Tư tưởng Hồ Chí Minh về Chủ nghĩa xã hội | Đại học Thủy Lợi

Tư tưởng Hồ Chí Minh về Chủ nghĩa xã hội của Trường Đại học Thủy Lợi. Hi vọng tài liệu này sẽ giúp các bạn học tốt, ôn tập hiệu quả, đạt kết quả cao trong các bài thi, bài kiểm tra sắp tới. Mời các bạn cùng tham khảo chi tiết bài viết dưới đây nhé.

Trường:

Đại học Thủy Lợi 221 tài liệu

Thông tin:
38 trang 7 tháng trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về Chủ nghĩa xã hội | Đại học Thủy Lợi

Tư tưởng Hồ Chí Minh về Chủ nghĩa xã hội của Trường Đại học Thủy Lợi. Hi vọng tài liệu này sẽ giúp các bạn học tốt, ôn tập hiệu quả, đạt kết quả cao trong các bài thi, bài kiểm tra sắp tới. Mời các bạn cùng tham khảo chi tiết bài viết dưới đây nhé.

100 50 lượt tải Tải xuống
lOMoARcPSD|40651217
lOMoARcPSD| 40651217
TƯ TƯỞNG HCM VỀ CNXH
1. Tính tất yếu của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Nhận thức về chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh đã trình bày một cách tổng quát. Chủ nghĩa
xã hội là gì?
Người trả lời: chủ nghĩa xã hội là xã hội ngày càng tiến, vật chất ngày càng tăng và tinh
thần ngày càng tốt. Nói một cách cụ thể là: chủ nghĩa xã hội là phải làm cho mọi người
dân được ấm no, hạnh phúc và học hành tiến bộ.
Hồ Chí Minh đã tiếp thu, vận dụng sáng tạo lý luận Mác - Lênin về sự phát triển
tất yếu của xã hội loài người theo các hình thái kinh tế - xã hội. Quan điểm của Hồ Chí
Minh là: tiến lên chủ nghĩa xã hội là bước phát triển tất yếu ở Việt Nam sau khi nước nhà
đã giành được độc lập theo con đường cách mạng vô sản.
Mục tiêu giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản mà Hồ Chí Minh đã lựa
chọn cho dân tộc Việt Nam là nước nhà được độc lập, nhân dân được hưởng cuộc sống
ấm no, tự do, hạnh phúc, tức là sau khi giành độc lập dân tộc, nhân dân ta sẽ xây dựng xã
hội mới, xã hội xã hội chủ nghĩa. Ngay từ đầu những năm 20 của thế kỷ XX, khi đã tin
theo lý luận về chủ nghĩa cộng sản khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã
khẳng định rằng: “Chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại, đem lại cho mọi người
không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc sự tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no trên
quả đất, việc làm cho con người và vì con người, niềm vui, hòa bình, hạnh phúc, nói tóm
lại là nền cộng hòa thế giới chân chính, xóa bỏ những biên giới tư bản chủ nghĩa cho đến
nay chỉ là những vách tường dài ngăn cản những con người lao động trên thế giới hiểu
nhau và yêu thương nhau”.
2. Đặc trưng của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
a. Cách tiếp cận của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội
- Hồ Chí Minh tiếp thu lý luận về chủ nghĩa xã hội khoa học của lý luận Mác - Lênin,
trước hết là từ khát vọng giải phóng dân tộc Việt Nam.
- Hồ Chí Minh tiếp cận chủ nghĩa xã hội ở phương diện đạo đức, hướng tới giá trị nhân
đạo, nhân văn, giải quyết tốt quan hệ giữa cá nhân với xã hội theo quan điểm của Mác và
Ăngghen trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản.
lOMoARcPSD|40651217
- Hồ Chí Minh tiếp cận chủ nghĩa xã hội từ văn hóa. Văn hóa trong xã hội Việt Nam có
quan hệ biện chứng với chính trị, kinh tế.
b. Bản chất và đặc trưng tổng quát của chủ nghĩa xã hội
Theo các nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin về chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh
có quan niệm như sau:
- Tổng quát: chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa xã hội bao gồm các mặt rất phong phú,
hoàn chỉnh, trong đó con người được phát triển toàn diện.
- Trên một số mặt nào đó: chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, nhưng không tuyệt đối hóa
từng mặt, hoặc tách riêng rẽ từng mặt mà cần đặt trong một tổng thể chung.
- Xác định mục tiêu: vì lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân, nhằm nâng cao đời sống vật
chất và văn hóa của nhân dân.
- Xác định động lực: động lực của toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam. Đó là sức mạnh toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại.
Từ đó, Hồ Chí Minh nhấn mạnh chủ yếu trên những điểm sau:
- Đó là một chế độ chính trị do nhân dân lao động làm chủ.
- Có nền kinh tế phát triển cao, gắn liền với sự phát triển của khoa học - kỹ thuật.
- Không còn người bóc lột người.
- Xã hội phát triển cao về văn hóa, đạo đức.
Các đặc trưng trên thể hiện một hệ thống giá trị vừa kế thừa các di sản của quá khứ, vừa
được sáng tạo mới trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa xã hội là hiện
thân đỉnh cao của tiến trình tiến hóa lịch sử của nhân loại.
3. Quan điểm Hồ Chí Minh về mục tiêu, động lực của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
a. Mục tiêu
- Mục tiêu chung: Độc lập tự do cho dân tộc, hạnh phúc cho nhân dân.
- Mục tiêu cụ thể:
+ Chính trị: chế độ chính trị do nhân dân lao động làm chủ, Nhà nước của dân, do dân, vì
dân. Nhà nước có hai chức năng; dân chủ với nhân dân, chuyên chính với kẻ thù của
nhân dân.
lOMoARcPSD|40651217
+ Kinh tế: xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa với công - nông nghiệp hiện đại, khoa
học - kỹ thuật tiên tiến, đời sống vật chất của nhân dân ngày càng được cải thiện.
Bên cạnh đó cần phát triển toàn diện các ngành như công nghiệp, nông nghiệp, thương
nghiệp, trong đó “Công nghiệp và nông nghiệp là hai chân của nền kinh tế nước nhà.
+ Văn hóa - xã hội: văn hóa là mục tiêu cơ bản của cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Phương châm xây dựng nền văn hóa mới là: dân tộc, khoa học, đại chúng. Vì thế, Hồ
Chí Minh đặt lên hàng đầu nhiệm vụ của cách mạng xã hội chủ nghĩa là đào tạo con
người. b. Động lực
- Hồ Chí Minh xem xét động lực ở cả các phương diện: vật chất và tinh thần, nội sinh và
ngoại sinh. Động lực quan trọng và quyết định nhất là con người, là nhân dân lao động
mà nòng cốt là công - nông - trí thức.
- Hồ Chí Minh rất coi trọng động lực kinh tế, phát triển kinh tế, sản xuất kinh doanh, giải
phóng mọi năng lực sản xuất, làm cho mọi người, mọi nhà trở nên giàu có, ích quốc lợi
dân, gắn liền kinh tế với kỹ thuật, kinh tế với xã hội.
- Hồ Chí Minh cũng rất quan tâm tới văn hóa, khoa học, giáo dục, coi đó là động lực tinh
thần không thể thiếu.
Hồ Chí Minh nhận thấy sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng có ý nghĩa quyết định đối với sự
phát triển của xã hội. Đây là hạt nhân trong hệ động lực xã hội.
Ngoài các động lực bên trong, cần phải kết hợp được với sức mạnh thời đại, tăng cường
đoàn kết quốc tế, chủ nghĩa yêu nước phải gắn liền với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp
công nhân.
Cùng với việc chỉ ra các nguồn lực phát triển, Hồ Chí Minh còn lưu ý, cảnh báo và ngăn
ngừa các yếu tố kìm hãm, triệt tiêu nguồn lực vốn có của chủ nghĩa xã hội như: tham ô,
lãng phí, quan liêu
Giữa nội lực và ngoại lực, Hồ Chí Minh xác định, nội lực là quyết định, ngoại lực là rất
quan trọng.
I. VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HCM VỀ CNXH
Đây là một hệ thống bao gồm các luận điểm về bản chất, mục tiêu và động lực của Chủ
nghĩa xã hội; về tính tất yếu của thời ký quá độ và các hình thức, bước đi trong thời k
quá độ lên Chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
lOMoARcPSD|40651217
Tất nhiên, trong điều kiện, hoàn cảnh của miền Bắc trong những năm 60 của thế k XX
nên có nhiều điều Người chưa kịp tổng kết.
Ngày nay, xây dựng Chủ nghĩa xã hội trong bối cảnh quốc tế và trong nước có nhiều
thay đổi, nhưng những luận điểm của Người về vấn đề này vẫn là cơ sở lý luận và
phương pháp luận chỉ đạo để chúgn ta tiếp tục suy nghĩ, tìm tòi làm sống động tư tưởng
của Người.
Khái quát về công cuộc đổi mới từ đại hội VI (1986) đến đại hội IX với những thành tựu
của nó để khẳng định đường lối do Đảng và Hồ Chí Minh vạch ra là đúng đắn.
Vấn đề thời cơ và nguy cơ. Để tận dụng thời cơ, vượt qua thử thách, tiếp tục đẩy mạnh
công cuộc đổi mới tiến lên cùng những thành tựu mới, Đảng ta đang kiên trì vận dụng tư
tưởng Hồ Chí Minh nhằm giải quyết tốt các vấn đề dưới đây:
1. Trong quá trình đổi mới, phải kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và Chủ nghĩa xã
hội trên nền tảng Chủ Nghĩa Mác- Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Phân tích các ý sau:
- Đây là MT bất biến của Đảng và nhân dân ta.
- Mối quan hệ giữa MT độc lập dân tộc và Chủ nghĩa xã hội.
Sự nghiệp đổi mới ngày nay với mục tiêu “dân giàu, nước mạnh…” cũng là để hoàn
thành mục tiêu của Đảng và nhân dân ta trong hoàn cảnh mới.
Tác động sau khi Chủ nghĩa xã hội Liên Xô và Đông Âu sụp đổ bài học.
Xây dựng Chủ nghĩa xã hội gián tiếp… là sự biến đổi về chất trên tất cả các lĩnh vực, là
một sự nghiệp khó khăn, phức tạp.
2. Đổi mới là sự nghiệp của nhân dân, do đó cần phát huy quyền làm chủ của nhân
dân, khơi dậy mạnh mẽ tất cả các nguồn lực, trước hết là nguồn nội sinh, để thực
hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
- Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là yêu cầu có tính quy luật đối với các nước nông nghiệp
lạc hậu quá độ lên Chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn đi lên Tư bản chủ nghĩa. Chúng ta
phải tranh thủ những thành tựu của cuộc Cách Mạng khoa học và công nghệ… để nhanh
chóng biến nước ta thành một nước công nghiệp hiện đại.
lOMoARcPSD|40651217
Để công nghiệp hoá, hiện đại hoá thành công, chúng ta cần phát huy tất cả các nguôn lực
bên trong và bên ngoài, lấy nguồn lực bên trong làm gốc để phát huy nguồn lực bên
ngoài. Phải quán triệt sâu sắc quan điểm của chủ tịch Hồ Chí Minh: Chủ nghĩa xã hội là
công trình tập thể của nhân dân, do nhân dân tự xây dựng lấy dưới sự lãnh đạo của Đảng,
phải “đem tài dân, sức dân, của dân làm lợi cho dân”.
Nguồn nội lực con người là to lớn (trên 80 triệu dân với sức lực, trí tuệ, tài năng…), làm
thế nào để khơi dậy mạnh mẽ nguồn nội lực đó?
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh, ta phải phát huy cao độ quyền làm chủ của người dân,
tạo nên không khí dân chủ, cởi mở trong xã hội. Muón thế phải nâng cao dân trí, bồi
dướng văn hoá chính trị, trau dồi bản lĩnh công dân, cung cấp thông tin đúng đắn cho
người dân, phải thực hiện cơ chế “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, tạo cho
người dân có điều kiện tham gia giám sát công việc của Nhà nước. Đồng thời phải thực
hiện nhất quán chiến lược Đ ĐK của Hồ Chí Minh, trên cơ sở lấy liên minh công –ng
trí thức làm nòng cốt, tranh thủ sự đóng góp ủng hộ của tất cả những ai tán thành đổi mới
vì mục tiêu “dân giau, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
3. Đổi mới phải kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đaị:
Sự tác động của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ… phải khai thác và sử dụng tốt
nguồn lực bên ngoài: vốn, kinh nghiệm quản lý, và công nghệ hiện đại (phân tích)
Hợp tác bên ngoài đi đôi với thường xuyên khơi dậy chủ nghĩa yêu nước, tinh thần độc
lập dân tộc, kêu gọi toàn dân sẵn sàng đem nhân lưc, vật lực, tài lực để tăng cường sức
mạnh quốc gia.
Giao lưu, hội nhập đồng thời phải không ngừng trau đồi bản lĩnh và bản sắc văn hoá dân
tộc, đặc biệt cho
Chỉ có bản lĩnh và bản sắc dân tộc sâu sắc, mạnh mẽ mới tạo ra bộ lọc tốt để tiếp thu tinh
hoa văn hoá nhân loại, đồng thời có sức đề kháng tốt để chống lại mọi yếu tố văn hoá độc
hại từ bên ngoài tràn vào.
4. Xây dựng Đảng vững mạnh, làm trong sạch bộ máy nhà nước. Đẩy mạnh đấu
tranh chống quan liêu, tham nhũng, thực hiện cần kiệm xây dựng Chủ nghĩa xã
hội.
- Để phát huy quyền làm chủ của nhân dân, đòi hỏi Đảng và Nhà nước, cán bộ, đảng viên
phải thực sự trong sạch, cần kiệm liêm chính, thực sự là người “đầy tớ trung thành của
nhân dân”
lOMoARcPSD|40651217
- Đảng và Nhà nước phải có chủ trương, đường lối, chính sách đúng đắn.
Bài học thực tiễn đã nhắc nhỡ chúng ta phải không ngừng xây dựng Đảng và Nhà nước
trong sạch, vững mạnh; kiên quyết loại trừ nhừng phần tử thoái hóa, biến chất làm cho
đội ngũ cán bộ ngày càng vững mạnh.
- Phải thường xuyên chăm lo mối quan hệ gắn bó, máu thịt giữa Đảng và Nhà nước với
nhân dân.
II. VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HCM VỀ VẤN ĐỀ DÂN TỘC TRONG CÔNG CUỘC
ĐỔI MỚI HIỆN NAY
Trong 15 năm đổi mới đạt được những thành tựu to lớn, song sự nghiệp xây dựng bảo vệ
đất nước cũng đang đứng trước những thời cơ và thách thức to lớn mà chúng ta phải chủ
động đón lấy
và vượt qua. Trong lúc này, cần nắm chắc, vận dụng Tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan
hệ giữa dân tộc và giai cấp, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội đưa sự nghiệp đổi mới
vững bước tiến lên.
1) Khơi dậy sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc, nguồn động lực
mạnh mẽ để xây dựng và bảo vệ đất nước:
Hội nghị lần thứ tư (Khóa VIII) BCHTW Đảng đặt vấn đề phải xác định rõ các nguồn
lực và phát huy tối đa các nội lực, yếu tố quan trọng nhất, quyết định nhất là nguồn lực
con người với sức mạnh vật chất và tinh thần.
Con người Việt Nam vốn có truyền thống yêu nước, gắn kết cộng đồng, có ý chí kiên
cường bất khuất, không chịu làm nô lệ, không cam phận hèn…
Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ cứu nước của dân tộc, dưới sự lãnh
đạo của Đảng và Bác Hồ, tinh thần yêu nước ấy đã được phát huy cao độ, biến thành chủ
nghĩa anh hùng cách mạng vô song, đưa đến thắng lợi vĩ đại ở Điện Biên Phủ và đại
thắng mùa xuân năm 1975, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
Trong công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, truyền thống quý báu ấy cần tiếp
tục khơi dậy mạnh mẽ, biến nó thành một nguồn nội lực vô tận để đưa đất nước vượt qua
mọi nguy cơ thử thách, vững bước tiến lên.
2) Quán triệt Tư tưởng Hồ Chí Minh, nhận thức và giải quyết vấn đề dân tộc trên
quan điểm giai cấp.
lOMoARcPSD|40651217
- Luôn khẳng định vai trò lịch sử của giai cấp công nhân, vai trò độc quyền lãnh đạo của
Đảng tiên phong của giai cấp công nhân trong quá trình cách mạng Việt Nam.
