá trình vận dụng, đây vẫn là nền tảng lý luận cơ bản cho việc
xây dựng mô hình nhà nước kiểu mới nơi giai cấp lao động nắm quyền lực chính trị và
tổ chức đời sống xã hội một cách công bằng, dân chủ và tiến bộ.
1.2.3. Vai trò của Đảng Cộng sản
Trong hệ thống tư tưởng chính trị của Chủ nghĩa Mác - Lênin, Đảng Cộng sản giữ vai
trò trung tâm và có ý nghĩa quyết định đối với sự nghiệp cách mạng của giai cấp vô sản lOMoAR cPSD| 61630826
và nhân dân lao động. Karl Marx, Friedrich Engels và đặc biệt là V.I. Lênin đều khẳng
định rằng, để lật đổ ách thống trị của giai cấp tư sản và thiết lập chế độ xã hội chủ nghĩa,
giai cấp công nhân không thể thiếu một chính đảng cách mạng kiểu mới đó chính là Đảng Cộng sản.
Theo Chủ nghĩa Mác - Lênin, Đảng Cộng sản là tổ chức chính trị cao nhất của giai cấp
công nhân, đại diện cho lợi ích căn bản, lâu dài và toàn diện của giai cấp vô sản cũng
như các tầng lớp nhân dân lao động. Đảng không chỉ phản ánh ý chí của giai cấp công
nhân, mà còn là lực lượng có khả năng tổ chức, lãnh đạo toàn bộ tiến trình cách mạng
với tính mục tiêu, tính kỷ luật và khả năng định hướng lý luận vững chắc. V.I. Lênin
từng nhấn mạnh: “Không có lý luận cách mạng thì không thể có phong trào cách mạng”,
thể hiện rõ vai trò của Đảng như một lực lượng vừa lý luận, vừa thực tiễn. Ông cũng
chỉ rõ rằng ý thức xã hội chủ nghĩa không thể tự phát hình thành trong quần chúng lao
động mà phải được đưa vào từ bên ngoài thông qua đội ngũ đảng cách mạng tiên phong,
được trang bị bằng lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học.
Ba yếu tố nền tảng của một Đảng cách mạng kiểu mới được Lênin xác định bao gồm:
tư tưởng, chính trị và tổ chức. Về tư tưởng, Đảng phải kiên định với hệ tư tưởng xã hội
chủ nghĩa, nếu xa rời nó tức là gia tăng ảnh hưởng hệ tư tưởng tư sản. Về chính trị,
Đảng phải là tổ chức dũng cảm tố cáo, vạch trần những bất công của chế độ tư sản, tổ
chức đấu tranh chính trị nhằm giành quyền lực về tay giai cấp công nhân. Về tổ chức,
Đảng phải là tổ chức tập trung chặt chẽ, thống nhất, có kỷ luật sắt và liên hệ mật thiết
với quần chúng nhân dân theo nguyên tắc tập trung dân chủ và chủ nghĩa tập thể. Đáng
chú ý, Lênin cũng nhấn mạnh đến vai trò của các tổ chức quần chúng như Công đoàn,
Đoàn thanh niên trong xây dựng chủ nghĩa xã hội. Ông gọi đó là “trường học của chủ
nghĩa cộng sản”, là lực lượng nòng cốt để Đảng gắn bó, giáo dục và tổ chức quần chúng
vào công cuộc kiến thiết xã hội mới. Đồng thời, ông khẳng định nhiệm vụ làm trong
sạch Đảng, đấu tranh chống quan liêu, chủ nghĩa cơ hội, nâng cao chất lượng đảng viên
là yêu cầu thường trực và cấp thiết, đặc biệt trong giai đoạn Đảng đã trở thành Đảng cầm quyền.
Trong thời đại ngày nay, tư tưởng về xây dựng Đảng kiểu mới của Chủ nghĩa Mác Lênin
vẫn giữ nguyên giá trị định hướng. Trong “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ
nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”
, Tổng Bí thư Nguyễn
Phú Trọng đã nhấn mạnh: “Nhận thức sâu sắc sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản là nhân
tố quyết định thắng lợi của công cuộc đổi mới và bảo đảm cho đất nước phát triển theo
đúng định hướng xã hội chủ nghĩa, chúng ta đặc biệt chú trọng công tác xây dựng, chỉnh
đốn Đảng, coi đây là nhiệm vụ then chốt, có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và chế độ
xã hội chủ nghĩa.” (Nguyễn Phú Trọng, 2021). Thực tiễn ở Việt Nam trong suốt hơn 90
năm kể từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã cho thấy vai trò tiên phong, sáng suốt
của Đảng trong việc tổ chức, lãnh đạo nhân dân giành độc lập dân tộc, xây dựng chế độ
mới và tiến hành công cuộc đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đảng không chỉ
đưa ra chủ trương, đường lối đúng đắn, mà còn trực tiếp chỉ đạo, triển khai thực hiện
các nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh, hội nhập quốc tế và xây lOMoAR cPSD| 61630826
dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Như vậy, trong hệ thống tư tưởng chính
trị của Chủ nghĩa Mác - Lênin, Đảng Cộng sản là yếu tố trung tâm, bảo đảm tính cách
mạng, tính tổ chức, tính lý luận khoa học và tính thực tiễn sâu sắc của quá trình chuyển
hóa xã hội từ tư bản chủ nghĩa lên chủ nghĩa xã hội. Đây là nhân tố quyết định sự thành
bại của cả một phong trào cách mạng, đồng thời là trụ cột dẫn đường cho các dân tộc đi
theo con đường xã hội chủ nghĩa ngày nay.