- Chủ trương đại đòan kết dân tộc rộng rãi nhưng phải dựa trên nền tảng liên minh công
nông trí, dưới sự lãnh đạo của Đảng.
- Trong đấu tranh giành và giữ chính quyền, cần thiết phải biết sử dụng bạo lực của quần
chúng để chống lại bạo lực phản cách mạng của kẻ thù.
- Mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với Chủ nghĩa xã hội.
3) Chăm lo xây dựng khối đoàn kết dân tộc giải quyết tốt mối quan hệ giữa các dân
tộc anh em và trong cộng đồng dân tộc Việt Nam.
- Nhờ vận dụng sáng tạo và kết hợp nhuần nhuyễn mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp,
Hồ Chí Minh đã rất thành công trong việc xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, đại đoàn
kết các dân tộc đa số và thiểu số, khơi dậy và phát huy được tiềm năng cách mạng của
toàn dân tộc, đưa đến thắng lợi vĩ đại của sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng đất
nước.
- Trong thời kỳ lịch sử mới, Đảng ta tiếp tục giương cao ngọn cờ đại đoàn kết của Hồ Chí
Minh, ra sức phấn đấu để tăng cường và mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân lấy liên
minh giai cấp công nhân, nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng, lấy mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh làm điểm tương đồng, đồng thời
chấp nhận những quan điểm khác nhau không trái với lợi ích chung của dân tộc… (NQ
07/1993)
- Phải chăm lo và giải quyết tốt hơn nữa mối quan hệ giữa các dân tộc anh em trong đại
gia đình các dân tộc Việt Nam, Đại hội IX nêu rõ: “Vấn đề dân tộc và đoàn kết dân tộc
luôn có vị trí chiến lược trong sự nghiệp cách mạng”. Đại đoàn kết các dân tộc anh em
trên lãnh thổ Việt Nam là một nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp dựng nước và
giữ nước. (Văn kiện ĐH IX tr.127) (xem GTQG tr.86).
- Trong việc đền ơn, đáp nghĩa cho đồng bào miền núi, giúp miền núi nhanh chóng tiến
kịp miền xuôi, Người dạy: “Các cấp bộ Đảng phải thi hành đúng chính sách dân tộc,
thực hiện sự đoàn kết, bình đẳng, tương trợ giữa các dân tộc”.
- Sau 15 năm đổi mới, đời sống của nhân dân miền núi đã có những chuyển biến rõ nét.
Tuy nhiên không phải không có những cơ sở cho các thế lực thù địch khai thác, lợi dụng.
- Để loại trừ nguyên nhân có thể dẫn đến căng thẳng trong mối quan hệ giữa các dân
tộc,có thể bị kẻ thù lợi dụng, chúng ta phải thực hiện thắng lợi các mục tiêu mà ĐH IX
lOMoARcPSD|40651217
của Đảng đã đề ra cho miền núi, trong đó có nhiệm vụ: xây dựng kết cấu hạ tầng kinh
tế, xã hội, phát triển sản xuất hàng hóa, xóa đói, giảm nghèo; gìn giữ và phát huy bản
sắc văn hóa dân tộc; đặc biệt quan tâm vùng gặp nhiều khó khăn, vùng trước đây là căn
cứ cách mạng và kháng chiến, thực hiện chính sách ưu tiên trong việc đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ dân tộc thiểu số, chống kỳ thị chia rẽ dân tộc.
III.TƯ TƯỞNG HCM VỀ XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC TRONG SẠCH VỮNG
MẠNH
a) Đề phòng và khắc phục những tiêu cực trong hoạt động của Nhà nước.
Theo Hồ Chí Minh, sức mạnh, hiệu quả của nhà nước là dựa vào tính nghiêm minh của
việc thi hành pháp luật và sự gương mẫu, trong sạch về đạo đức cảu người cầm quyền.
Người đòi hỏi “cán bộ phải thực hành chữ Liêm trước để làm kiểu mẫu cho dân”, đồng
thời kiên quyết chống ba thứ “giặc nội xâm” là tham ô, lãng phí.
Theo Hồ Chí Minh, chống tham ô, lãng phí quan liêu cũng cần kíp như việc đánh giặc
trên mặt trận. Người nói: “Tham ô, lãng phí, quan liêu, dù cố ý hay không, cũng là bạn
đồng minh của thực dân phong kiến,...Nó làm hỏng tinh thần trong sạch và ý chí khắc
khổ của cán bộ ta. Nó phá hoại đạo đức cách mạng của ta là cần, kiệm, liêm, chính … tội
lỗi ấy cũng nặng như tội việt gian, mật thám”. Mác và Ăngghen đã từng cảnh tỉnh giai
cấp vô sản rằng chủ nghĩa quan liêu có thể dẫn các đảng cộng sản cầm quyền đến chỗ
“đánh mất một lần nữa chính quyền vừa giành được”. Lênin cũng viết “... chúng ta bị
khốn khổ trước hết về tệ quan liêu. Những người cộng sản đã trở thành tên quan liêu. Nếu
có cái gì sẽ làm tiêu vong chúng ta thì chính là cái đó”.
Tham ô, lãng phí có nhiều nguyên nhân, Hồ Chí Minh chỉ ra nguyên nhân quan trọng là
bệnh quan liêu. Người viết: “Vì những người và những cơ quan lãnh đạo từ cấp trên đến
cấp dưới không sát công việc thực tế, không theo dõi và giáo dục cán bộ, không gần gũi
quần chúng. Đối với công việc thì trọng hình thức mà không xem xét mọi mặt, không vào
sâu vấn đề. Chỉ biết khai hội, viết chỉ thị, xem báo cáo trên giấy, chứ không kiểm tra đến
nơi, đến chốn… thành thử có mắt mà không thấy suốt, có tai mà không nghe thấu, có chế
độ mà không giữ đúng, có k luật mà không nắm vững… Thế là bện quan liêu đã ấp ủ,
dung túng, che chở nạn tham ô, lãng phí. Vì vậy, muốn trừ sạch nạn tham ô, lãng phí thì
trước mắt phải tẩy sạch bệnh quan liêu.
Vì vậy không thể nói đến một nhà nước trong sạch vững mạnh, hiệu quả nếu không kiên
quyết, thường xuyên đẩy mạnh cuộc đấu tranh để ngăn chặn tận gốc những nguyên nhân
gây ra nạn tham ô, lãng phí, quan liêu.
lOMoARcPSD|40651217
b) Tăng cường tính nghiêm minh của pháp luật đi đôi với đẩy mạnh giáo dục đạo
đức cách mạng
- Theo Hồ Chí Minh. Do tập quán của kinh tế tiểu nông, muốn hình thành ngay một nhà
nước pháp quyền là chưa thể được. Xây dựng nhà nước pháp quyền phải nhấn mạnh vai
trò của luật pháp, ban hành luật pháp, phải khẩn trương xây dựng đồng bộ hệ thống pháp
luật, và đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục pháp luật trong nhân dân. Nhưng không thể đề
cao vai trò một chiều của pháp luật mà bỏ qua sự hổ trợ của các yếu tố khác, nhất là giáo
dục đạo đức. Đạo đức và pháp luật là hai hình thái ý thức xã hội có thể kết hợp, bổ sung
cho nhau trong thực tế quản lý xã hội, điều hành đất nước.
Hồ Chí Minh là mẫu mực của sự kết hợp đạo đức và pháp luật, luôn luôn chú trọng giáo
dục đạo đức, nhưng không ngừng nâng cao vai trò, sức mạnh của pháp luật và thi hành
pháp luật nghiêm minh.
3. Cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh của thế hệ
trẻ
Đó là quá trình dài kêu gọi tuổi trẻ cả nước phát huy những kết quả đạt được, không
ngừng học tập và làm theo những lời dạy của Bác, nỗ lực trong học tập, lao động, rèn
luyện, quyết tâm hành động góp phần thực hiện thắng lợi những đường lối chủ trương
của Đảng và nhà nước
Học tập và làm theo lời Bác là một lòng, một dạ với Đảng, với đất nước, với lý
tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Không ngừng sang tạo và tự hoàn thiện bản
thân cho xứng đáng là lực lượng “nòng cốt’ của đất nước
Học tập và làm theo lời Bác là nỗ lực vươn lên, tự lực tự cường, lao động, cống
hiến không ngừng cho vận mệnh của nước nhà
Học tập và làm theo lời Bác là luôn nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, sẵn
sàng chiến đấu, hy sinh bảo vệ độc lập tự do của Tổ quốc và chủ nghĩa xã hội . Luôn giữ
trong mình lòng nhiệt huyết với ngọn lửa “đỏ” và trái tim “hồng” của người Việt Nam,
lòng tự hào và tự tôn dân tộc luôn rực cháy trong nguồn sức mạnh từ ý chí của những
người thanh niên.
lOMoARcPSD|40651217
Học tập và làm theo lời Bác là luôn xung kích trong các phong trào thanh niên;
gương mẫu, đoàn kết giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.
Tấm gương đạo đức cao cả, cuộc đời bình dị trong sáng, tư tưởng vĩ đại, những lời dạt
sâu sắc và tình thương yêu của Bác sẽ mãi là ngọn lửa thiêng soi đường cho tuổi trẻ Việt
Nam tiến bước.Vì thế học tập và làm theo lời Bác là lẽ sống đẹp của tuổi trẻ Việt Nam.
IV.TƯ TƯỞNG HCM VỀ XD CON NGƯỜI MỚI
1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về con người
a. Con người được nhìn nhận như một chỉnh thể
- Con người được xem xét như chỉnh thể thống nhất về tâm lực, thể lực và các hoạt động
của nó. Con người luôn có xu hướng vươn lên cái Chân - Thiện - Mỹ, mặc dù “có thế
này, thế khác”.
Hồ Chí Minh đề cập đến con người trong tính đa dạng: đa dạng trong quan hệ xã hội
(quan hệ dân tộc, giai cấp, tầng lớp, đồng chí, đồng bào...); đa dạng trong tính cách, khát
vọng, phẩm chất, khả năng, cũng như năm ngón tay dài ngắn khác nhau nhưng đều hợp
lại nơi bàn tay; my mươi triệu người Việt Nam, có người thế này, thế khác, nhưng đều
cùng là nòi giống Lạc Hồng; đa dạng trong hoàn cảnh xuất thân, điều kiện sống, làm
việc...
- Hồ Chí Minh xem xét con người trong sự thống nhất của hai mặt đối lập: thiện và ác,
hay và dở, tốt và xấu, hiền và dữ... Bao gồm tính người - mặt xã hội và tính bản năng -
mặt sinh học của con người. Theo Hồ Chí Minh con người có tốt, có xấu, nhưng “dù là
xấu, tốt, văn minh hay dã man đều có tình”.
b. Con người cụ thể, lịch sử
Hồ Chí Minh dùng khái niệm con người theo nghĩa rộng trong một số trường hợp (“phẩm
giá con người”, “giải phóng con người”, “người ta”, “con người”, “ai”...) nhưng đặt trong
lOMoARcPSD|40651217
một bối cảnh cụ thể một duy chung, còn phần lớn, Người xem xét con người trong
các mối quan hệ hội, giai cấp, giới tính, lứa tuổi, nghề nghiệp, trong khối thống nhất của
cộng đồng dân tộc và quan hệ quốc tế. Đó là con người hiện thực, cụ thể, khách quan.
c. Bản chất con người mang tính xã hội
- Để sinh tồn, con người phải lao động sản xuất. Trong quá trình lao động, sản xuất, con
người dần nhận thức được các hiện tượng, quy luật của tự nhiên, của xã hội; hiểu về mình
và hiểu biết lẫn nhau… xác lập các mối quan hệ giữa người với người.
- Con người là sản phẩm của xã hội, con người là sự tổng hợp các quan hệ xã hội từ hẹp
đến rộng, chủ yếu bao gồm các quan hệ: anh, em, họ hàng, bầu bạn, đồng bào, loài người.
2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò của con người và chiến lược trồng người
a. Quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò của con người
Con người là vốn quý nhất, nhân tố quyết định thành công của sự nghiệp cách mạng
Theo Hồ Chí Minh, “trong bầu trời không có gì quý bằng nhân dân, trong thế giới này
không có gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”. Vì vậy, “vô luận việc gì đều
do người làm ra, và từ nhỏ đến to, từ gần đến xa đều thế cả”. Người cho rằng “việc dễ
mấy không có dân cũng chịu, việc khó mấy có dân liệu cũng xong”. Nhân dân là người
sáng tạo ra mọi giá trị vật chất và tinh thần, dân ta là tài năng và trí tuệ, sáng tạo, họ biết
“giải quyết nhiều vấn đề một cách giản đơn, mau chóng, đầy đủ mà những người tài giỏi,
những đoàn thể to lớn, nghĩ mãi không ra”. Hồ Chí Minh có niềm tin vững chắc rằng với
tinh thần quật cường và lực lượng vô tận của dân tộc ta, với lòng yêu nước và chí kiên
quyết của nhân dân và quân đội ta, chẳng những chúng ta có thể thắng lợi, mà chúng ta
nhất định thắng lợi. Nhân dân là yếu tố quyết định thành công của cách mạng. “Lòng yêu
nước và sự đoàn kết của nhân dân một lực lượng vô cùng to lớn, không ai thắng nổi”.
Con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng, phải coi trọng, chăm sóc,
phát huy nhân tố con người
lOMoARcPSD|40651217
Con người là mục tiêu giải phóng của sự nghiệp cách mạng.
- Mục tiêu của cách mạng: là giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con
người, thực hiện độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
- Con người là mục tiêu của cách mạng nên mọi chủ trương, đường lối, chính sách của
Đảng đều vì lợi ích chính đáng của con người. Có thể là lợi ích lâu dài, lợi ích trước
mắt, lợi ích cả dân tộc, lợi ích của bộ phận, giai cấp, tầng lớp và các nhân. Với hoạt
động thực tiễn thì việc gì có lợi cho dân, dù nhỏ mấy - ta phải hết sức làm. Việc gì hại
cho dân - dù nhỏ mấy - ta phải hết sức tránh.
Con người là động lực của cách mạng.
- Con người là động lực của cách mạng, được nhìn nhận trên phạm vi cả nước, toàn thể
đồng bào, song trước hết là ở giai cấp công nhân và nông dân. Điều này có ý nghĩa to
lớn trong sự nghiệp giải phóng dân tộc và y dựng chủ nghĩa xã hội. Nhà nước mới lấy
công - nông - trí làm nền tảng.
- Không phải là mọi người đều trở thành động lực, mà phải là những con người được
giácngộ và tổ chức. Họ phải có trí tuệ và bản lĩnh, văn hóa, đạo đức, được nuôi dưỡng
trên nền truyền thống lịch sử và văn hoá của dân tộc Việt Nam… Chính trị, văn hóa,
tinh thần là động lực cơ bản trong động lực con người.
- Con người là động lực chỉ có thể thực hiện được khi hoạt động có tổ chức, có lãnh đạo.
Vì vậy, cần có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
- Giữa con người - mục tiêu và con người - động lực có mối quan hệ biện chứng với
nhau. Càng chăm lo cho con người - mục tiêu tốt bao nhiêu thì sẽ tạo thành con người -
động lực tốt bấy nhiêu. Ngược lại, tăng cường được sức mạnh của con người - động lực
thì sẽ nhanh chóng đạt được mục tiêu cách mạng.
Phải kiên quyết khắc phục kịp thời các phản động lực trong con người và tổ chức. Đó là
chủ nghĩa cá nhân. Thứ vi trùng rất độc này đẻ ra hàng trăm thứ bệnh: thói quen truyền
lOMoARcPSD|40651217
thống lạc hậu, tàn tích xã hội cũ để lại, bảo thủ, rụt rè không dám nói, không dám làm,
không dám đề ra ý kiến, tóm lại không dám đổi mới và sáng tạo.
b. Quan điểm của Hồ Chí Minh về chiến lược “trồng người”
“Trồng người” là yêu cầu khách quan, vừa cấp bách, vừa lâu dài của cách mạng
Trên cơ sở khẳng định con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng. Hồ
Chí Minh rất quan tâm đến sự nghiệp giáo dục, đào tạo và rèn luyện con người. Người
nói đến “lợi ích trăm năm” và mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội là những quan điểm
mang tầm vóc chiến lược, cơ bản, lâu dài, nhưng cũng rất cấp bách. Nó liên quan đến
nhiệm vụ “trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa” và “trồng người”. Tất cả
những điều này phản ánh tư tưởng lớn về tầm quan trọng có tính quyết định của nhân tố
con người; tất cả vì con người, do con người.