1.2.4. Con đường đi lên Chủ nghĩa Xã hội và mục tiêu hướng tới Chủ nghĩa Cộng sản.
Một trong những nội dung cốt lõi và có ý nghĩa định hướng chiến lược trong tư tưởng
chính trị của Chủ nghĩa Mác - Lênin chính là quan điểm về con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội và mục tiêu cuối cùng là xây dựng một xã hội cộng sản, xã hội lý tưởng không
còn áp bức, bóc lột, bất công và con người được phát triển toàn diện. Quan niệm này
không chỉ đóng vai trò định hình về mặt lý luận mà còn trở thành kim chỉ nam cho
phong trào cộng sản quốc tế cũng như các quốc gia xã hội chủ nghĩa. Theo Karl Marx
và Friedrich Engels, sự phát triển của xã hội loài người tuân theo quy luật khách quan,
vận động qua các hình thái kinh tế - xã hội khác nhau. Chủ nghĩa tư bản không phải là
đích đến cuối cùng của lịch sử, mà chỉ là một giai đoạn phát triển tạm thời. Khi mâu
thuẫn giữa lực lượng sản xuất mang tính xã hội hóa cao và quan hệ sản xuất tư bản chủ
nghĩa mang tính chiếm hữu tư nhân ngày càng gay gắt, tất yếu sẽ dẫn đến sự ra đời của
một hình thái kinh tế - xã hội mới: chủ nghĩa xã hội. Đây là thời kỳ quá độ tất yếu để
chuẩn bị những điều kiện vật chất, tinh thần và thể chế chính trị xã hội cho sự ra đời
của chủ nghĩa cộng sản.
Trong tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” (1848), Marx và Engels khẳng định
rằng, giai cấp vô sản là sản phẩm của xã hội tư bản, chính là lực lượng duy nhất có khả
năng lật đổ chế độ tư bản và xây dựng xã hội mới. Tuy nhiên, để thực hiện được sứ
mệnh lịch sử ấy, giai cấp vô sản cần có một chính đảng tiên phong, đủ bản lĩnh và trí
tuệ, đó chính là Đảng Cộng sản - tổ chức đại diện cho lợi ích lâu dài, toàn diện của giai
cấp công nhân và nhân dân lao động.
Kế thừa và phát triển tư tưởng của Marx - Engels, Lenin đã cụ thể hóa đường lối quá độ
lên chủ nghĩa xã hội trong điều kiện hiện thực của nước Nga đầu thế kỷ XX. Lenin là
người đầu tiên chỉ ra rằng, chủ nghĩa xã hội không nhất thiết phải ra đời từ các nước tư
bản phát triển, mà hoàn toàn có thể bắt đầu từ một quốc gia còn lạc hậu về kinh tế nhưng
có điều kiện chính trị - xã hội thuận lợi và sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản.
Từ đó, Lenin khẳng định: con đường đi lên chủ nghĩa xã hội phải được xây dựng trên
nền tảng lý luận của Chủ nghĩa Mác, nhưng cần được vận dụng sáng tạo và linh hoạt
vào từng hoàn cảnh cụ thể.
Theo tư tưởng của Chủ nghĩa Mác - Lênin, chủ nghĩa xã hội là một xã hội quá độ, nơi
mà các tàn tích của chế độ cũ vẫn tồn tại, nhưng đang được cải tạo toàn diện. Ở giai
đoạn này, chế độ tư hữu lớn về tư liệu sản xuất bị xóa bỏ, nền kinh tế tập thể và sở hữu
toàn dân được hình thành, nhà nước chuyên chính vô sản nắm vai trò trung tâm trong
tổ chức xã hội, đồng thời thiết lập nền dân chủ xã hội chủ nghĩa - nền dân chủ rộng rãi lOMoAR cPSD| 61630826
nhất cho nhân dân lao động. Mục tiêu cuối cùng mà chủ nghĩa xã hội hướng tới chính
là xã hội cộng sản, nơi con người sống trong tự do, bình đẳng, không còn sự phân chia
giai cấp, không còn nhà nước mang tính cưỡng chế, và mỗi người đều có điều kiện phát
triển toàn diện. Chủ nghĩa cộng sản là giai đoạn phát triển cao nhất, thể hiện lý tưởng
nhân đạo sâu sắc của Chủ nghĩa Mác - Lênin, được đặc trưng bởi nguyên tắc phân phối
“làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu” phản ánh sự phát triển vượt bậc của cả trình
độ sản xuất và ý thức xã hội.
Tuy nhiên, quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội không thể tuân theo một khuôn mẫu duy
nhất, mà đòi hỏi sự linh hoạt, sáng tạo trong việc vận dụng các nguyên lý vào từng điều
kiện cụ thể. Sự đa dạng trong con đường phát triển của các quốc gia xã hội chủ nghĩa
như Liên Xô, Trung Quốc, Việt Nam, Cuba… cho thấy việc vận dụng tư tưởng chính
trị của Chủ nghĩa Mác - Lênin không phải là máy móc, giáo điều, mà cần gắn liền với
thực tiễn lịch sử, trình độ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội và nguyện vọng của nhân
dân từng quốc gia. Đặc biệt, trong điều kiện hiện nay, khi thế giới đang chứng kiến
nhiều biến động sâu sắc về chính trị, kinh tế, công nghệ và tư tưởng, việc tiếp tục nghiên
cứu và vận dụng lý luận về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội và mục tiêu hướng tới
chủ nghĩa cộng sản càng trở nên cấp thiết. Không chỉ là vấn đề lý luận, đó còn là cơ sở
để các quốc gia xã hội chủ nghĩa hoạch định chiến lược phát triển bền vững, tiến tới
một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Chương 1 đã trình bày những cơ sở lý luận quan trọng làm nền tảng cho tư tưởng chính
trị của Chủ nghĩa Mác - Lênin. Trước hết, tư tưởng này ra đời trong bối cảnh lịch sử đặc
biệt của châu Âu thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, khi chủ nghĩa tư bản phát triển đến giai
đoạn cao, bộc lộ rõ các mâu thuẫn nội tại và làm sâu sắc thêm sự đối lập giữa giai cấp
tư sản và vô sản. Những tiền đề kinh tế - xã hội, tiền đề lý luận và thành tựu khoa học
tự nhiên đã tạo điều kiện chín muồi để hình thành nên một học thuyết chính trị - xã hội
mang tính cách mạng và khoa học: Chủ nghĩa Mác - Lênin. Thông qua hệ thống tư
tưởng chính trị cơ bản, Chủ nghĩa Mác - Lênin đã đặt nền móng cho phong trào cách
mạng của giai cấp công nhân và các dân tộc bị áp bức. Các nội dung cốt lõi như học
thuyết về giai cấp và đấu tranh giai cấp, lý luận về nhà nước và chuyên chính vô sản,
vai trò của Đảng Cộng sản và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội đều phản ánh sâu sắc
bản chất khoa học và cách mạng của học thuyết này. Đặc biệt, những tư tưởng đó không
chỉ mang ý nghĩa lý luận mà còn trở thành kim chỉ nam cho hành động trong suốt quá
trình đấu tranh giải phóng và xây dựng xã hội mới ở nhiều quốc gia. Những nội dung
được trình bày trong chương 1 là cơ sở để tiếp tục phân tích ảnh hưởng cụ thể của Chủ
nghĩa Mác - Lênin đến quá trình cách mạng và phát triển ở các quốc gia xã hội chủ
nghĩa tiêu biểu, nội dung trọng tâm của chương 2.