Con người được đặt vào vị trí trung tâm của sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước
với nghĩa rộng, vừa nằm trong chiến lược giáo dục đào tạo theo nghĩa hẹp.
“Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa”
- Con người xã hội chủ nghĩa đương nhiên phải do chủ nghĩa xã hội tạo ra.
- Mỗi bước xây dựng con người như vậy là một nấc thang xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Đây là mối quan hệ biện chứng giữa “xây dựng chủ nghĩa xã hội” và “con người xã hội
chủ nghĩa”.
- Quan niệm của Hồ Chí Minh về con người mới xã hội chủ nghĩa có hai mặt gắn bó chặt
chẽ với nhau. Một là, kế thừa những giá trị tốt đẹp của con người truyền thống. Hai là,
hình thành những phẩm chất mới: như có tư tưởng xã hội chủ nghĩa; có đạo đức xã hội
chủ nghĩa; có trí tuệ và bản lĩnh để làm chủ; có tác phong xã hội chủ nghĩa; có lòng nhân
ái, vị tha, độ lượng.
c. Chiến lược “trồng người” là một trọng tâm, một bộ phận hợp thành của chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội
lOMoARcPSD|40651217
- Để thực hiện chiến lược “trồng người”, cần có nhiều biện pháp, nhưng giáo dục - đào
tạo là biện pháp quan trọng nhất. Bởi vì, giáo dục tốt sẽ tạo ra tính thiện đem lại tương
lai tươi sáng cho thanh niên. Ngược lại, giáo dục tồi sẽ ảnh hưởng xấu đến thanh niên.
- Nội dung và phương pháp giáo dục phải toàn diện, cả đức, trí, thể, mỹ, phải đặt đạo đức,
lý tưởng và tình cảm cách mạng, lối sống xã hội chủ nghĩa lên hàng đầu. Hai mặt đức,
tài thống nhất với nhau, trong đó đức là gốc, là nền tảng cho tài năng phát triển. Phải kết
hợp giữa nhận thức và hành động, lời nói với việc làm... có như vậy mới có thể “Học để
làm người”.
“Trồng người” là công việc “trăm năm”, không thể nóng vội “một sớm một chiều” không
phải làm một lúc là xong, cũng không phải tùy tiện đến đâu hay đến đó. Nhận thức và
giải quyết vấn đề này có ý nghĩa thường trực, bền bỉ trong suốt cuộc đời mỗi con người,
suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Hồ Chí Minh cho rằng: “việc học không bao gi
cùng, còn sống còn phải học”.
KẾT LUẬN
Hồ Chí Minh được cả thế giới tôn vinh là nhà văn hóa kiệt xuất, không chỉ vì
Người đã sáng tạo ra một thời đại mới và một nền văn hóa mới ở Việt Nam mà còn vì
những sự đóng góp mới của Người vào lý luận và sự phát triển chung của văn hóa nhân
loại
- Trong lĩnh vực văn hóa, Hồ Chí Minh đã sớm nhận thấy vai trò và sức mạnh của văn
hóa, đã sớm đưa văn hóa vào chiến lược phát triển của đất nước.
- Trong lĩnh vực đạo đức, Hồ Chí Minh đã có những đóng góp rất đặc sắc vào tư tưởng
đạo đức macxit. Những đóng góp đó đã nâng Người lên vị trí một nhà đạo đức học lỗi
được thế giới thừa nhận.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người mới có giá trị lý luận và thực tiễn rất quan trọng:
Về lý luận: có nội dung sâu sắc và mới mẻ, có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự nghiệp
GD, ĐT con người Việt Nam. Trên cơ sở quan triệt quan điểm GD đạo lý để làm người,
lOMoARcPSD|40651217
coi con người là vốn quý nhất, chăm lo hạnh phúc của con người là mục tiêu phấn đấu
cao nhất của chế độ ta, con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp cách
mạng XHCN. Đảng ta xác định GD và ĐT là quốc sách hàng đầu.
Về thực tiễn: sự phát triển con người đã trở thành tiêu chí ngày càng quan trọng trong
việc xếp hạng các nước trên thế giới. Dưới ánh sáng của tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta
nhấn mạnh việc chăm lo cho hạnh phúc của con người là mục tiêu phấn đấu cao nhất của
chế độ ta.
Tư tưởng về văn hóa, đạo đức và xây dựng con người mới là một bộ phận rất quan trọng
trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh. Nghiên cứu và học tập theo tấm gương đạo đức
Hồ Chí Minh không chỉ đơn thuần là vấn đề nhận thức, mà còn là trách nhiệm chính trị
của các dân tộc, nhằm xây dựng Việt Nam thành một quốc gia văn minh trong thời kỳ hội
nhập quốc tế.
V.SINH VIÊN HỌC TÂP VÀ LÀM THEO TẤM GƯƠNG ĐẠO ĐỨC HCM
1. Học tập và làm theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh
- Xác định đúng vị trí, vai trò của đạo đức đối với cá nhân:
- Đạo đức, hiểu tổng quát là toàn bộ những chuẩn mực, những quy tắc, những quan niệm
về các giá trị thiện, ác, lương tâm, trách nhiệm, danh dự, hạnh phúc, công bằng được xã
hội thừa nhận. Đạo đức là yếu tố cơ bản của nhân cách tạo nên giá trị con người.
- Hồ Chí Minh quan tâm đến việc giáo dục đạo đức cho thanh niên từ rất sớm, vì thanh
niên là “người chủ tương lai của nước nhà”- Sdd, t 5, tr 185.
-Thực hành đạo đức trong đời sống hàng ngày không chỉ có tác dụng tôn vinh,
nâng cao giá trị chính họ mà còn tạo sức mạnh nội sinh, giúp họ vượt qua khó khăn, thử
thách . - Trong xã hội, mỗi người có công việc, tài năng và vị trí khác nhau, người làm
lOMoARcPSD|40651217
việc to, người làm việc nhỏ, nhưng ai giữ được đạo đức cách mạng đều là người cao
thượng.
- Kiên trì, tu dưỡng theo các phẩm chất đạo đức Hồ Chí Minh:
- Sinh viên phải có “6 cái yêu”: Yêu Tổ quốc, yêu nhân dân, yêu chủ nghĩa xã hội, yêu
lao động, yêu khoa học và k luật
- Sinh viên phải:
+ Rèn luyện cho mình những đức tính: trung thành, tận tụy, thật thà, chính trực.
+ Phải xác định rõ nhiệm vụ của mình.
+ Trong học tập, phải kết hợp lý luận và thực hành, học tập với lao động; phải chống mọi
biểu hiện của chủ nghĩa các nhân, chống tư tưởng háo danh, hám lợi, chống lười biếng,
coi khinh lao động, kiêu ngạo, giả dối, khoa khoang…Phải trả lời được câu hỏi: học để
làm gì? Học để phục vụ cho ai?
+ Phải xác định rõ thế nào là tốt, thế nào là xấu? Ai là bạn, ai là thù?
2. Nội dung học tập theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh
- Thực trạng đạo đức lối sống trong sinh viên hiện nay
+ Phần lớn sinh viên, thanh niên vẫn giữ được lối sống tình nghĩa, trong sạch,
lành mạnh, khiêm tốn, cần cù và sáng tạo, có bản lĩnh, có chí lập thân, lập nghiệp, năng
động nhạy bén, dám chịu trách nhiệm; gắn bó với nhân dân, đồng hành cùng dân tộc,
phấn đấu cho sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
+ Do tác động của nền kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế, một bộ phận sinh viên
phai nhạt niềm tin, lý tưởng, mất phương hướng phấn đấu, không có chí lập thân, lập
nghiệp, chạy theo lối sống thực dụng, sống thử, sống dựa dẫm, thiếu trách nhiệm, thờ ơ
với gia đình và xã hội, sa vào nghiện ngập hút xách, thiếu trung thực, gian lận trong thi
lOMoARcPSD|40651217
cử, chạy điểm, chạy thầy, chạy trường, mua bằng cấp… Đây là những biểu hiện không
thể coi thường.
- Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh
+ Một là, học trung với nước, hiếu với dân, suốt đời phấn đấu cho sự nghiệp giải
phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người
+ Hai là, học cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, đời riêng trong sáng, nếp
sống giản dị và đức tính khiêm tốn phi thường
+ Ba là, học đức tin tuyệt đối vào sức mạnh của nhân dân, kính trọng nhân dân và
hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân, luôn nhân ái, vị tha, khoan dung và nhân hậu với con
người.
+ Bốn là, học tấm gương về ý chí và nghị lực tinh thần to lớn, quyết tâm vượt qua
mọi thử thách, gian nguy để đạt được mục đích cuộc sống.
VI.TÍNH NHÂN VĂN TRONG TƯ TƯỞNG HCM
Tư tưởng nhân văn của Hồ Chí Minh lúc đầu thể hiện ở những yêu cầu nhân bản
bao quát nhất. Đó là tư tưởng đòi lại cho con người những gì mà nó vốn có, trước hết là
quyền được sống theo nghĩa “người ta sinh ra ai cũng có quyền sống, quyền mưu cầu
hạnh phúc”.
-Đất nước Việt Nam - cái nôi của con rồng cháu tiên, phải để cho người Việt Nam được
gọi là Tổ quốc, chứ không cần đến một “mẫu quốc” bên phương Tây xa xôi tới “khai
hoá”! Đã là con người thì ai cũng có quyền làm người, quyền tự do, quyền sống bình
đẳng. Phải trả lại độc lập cho nhân dân Việt Nam để họ làm chủđất nước mình, tự mình
xây dựng cuộc sống. Đưa con người trở về với chính con người, đó là tư tưởng nhân bản
cơ bản đầu tiên được hình thành trong con người Hồ Chí Minh. Trên cơ sởđó, Người kêu
gọi xoá bỏ nô lệ, áp bức, bần cùng, đối xử với con người như là Con Người chân chính.
lOMoARcPSD|40651217
Tư tưởng nhân văn của Hồ Chí Minh được nâng lên tầm cao hơn khi ở Người hội tụ
những tư tưởng tiến bộ toàn nhân loại, trong đó có các hệ tư tưởng nhân văn Phục hưng,
Khai sáng. Đặc biệt, tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh chỉ thật sự trở thành lý luận khoa
học, trở thành học thuyết vững chắc khi Người thấm nhuần tư tưởng cộng sản chủ nghĩa
của các lãnh tụ thiên tài là C. Mác, Ph. Ăng-ghen và V. I. Lênin.
-Thấm nhuần tư tưởng nhân văn cộng sản chủ nghĩa, Hồ Chí Minh tự nguyện đứng vào
hàng ngũ những người cộng sản quốc tế, chiến đấu hi sinh cho lý tưởng nhân văn cộng
sản chủ nghĩa. Và thực tế, Người đãtrở thành một trong những chiến sĩđi tiên phong trong
cuộc đấu tranh lật đổ chế độ xã hội cũ, xây dựng chếđộ xã hội mới trên phạm vi toàn thế
giới. Người quan tâm đến số phận từng con người , vận mệnh từng dân tộc, từng quốc gia
khắp năm châu. Cuộc cách mạng mà người theo đuổi là cuộc đấu tranh giai cấp, lật đổ
giai cấp bóc lột, giải phóng giai cấp bị bóc lột, đưa loài người tiến đến một xã hội tốt đẹp.
Tư tưởng Hồ Chí Minh vì thế có tầm giai cấp quốc tế, tầm nhân loại.
- Hồ Chí Minh tiếp thu một cách sâu sắc lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, lấy nguyên lý của
chủ nghĩa cộng sản để thực hiện lý tưởng nhân văn cụ thể của con người: xoá bỏ xã hội
cũ thối nát và phản nhân đạo để xây dựng một xã hội mới màởđó, người với người
làđồng chí, bạn bè, anh em, sống hoà bình, hợp tác, hữu nghị trong thế giới đại đồng.
Chính vì vậy khi Quốc tế II phân hóa thành nhiều khuynh hướng khác nhau, Người đã
chọn Quốc tế III, vì nóđề ra mục tiêu đúng với tư tưởng của Người là chống phong kiến,
đế quốc, giải phóng dân tộc, mà thực chất là giải quyết vấn đề dân tộc và thuộc địa - vấn
đề bức xúc nhất, bản chất nhất của cách mạng thế giới lúc bấy giờ.
-Giải quyết vấn đề dân tộc và thuộc địa, theo Hồ Chí Minh không phải là nhiệm vụ cuối
cùng, mà là khâu đột pháđể tiến tới giải quyết vấn đề cách mạng thế giới. Giải phóng
từng dân tộc làđiều kiện cho việc giải phóng tất cả các dân tộc thuộc địa; giải phóng giai
cấp vô sản làđểđi đến xã hội cộng sản chủ nghĩa. Mục tiêu đó quán xuyến toàn bộ sự
nghiệp cách mạng của Người. Đó cũng là nền tảng cho tinh thần đoàn kết giữa các dân
tộc toàn nhân loại trên cơ sở chủ nghĩa yêu ớc và chủ nghĩa Quốc tế chân chính. Giải
phóng dân tộc, giải phóng xã hội và giải phóng con người, theo Người, cũng chỉ mới là
lOMoARcPSD|40651217
tiền đềđể thực hiện mục tiêu thiêng liêng nhất của con người là phát triển toàn bộ bản
chất người với mọi phẩm chất tốt đẹp, với mọi tiềm năng và năng lực sáng tạo cũng như
khả năng hưởng thụ cao các giá trị văn hoá do chính mình sáng tạo ra.
-Chính với quyết tâm thực hiện lý tưởng nhân văn đó, Hồ Chí Minh có một thái độ hết
sức khoan dung, độ lượng, một tinh thần đoàn kết, hoà hợp. Phê phán phản đối tư tưởng
biệt phái, chia rẽ các tín ngưỡng tôn giáo trong nước và trên thế giới, Người tiếp thu tất
cả tinh hoa trí tuệ, ước mơ, khát vọng chân chính của nhân loại nhằm đạt tới mục đích
cuối cùng làđem lại hạnh phúc cho nhân dân. Người đã hội tụ những tinh hoa của tất cả
các tư tưởng nhân văn của nhân loại, từ tư tưởng Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín, Dũng, Trung,
Hiếu của đạo Nho, tinh thần từ bi, cứu nhân độ thế, phấn đấu đạt tới sự sáng láng của đạo
Phật, đến ước mơ vươn tới một xã hội cao đẹp, con người hoàn thiện của đạo Thiên chúa.
Người đã chắt lọc ưu điểm trong các học thuyết của Khổng Tử, Thích ca Mâu ni, Tôn Dật
Tiên, Giê-su… Đặc biệt người đã tìm thấy ở học thuyết Mac-Lênin nhân sinh quan cộng
sản chủ nghĩa. Người nhận thấy rằng, ở tất cả các vị tiền bối đều có chung một ưu điểm là
mưu cầu hạnh phúc cho con người. Công lao đó của Người, tự nóđã thể hiện một tinh
thần, một bản chất nhân văn lớn lao, cao cả, vì cuộc sống tốt đẹp của con người, vì hạnh
phúc và tiến bộ của nhân gian.
- Tư tưởng nhân văn của Hồ Chí Minh còn thể hiện một cách đặc sắc ở khát vọng và
tinh thần quyết tâm biến tư tưởng thành hiện thực. Cốt lõi của thế giới quan duy vật,
phương pháp luận khoa học và nhân sinh quan cộng sản chủ nghĩa được Hồ Chí Minh
chuyển hoá thành một tổ hợp tư tưởng Mác - Lênin - Hồ Chí Minh , rồi nó lại được
thăng hoa, biến thành một chất tư tưởng mới rất riêng, trong đó có sự hoà quyện giữa
chiều sâu lý luận và sinh khí cuộc sống. Tiếp thu bản chất khoa học và cách mạng, tinh
thần cải tạo thế giới của chủ nghĩa Mác- nin, Người thực hiện khát vọng cháy bỏng của
mình là biến tình thương người , tình yêu cuộc sống thành hành động.