CHƯƠNG 2. ẢNH HƯỞNG CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN ĐẾN CÁC
QUỐC GIA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA TIÊU BIỂU
Sau khi đã tìm hiểu hệ thống tư tưởng chính trị cơ bản của Chủ nghĩa Mác - Lênin ở
chương trước, có thể thấy rằng học thuyết này không chỉ mang tính lý luận mà còn có lOMoAR cPSD| 61630826
ảnh hưởng mạnh mẽ đến thực tiễn cách mạng trên toàn thế giới. Nhiều quốc gia, đặc
biệt là trong thế kỷ XX, đã lựa chọn Chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng để
xây dựng mô hình xã hội mới, mô hình xã hội chủ nghĩa nhằm xóa bỏ bất công giai cấp,
giải phóng dân tộc và phát triển đất nước theo hướng tiến bộ.
Tuy nhiên, quá trình tiếp nhận và vận dụng Chủ nghĩa Mác - Lênin ở mỗi quốc gia lại
không hoàn toàn giống nhau. Tùy vào hoàn cảnh lịch sử, điều kiện kinh tế - xã hội và
đặc điểm văn hóa - chính trị, các nước đã có những cách triển khai riêng, vừa kế thừa
lý luận gốc, vừa sáng tạo để phù hợp với thực tế. Điều này cũng phản ánh tính linh hoạt
và khả năng thích nghi của học thuyết Mác - Lênin trong từng bối cảnh cụ thể.
Trong chương này, em sẽ tập trung phân tích ảnh hưởng của Chủ nghĩa Mác - Lênin đến
một số quốc gia xã hội chủ nghĩa tiêu biểu như: Liên Xô, Trung Quốc, Việt Nam, Cuba.
2.1. Liên Xô - Mô hình đầu tiên vận dụng tư tưởng Mác - Lênin
Liên Xô (tên đầy đủ là Liên bang Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết) là quốc gia đầu
tiên trên thế giới hiện thực hóa một cách toàn diện hệ thống tư tưởng chính trị của Chủ
nghĩa Mác - Lênin vào quá trình tổ chức, lãnh đạo cách mạng và xây dựng mô hình nhà
nước xã hội chủ nghĩa. Sự hình thành và phát triển của Liên Xô không chỉ đánh dấu
bước ngoặt trong lịch sử dân tộc Nga mà còn làm thay đổi cấu trúc quyền lực và bản đồ
tư tưởng chính trị toàn cầu, ảnh hưởng mạnh mẽ đến phong trào cách mạng vô sản quốc
tế trong suốt thế kỷ XX.
Trong bối cảnh đầu thế kỷ XX, nước Nga hoàng gia vẫn còn mang đặc điểm của một
quốc gia nửa phong kiến, nửa tư bản, nơi sự bóc lột, bất bình đẳng và chuyên chế còn
tồn tại sâu sắc. Những mâu thuẫn giữa giai cấp thống trị và quần chúng nhân dân ngày
càng trở nên gay gắt. Trong hoàn cảnh đó, Vladimir Ilyich Lenin đã vận dụng sáng tạo
những luận điểm của chủ nghĩa Mác vào điều kiện cụ thể của nước Nga, đặc biệt là lý
luận về vai trò lịch sử của giai cấp công nhân và sự cần thiết phải có một chính đảng
kiểu mới - một Đảng tiên phong của giai cấp vô sản, có tổ chức chặt chẽ, vững vàng về
lý luận, thống nhất về hành động và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ.
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 dưới sự lãnh đạo của Đảng Bolshevik do Lenin
tổ chức và lãnh đạo, đã trở thành hiện thân cụ thể đầu tiên của lý tưởng chính trị Mác -
Lênin. Cuộc cách mạng thành công đã lật đổ chế độ tư sản lâm thời, mở ra thời kỳ
chuyên chính vô sản đầu tiên trong lịch sử nhân loại, thiết lập một nhà nước mới Nhà
nước Xô viết của những người lao động.
Ngay sau khi giành chính quyền, chính phủ Xô viết đã ban hành hàng loạt sắc lệnh cách
mạng nhằm thực hiện các nhiệm vụ kinh tế, xã hội, quân sự, đồng thời tiến hành cải tổ
toàn diện cơ cấu chính trị. Nhà nước Xô viết ra đời là hiện thân của quyền lực thuộc về
nhân dân lao động, trong đó các Xô viết (hội đồng) đại diện công nhân, nông dân và
binh lính đóng vai trò trung tâm. Đây là mô hình thực tiễn hóa lý luận nhà nước kiểu
mới theo Chủ nghĩa Mác - Lênin, thể hiện đặc trưng “dân chủ vô sản” và đối lập hoàn
toàn với mô hình dân chủ tư sản đương thời.
Về kinh tế, trong giai đoạn đầu, Lenin thực hiện Chính sách Kinh tế Mới (NEP) như
một giải pháp linh hoạt để phục hồi nền kinh tế bị tàn phá sau nội chiến. Tuy nhiên, kể lOMoAR cPSD| 61630826
từ cuối thập niên 1920, dưới sự lãnh đạo của Joseph Stalin, Liên Xô bắt đầu chuyển
sang nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung. Các kế hoạch 5 năm lần lượt được triển khai,
nhằm công nghiệp hóa toàn diện đất nước, tập thể hóa nông nghiệp, quốc hữu hóa các
tư liệu sản xuất quan trọng, và thiết lập quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. Chỉ trong
vòng khoảng hai thập kỷ, Liên Xô đã hoàn thành công cuộc chuyển hóa từ một nước
nông nghiệp lạc hậu sang một quốc gia công nghiệp hàng đầu thế giới. Tốc độ tăng
trưởng nhanh chóng về công nghiệp, quốc phòng và hạ tầng cơ sở đã biến Liên Xô thành
một siêu cường quân sự, đóng vai trò quyết định trong việc đánh bại phát xít Đức trong
Chiến tranh Thế giới thứ hai. Điều này không chỉ chứng minh hiệu quả của một mô
hình phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa mà còn củng cố niềm tin của nhiều
quốc gia về tính đúng đắn và khả thi của Chủ nghĩa Mác - Lênin.