Lòng nhân ái Hồ Chí Minh bao la rộng, lớn bao nhiêu đối với nhân loại thì cũng sâu
nặng bấy nhiêu đối với con người, dân tộc Việt Nam. Nhận nhiệm vụ từ Quốc tế cộng
sản, trở về Tổ quốc, Người dành tất cả tình thương yêu cho dân tộc Việt Nam. Khi trở
lOMoARcPSD|40651217
thành lãnh tụ của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà , Người không màng danh lợi cá
nhân, suốt đời chăm lo cho hạnh phúc của nhân dân, cho sự trường tồn của dân tộc và sự
phát triển của đất nước. Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh bao quát toàn bộ cách mạng
Việt Nam là giải phóng dân tộc, đem lại độc lập tự do cho Tổ quốc, hạnh phúc cho nhân
dân. Tư tưởng đóđược kết tinh thành một tuyên ngôn bất hủ không chỉđối với nhân dân
Việt Nam mà còn đối với toàn thể loài người tiến bộ: Không có gì quý hơn độc lập, tự do.
-Để thực hiện lý tưởng nhân văn đó, Hồ Chí Minh đã vạch ra con đường đúng đắn cho
cách mạng Việt Nam là “ Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội”. Giải phóng dân
tộc là mục tiêu số một khi đất nước còn nô lệ. Vì vậy ham muốn tột bậc của Người là
“làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do”. Độc lập, tự
do trở thành bản chất cao quý trong tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh, trở thành ngọn cờ
chiến đấu và mục tiêu suốt đời hi sinh cống hiến của Người. Bởi vìđó làđiều kiện tiên
quyết đem lại hạnh phúc và tiến bộ cho nhân dân Việt Nam.
- Lý tưởng nhân văn đó được Hồ Chí Minh biến thành mục tiêu của cách mạng Việt Nam
là xây dựng xã hội mới- xã hội xã hội chủ nghĩa. Với sức mạnh khoa học của chủ nghĩa
Mac- Lênin, với niềm tin sắt đá vào tương lai vàý chí quyết tâm của người cộng sản,
Người đã lãnh đạo nhân dân Việt Nam lam nên những chiến công hiển hách. Tư tưởng
nhân văn Hồ Chí Minh thấm sâu trong đường lối của Đảng, trở thành ngọn cờ hướng dẫn
nhân dân ta làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954 chấn động địa cầu vàđại
thắnng mùa xuân 1975 thần thánh.
-Đất nước giành được độc lập, dân tộc giành được tự do,nhiệm vụ trọng tâm của dân tộc
Việt Nam là xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đó là lô-gích tất yếu của lý thuyết phát triển theo
hướng nhân văn, vì chủ nghĩa xã hội là xã hội phù hợp nhất với bản chất con người, là xã
hội tốt đẹp nhất mà loài người hằng ơn tới. Xã hội xã hội chủ nghĩa Việt Nam do
Người lãnh đạo toàn dân xây dựng không phải là thứ chủ nghĩa xã hội cực đoan, hẹp hòi,
vị kỷ của một giai cấp, một đảng phái nào. Mục tiêu và phương thức tiến hành xây dựng
chủ nghĩa xã hội của Hồ Chí Minh cũng không chỉ là chuyên chính, phá bỏ, cũng không
phải là một cái gìđó mơ hồ, không tưởng như nhiều người, nhiều đảng đương thời trên
lOMoARcPSD|40651217
thế giới quan niệm. Đó là chủ nghĩa xã hội hiện thực, cụ thể gắn liền với dặc điểm lịch
sử, truyền thống văn hoá và bản sắc dân tộc. Chủ nghĩa xã hội mà người lãnh đạo ở Việt
Nam là một xã hội mới công bằng, nhân đạo và tốt đẹp, nhằm mục tiêu cụ thể là: dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, con người hạnh phúc.
-Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội do Hồ Chí Minh lãnh đạo thực sự là một cuộc cách
mạng giải phóng và phát triển mọi tiềm năng của dân tộc, của xã hội, cụ thể là giải phóng
và phát triển con người. Người luôn quan niệm rằng: “ Nếu nước độc lập mà người dân
không hưởng hạnh phúc tự do thìđộc lập cũng chẳng cóý nghĩa gì”. Chính tấm lòng nhân
hậu Hồ Chí Minh đãđúc kết nên tư tưởng nhân văn của Người: con người không chỉđược
giải phóng về mặt xă hội, mà chủ yếu và cuối cùng là giải phóng và phát triển toàn bộ
bản chất và bản tính tốt đẹp của mình. Bản chất sâu xa, lớn lao trong tư tưởng nhân văn
Hồ Chí Minh là, tất cảđều vì sự phát triển con người Việt Nam: xoá bỏ tha hoá, trả lại
cho con người phẩm chất Người, giải phóng toàn bộ tiềm năng, thể chất, trí tuệ, tài năng
sáng tạo của con người, tạo mọi điều kiện cho con người phát triển toàn diện - hài hoà
vềđức - trí - thể - mỹ . Với tinh thần đó, Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến thanh, thiếu
niên. Vì thanh niên là:” người chủ tương lai của nước nhà”,”nước nhà thịnh hay suy, yếu
hay mạnh một phần lớn là do các thanh niên”. Người yêu cầu Chính phủ phải chúýđặc
biệt tới việc giáo dục thanh, thiếu niên về thể dục, đức dục và trí dục.
Một điểm đáng được lưu ý là tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh có tính vượt thời đại,
đó là sự tuyệt đối tin tưởng vào thắng lợi ngày mai, lo cho tương lai của đất nước. Trong
chiến tranh ác liệt, vận mệnh đất nước lâm nguy, nhưng với nhãn quan duy vật biện
chứng, Hồ Chí Minh đã thấy trước thắng lợi tất yếu của cách mạng Việt Nam. Người
luôn nghĩ tới vàđặt kế hoạch cho sự phát triển tương lai của đất nước. Người có kế hoạch
đào tạo nhân tài cho đất nước, kể cảđào tạo ở nước ngoài. Trong hoàn cảnh đời sống vật
chất còn rất nhiều khó khăn, Người vẫn quan tâm xây dựng đời sống văn hoá, phát triển
khoa học kỹ thuật. Đặc biệt, Người rất quan tâm tới xây dựng và phát triển đời sống tinh
thần của nhân dân. Theo Người, giá trị thiêng liêng nhất, cao quý nhất và trường tồn nhất
của con người chính là giá trị tinh thần. Càng lùi xa chiến tranh, lùi xa đời sống vật chất
lOMoARcPSD|40651217
khó khăn, thiếu thốn của quá khứ, chúng ta càng thấy tư tưởng đó của Người làđúng đắn
và sẽ mãi giữ nguyên giá trị
VII.TƯ TƯỞNG HCM ĐỐI VỚI SỰ PT CỦA THẾ GIỚI
a. Phản ánh khát vọng thời đại:
Hồ Chí Minh là nhân vật lịch sử vĩ đại, không chỉ là sản phẩm của dân tộc, của giai cấp
công nhân Việt Nam mà còn là sản phẩm của thời đại, của nhân loại tiến bộ.
Bởi lẽ, Người có những cống hiến xuất sắc về lý luận cách mạng giải phóng dân tộc,
giành độc lập dân tộc, tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội theo con đường cách mạng vô
sản.
-Việc xác định đúng đắn những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam và các vấn đề về
chủ nghĩa xã hội và xây dựng chủ nghĩa xã hội; về hòa bình, hợp tác, hữu nghị giữa các
dân tộc… có giá trị to lớn về mặt lý luận và đang trở thành hiện thực của nhiều vấn đề
quốc tế ngày nay.
b. Tìm ra các giải pháp đấu tranh giải phóng loài người:
Đóng góp lớn nhất của Hồ Chí Minh đối với thời đại là việc xác định con đường cách
mạng giải phóng các dân tộc thuộc địa thoát khỏi ách nô dịch của chủ nghĩa đế quốc. Các
dân tộc thuộc địa cần phải đoàn kết, liên minh với nhau trong cuộc đấu tranh chống kẻ
thù chung là chủ nghĩa đế quốc.
-Bên cạnh đó, Hồ Chí Minh còn nhận thức đúng sự biến chuyển của thời đại, đặc điểm
của thời đại, đặt cách mạng giải phóng các dân tộc thuộc địa vào phạm trù cách mạng vô
sản: xác định giai cấp lãnh đạo, phương pháp cách mạng và hướng phát triển của phong
trào giải phóng dân tộc. Người khẳng định: “Trong thời đại đế quốc chủ nghĩa ở một
nước thuộc địa nhỏ, với sự lãnh đạo của giai cấp vô sản và Đảng của nó, dựa vào quần
chúng nhân dân rộng rãi, trước hết là nông dân và đoàn kết được mọi tầng lớp nhân dân
yêu nước trong Mặt trân thống nhất, với sự đồng tình và ủng hộ của phong trào cách
lOMoARcPSD|40651217
mạng thế giới, trước hết là của phe xã hội chủ nghĩa hùng mạnh, nhân dân nước đó nhất
định thắng lợi”.
c. Cổ vũ các dân tộc đấu tranh vì những mục tiêu cao cả:
Tư tưởng Hồ Chí Minh là ngọn cờ lý luận soi đường cho cách mạng Việt Nam đi từ
thắng lợi này đến thắng lợi khác, xóa bỏ được mọi hình thức áp bức, bóc lột, xây dựng
chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước.
-Trong lòng nhân dân thế giới, Chủ tịch Hồ Chí Minh là bất diệt. Tư tưởng Hồ Chí Minh
là nguồn cổ vũ đối với tất cả các dân tộc thuộc địa châu Á, châu Phi đứng dậy đấu tranh
giải phóng khỏi ách áp bức bóc lột của đế quốc phong kiến, đấu tranh cho độc lập tự do.
Tư tưởng Hồ Chí Minh đã chỉ đường cho các dân tộc đi tới thực hiện ước mơ cao đẹp của
con người.
VII.QUAN ĐIỂM CỦA HCM VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA VẤN ĐỀ DÂN TỘC VÀ
VẤN ĐỀ GIAI CẤP
* Vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp có mối quan hệ chặt chẽ với nhau.
Hồ Chí Minh rất coi trọng vấn đề dân tộc, đề cao sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước,
nhưng Người luôn đứng trên quan điểm giai cấp để nhận thức và giải quyết vấn đề dân
tộc. Sự kết hợp vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc của Hồ Chí Minh thể hiện:
- Khẳn định vai trò lịch sử của giai cấp công nhân và quyền lãnh đạo duy nhất của
Đảng Cộng sản trong quá trình cách mạng Việt Nam;
- Chủ trương đại đoàn kết dân tộc rộng rãi trên nền tảng liên minh công nhân, nông
dân và tầng lớp trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng;
- Sử dụng bạo lực cách mạng của quần chúng để chống lại bạo lực phản cách mạng
của kẻ thù;
- Thiết lập chính quyền nhà nước của dân, do dân và vì dân;
lOMoARcPSD|40651217
- Gắn kết mục tiêu độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội.
* Giải phóng dân tộc là vấn đề trên hết, trước hết; độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội
- Khác với con đường cứu nước của ông cha, gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa phong
kiến hoặc tư bản, con đường cứu nước của Hồ Chí Minh là độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội. Vì theo Người, chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải
phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh vừa phản ánh quy luật khách quan của sự nghiệp giải phóng dân
tộc trong thời đại chủ nghĩa đế quốc, vừa phản ánh mối quan hệ khăng khít giữa mục tiêu
giải phóng dân tộc với mục tiêu giải phóng giai cấp và giải phóng con người.
* Giải phóng dân tộc tạo tiền đề để giải phóng giai cấp
Hồ Chí Minh giải quyết vấn đề dân tộc theo quan điểm giai cấp, nhưng đồng thời đặt vấn
đề giai cấp trong vấn đề dân tộc. Giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị của chủ nghĩa
thực dân là điều kiện để giải phóng giai cấp. Vì thế, lợi ích của giai cấp phải phục tùng
lợi ích dân tộc.
* Giữ vững độc lập dân tộc cho dân tộc mình, đồng thời tôn trọng độc lập của dân
tộc khác
Nêu cao tinh thần độc lập tự chủ, thực hiện nguyên tắc về quyền dân tộc tự quyết, nhưng
Hồ Chí Minh không quên nghĩa vụ quốc tế trong việc ủng hộ các cuộc đấu tranh giải
phóng dân tộc trên thế giới. Người đề ra khẩu hiệu “Giúp bạn là giúp mình” và chủ
trương phải bằng thắng lợi của cách mạng mỗi nước mà đóng góp vào thắng lợi chung
của cách mạng thế giới.
VIII.QUAN ĐIỂM CỦA HCM VỀ MỤC TIÊU VÀ ĐỘNG LỰC CỦA CNXH Ở VN
* Mục tiêu
lOMoARcPSD|40651217
-Mục tiêu chung:
Ở Hồ Chí Minh, mục tiêu chung của CNXH và mục tiêu phấn đấu của Người là một, đó
là độc lập tự do cho dân tộc, hạnh phúc cho nhân dân; đó là làm sao cho nước ta được
hoàn toàn độc lập, nhân dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo
mặc, ai cũng được học hành.
- Mục tiêu cụ thể:
+ Về chính trị: phải là do nhân dân lao động làm chủ, Nhà nước là của dâ, do dân, và vì
dân.
+ Về kinh tế: Đó là nền kinh tế XHCN với công – nông nghiệp hiện đại, khoa học k
thuật tiên tiến, cách bóc lột theo chủ nghĩa tư bản được bỏ dần, đời sống vật chất của
nhân dân ngày càng được cải thiện.
+ Về văn hóa – xã hội: Theo Người, văn hóa là một mục tiêu cơ bản của cách mạng
XHCN. Văn hóa thể hiện trong mọi sinh hoạt của nhân dân, đó là xóa nạn mù chữ, xây
dựng, phát triển giáo dục, nâng cao dân trí, xây dựng, phát triển văn hóa nghệ thuật, thực
hiện nếp sống mới…
+ Về bản chất của nền văn hóa XHCN Việt Nam, Người khẳng định: “Phải XHCN về nội
dung”. Để một nền văn hóa như thế, ta phải phát huy vốn quý u của dân tộc, đồng
thời học tập văn hóa tiên tiến của thế giới. Phương châm y dựng nền văn hóa mới là: dân
tộc, khoa học, đại chúng.
* Động lực
-Để đạt được những mục tiêu trên, theo Hồ Chí Minh cần phải có những động lực, nhất là
động lực bên trong. Những động lực đó là: vật chất và tinh thần; nội sinh và ngoại sinh.
(động lực thúc đẩy và cản trở)
lOMoARcPSD|40651217
-Người khẳng định: động lực quan trọng và quyết định nhất là con người, là nhân dân lao
động, nòng cốt là công nông trí thức. Người nhận thấy được ở động lực này có sự kết
hợp giữa cá nhân với xã hội.
-Hồ Chí Minh rất coi trọng động lực kinh tế, phát triển kinh tế, sản xuất, kinh doanh, giải
phóng mọi năng lực sản xuất, làm cho mọi người, mọi nhà trở nên giàu có, ích quốc, lợi
dân gắn kinh tế với kỹ thuật, kinh tế với xã hội.
-Văn hóa, khoa học, giáo dục là một động lực tinh thần không thể thiếu của CNXH.
-Hồ Chí Minh nhận thấy sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng có ý nghĩa quyết định đối với sự
phát triển của chủ nghĩa xã hội. Đây là hạt nhân trong hệ động lực của chủ nghĩa xã hội.
-Theo Hồ Chí Minh, phải biết kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại, tăng
cường đoàn kết quốc tế, chủ nghĩa yêu nước phải gắn liền với chủ nghĩa quốc tế của giai
cấp công nhân, phải sử dụng tốt những thành quả KH KT thế giới.
-Bên cạnh chỉ ra những nguồn động lực, Hồ Chí Minh còn cảnh báo, ngăn ngừa các yếu
tố kìm hãm, triệt tiêu nguồn lực vốn có của CNXH, làm cho CNXH trở nên trì trệ, xơ
cứng, không có sức hấp dẫn, đó là tham ô, lãng phí, quan liêu…
-Giữa nội lực và ngoại lực, Hồ Chí Minh xác định rất rõ nội lực là quyết định nhất, ngoại
lực là rất quan trọng.
IX. VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HCM VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC TRONG
THỜI ĐẠI HIỆN NAY
1. Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc:
để thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đòi
hỏiđảng, nhà nước phảiy dựng và phát huy cao độ sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc,
kết hợp sứcmạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.Trong thời gian qua, nhìn chung, khối đại
đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấpcông nhân với giai cấp nông dân và
đội ngũ trí thức được mở rộng hơn, là nhân tố quan trọng thúcđẩy sự phát triển kinh tế,
lOMoARcPSD|40651217
hội, giữ vững ổn định chính trị xã hội của đất nước. Tuy nhiên, trongkhi sự nghiệp đổi
mới đang có yêu cầu cao về tập hợp sức mạnh của nhân dân thì việc tập hợpnhân dân vào
mặt trận và các đoàn thể, các tổ chức xã hội còn nhiều hạn chế, nhất là ở khu vựckinh tế
tư nhân, khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, ở một số vùng có đông đồng
bào theo đạo, đồng bào dân tộc thiểu số...
trong công cuộc đổi mới, mặt trận tổ quốc việt nam với tính chất là một tổ chức liên minh
chính trị, liênhiệp tự nguyện rộng lớn nhất của nhân dân ta, nơi thể hiện ý chí và nguyện
vọng của mọi tầng lớp nhândân, nơi hiệp thương và thống nhất hành động của các thành
viên, đã phối hợp với chính quyền giảiquyết ngày càng có hiệu quả những vấn đề bức xúc
của nhân dân, thực hiện dân chủ, đổi mới xã hội,chăm lo lợi ích chính đáng của các tầng
lớp nhân dân; tham gia ngày càng thiết thực vào việc xây dựng,giám sát, bảo vệ đảng và
chính quyền.Với tư cách là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, mặt trận tổ quốc
việt nam đã phối hợp ngàycàng nhiều hơn với chính quyền các cấp từ trung ương đến địa
phương trong việc thực hiện các nhiệmvụ kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng và đối
ngoại nhằm cùng nhau nỗ lực xây dựng và bảo vệ tổquốc.
trước yêu cầu của nhiệm vụ mới, mặt trận tổ quốc việt nam phải chủ động góp phần cùng
đảngvà nhà nước xây dựng và hoàn thiện một số chính sách chung để sức mạnh đại đoàn
kết toàn dântộc trở thành động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định, bảo đảm
thắng lợi bền vữngcủa sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc.kế thừa và phát huy truyền
thống vẻ vang, mặt trận tổ quốc việt nam chủ trương “đoàn kếtrộng rãi, đoàn kết chân
thành mọi thành viên trong xã hội có thể đoàn kết được, không phân biệtquá khứ, thành
phần giai cấp, dân tộc, tôn giáo, ở trong nước hay ở nước ngoài trên cơ sở mụctiêu chung
là giữ vững độc lập thống nhất chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia vì mục tiêu“dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”; đoàn kết giữa nhân dân với
nhândân các nước trên thế giới; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc để trở thành
động lực chủyếu để xây dựng và bảo vệ vững chắc tổ quốc”.trong những năm trước mắt,
mặt trận tập trung đẩy mạnh hơn nữa các cuộc vận động, các phong trào thi đua yêu
lOMoARcPSD|40651217
nước, nhất là cuộc vận động “toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoáở khu dân cư”
và cuộc vận động “ngày vì người nghèo”, phấn đấu xoá xong nhà dột nát cho
ngườinghèo, góp phần cùng đảng và nhà nước thực hiện mục tiêu đến năm 2010 đưa đất
nước ta ra khỏitình trạng nước kém phát triển.
2. Khơi dậy và phát huy tinh thần đại đoàn kết dân tộc:
trong thực tiễn, việc chuyển sức mạnh đoàn kết dân tộc trong thời kỳ giữ nước sang thời kỳdựng
nước không phải là việc dễ dàng, lịch sử đang đòi hỏi những nỗ lực lớn của đảng và nhànước ta trong
lĩnh vực này. Vận dụng tư tưởng hồ chí minh trong xu thế hiện nay là hội nhập kinhtế quốc tế, một
loạt vấn đề đặt ra mà chúng ta phải chú ý:- khơi dậy và phát huy cao độ sức manh nội lực, phải xuất
phát từ lợi ích dân tộc, từ phát huynội lực dân tộc mà mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, tranh thủ mọi
khả năng có thể tranh thủ đượcđể xây dựng, phát triển đất nước.- trong điều kiện xây dựng nền kinh
tế thị trường đinh hướng xã hội chủ nghĩa, để khơi dậy và phát huy tối đa nội lực, nâng cao ý chí tự
cường dân tộc, trong chính sách đại đoàn kết, phải chú ý phát huy tính năng động của mỗi người, mỗi
bộ phận để mọi việc từ lãnh đạo, quản lý, đến sảnxuất kinh doanh, học tập và lao động đều có năng
suất, chất lượng, hiệu quả ngày càng cao. Đồngthời, phải khắc phục được những tiêu cực của kinh tế
thị trường, đặc biệt tâm lý chạy theo đồngtiền, cạnh tranh không lành mạnh làm phai nhạt truyền
thống đoàn kết, tình nghĩa tương thântương ái của dân tộc, giải quyết đói nghèo, thu hẹp khoảng
cách, ranh giới giữa kinh và thượng,giữa nông thôn và thành thị, cũng cố khối đại đoàn kết 54 dân tộc
anh em, chăm lo đời sống đồng bào dân tộc ít người, đặc biệt là vùng sâu, vùng xa, tôn trọng tín
ngưỡng tôn giáo, các tập quán tốtđẹp của dân tộc, kiên quyết loại bỏ những âm mưu lợi dụng tôn
giáo, tà giáo để gây rối.- phải xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Phải chống các tệ
nạn xã hội, nhất làtệ nạn tham nhũng, quan liêu, vi phạm quyền làm chủ của nhân dân, phải biết lắng
nghe những ýnguyện chính đáng của nhân dân, phải kịp thời giải quyết những oan ức của nhân dân,
làm cholòng dân được yên. Phải tiếp tục đổi mới chính sách giai cấp, chính sách xã hội, đặc biệt coi
trọngviệc xây dựng mặt trận, đổi mới, hoàn thiện chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo, chính
sáchđối với công nhân, với nông dân, với trí thức, chính sách đối với cộng đồng người việt nam ở
nước ngoài, chính sách đối với các thành phần kinh tế, tập hợp đến mức rộng rãi nhất mọi nhântài,
vật lực vào sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước.- trong điều kiện thực hiện
lOMoARcPSD|40651217
chính sách mở cửa, hội nhập quốc tế, đa phương hóa, đa dạng hóaquan hệ đối ngoại trong xu thế khu
vực hóa, toàn cầu hóa kinh tế ngày càng phát triển, đòi hỏi phải củng cố sự đoàn kết với phong trào
cách mạng các nước, đồng thời phải nắm vững phươngchâm ngoại giao mềm dẻo, có nguyên tắc
nhằm thực hiện thắng lợi chính sách đối ngoại hiện naycủa đảng và nhà nước ta là: việt nam muốn là
bạn và đói tác tin cậy với tất cả các nước trong cộngđồng quốc tế, vì hòa bình, hợp tác và phát
triển.trong tình hình thế giới hiện nay, đòi hỏi chúng ta phải có những chủ trương đúng đắn, sángtạo
trong việc nắm bắt cơ hội, vượt qua thử thách, đẩy lùi nguy cơ, để vừa nâng cao hiệu quả hợptác
quốc tế, vừa giữ vững bản sắc dân tộc, giữ vững đinh hướng xã hội chủ nghĩa.ngoài ra, đảng và nhà
nước ta phải chủ trương phát huy mạnh mẽ sức mạnh dân tộc - sứcmạnh của chủ nghĩa yêu nước, sức
mạnh của người làm chủ, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, trêncơ sở sức mạnh bên trong mà tranh thủ
và vận dụng sự đồng tình, ủng hộ rộng rãi của lực lượng bên ngoài.
Đề tài thuyết trình: Hồ Chí Minh nói: “ Văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi”. Làm sáng tỏ
luận điểm và liên hệ với vấn đề xây dựng văn hóa mới trong giai đoạn hiện nay?
Bài thuyết trình của chúng em gồm 3 phần
1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về văn hóa
2. Hiện trạng nền văn hóa việt nam
3.Giải pháp xây dựng nền văn hóa Việt Nam hiện đại
I. Quan điểm của Hồ Chí Minh về văn hóa.
Trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh, tư tưởng về văn hóa chiếm một vị trí quan trọng. Nó là sự
chắt lọc, tổng hợp và kết tinh những giá trị văn hóa của Việt Nam với văn hóa phương Đông và
Phương Tây, là sự kết hợp của truyền thống và hiện đại, của dân tộc và quốc tế mà cốt lõi là sự kết
hợp chủ nghĩa Mác Lênin với tinh hoa, bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam. Theo Hồ Chí Minh thì
văn hóa có vai trò to lớn trong đời sống của mỗi quốc gia dân tộc.
Hồ Chí Minh nêu lên khái niệm văn hoá như sau: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc
sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn
giáo, văn học nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức
sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hoá. Văn hoá là sự tổng hợp của mọi
lOMoARcPSD|40651217
phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những
nhu cầu đời sống và đòi hỏi sự sinh tồn”.
Văn hóa được xây dựng và bồi đắp nên trong suốt chiều dài lịch sử, nó làm nên nền tảng tinh thần
của một xã hội, giữ vai trò quan trọng vừa là mục tiêu, vừa là động lực để phát triển KT-XH. Phải giữ
gìn và phát huy những truyền thống, bản sắc văn hóa dân tộc. Đó là những giá trị bền vững, những
tinh hoa của cộng đồng dân tộc VN được hun đúc lên qua hàng nghìn năm lịch sử. Đó là lòng yêu
nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng, dũng cảm trong chiến
đấu…Bên cạnh việc giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc phải biết tiếp thu tinh hoa văn hóa thế giới,
biến gạn đục khơi trong, nâng cao trình độ văn hóa của nhân dân, biết chọn lọc và sáng tạo cho phù
hợp với hoàn cảnh và đặc tính của dân tộc mình.
Văn hóa cũng phải thắm nhuần sâu sắc quan điểm: Vì dân phục vụ và phát huy sức mạnh của toàn
dân làm văn hóa. Làm cho văn hóa thắm sâu vào đời sống và hoạt động xã hội vào mọi lĩnh vực sinh
hoạt và quan hệ con người là yêu cầu rất cao, là nhiệm vụ khó khăn và lâu dài. Chỉ khi nào được mọi
tầng lớp nhân dân, mọi tổ chức chính trị xã hội, các đoàn thể tôn giáo, nhà trường và gia đình… tham
gia tích cực, thường xuyên và liên tục thì văn hóa mới có thể thực hiện được những nhiệm vụ đã đề
ra.
Tư tưởng HCM về văn hóa đã và đang là định hướng lớn cho việc xây dựng và phát triền nền văn
hóa nước ta. mãi ánh sáng soi đường cho công cuộc y dựng phát triển nần văn hóa nước
nhà!
Hồ Chí Minh đưa ra một quan điểm tổng quát nhất về vai trò của văn hoá là: “Văn hoá soi
đường cho quốc dân đi”. Để làm rõ luận điểm “văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi”, Hồ
Chí Minh đã thấy rõ ý nghĩa, vị trí, vai trò của văn hóa đối với sự phát triển xã hội. Tiếp cận
theo nghĩa rộng, Người phác họa các nét cơ bản của "văn hóa soi đường" vừa phải được biểu
hiện, vừa phải là kết quả tổng hòa của các yếu tố:
1. y dựng tâm lý: Tinh thần độc lập, tự cường.
2. y dựng luân lý: Biết hy sinh mình, làm lợi cho quần chúng.
3. y dựng xã hội: Mọi sự nghiệp có liên quan đến phúc lợi nhân dân trong xã hội.
4. y dựng chính trị: Dân quyền.
5. y dựng kinh tế".
lOMoARcPSD|40651217
HCM nó rằng “văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi” chính là muốn nói văn háo đã làm
cho lý trí con người thêm sáng suốt và tình cảm con người ngày càng trở nên tươi đẹp hơn.
Văn hoá đi đến mục tiêu giải phóng con người, giải phóng con người khỏi mọi sự áp bức, bất
công, mọi sự đè nén, ức chế của tự nhiên, xã hội, đi đến đất nước của tự do - điều đó tạo ra sự thôi
thúc mãnh liệt cho mọi người hợp lực lại, đoàn kết lại để đạt được mục tiêu đó. Sự nghiệp xây dựng
xã hội mới ở nước ta cũng chính là sự nghiệp của văn hoá. Chính vì vậy, văn hoá có vai trò, chức
năng dẫn đường cho cách mạng Việt Nam.
Trước hết, văn hoá định hướng đi cho cả một dân tộc. Bản thân Hồ Chí Minh đã khởi đầu xây
dựng một nền văn hoá mới cho dân tộc theo hướng dân tộc, khoa học và đại chúng. Việc chọn hướng
đi cho cả một dân tộc là một công việc rất hệ trọng. Hồ Chí Minh đã chọn con đường độc lập dân tộc
gắn liền với CNXH. Đó cũng là sự lựa chọn của văn hoá. Sự định hướng đúng đắn ấy đã có tác dụng
huy động toàn bộ sức mạnh của dân tộc – cả quá khứ và hiện tại – kết hợp với sức mạnh của thời đại,
vào việc phát triển theo con đường đó.
Hai là, trong sự phát triển của dân tộc, văn hoá điều chỉnh sự hoạch định cương lĩnh, đường lối,
chính sách của hệ thống chính trị. Tính đúng đắn của cương lĩnh, đường lối, chính sách, chủ trương
của hệ thống chính trị thường là tỷ lệ thuận với trình độ văn hoá của dân tộc. Đồng thời, hành vi văn
hoá của tổ chức chính trị, của con người cũng phản ánh trình độ văn hoá chính trị của tổ chức, hoặc
con người đó.
Ba là, văn hoá chính là thước đo của sự phát triển xã hội. Một chỉ số phát triển chung của một dân
tộc phải được coi là chỉ số phát triển của văn hoá. Do vậy, không thể lấy chỉ số phát triển của một
lĩnh vực đơn lẻ để đo sự phát triển chung của một dân tộc, tuy rằng chỉ số ấy rất quan trọng.
Văn hóa khẳng định cốt cách của dân tộc, của cộng đồng dân cư. Mỗi một dân tộc, quốc gia, mỗi
một cộng đồng dân cư… trong quá trình hình thành và phát triển đều hình thành nên một cốt cách,
hay bản sắc văn hóa riên biệt. Không có dân tộc, quốc gia nào mà lại không có một nền văn hóa sở
thuộc và ngược lại, không có văn hóa nằm ngoài dân tộc, quốc gia. Nếu đánh mất đi cái cốt cách, bản
sắc văn hóa thì coi như đánh mất đi chính mình và cộng đồng dân cư, dân tộc, quốc gia sẽ bị đồng
hóa.
lOMoARcPSD|40651217
Các cộng đồng dân cư, các dân tộc, quốc gia luôn có sự giao lưu về văn hóa nhưng cái chính là
phải biết giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc của riêng mình “hòa nhập chứ đừng để hòa tan”, điều đó
chứng tỏ được sức sống và lòng tự hào dân tộc cảu mỗi quốc gia, dân tộc.
Đồng thời, quá trình đó còn qtrình tiếp nhận những yếu tố ngoại lai, nhào nặn, chắt lọc để
làm giàu văn hóa cho mình nhưng cái gốc vẫn là những yếu tố văn hóa bản địa. Do vậy, văn hóa của
mỗi quốc gia, dân tộc là yếu tố nội sinh có vai trò cực k quan trọng để bảo tồn và phát triển dan tộc
mình.
Đó là việc phải chủ động gaio lưu, không nên đóng cửa, không bài ngoại mà hội nhập. Đó là việc
phải tiếp thu những cái tốt, không được lai căng. HCM cho rằng: “phải mở rộng tri thức của mình về
văn hóa thế giới; đống thời phải tránh phải tránh nguy cơ chúng ta trở thành những kẻ bắt chước. VH
của các dên tộc khác cần phải được nghiên cứu một cách toàn diện, chỉ có như thế mới có thể thu lại
được nhiều hơn cho văn hóa của chình mình”.