Mô hình Liên Xô nhanh chóng trở thành hình mẫu lý tưởng cho các lực lượng cách
mạng ở nhiều quốc gia. Tư tưởng Mác - Lênin thông qua kinh nghiệm của Liên Xô đã
trở thành kim chỉ nam trong quá trình thành lập nhà nước xã hội chủ nghĩa tại hàng loạt
quốc gia như Trung Quốc, Việt Nam, Cuba, Triều Tiên, các nước Đông Âu… Phong
trào cộng sản và công nhân quốc tế phát triển mạnh mẽ, tạo thành một hệ thống xã hội
chủ nghĩa thế giới với vai trò trung tâm của Liên Xô. Liên Xô cũng giữ vai trò quan
trọng trong việc ủng hộ các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc tại Châu Á, Châu Phi và
Mỹ Latinh, thể hiện rõ tinh thần quốc tế vô sản. Đây là một trong những yếu tố làm nên
vị thế chính trị, quân sự và tư tưởng to lớn của Liên Xô trên trường quốc tế trong suốt thế kỷ XX.
Dẫu có những thành tựu to lớn, mô hình phát triển của Liên Xô cũng bộc lộ nhiều hạn
chế. Cơ chế tập trung quyền lực quá mức, thiếu dân chủ, việc xem nhẹ vai trò của thị
trường và đổi mới công nghệ, cùng với sự bảo thủ trong hệ thống chính trị đã dẫn đến
tình trạng quan liêu, trì trệ, mất cân bằng phát triển. Những cải cách muộn màng dưới
thời Mikhail Gorbachev với chính sách Cải tổ (Perestroika) và Công khai hóa (Glasnost)
tuy mang tính cấp thiết nhưng lại thiếu chiều sâu, thiếu sự thống nhất giữa cải cách
chính trị và kinh tế, dẫn đến sự bất ổn nội bộ và sự tan rã của Liên Xô vào năm 1991.
Sự sụp đổ của Liên Xô là một mất mát lớn đối với phong trào xã hội chủ nghĩa toàn
cầu, song đồng thời cũng để lại những bài học sâu sắc: đó là tầm quan trọng của việc
gắn lý luận với thực tiễn, cần thiết phải cải cách kịp thời và đúng hướng, đảm bảo sự
tham gia của quần chúng và duy trì tính dân chủ, minh bạch trong quản lý xã hội.
Liên Xô là minh chứng sống động và có giá trị lịch sử đặc biệt cho quá trình hiện thực
hóa tư tưởng chính trị của Chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn cách mạng và quản trị
quốc gia. Những thành công ban đầu trong việc xây dựng một xã hội không có giai cấp
bóc lột, phát triển độc lập và tự chủ đã trở thành động lực mạnh mẽ cho nhiều quốc gia
khác. Tuy nhiên, những sai lầm trong chính sách và quản lý, sự bảo thủ lý luận và thiếu
thích ứng với thời đại cũng là cảnh báo nghiêm túc đối với các nước xã hội chủ nghĩa
hiện nay. Bài học từ Liên Xô không chỉ là niềm tự hào mà còn là tấm gương để soi
chiếu, điều chỉnh và phát triển tư tưởng Mác - Lênin một cách linh hoạt, sáng tạo và
phù hợp với từng điều kiện lịch sử xã hội cụ thể. lOMoAR cPSD| 61630826
2.2. Trung Quốc - Kết hợp Chủ nghĩa Mác - Lênin với tư tưởng Mao Trạch Đông
Trung Quốc là một trong những quốc gia tiêu biểu vận dụng tư tưởng chính trị của Chủ
nghĩa Mác - Lênin vào công cuộc cách mạng giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa
xã hội. Tuy nhiên, điểm đặc biệt của Trung Quốc là họ không tiếp thu một cách nguyên
xi mô hình từ Liên Xô, mà đã có sự điều chỉnh, sáng tạo phù hợp với bối cảnh lịch sử,
điều kiện kinh tế - xã hội, và đặc điểm dân tộc của mình. Quá trình kết hợp giữa Chủ
nghĩa Mác - Lênin với tư tưởng Mao Trạch Đông đã tạo nên một hệ tư tưởng mang tính
bản địa hóa, có ảnh hưởng lâu dài đến con đường phát triển của Trung Quốc từ năm 1949 đến nay.
Sự kết hợp này bắt nguồn từ bối cảnh Trung Quốc nửa đầu thế kỷ XX, khi đất nước bị
xâu xé bởi chiến tranh, nạn đói và ngoại xâm, đặc biệt là ách đô hộ của các đế quốc
phương Tây và Nhật Bản. Đảng Cộng sản Trung Quốc thành lập năm 1921 tiếp thu lý
luận Mác - Lênin thông qua ảnh hưởng từ Liên Xô và Quốc tế Cộng sản. Tuy nhiên, với
xuất phát điểm là một nước nông nghiệp lạc hậu, lực lượng công nhân chiếm tỷ lệ rất
nhỏ trong xã hội, việc vận dụng máy móc mô hình cách mạng vô sản kiểu Nga là không
phù hợp. Từ đó, Mao Trạch Đông đã đưa ra nhiều điều chỉnh mang tính chiến lược.