Bản sắc VH của mỗi dân tộc không bao giờ là bất biến, nó là yếu tố động. Nó “động” nhưng
vẵn giữ được cốt cách của một dân tộc, một cộng đồng. Mỗi dân tộc đều phải có một trách
nhiệm chăm lo đến việc giữ gìn và phát huy bản sắc VH dân tộc của mình và không để chịu
một sức ép nô dịch về văn hóa. Đồng thời VH cũng có tính đặc thù riêng cho từng dân tộc,dân
tộc này không thể đem những giá trị VH của dân tộc mình áp đặt lên dân tộc khác.
Như vậy, chính bản sắc dân tộc là yếu tố đảm bảo cho các quyền dân tộc cơ bản của mỗi
quốc gia: độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ.
II. Liên hệ thực trạng nền VH nước ta trong giai đoạn hiện nay.
1. Thành tựu
Trong điều kiện hiện nay đất nước ta đang đi lên XHCN, văn háo VN cũng đã đạt được
nhiều thành tựu đáng kể. Trước tiên phải xét đến lĩnh vực tư tưởng lối sống và đạo đức – trong
lính vực này, chúng ta đi theo con đường CN Mác-Lênin và tư tưởng HCM. Đây chính là con
đường đúng đắn mà từ đây vận dụng và sáng tạo cho nền văn hóa dân tộc. Có thể coi đây là
kim chỉ nam cho hành động của Đảng và Cách Mạng nước ta phát triển đúng hướng. Nhờ đó
mà ý thức rèn luyện phấn đấu cho lý tưởng của Đảng được nâng cao lên. Sự nghiệp giáo dục,
KH-KT, văn học nghệ thuật thu được rất nhiều thành quả. Trình độ dân chúng nâng cao, học
vấn của thế hệ trẻ mở rộng các hoạt động sáng tạo có bước phát triển mới. Nhiều bộ môn nghệ
lOMoARcPSD|40651217
thuật truyền thống được giữ gìn như: hội họa, sươn mài, tuồng, cải lương,.... Quan hệ hợp tác
quốc tế được chú trọng, thông tin đại chúng phát triển nhanh cả về số lấn chất lượng. Điềuy
dần khẳng định vị thế của VN trên trường quốc tế, nền văn hóa trong nước ngày càng có điều
kiện tiếp thu tinh hoa văn hóa thế giới. Đồng thời cũng có thể giới thiệu với bạn bè quốc tế v
nền VH đậm chất VN.
Sau 15 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII đã đạt được những thành tựu
đáng kể: Vai trò của văn hóa truyền thống được đề cao, thiết chế văn hóa được củng cố, tăng
cường về số lượng, từng bước nâng cao chất lượng; vai trò của văn hóa trong phát triển kinh tế
ngày càng được chú trọng; xã hội hóa hoạt động văn hóa được đẩy mạnh nhất là trong công
tác bảo tồn di sản văn hóa, hoạt động sân khấu, văn nghệ quần chúng, giao lưu văn hóa quốc
tế, mở rộng hợp tác đào tạo nguồn nhân lực; xây dựng đời sống văn hóa cơ sở. Phong trào
“Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” có tác động to lớn đối với việc xóa đói giảm
nghèo, tương thân tương ái, góp phần ổn định chính trị, giữ gìn, bảo vệ trật tự, an toàn xã hội,
xây dựng nếp sống văn hóa, môi trường văn hóa lành mạnh ở cơ sở. Việc ban hành luật pháp,
chính sách về văn hóa được quan tâm và có tác động tích cực tới đời sống văn hóa- xã hội,
tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước trên lĩnh vực văn hóa.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, đánh giá: Hoạt động văn hoá, văn nghệ, thông tin, thể
dục, thể thao ngày càng được mở rộng, từng bước đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hoá ngày
càng cao của nhân dân. Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá” từng bước
đi vào chiều sâu.
Nguyên nhân của thành tựu: Là sự kết hợp giữa vai trò lãnh đạo chỉ đạo của Đảng sự
quản lý Nhà nước và sự tham gia chấp hành của nhân dân. Nhờ những chính sách sáng suốt
của Đảng và Nhà nước nên nền kinh tế đã vượt qua được những cơn hoạn nạn.
2. Hạn chế
So với yêu cầu của thời kỳ đổi mới, trước những biến đổi ngày càng phong phú trong đời
sống xã hội những năm gần đây, những thành tựu và tiến bộ đạt được trong lĩnh vực văn hóa
còn chưa tương xứng và chưa vững chắc, chưa đủ để tác động có hiệu quả đối với các lĩnh vực
của đời sống xã hội, đặc biệt là lĩnh vực tư tưởng, đạo đức, lối sống. Sự suy thoái về phẩm
lOMoARcPSD|40651217
chất, đạo đức, lối sống tiếp tục diễn biến phức tạp, có một số mặt nghiêm trọng hơn, tổn hại
không nhỏ đến uy tín của Đảng và Nhà nước, niềm tin của nhân dân.
Sự phát triển của văn hóa chưa đồng bộ và tương xứng với tăng trưởng kinh tế, thiếu gắn
bó với nhiệm vụ xây dựng và chỉnh đốn Đảng là một trong những nguyên nhân ảnh hưởng đến
quá trình phát triển kinh tế và nhiệm vụ xây dựng Đảng. Nhiệm vụ xây dựng con người Việt
Nam trong thời k công nghiệp hóa, hiện đại hóa chưa tạo được chuyển biến rõ rệt. Môi
trường văn hóa còn bị ô nhiễm bởi các tệ nạn xã hội, sự lan tràn của các sản phẩm và dịch v
văn hóa mê tín dị đoan, độc hại, thấp kém, lai căng... Sản phẩm văn hóa và các dịch vụ văn
hóa ngày càng phong phú nhưng vẫn rất thiếu những tác phẩm văn học, nghệ thuật có giá trị
cao về tư tưởng và nghệ thuật, có ảnh hưởng tích cực và sâu sắc trong đời sống. Có biểu hiện
lúng túng, hữu khuynh trong cuộc đấu tranh giữa các khuynh hướng tư tưởng trong lý luận -
phê bình và sáng tác, trước những tác động ngày càng phức tạp của quá trình hội nhập kinh tế
và giao lưu văn hóa. Xu hướng "thương mại hóa", chạy theo thị hiếu thấp kém trong một bộ
phận báo chí, xuất bản, hoạt động văn hóa nghệ thuật chưa được ngăn chặn có hiệu quả, đã
làm giảm sút, hạ thấp các chức năng nhận thức, giáo dục, thẩm mỹ của văn hóa.
Việc xây dựng thể chế văn hóa, các văn bản quy phạm pháp luật, các chính sách trên lĩnh
vực văn hóa, đặc biệt là chính sách về quan hệ giữa kinh tế và văn hóa còn chậm, chưa đổi
mới, thiếu đồng bộ, làm hạn chế tác dụng của văn hóa đối với các lĩnh vực quan trọng của đời
sống đất nước.
Tình trạng nghèo nàn, thiếu thốn, lạc hậu về đời sống văn hóa - tinh thần ở nhiều vùng
nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào các dân tộc thiểu số và vùng căn cứ
cách mạng trước đây vẫn chưa được khắc phục có hiệu quả. Khoảng cách chênh lệch về hưởng
thụ văn hóa giữa các vùng miền, khu vực, tầng lớp xã hội tiếp tục mở rộng.
Về lĩnh vực giao lưu thông tin với nước ngoài gia tăng quá nhanh khiến cho việc kiểm soát
hết sức khó khăn . Nhiều thông tin mang nội dung tiêu cực có kích động đã xâm nhập làm bại
văn hóa nước ta . Trong công tác thể chế văn hóa còn chậm và thiếu nghiêm minh Việc khen
thưởng và k luật tiến hành rất chậm.
Nguyên nhân của những yếu kém trên:
lOMoARcPSD|40651217
Những khuyết điểm, yếu kém nói trên do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ
quan :
Khách quan : Do các thế lực thù địch ráo riết chống phá trên mọi lĩnh vực . Do nước
ta còn nghèo nhu cầu về văn hóa lơn nhưng chưa đáp ứng đủ thiếu thốn vật chất Song
cần nhấn mạnh các nguyên nhân chủ quan:
+ Nhận thức trong Đảng từ Trung ương đến cấp y các cấp về vai trò đặc biệt quan
trọng của văn hóa chưa thật đầy đủ, các quan điểm chỉ đạo, phương hướng phát triển
các nhiệm vụ của văn hóa được xác định trong Nghị quyết chưa được quán triệt thực
hiện nghiêm túc, việc tổ chức thực hiện còn thiếu tập trung, chưa đồng bộ, không kiên
quyết.
+ Nhiệm vụ xây dựng văn hóa trong Đảng, trong bộ máy nhà nước chưa được triển
khai tích cực, có nơi còn bị xem nhẹ; không ít cán bộ, đảng viên chưa nêu được tấm gương
văn hóa cho quần chúng.
+ Trong tổ chức thực hiện, năng lực tầm lãnh đạo văn hóa của các cấp y, chính
quyền, Mặt trận Tổ quốc, đoàn thể còn nhiều hạn chế. Chậm thể chế hóa các quan điểm,
chủ trương lớn, bị động trước những khuynh hướng mới xuất hiện và một số biến đổi phức
tạp trên lĩnh vực văn hóa. Chưa có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng i năng, nâng cao ng
lực của những người hoạt động, sáng tạo văn hóa; coi nhẹ cuộc đấu tranh trên lĩnh vực
luận, phê bình văn học - nghệ thuật; chưa y dựng được chế, chính sách giải pháp
phù hợp để phát triển văn hóa trong cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
+ Trong một bộ phận đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ, những người hoạt động trên lĩnh
vực văn hóa, thông tin, báo chí và xuất bảnnhững biểu hiện xa rời đời sống, lúng túng
trong định hướng sáng tạo và hoạt động nghiệp vụ, chạy theo chủ nghĩa thực dụng, chiều
theo thị hiếu thấp kém đã tạo ra một số sản phẩm văn hóa chất lượng thấp, thậm chí sai
trái.
3. Giải pháp:
- Củng cố và tiếp tục xây dựng môi trường văn hoá lành mạnh, phong phú, đa dạng
lOMoARcPSD|40651217
Đưa phong trào “Toàn dân đoàn kết y dựng đời sống văn hoá” đi vào chiều sâu, thiết
thực, hiệu quả; y dựng nếp sống văn hoá trong các gia đình, khu dân cư, quan, đơn
vị, doanh nghiệp, làm cho các giá trị văn hoá thấm sâu o mọi mặt đời sống, được th
hiện cụ thể trong sinh hoạt, công tác, quan hệ hằng ngày của cộng đồng từng con người,
tạo sức đề kháng đối với các sản phẩm độc hại. Tiếp tục đẩy mạnh việc giáo dục, bồi dưỡng
đạo đức, lối sống văn hóa; xây dựng nếp sống văn minh trong việc cưới, tang, lễ hội;
ngăn chặn đẩy lùi các hủ tục, bạo lực, gây rối trật tự công cộng, mại dâm, ma tuý, cờ
bạc... Sớm chiến lược quốc gia về y dựng gia đình Việt Nam, góp phần giữ gìn
phát triển những giá trị truyền thống của văn hoá, con người Việt Nam, nuôi dưỡng, giáo
dục thế hệ trẻ. Đúc kết và xây dựng hệ giá trị chung của người Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế.
Tăng cường hiệu quả hoạt động của hệ thống thiết chế văn hoá ở các cấp, đồng thời có
kế hoạch cải tạo, nâng cấp và đầu tư xây dựng mới một số công trình văn hoá, nghệ thuật,
thể dục, thể thao hiện đại ở các trung tâm kinh tế - chính trị - văn hoá của đất nước. Xã hội
hoá các hoạt động văn hoá, chú trọng nâng cao đời sống văn hnông thôn, vùng khó
khăn, thu hẹp dần khoảng cách hưởng thụ n hoá giữa các vùng, các nhóm hội, giữa
đô thị và nông thôn.
- Phát triển sự nghiệp văn học, nghệ thuật; bảo tồn, phát huy giá trị các di sản văn
hoá truyền thống, cách mạng
Tiếp tục phát triển nền văn học, nghệ thuật Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc,
giàu chất nhân văn, dân chủ, vươn lên hiện đại, phản ánh chân thật, sâu sắc đời sống, lịch
sử dân tộc và công cuộc đổi mới đất nước; cổ vũ, khẳng định cái đúng, cái đẹp, đồng thời
lên án cái xấu, cái ác. Khuyến khích tìm tòi, thể nghiệm những phương thức thể hiện
phong cách nghệ thuật mới, đáp ứng nhu cầu tinh thần lành mạnh, đa dạng bồi dưỡng
lý tưởng, thị hiếu thẩm mỹ cho công chúng, đặc biệt là thế hệ trẻ. Bảo vệ sự trong sáng của
tiếng Việt. Khắc phục yếu kém, nâng cao tính khoa học, sức thuyết phục của hoạt động lý
luận, phê bình văn học, nghệ thuật, góp phần hướng dẫn sự phát triển của sáng tạo văn học,
nghệ thuật, từng bước xây dựng hệ thống luận văn nghệ Việt Nam. Hoàn thiện
lOMoARcPSD|40651217
thực hiện nghiêm túc các quy định của pháp luật về sở hữu trí tuệ, về bảo tồn, phát huy giá
trị các di sản văn hoá vật thể phi vật thể của dân tộc. Gắn kết chặt chẽ nhiệm vphát
triển văn hoá, văn nghệ, bảo tồn, phát huy giá trị các di sản văn hvới phát triển du lịch
hoạt động thông tin đối ngoại nhằm truyền sâu rộng các giá trị văn hoá trong công
chúng, đặc biệt thế hệ trẻ người nước ngoài. Xây dựng thực hiện các chính sách
bảo tồn, phát huy giá trị văn hoá, ngôn ngữ, chữ viết các dân tộc thiểu số. y dựng
thực hiện các chính sách, chế độ đào tạo, bồi dưỡng, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần,
tạo điều kiện để đội ngũ những người hoạt động văn hoá, văn học, nghệ thuật sáng tạo
nhiều tác phẩm có giá trị cao về tư tưởng và nghệ thuật.
- Phát triển hệ thống thông tin đại chúng
Chú trọng nâng cao tính tưởng, phát huy mạnh mẽ chức năng thông tin, giáo dục,
tổ chức phản biện hội của các phương tiện thông tin đại chúng lợi ích của nhân
dân và đất nước; khắc phục xu hướng thương mại hoá, xa rời tôn chỉ, mục đích trong hoạt
động báo chí, xuất bản. Tập trung đào tạo, bồi dưỡng, y dựng đội nhoạt động báo chí,
xuất bản vững vàng về chính trị, tưởng, nghiệp vụ ng lực đáp ng tốt yêu cầu
của thời k mới. Rà soát, sắp xếp hợp mạng lưới báo chí, xuất bản trong cả nước theo
hướng tăng cường hiệu quả hoạt động, đồng thời đổi mới hình, cấu tổ chức, sở
vật chất - kỹ thuật theo hướng hiện đại.
Phát triển mở rộng việc sử dụng internet, đồng thời biện pháp quản lý, hạn chế mặt
tiêu cực, ngăn chặn có hiệu quả các hoạt động lợi dụng internet để truyền bá tư tưởng phản
động, lối sống không lành mạnh.
- Mở rộng và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế về văn hoá
Đổi mới, tăng cường việc giới thiệu, truyền bá văn hoá, n học, nghệ thuật, đất nước,
con người Việt Nam với thế giới. Mở rộng, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động thông
tin đối ngoại, hợp tác quốc tế trong lĩnh vực văn hoá, báo chí, xuất bản. Xây dựng một số
trung tâm văn hoá Việt Nam ở nước ngoài và trung tâm dịch thuật, quảng bá văn hoá Việt
Nam ra nước ngoài.
Tiếp thu những kinh nghiệm tốt về phát triển văn hoá của các nước, giới thiệu các tác
phẩm văn học, nghệ thuật đặc sắc của nước ngoài với công chúng Việt Nam. Thực hiện
lOMoARcPSD|40651217
đầy đủ cam kết quốc tế về bảo đảm quyền sở hữu trí tuệ, quyền tác giả các sản phẩm văn
hoá. Xây dựng cơ chế, chế tài ngăn chặn, đẩy lùi, vô hiệu hoá sự xâm nhập tác hại của
các sản phẩm đồi trụy, phản động; bồi dưỡng nâng cao sức đề kháng của công chúng,
nhất là thế hệ trẻ.
| 1/38

Preview text:

lOMoARcPSD| 40651217 lOMoAR cPSD| 40651217
TƯ TƯỞNG HCM VỀ CNXH
1. Tính tất yếu của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Nhận thức về chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh đã trình bày một cách tổng quát. Chủ nghĩa xã hội là gì?