Tư tưởng Mao Trạch Đông được định hình trong quá trình lãnh đạo cách mạng Trung
Quốc, đặc biệt là trong thời kỳ Vạn lý Trường chinh (1934 - 1935) và cuộc kháng chiến
chống Nhật (1937 - 1945). Mao cho rằng, trong điều kiện Trung Quốc, nông dân chứ
không phải công nhân mới là lực lượng cách mạng chủ lực. Chiến lược cách mạng “từ
nông thôn bao vây thành thị, tiến tới giành chính quyền trung ương” là một sự sáng tạo
lớn trong lý luận Mác - Lênin và đã chứng minh tính đúng đắn khi Đảng Cộng sản Trung
Quốc giành thắng lợi hoàn toàn vào năm 1949.
Sau khi thành lập nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, Trung Quốc từng bước hiện
thực hóa mô hình xã hội chủ nghĩa thông qua các chính sách như cải cách ruộng đất,
quốc hữu hóa doanh nghiệp tư nhân, xây dựng công nghiệp nặng và tập thể hóa nông
nghiệp. Tuy nhiên, nhiều chính sách cực đoan và mang tính duy ý chí đã để lại hậu quả
nghiêm trọng. Chiến dịch “Đại nhảy vọt” (1958 - 1961) với mục tiêu đưa Trung Quốc
“đuổi kịp Anh trong 10 năm, vượt Mỹ trong 15 năm” đã gây ra nạn đói lớn, khiến hàng
chục triệu người thiệt mạng. Tiếp đó, Cách mạng Văn hóa (1966 - 1976), dưới danh
nghĩa bảo vệ chủ nghĩa xã hội khỏi các tư tưởng tư sản, đã dẫn đến sự hỗn loạn toàn
diện trong xã hội: hệ thống giáo dục bị tê liệt, trí thức bị đàn áp, sản xuất đình trệ và uy
tín quốc tế của Trung Quốc suy giảm nghiêm trọng.
Sau khi Mao Trạch Đông qua đời, Trung Quốc bước vào một giai đoạn chuyển hướng.
Đặng Tiểu Bình, người kế thừa nhưng cũng là người cải cách đã khởi xướng chính sách
“cải cách và mở cửa” từ năm 1978. Với quan điểm: “mèo trắng hay mèo đen không
quan trọng, miễn là bắt được chuột”, Đặng chủ trương phát triển kinh tế thị trường có
sự quản lý của nhà nước, trong khi vẫn giữ nguyên chế độ chính trị một đảng do Đảng
Cộng sản Trung Quốc lãnh đạo. Ông khẳng định rằng Trung Quốc vẫn đi theo con
đường xã hội chủ nghĩa, nhưng là chủ nghĩa xã hội mang đặc sắc Trung Quốc. lOMoAR cPSD| 61630826
Từ đó đến nay, Trung Quốc đã đạt được những thành tựu kinh tế nổi bật: tốc độ tăng
trưởng cao, đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt, vai trò quốc tế ngày càng lớn mạnh.
Tuy nhiên, mô hình này cũng tồn tại nhiều vấn đề: chênh lệch giàu nghèo, môi trường
suy thoái, kiểm soát thông tin chặt chẽ và thiếu dân chủ chính trị. Dù vậy, Đảng Cộng
sản Trung Quốc vẫn khẳng định vai trò lãnh đạo toàn diện, đồng thời tiếp tục củng cố
hệ tư tưởng dựa trên sự kết hợp giữa Mác - Lênin, tư tưởng Mao Trạch Đông, lý luận
Đặng Tiểu Bình và các tư tưởng lãnh đạo kế tiếp như “Ba đại biểu”, quan điểm phát
triển khoa học và “Tư tưởng Tập Cận Bình”.
Tóm lại, Trung Quốc là một ví dụ điển hình về sự vận dụng tư tưởng Mác - Lênin một
cách linh hoạt, có chọn lọc và không giáo điều. Việc kết hợp lý luận cách mạng quốc
tế với thực tiễn lịch sử dân tộc đã tạo nên một mô hình xã hội chủ nghĩa mang đặc sắc
riêng, vừa kế thừa di sản tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin, vừa phản ánh điều kiện
cụ thể của Trung Quốc. Đây cũng là điểm khác biệt quan trọng giúp Trung Quốc duy
trì sự ổn định chính trị, đạt được phát triển kinh tế vượt bậc và khẳng định vị thế toàn
cầu trong bối cảnh quốc tế đầy biến động.
2.3. Việt Nam - Vận dụng sáng tạo tư tưởng Mác - Lênin vào thực tiễn
Việt Nam là một trong những quốc gia tiêu biểu không chỉ tiếp thu mà còn vận dụng
một cách sáng tạo tư tưởng chính trị của Chủ nghĩa Mác - Lênin vào quá trình đấu tranh
giành độc lập dân tộc cũng như xây dựng và phát triển đất nước. Từ một nước thuộc địa
nửa phong kiến, trình độ phát triển kinh tế thấp, dân trí hạn chế, lại chịu ách thống trị
tàn bạo của các thế lực thực dân và đế quốc trong gần một thế kỷ, Việt Nam đã lựa chọn
con đường cách mạng vô sản - con đường cách mạng đúng đắn được soi sáng bởi tư
tưởng Mác - Lênin để tiến hành sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng xã hội mới
không có áp bức, bóc lột.
Ngay từ đầu thế kỷ XX, Chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh tụ thiên tài của cách mạng Việt
Nam đã sớm tìm ra chân lý của thời đại: chỉ có chủ nghĩa Mác - Lênin mới cứu được
dân tộc Việt Nam. Từ bản “Sơ thảo lần thứ nhất về vấn đề dân tộc và thuộc địa” của
Lênin năm 1920 Hồ Chí Minh đã tìm thấy mối liên hệ giữa lý luận cách mạng vô sản
và thực tiễn giải phóng dân tộc ở một quốc gia thuộc địa. Đây là bước ngoặt tư tưởng
mang tính quyết định cho sự phát triển của cách mạng Việt Nam. Sự ra đời của Đảng
Cộng sản Việt Nam vào năm 1930 với vai trò lãnh đạo duy nhất, chính là kết tinh giữa
tinh thần yêu nước truyền thống với lý luận Mác - Lênin hình thành một tổ chức chính
trị đủ bản lĩnh, đủ tầm tư tưởng và lý luận để dẫn dắt dân tộc đi đến thắng lợi.