Người trả lời: chủ nghĩa xã hội là xã hội ngày càng tiến, vật chất ngày càng tăng và tinh
thần ngày càng tốt. Nói một cách cụ thể là: chủ nghĩa xã hội là phải làm cho mọi người
dân được ấm no, hạnh phúc và học hành tiến bộ.
Hồ Chí Minh đã tiếp thu, vận dụng sáng tạo lý luận Mác - Lênin về sự phát triển
tất yếu của xã hội loài người theo các hình thái kinh tế - xã hội. Quan điểm của Hồ Chí
Minh là: tiến lên chủ nghĩa xã hội là bước phát triển tất yếu ở Việt Nam sau khi nước nhà
đã giành được độc lập theo con đường cách mạng vô sản.
Mục tiêu giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản mà Hồ Chí Minh đã lựa
chọn cho dân tộc Việt Nam là nước nhà được độc lập, nhân dân được hưởng cuộc sống
ấm no, tự do, hạnh phúc, tức là sau khi giành độc lập dân tộc, nhân dân ta sẽ xây dựng xã
hội mới, xã hội xã hội chủ nghĩa. Ngay từ đầu những năm 20 của thế kỷ XX, khi đã tin
theo lý luận về chủ nghĩa cộng sản khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã
khẳng định rằng: “Chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại, đem lại cho mọi người
không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc sự tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no trên
quả đất, việc làm cho con người và vì con người, niềm vui, hòa bình, hạnh phúc, nói tóm
lại là nền cộng hòa thế giới chân chính, xóa bỏ những biên giới tư bản chủ nghĩa cho đến
nay chỉ là những vách tường dài ngăn cản những con người lao động trên thế giới hiểu
nhau và yêu thương nhau”.
2. Đặc trưng của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
a. Cách tiếp cận của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội
- Hồ Chí Minh tiếp thu lý luận về chủ nghĩa xã hội khoa học của lý luận Mác - Lênin,
trước hết là từ khát vọng giải phóng dân tộc Việt Nam.
- Hồ Chí Minh tiếp cận chủ nghĩa xã hội ở phương diện đạo đức, hướng tới giá trị nhân
đạo, nhân văn, giải quyết tốt quan hệ giữa cá nhân với xã hội theo quan điểm của Mác và
Ăngghen trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản. lOMoARcPSD| 40651217
- Hồ Chí Minh tiếp cận chủ nghĩa xã hội từ văn hóa. Văn hóa trong xã hội Việt Nam có
quan hệ biện chứng với chính trị, kinh tế.
b. Bản chất và đặc trưng tổng quát của chủ nghĩa xã hội
Theo các nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin về chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh có quan niệm như sau:
- Tổng quát: chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa xã hội bao gồm các mặt rất phong phú,
hoàn chỉnh, trong đó con người được phát triển toàn diện.
- Trên một số mặt nào đó: chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, nhưng không tuyệt đối hóa
từng mặt, hoặc tách riêng rẽ từng mặt mà cần đặt trong một tổng thể chung.
- Xác định mục tiêu: vì lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân, nhằm nâng cao đời sống vật
chất và văn hóa của nhân dân.
- Xác định động lực: động lực của toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam. Đó là sức mạnh toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại.
Từ đó, Hồ Chí Minh nhấn mạnh chủ yếu trên những điểm sau:
- Đó là một chế độ chính trị do nhân dân lao động làm chủ.
- Có nền kinh tế phát triển cao, gắn liền với sự phát triển của khoa học - kỹ thuật.
- Không còn người bóc lột người.
- Xã hội phát triển cao về văn hóa, đạo đức.
Các đặc trưng trên thể hiện một hệ thống giá trị vừa kế thừa các di sản của quá khứ, vừa
được sáng tạo mới trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa xã hội là hiện
thân đỉnh cao của tiến trình tiến hóa lịch sử của nhân loại.
3. Quan điểm Hồ Chí Minh về mục tiêu, động lực của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. a. Mục tiêu
- Mục tiêu chung: Độc lập tự do cho dân tộc, hạnh phúc cho nhân dân. - Mục tiêu cụ thể:
+ Chính trị: chế độ chính trị do nhân dân lao động làm chủ, Nhà nước của dân, do dân, vì
dân. Nhà nước có hai chức năng; dân chủ với nhân dân, chuyên chính với kẻ thù của nhân dân. lOMoARcPSD| 40651217
+ Kinh tế: xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa với công - nông nghiệp hiện đại, khoa
học - kỹ thuật tiên tiến, đời sống vật chất của nhân dân ngày càng được cải thiện.
Bên cạnh đó cần phát triển toàn diện các ngành như công nghiệp, nông nghiệp, thương
nghiệp, trong đó “Công nghiệp và nông nghiệp là hai chân của nền kinh tế nước nhà.
+ Văn hóa - xã hội: văn hóa là mục tiêu cơ bản của cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Phương châm xây dựng nền văn hóa mới là: dân tộc, khoa học, đại chúng. Vì thế, Hồ
Chí Minh đặt lên hàng đầu nhiệm vụ của cách mạng xã hội chủ nghĩa là đào tạo con người. b. Động lực
- Hồ Chí Minh xem xét động lực ở cả các phương diện: vật chất và tinh thần, nội sinh và
ngoại sinh. Động lực quan trọng và quyết định nhất là con người, là nhân dân lao động
mà nòng cốt là công - nông - trí thức.
- Hồ Chí Minh rất coi trọng động lực kinh tế, phát triển kinh tế, sản xuất kinh doanh, giải
phóng mọi năng lực sản xuất, làm cho mọi người, mọi nhà trở nên giàu có, ích quốc lợi
dân, gắn liền kinh tế với kỹ thuật, kinh tế với xã hội.
- Hồ Chí Minh cũng rất quan tâm tới văn hóa, khoa học, giáo dục, coi đó là động lực tinh thần không thể thiếu.
Hồ Chí Minh nhận thấy sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng có ý nghĩa quyết định đối với sự
phát triển của xã hội. Đây là hạt nhân trong hệ động lực xã hội.
Ngoài các động lực bên trong, cần phải kết hợp được với sức mạnh thời đại, tăng cường
đoàn kết quốc tế, chủ nghĩa yêu nước phải gắn liền với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân.
Cùng với việc chỉ ra các nguồn lực phát triển, Hồ Chí Minh còn lưu ý, cảnh báo và ngăn
ngừa các yếu tố kìm hãm, triệt tiêu nguồn lực vốn có của chủ nghĩa xã hội như: tham ô, lãng phí, quan liêu…
Giữa nội lực và ngoại lực, Hồ Chí Minh xác định, nội lực là quyết định, ngoại lực là rất quan trọng.
I. VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HCM VỀ CNXH
Đây là một hệ thống bao gồm các luận điểm về bản chất, mục tiêu và động lực của Chủ
nghĩa xã hội; về tính tất yếu của thời ký quá độ và các hình thức, bước đi trong thời kỳ
quá độ lên Chủ nghĩa xã hội ở nước ta. lOMoARcPSD| 40651217
Tất nhiên, trong điều kiện, hoàn cảnh của miền Bắc trong những năm 60 của thế kỷ XX
nên có nhiều điều Người chưa kịp tổng kết.
Ngày nay, xây dựng Chủ nghĩa xã hội trong bối cảnh quốc tế và trong nước có nhiều
thay đổi, nhưng những luận điểm của Người về vấn đề này vẫn là cơ sở lý luận và
phương pháp luận chỉ đạo để chúgn ta tiếp tục suy nghĩ, tìm tòi làm sống động tư tưởng của Người.
Khái quát về công cuộc đổi mới từ đại hội VI (1986) đến đại hội IX với những thành tựu
của nó để khẳng định đường lối do Đảng và Hồ Chí Minh vạch ra là đúng đắn.
Vấn đề thời cơ và nguy cơ. Để tận dụng thời cơ, vượt qua thử thách, tiếp tục đẩy mạnh
công cuộc đổi mới tiến lên cùng những thành tựu mới, Đảng ta đang kiên trì vận dụng tư
tưởng Hồ Chí Minh nhằm giải quyết tốt các vấn đề dưới đây:
1. Trong quá trình đổi mới, phải kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và Chủ nghĩa xã
hội trên nền tảng Chủ Nghĩa Mác- Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Phân tích các ý sau:
- Đây là MT bất biến của Đảng và nhân dân ta.
- Mối quan hệ giữa MT độc lập dân tộc và Chủ nghĩa xã hội.
Sự nghiệp đổi mới ngày nay với mục tiêu “dân giàu, nước mạnh…” cũng là để hoàn
thành mục tiêu của Đảng và nhân dân ta trong hoàn cảnh mới.
Tác động sau khi Chủ nghĩa xã hội Liên Xô và Đông Âu sụp đổ – bài học.
Xây dựng Chủ nghĩa xã hội gián tiếp… là sự biến đổi về chất trên tất cả các lĩnh vực, là
một sự nghiệp khó khăn, phức tạp.
2. Đổi mới là sự nghiệp của nhân dân, do đó cần phát huy quyền làm chủ của nhân
dân, khơi dậy mạnh mẽ tất cả các nguồn lực, trước hết là nguồn nội sinh, để thực
hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

- Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là yêu cầu có tính quy luật đối với các nước nông nghiệp
lạc hậu quá độ lên Chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn đi lên Tư bản chủ nghĩa. Chúng ta
phải tranh thủ những thành tựu của cuộc Cách Mạng khoa học và công nghệ… để nhanh
chóng biến nước ta thành một nước công nghiệp hiện đại. lOMoARcPSD| 40651217
Để công nghiệp hoá, hiện đại hoá thành công, chúng ta cần phát huy tất cả các nguôn lực
bên trong và bên ngoài, lấy nguồn lực bên trong làm gốc để phát huy nguồn lực bên
ngoài. Phải quán triệt sâu sắc quan điểm của chủ tịch Hồ Chí Minh: Chủ nghĩa xã hội là
công trình tập thể của nhân dân, do nhân dân tự xây dựng lấy dưới sự lãnh đạo của Đảng,
phải “đem tài dân, sức dân, của dân làm lợi cho dân”.
Nguồn nội lực con người là to lớn (trên 80 triệu dân với sức lực, trí tuệ, tài năng…), làm
thế nào để khơi dậy mạnh mẽ nguồn nội lực đó?
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh, ta phải phát huy cao độ quyền làm chủ của người dân,
tạo nên không khí dân chủ, cởi mở trong xã hội. Muón thế phải nâng cao dân trí, bồi
dướng văn hoá chính trị, trau dồi bản lĩnh công dân, cung cấp thông tin đúng đắn cho
người dân, phải thực hiện cơ chế “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, tạo cho
người dân có điều kiện tham gia giám sát công việc của Nhà nước. Đồng thời phải thực
hiện nhất quán chiến lược Đ ĐK của Hồ Chí Minh, trên cơ sở lấy liên minh công – nông
trí thức làm nòng cốt, tranh thủ sự đóng góp ủng hộ của tất cả những ai tán thành đổi mới
vì mục tiêu “dân giau, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
3. Đổi mới phải kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đaị:
Sự tác động của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ… phải khai thác và sử dụng tốt
nguồn lực bên ngoài: vốn, kinh nghiệm quản lý, và công nghệ hiện đại (phân tích)
Hợp tác bên ngoài đi đôi với thường xuyên khơi dậy chủ nghĩa yêu nước, tinh thần độc
lập dân tộc, kêu gọi toàn dân sẵn sàng đem nhân lưc, vật lực, tài lực để tăng cường sức mạnh quốc gia.
Giao lưu, hội nhập đồng thời phải không ngừng trau đồi bản lĩnh và bản sắc văn hoá dân tộc, đặc biệt cho
Chỉ có bản lĩnh và bản sắc dân tộc sâu sắc, mạnh mẽ mới tạo ra bộ lọc tốt để tiếp thu tinh
hoa văn hoá nhân loại, đồng thời có sức đề kháng tốt để chống lại mọi yếu tố văn hoá độc
hại từ bên ngoài tràn vào.
4. Xây dựng Đảng vững mạnh, làm trong sạch bộ máy nhà nước. Đẩy mạnh đấu
tranh chống quan liêu, tham nhũng, thực hiện cần kiệm xây dựng Chủ nghĩa xã hội.
- Để phát huy quyền làm chủ của nhân dân, đòi hỏi Đảng và Nhà nước, cán bộ, đảng viên
phải thực sự trong sạch, cần kiệm liêm chính, thực sự là người “đầy tớ trung thành của nhân dân” lOMoARcPSD| 40651217
- Đảng và Nhà nước phải có chủ trương, đường lối, chính sách đúng đắn.
Bài học thực tiễn đã nhắc nhỡ chúng ta phải không ngừng xây dựng Đảng và Nhà nước
trong sạch, vững mạnh; kiên quyết loại trừ nhừng phần tử thoái hóa, biến chất làm cho
đội ngũ cán bộ ngày càng vững mạnh.
- Phải thường xuyên chăm lo mối quan hệ gắn bó, máu thịt giữa Đảng và Nhà nước với nhân dân.
II. VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HCM VỀ VẤN ĐỀ DÂN TỘC TRONG CÔNG CUỘC
ĐỔI MỚI HIỆN NAY
Trong 15 năm đổi mới đạt được những thành tựu to lớn, song sự nghiệp xây dựng bảo vệ
đất nước cũng đang đứng trước những thời cơ và thách thức to lớn mà chúng ta phải chủ động đón lấy
và vượt qua. Trong lúc này, cần nắm chắc, vận dụng Tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan
hệ giữa dân tộc và giai cấp, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội đưa sự nghiệp đổi mới vững bước tiến lên.
1) Khơi dậy sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc, nguồn động lực
mạnh mẽ để xây dựng và bảo vệ đất nước:
Hội nghị lần thứ tư (Khóa VIII) BCHTW Đảng đặt vấn đề phải xác định rõ các nguồn
lực và phát huy tối đa các nội lực, yếu tố quan trọng nhất, quyết định nhất là nguồn lực
con người với sức mạnh vật chất và tinh thần.
Con người Việt Nam vốn có truyền thống yêu nước, gắn kết cộng đồng, có ý chí kiên
cường bất khuất, không chịu làm nô lệ, không cam phận hèn…
Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ cứu nước của dân tộc, dưới sự lãnh
đạo của Đảng và Bác Hồ, tinh thần yêu nước ấy đã được phát huy cao độ, biến thành chủ
nghĩa anh hùng cách mạng vô song, đưa đến thắng lợi vĩ đại ở Điện Biên Phủ và đại
thắng mùa xuân năm 1975, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
Trong công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, truyền thống quý báu ấy cần tiếp
tục khơi dậy mạnh mẽ, biến nó thành một nguồn nội lực vô tận để đưa đất nước vượt qua
mọi nguy cơ thử thách, vững bước tiến lên.
2) Quán triệt Tư tưởng Hồ Chí Minh, nhận thức và giải quyết vấn đề dân tộc trên
quan điểm giai cấp. lOMoARcPSD| 40651217
- Luôn khẳng định vai trò lịch sử của giai cấp công nhân, vai trò độc quyền lãnh đạo của
Đảng tiên phong của giai cấp công nhân trong quá trình cách mạng Việt Nam.
- Chủ trương đại đòan kết dân tộc rộng rãi nhưng phải dựa trên nền tảng liên minh công –
nông – trí, dưới sự lãnh đạo của Đảng.
- Trong đấu tranh giành và giữ chính quyền, cần thiết phải biết sử dụng bạo lực của quần
chúng để chống lại bạo lực phản cách mạng của kẻ thù.
- Mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với Chủ nghĩa xã hội.
3) Chăm lo xây dựng khối đoàn kết dân tộc giải quyết tốt mối quan hệ giữa các dân
tộc anh em và trong cộng đồng dân tộc Việt Nam.
- Nhờ vận dụng sáng tạo và kết hợp nhuần nhuyễn mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp,
Hồ Chí Minh đã rất thành công trong việc xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, đại đoàn
kết các dân tộc đa số và thiểu số, khơi dậy và phát huy được tiềm năng cách mạng của
toàn dân tộc, đưa đến thắng lợi vĩ đại của sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước.