Việc vận dụng Chủ nghĩa Mác - Lênin ở Việt Nam được thực hiện không một cách máy
móc, giáo điều, mà luôn linh hoạt, sáng tạo, phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện cụ thể.
Điểm đặc sắc trong vận dụng của Việt Nam là sự kết hợp biện chứng giữa hai mục tiêu
dân tộc và giai cấp. Trong điều kiện của một nước nửa thuộc địa nửa phong kiến, mâu
thuẫn dân tộc là mâu thuẫn cơ bản, do đó Đảng ta xác định đúng đắn rằng nhiệm vụ giải
phóng dân tộc là nhiệm vụ trung tâm, đồng thời gắn bó liền với nhiệm vụ giải phóng
giai cấp và cải tạo xã hội. lOMoAR cPSD| 61630826
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Việt Nam đã liên tiếp giành được những thắng lợi lịch sử
trọng đại: Cách mạng Tháng Tám giành chính quyền; kháng chiến chống thực dân Pháp
và đế quốc Mỹ thành công, thống nhất đất nước vào năm 1975. Những thắng lợi ấy
không thể tách rời vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của
giai cấp công nhân, trung thành và kiên định với Chủ nghĩa Mác - Lênin, đồng thời luôn
chủ động đổi mới tư duy và thực tiễn cách mạng.
Tuy nhiên, trong giai đoạn đầu sau thống nhất, do ảnh hưởng từ mô hình Liên Xô và
các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu, Việt Nam áp dụng cơ chế kế hoạch hóa tập trung,
quan liêu bao cấp. Mô hình này đã góp phần phục hồi nền kinh tế sau chiến tranh nhưng
cũng sớm bộc lộ nhiều hạn chế: năng suất lao động thấp, quản lý kém hiệu quả, cơ chế
phân phối ngang nhau... Trong bối cảnh khó khăn về cả đối nội lẫn đối ngoại, Đảng ta
đã dũng cảm và sáng suốt khởi xướng công cuộc Đổi mới tại Đại hội VI năm 1986. Đây
là một bước ngoặt tư duy lịch sử, tiếp tục khẳng định giá trị lý luận của Chủ nghĩa Mác
- Lênin nhưng đồng thời đổi mới cách thức thực hiện sao cho phù hợp với điều kiện của
Việt Nam và bối cảnh quốc tế.
Đổi mới không có nghĩa là từ bỏ chủ nghĩa xã hội, mà là tiếp tục đi lên chủ nghĩa xã hội
bằng con đường phù hợp hơn, đó là phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa. Theo đó, nền kinh tế chấp nhận sự tồn tại của nhiều thành phần kinh tế, nhưng
nhà nước vẫn giữ vai trò chủ đạo; phát triển các lực lượng sản xuất hiện đại nhưng gắn
với nâng cao công bằng xã hội, bảo đảm an sinh cho người dân. Đó cũng là biểu hiện
sinh động cho thấy Đảng ta đã kiên định, song không giáo điều trong việc vận dụng
Chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn phát triển đất nước.
Sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam thành công trước hết là nhờ Đảng luôn kiên định nền
tảng tư tưởng Mác - Lênin, đồng thời vận dụng sáng tạo, kế thừa có chọn lọc các giá trị
tiến bộ của nhân loại và chủ động thích ứng với tình hình mới. Tư tưởng đó không
ngừng được bổ sung, phát triển thông qua các cương lĩnh, chiến lược phát triển kinh tế,
xã hội qua các kỳ Đại hội Đảng, khẳng định rõ hơn mô hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam
với đặc trưng: do nhân dân làm chủ, do Đảng lãnh đạo, có nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa, nền kinh tế nhiều thành phần, văn hóa mang tính nhân văn và bản sắc dân
tộc, quốc phòng, an ninh vững mạnh, quan hệ đối ngoại rộng mở và độc lập tự chủ.
Thực tiễn 35 năm đổi mới đã chứng minh tính đúng đắn và hiệu quả của việc vận dụng
sáng tạo Chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam. Tốc độ tăng trưởng
kinh tế ổn định, đời sống nhân dân được cải thiện, vị thế quốc tế ngày càng được nâng
cao, và nhất là hệ thống chính trị vẫn giữ được ổn định tất cả đã khẳng định rằng Việt
Nam đã lựa chọn đúng con đường phát triển. Đồng thời, thành công này cũng là minh
chứng rõ ràng cho sức sống bền vững của tư tưởng Mác - Lênin nếu được vận dụng linh
hoạt, sáng tạo và phù hợp với thực tiễn.
2.4. Cuba - Kiên định Chủ nghĩa Mác - Lênin trong điều kiện đặc thù
Cuba là một trong những quốc gia tiêu biểu ở khu vực Mỹ Latinh đã vận dụng Chủ
nghĩa Mác - Lênin để tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa và kiên định theo đuổi mô
hình này trong suốt hơn sáu thập kỷ, bất chấp những điều kiện vô cùng đặc thù và đầy lOMoAR cPSD| 61630826
thách thức. Với vị trí địa lý gần kề Hoa Kỳ - trung tâm của chủ nghĩa tư bản, Cuba đã
và đang duy trì thể chế xã hội chủ nghĩa dưới áp lực cấm vận kinh tế kéo dài, những đợt
khủng hoảng tài chính toàn cầu và sự biến động của hệ thống quốc tế.
Ngày 26/7/1953 đã lật đổ chế độ độc tài Batista thân Mỹ và vào ngày 01/01/1959 dưới
sự lãnh đạo của Fidel Castro, Cách mạng Cuba thành công. Ngay sau đó, Cuba tuyên
bố đi theo con đường chủ nghĩa xã hội, quốc hữu hóa tài sản của giới tư sản và các công
ty nước ngoài, đồng thời xác lập vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Cuba (thành lập
ngày 3/10/1965), được quy định là “lực lượng lãnh đạo xã hội và đất nước” trong Hiến
pháp. Tư tưởng Mác - Lênin kết hợp với di sản tư tưởng của José Martí đã trở thành
kim chỉ nam dẫn dắt sự phát triển chính trị - xã hội của Cuba.
Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, Cuba đã dựa trên hai nguyên tắc trụ cột:
quyền lãnh đạo chính trị của Đảng Cộng sản và vai trò chủ đạo của nhà nước trong nền
kinh tế. Nhà nước chuyên chính vô sản được thiết lập nhằm đảm bảo quyền lợi của đa
số nhân dân lao động. Hệ thống y tế, giáo dục và an sinh xã hội được xây dựng đồng
bộ, hướng tới công bằng và phát triển toàn diện con người. Cuba là một trong những
quốc gia có tỷ lệ biết chữ cao nhất khu vực, tuổi thọ bình quân gần 80 tuổi và hệ thống
chăm sóc sức khỏe miễn phí hàng đầu thế giới.
Sau sự sụp đổ của Liên Xô (1991), Cuba đối mặt với thử thách nghiêm trọng khi mất đi
nguồn viện trợ và bạn hàng chiến lược. Tuy nhiên, thay vì từ bỏ con đường xã hội chủ
nghĩa, Cuba đã kêu gọi nhân dân đoàn kết, tự lực tự cường và điều chỉnh chính sách
phù hợp với tình hình mới. Từ năm 1993, Cuba bắt đầu nới lỏng kiểm soát kinh tế, thúc
đẩy hợp tác quốc tế và mở cửa thương mại với các nước Mỹ Latinh, Châu Âu, Trung
Quốc, Ấn Độ…, giúp từng bước phục hồi nền kinh tế.
Từ năm 2008, Cuba chính thức triển khai tiến trình “cập nhật hóa” mô hình phát triển
kinh tế - xã hội. Đại hội VI (2011) và các kỳ Đại hội tiếp theo của Đảng Cộng sản Cuba
đã cụ thể hóa chủ trương này, trong đó tập trung vào các vấn đề: khuyến khích kinh tế
tự doanh, mở rộng đầu tư nước ngoài, xóa bỏ dần bao cấp không cần thiết, cải cách hệ
thống tiền tệ và thuế, tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước… Những cải cách này
không phá vỡ nền tảng xã hội chủ nghĩa mà nhằm hiện đại hóa nó, như lời Chủ tịch
Miguel Díaz - Canel khẳng định: “Hiện đại hóa mô hình xã hội và kinh tế nhưng vẫn
kiên định giữ vững hệ thống xã hội chủ nghĩa”. Quá trình đổi mới ở Cuba không chỉ
giới hạn trong lĩnh vực kinh tế mà còn đi kèm với đổi mới tư duy lý luận. Văn kiện các
kỳ Đại hội Đảng nhấn mạnh việc tiếp tục sáng tạo trên nền tảng Mác Lênin để xử lý
hiệu quả các vấn đề thực tiễn. Mô hình phát triển kinh tế - xã hội xã hội chủ nghĩa được
“khái niệm hóa” rõ ràng hơn, trong đó khẳng định vai trò của thị trường trong phân phối
nguồn lực nhưng dưới sự quản lý và điều tiết của nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Điểm đặc biệt là trong mọi hoàn cảnh, Cuba vẫn kiên định mục tiêu phát triển xã hội
chủ nghĩa. Chủ tịch Miguel Díaz - Canel khẳng định rõ: hiện đại hóa mô hình kinh tế
xã hội nhưng vẫn giữ vững hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa. Điều này chứng tỏ,
Cuba không xem cải cách là sự từ bỏ lý tưởng Mác - Lênin, mà là phương thức để hiện
thực hóa nó trong điều kiện mới. Không chỉ là hình mẫu kiên định về lý tưởng, Cuba lOMoAR cPSD| 61630826
còn là nguồn cảm hứng cách mạng cho toàn khu vực Mỹ Latinh. Tấm gương đấu tranh
và phát triển của Cuba đã cổ vũ mạnh mẽ các phong trào chống đế quốc ở Venezuela,
Bolivia, Nicaragua… Lãnh tụ Fidel Castro từng được ví như “ngọn hải đăng” soi sáng
con đường độc lập và xã hội chủ nghĩa cho các dân tộc thuộc địa. Những kết quả đạt
được là minh chứng rõ ràng cho sự thành công bước đầu của con đường Cuba lựa chọn:
GDP tăng trưởng, du lịch phát triển mạnh, giáo dục và y tế tiếp tục giữ vững chất lượng
cao, chỉ số phát triển con người (HDI) nằm trong nhóm cao của khu vực. Đặc biệt, Cuba
còn xuất khẩu đội ngũ chuyên gia y tế đi khắp thế giới, đóng góp vào ngân sách quốc
gia và khẳng định vị thế quốc tế về nhân đạo. Cuba là một minh chứng điển hình cho
khả năng thích nghi, kiên định và sáng tạo trong vận dụng Chủ nghĩa Mác - Lênin.
Trong khi nhiều quốc gia xã hội chủ nghĩa cũ rơi vào khủng hoảng hoặc thay đổi mô
hình, Cuba vẫn giữ vững lập trường và chứng minh rằng chủ nghĩa xã hội có thể được
cập nhật, phát triển và hiện đại hóa trong bối cảnh toàn cầu hóa mà không đánh mất bản
chất cách mạng và nhân văn của nó.
Chương 2 đã tập trung phân tích cụ thể ảnh hưởng của tư tưởng chính trị Chủ nghĩa
Mác - Lênin đến các quốc gia xã hội chủ nghĩa tiêu biểu trên thế giới, gồm: Liên Xô,
Trung Quốc, Việt Nam và Cuba. Mỗi quốc gia tuy có bối cảnh lịch sử, điều kiện kinh
tế - xã hội và đặc điểm văn hóa khác nhau, nhưng đều cho thấy một điểm chung là sự
tiếp nhận, vận dụng và phát triển tư tưởng Mác - Lênin một cách linh hoạt, sáng tạo
trong thực tiễn cách mạng. Liên Xô là quốc gia đầu tiên đưa lý luận Mác - Lênin vào
hiện thực, thiết lập nhà nước xã hội chủ nghĩa và trở thành hình mẫu cho phong trào
cộng sản quốc tế. Trung Quốc, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản và tư tưởng Mao
Trạch Đông đã kết hợp sáng tạo giữa Chủ nghĩa Mác - Lênin với điều kiện cụ thể của
nước mình, mở đường cho công cuộc cải cách và hiện đại hóa đất nước. Việt Nam nổi
bật với quá trình “Việt hóa” tư tưởng Mác - Lênin dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh,
gắn kết giữa giải phóng dân tộc và mục tiêu xã hội chủ nghĩa một cách hài hòa. Trong
khi đó, Cuba là minh chứng sinh động về sự kiên định lý tưởng cách mạng trong điều
kiện đặc biệt khó khăn, đồng thời không ngừng đổi mới mô hình kinh tế xã hội để thích
ứng với thời đại. Những quốc gia tiêu biểu này không chỉ cho thấy sức sống bền vững
của tư tưởng Mác - Lênin mà còn phản ánh rõ vai trò quyết định của việc vận dụng linh
hoạt lý luận vào thực tiễn quốc gia. Đây chính là tiền đề quan trọng để tiếp tục đánh giá
sâu hơn những tác động và sự điều chỉnh tư tưởng Mác - Lênin trong bối cảnh hiện đại ở chương tiếp theo.
CHƯƠNG 3. NHỮNG TÁC ĐỘNG VÀ SỰ ĐIỀU CHỈNH CỦA CHỦ NGHĨA
MÁC - LÊNIN TRONG BỐI CẢNH HIỆN ĐẠI
3.1. Tác động tích cực của Chủ nghĩa Mác - Lênin
Chủ nghĩa Mác - Lênin, với tư cách là hệ tư tưởng chính trị - xã hội mang tính cách
mạng và khoa học, đã tạo ra những ảnh hưởng to lớn và sâu sắc không chỉ đối với các
nước lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa mà còn đối với phong trào đấu tranh của
nhân loại tiến bộ trên phạm vi toàn thế giới. Trong suốt thế kỷ XX và cho đến nay, tư lOMoAR cPSD| 61630826
tưởng Mác - Lênin đã chứng minh vai trò định hướng lý luận, khơi dậy tinh thần đấu
tranh, tổ chức lực lượng quần chúng và chỉ đạo thực tiễn trong các cuộc cách mạng vô
sản, cách mạng dân tộc dân chủ và sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nhiều quốc gia.
Trước hết, Chủ nghĩa Mác - Lênin đã góp phần thức tỉnh giai cấp công nhân và nhân
dân lao động trên toàn thế giới về vai trò lịch sử của họ. Luận điểm “lịch sử của tất cả
các xã hội cho đến nay là lịch sử của đấu tranh giai cấp” (Karl Marx & Friedrich Engels,
1848) không chỉ bóc trần bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản, mà còn cổ vũ mạnh mẽ
phong trào đấu tranh giai cấp trên toàn cầu, đặt nền móng lý luận cho sự hình thành của
các Đảng Cộng sản và phong trào công nhân quốc tế. Tư tưởng của C.Mác và V.I.Lênin
đã khẳng định rõ vai trò cách mạng và sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản là lực lượng
duy nhất có khả năng tổ chức và lãnh đạo cuộc đấu tranh lật đổ chế độ tư bản chủ nghĩa,
xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ và tiến bộ hơn đó là xã hội xã hội chủ nghĩa.
Thứ hai, tư tưởng Mác - Lênin đã cung cấp cơ sở lý luận nền tảng để xây dựng một mô
hình chính trị kiểu mới, nhà nước của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Trên
thực tế, mô hình nhà nước Xô viết đầu tiên ra đời ở Liên Xô năm 1917 là minh chứng
sống động cho việc vận dụng sáng tạo lý luận chính trị Mác - Lênin vào thực tiễn. Từ
đây, nhà nước không còn là công cụ bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị tư sản, mà trở
thành nhà nước phục vụ đông đảo quần chúng nhân dân, thực hiện công bằng xã hội,
bảo vệ quyền lợi người lao động và đấu tranh xóa bỏ bất công.
Thứ ba, Chủ nghĩa Mác - Lênin đóng vai trò then chốt trong việc thúc đẩy sự phát triển
toàn diện về kinh tế - xã hội ở nhiều quốc gia. Trong các nước xã hội chủ nghĩa như
Liên Xô, Trung Quốc, Việt Nam và Cuba, tư tưởng Mác - Lênin đã dẫn dắt quá trình
xây dựng nền kinh tế nhà nước, từng bước xóa bỏ tàn dư phong kiến và chủ nghĩa tư
bản, tiến tới nền kinh tế tập trung định hướng xã hội chủ nghĩa. Dù có những mô hình
và cách tiếp cận khác nhau, các nước này đều đã đạt được những thành tựu đáng kể
trong lĩnh vực giáo dục, y tế, an sinh xã hội và công nghiệp hóa, qua đó nâng cao đời
sống nhân dân và từng bước khẳng định tính ưu việt của con đường xã hội chủ nghĩa
trong điều kiện cụ thể của từng quốc gia.
Thứ tư, Chủ nghĩa Mác - Lênin còn là nền tảng để củng cố tinh thần quốc tế vô sản, tinh
thần đoàn kết giữa các dân tộc đang đấu tranh cho hòa bình, độc lập, dân chủ và tiến bộ
xã hội. Các phong trào giải phóng dân tộc ở Châu Á, Châu Phi và Mỹ Latinh trong thế
kỷ XX đều ít nhiều chịu ảnh hưởng từ tinh thần quốc tế cách mạng do tư tưởng Mác -
Lênin khơi nguồn. Tấm gương Cuba, Việt Nam, hay các nước từng theo mô hình Xã
hội chủ nghĩa Đông Âu là minh chứng cho khả năng lan tỏa và sức ảnh hưởng của hệ tư tưởng này.
Cuối cùng, trong bối cảnh hiện nay, khi các vấn đề bất bình đẳng xã hội, phân hóa giàu
nghèo, khủng hoảng môi trường và suy thoái đạo đức đang trở thành mối quan tâm toàn
cầu, nhiều giá trị cốt lõi của Chủ nghĩa Mác - Lênin như công bằng xã hội, phát triển
bền vững, sự điều tiết của nhà nước, quyền lực thuộc về nhân dân… vẫn giữ nguyên giá
trị định hướng. Ở nhiều quốc gia xã hội chủ nghĩa, tư tưởng Mác - Lênin vẫn đang là