- Trong thời kỳ lịch sử mới, Đảng ta tiếp tục giương cao ngọn cờ đại đoàn kết của Hồ Chí
Minh, ra sức phấn đấu để tăng cường và mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân lấy liên
minh giai cấp công nhân, nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng, lấy mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh làm điểm tương đồng, đồng thời
chấp nhận những quan điểm khác nhau không trái với lợi ích chung của dân tộc… (NQ 07/1993)
- Phải chăm lo và giải quyết tốt hơn nữa mối quan hệ giữa các dân tộc anh em trong đại
gia đình các dân tộc Việt Nam, Đại hội IX nêu rõ: “Vấn đề dân tộc và đoàn kết dân tộc
luôn có vị trí chiến lược trong sự nghiệp cách mạng”. Đại đoàn kết các dân tộc anh em
trên lãnh thổ Việt Nam là một nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp dựng nước và
giữ nước. (Văn kiện ĐH IX tr.127) (xem GTQG tr.86).
- Trong việc đền ơn, đáp nghĩa cho đồng bào miền núi, giúp miền núi nhanh chóng tiến
kịp miền xuôi, Người dạy: “Các cấp bộ Đảng phải thi hành đúng chính sách dân tộc,
thực hiện sự đoàn kết, bình đẳng, tương trợ giữa các dân tộc”.
- Sau 15 năm đổi mới, đời sống của nhân dân miền núi đã có những chuyển biến rõ nét.
Tuy nhiên không phải không có những cơ sở cho các thế lực thù địch khai thác, lợi dụng.
- Để loại trừ nguyên nhân có thể dẫn đến căng thẳng trong mối quan hệ giữa các dân
tộc,có thể bị kẻ thù lợi dụng, chúng ta phải thực hiện thắng lợi các mục tiêu mà ĐH IX lOMoARcPSD| 40651217
của Đảng đã đề ra cho miền núi, trong đó có nhiệm vụ: xây dựng kết cấu hạ tầng kinh
tế, xã hội, phát triển sản xuất hàng hóa, xóa đói, giảm nghèo; gìn giữ và phát huy bản
sắc văn hóa dân tộc; đặc biệt quan tâm vùng gặp nhiều khó khăn, vùng trước đây là căn
cứ cách mạng và kháng chiến, thực hiện chính sách ưu tiên trong việc đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ dân tộc thiểu số, chống kỳ thị chia rẽ dân tộc.
III.TƯ TƯỞNG HCM VỀ XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC TRONG SẠCH VỮNG MẠNH
a) Đề phòng và khắc phục những tiêu cực trong hoạt động của Nhà nước.
Theo Hồ Chí Minh, sức mạnh, hiệu quả của nhà nước là dựa vào tính nghiêm minh của
việc thi hành pháp luật và sự gương mẫu, trong sạch về đạo đức cảu người cầm quyền.
Người đòi hỏi “cán bộ phải thực hành chữ Liêm trước để làm kiểu mẫu cho dân”, đồng
thời kiên quyết chống ba thứ “giặc nội xâm” là tham ô, lãng phí.
Theo Hồ Chí Minh, chống tham ô, lãng phí quan liêu cũng cần kíp như việc đánh giặc
trên mặt trận. Người nói: “Tham ô, lãng phí, quan liêu, dù cố ý hay không, cũng là bạn
đồng minh của thực dân phong kiến,...Nó làm hỏng tinh thần trong sạch và ý chí khắc
khổ của cán bộ ta. Nó phá hoại đạo đức cách mạng của ta là cần, kiệm, liêm, chính … tội
lỗi ấy cũng nặng như tội việt gian, mật thám”. Mác và Ăngghen đã từng cảnh tỉnh giai
cấp vô sản rằng chủ nghĩa quan liêu có thể dẫn các đảng cộng sản cầm quyền đến chỗ
“đánh mất một lần nữa chính quyền vừa giành được”. Lênin cũng viết “... chúng ta bị
khốn khổ trước hết về tệ quan liêu. Những người cộng sản đã trở thành tên quan liêu. Nếu
có cái gì sẽ làm tiêu vong chúng ta thì chính là cái đó”.
Tham ô, lãng phí có nhiều nguyên nhân, Hồ Chí Minh chỉ ra nguyên nhân quan trọng là
bệnh quan liêu. Người viết: “Vì những người và những cơ quan lãnh đạo từ cấp trên đến
cấp dưới không sát công việc thực tế, không theo dõi và giáo dục cán bộ, không gần gũi
quần chúng. Đối với công việc thì trọng hình thức mà không xem xét mọi mặt, không vào
sâu vấn đề. Chỉ biết khai hội, viết chỉ thị, xem báo cáo trên giấy, chứ không kiểm tra đến
nơi, đến chốn… thành thử có mắt mà không thấy suốt, có tai mà không nghe thấu, có chế
độ mà không giữ đúng, có kỹ luật mà không nắm vững… Thế là bện quan liêu đã ấp ủ,
dung túng, che chở nạn tham ô, lãng phí. Vì vậy, muốn trừ sạch nạn tham ô, lãng phí thì
trước mắt phải tẩy sạch bệnh quan liêu.
Vì vậy không thể nói đến một nhà nước trong sạch vững mạnh, hiệu quả nếu không kiên
quyết, thường xuyên đẩy mạnh cuộc đấu tranh để ngăn chặn tận gốc những nguyên nhân
gây ra nạn tham ô, lãng phí, quan liêu. lOMoARcPSD| 40651217
b) Tăng cường tính nghiêm minh của pháp luật đi đôi với đẩy mạnh giáo dục đạo đức cách mạng
- Theo Hồ Chí Minh. Do tập quán của kinh tế tiểu nông, muốn hình thành ngay một nhà
nước pháp quyền là chưa thể được. Xây dựng nhà nước pháp quyền phải nhấn mạnh vai
trò của luật pháp, ban hành luật pháp, phải khẩn trương xây dựng đồng bộ hệ thống pháp
luật, và đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục pháp luật trong nhân dân. Nhưng không thể đề
cao vai trò một chiều của pháp luật mà bỏ qua sự hổ trợ của các yếu tố khác, nhất là giáo
dục đạo đức. Đạo đức và pháp luật là hai hình thái ý thức xã hội có thể kết hợp, bổ sung
cho nhau trong thực tế quản lý xã hội, điều hành đất nước.
Hồ Chí Minh là mẫu mực của sự kết hợp đạo đức và pháp luật, luôn luôn chú trọng giáo
dục đạo đức, nhưng không ngừng nâng cao vai trò, sức mạnh của pháp luật và thi hành pháp luật nghiêm minh.
3. Cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh của thế hệ trẻ
Đó là quá trình dài kêu gọi tuổi trẻ cả nước phát huy những kết quả đạt được, không
ngừng học tập và làm theo những lời dạy của Bác, nỗ lực trong học tập, lao động, rèn
luyện, quyết tâm hành động góp phần thực hiện thắng lợi những đường lối chủ trương
của Đảng và nhà nước
Học tập và làm theo lời Bác là một lòng, một dạ với Đảng, với đất nước, với lý
tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Không ngừng sang tạo và tự hoàn thiện bản
thân cho xứng đáng là lực lượng “nòng cốt’ của đất nước
Học tập và làm theo lời Bác là nỗ lực vươn lên, tự lực tự cường, lao động, cống
hiến không ngừng cho vận mệnh của nước nhà
Học tập và làm theo lời Bác là luôn nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, sẵn
sàng chiến đấu, hy sinh bảo vệ độc lập tự do của Tổ quốc và chủ nghĩa xã hội . Luôn giữ
trong mình lòng nhiệt huyết với ngọn lửa “đỏ” và trái tim “hồng” của người Việt Nam,
lòng tự hào và tự tôn dân tộc luôn rực cháy trong nguồn sức mạnh từ ý chí của những người thanh niên. lOMoARcPSD| 40651217
Học tập và làm theo lời Bác là luôn xung kích trong các phong trào thanh niên;
gương mẫu, đoàn kết giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.
Tấm gương đạo đức cao cả, cuộc đời bình dị trong sáng, tư tưởng vĩ đại, những lời dạt
sâu sắc và tình thương yêu của Bác sẽ mãi là ngọn lửa thiêng soi đường cho tuổi trẻ Việt
Nam tiến bước.Vì thế học tập và làm theo lời Bác là lẽ sống đẹp của tuổi trẻ Việt Nam.
IV.TƯ TƯỞNG HCM VỀ XD CON NGƯỜI MỚI
1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về con người
a. Con người được nhìn nhận như một chỉnh thể
- Con người được xem xét như chỉnh thể thống nhất về tâm lực, thể lực và các hoạt động
của nó. Con người luôn có xu hướng vươn lên cái Chân - Thiện - Mỹ, mặc dù “có thế này, thế khác”.
Hồ Chí Minh đề cập đến con người trong tính đa dạng: đa dạng trong quan hệ xã hội
(quan hệ dân tộc, giai cấp, tầng lớp, đồng chí, đồng bào...); đa dạng trong tính cách, khát
vọng, phẩm chất, khả năng, cũng như năm ngón tay dài ngắn khác nhau nhưng đều hợp
lại nơi bàn tay; mấy mươi triệu người Việt Nam, có người thế này, thế khác, nhưng đều
cùng là nòi giống Lạc Hồng; đa dạng trong hoàn cảnh xuất thân, điều kiện sống, làm việc...
- Hồ Chí Minh xem xét con người trong sự thống nhất của hai mặt đối lập: thiện và ác,
hay và dở, tốt và xấu, hiền và dữ... Bao gồm tính người - mặt xã hội và tính bản năng -
mặt sinh học của con người. Theo Hồ Chí Minh con người có tốt, có xấu, nhưng “dù là
xấu, tốt, văn minh hay dã man đều có tình”.
b. Con người cụ thể, lịch sử
Hồ Chí Minh dùng khái niệm con người theo nghĩa rộng trong một số trường hợp (“phẩm
giá con người”, “giải phóng con người”, “người ta”, “con người”, “ai”...) nhưng đặt trong lOMoARcPSD| 40651217
một bối cảnh cụ thể và một tư duy chung, còn phần lớn, Người xem xét con người trong
các mối quan hệ xã hội, giai cấp, giới tính, lứa tuổi, nghề nghiệp, trong khối thống nhất của
cộng đồng dân tộc và quan hệ quốc tế. Đó là con người hiện thực, cụ thể, khách quan.
c. Bản chất con người mang tính xã hội
- Để sinh tồn, con người phải lao động sản xuất. Trong quá trình lao động, sản xuất, con
người dần nhận thức được các hiện tượng, quy luật của tự nhiên, của xã hội; hiểu về mình
và hiểu biết lẫn nhau… xác lập các mối quan hệ giữa người với người.
- Con người là sản phẩm của xã hội, con người là sự tổng hợp các quan hệ xã hội từ hẹp
đến rộng, chủ yếu bao gồm các quan hệ: anh, em, họ hàng, bầu bạn, đồng bào, loài người.
2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò của con người và chiến lược trồng người
a. Quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò của con người
Con người là vốn quý nhất, nhân tố quyết định thành công của sự nghiệp cách mạng
Theo Hồ Chí Minh, “trong bầu trời không có gì quý bằng nhân dân, trong thế giới này
không có gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”. Vì vậy, “vô luận việc gì đều
do người làm ra, và từ nhỏ đến to, từ gần đến xa đều thế cả”. Người cho rằng “việc dễ
mấy không có dân cũng chịu, việc khó mấy có dân liệu cũng xong”. Nhân dân là người
sáng tạo ra mọi giá trị vật chất và tinh thần, dân ta là tài năng và trí tuệ, sáng tạo, họ biết
“giải quyết nhiều vấn đề một cách giản đơn, mau chóng, đầy đủ mà những người tài giỏi,
những đoàn thể to lớn, nghĩ mãi không ra”. Hồ Chí Minh có niềm tin vững chắc rằng với
tinh thần quật cường và lực lượng vô tận của dân tộc ta, với lòng yêu nước và chí kiên
quyết của nhân dân và quân đội ta, chẳng những chúng ta có thể thắng lợi, mà chúng ta
nhất định thắng lợi. Nhân dân là yếu tố quyết định thành công của cách mạng. “Lòng yêu
nước và sự đoàn kết của nhân dân là một lực lượng vô cùng to lớn, không ai thắng nổi”.
Con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng, phải coi trọng, chăm sóc,
phát huy nhân tố con người lOMoARcPSD| 40651217
Con người là mục tiêu giải phóng của sự nghiệp cách mạng.
- Mục tiêu của cách mạng: là giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con
người, thực hiện độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
- Con người là mục tiêu của cách mạng nên mọi chủ trương, đường lối, chính sách của
Đảng đều vì lợi ích chính đáng của con người. Có thể là lợi ích lâu dài, lợi ích trước
mắt, lợi ích cả dân tộc, lợi ích của bộ phận, giai cấp, tầng lớp và các nhân. Với hoạt
động thực tiễn thì việc gì có lợi cho dân, dù nhỏ mấy - ta phải hết sức làm. Việc gì hại
cho dân - dù nhỏ mấy - ta phải hết sức tránh.
Con người là động lực của cách mạng.
- Con người là động lực của cách mạng, được nhìn nhận trên phạm vi cả nước, toàn thể
đồng bào, song trước hết là ở giai cấp công nhân và nông dân. Điều này có ý nghĩa to
lớn trong sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nhà nước mới lấy
công - nông - trí làm nền tảng.
- Không phải là mọi người đều trở thành động lực, mà phải là những con người được
giácngộ và tổ chức. Họ phải có trí tuệ và bản lĩnh, văn hóa, đạo đức, được nuôi dưỡng
trên nền truyền thống lịch sử và văn hoá của dân tộc Việt Nam… Chính trị, văn hóa,
tinh thần là động lực cơ bản trong động lực con người.
- Con người là động lực chỉ có thể thực hiện được khi hoạt động có tổ chức, có lãnh đạo.
Vì vậy, cần có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
- Giữa con người - mục tiêu và con người - động lực có mối quan hệ biện chứng với
nhau. Càng chăm lo cho con người - mục tiêu tốt bao nhiêu thì sẽ tạo thành con người -
động lực tốt bấy nhiêu. Ngược lại, tăng cường được sức mạnh của con người - động lực
thì sẽ nhanh chóng đạt được mục tiêu cách mạng.
Phải kiên quyết khắc phục kịp thời các phản động lực trong con người và tổ chức. Đó là
chủ nghĩa cá nhân. Thứ vi trùng rất độc này đẻ ra hàng trăm thứ bệnh: thói quen truyền lOMoARcPSD| 40651217
thống lạc hậu, tàn tích xã hội cũ để lại, bảo thủ, rụt rè không dám nói, không dám làm,
không dám đề ra ý kiến, tóm lại không dám đổi mới và sáng tạo.
b. Quan điểm của Hồ Chí Minh về chiến lược “trồng người”
“Trồng người” là yêu cầu khách quan, vừa cấp bách, vừa lâu dài của cách mạng
Trên cơ sở khẳng định con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng. Hồ
Chí Minh rất quan tâm đến sự nghiệp giáo dục, đào tạo và rèn luyện con người. Người
nói đến “lợi ích trăm năm” và mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội là những quan điểm
mang tầm vóc chiến lược, cơ bản, lâu dài, nhưng cũng rất cấp bách. Nó liên quan đến
nhiệm vụ “trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa” và “trồng người”. Tất cả
những điều này phản ánh tư tưởng lớn về tầm quan trọng có tính quyết định của nhân tố
con người; tất cả vì con người, do con người.
Con người được đặt vào vị trí trung tâm của sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước
với nghĩa rộng, vừa nằm trong chiến lược giáo dục đào tạo theo nghĩa hẹp.
“Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa”
- Con người xã hội chủ nghĩa đương nhiên phải do chủ nghĩa xã hội tạo ra.
- Mỗi bước xây dựng con người như vậy là một nấc thang xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Đây là mối quan hệ biện chứng giữa “xây dựng chủ nghĩa xã hội” và “con người xã hội chủ nghĩa”.
- Quan niệm của Hồ Chí Minh về con người mới xã hội chủ nghĩa có hai mặt gắn bó chặt
chẽ với nhau. Một là, kế thừa những giá trị tốt đẹp của con người truyền thống. Hai là,
hình thành những phẩm chất mới: như có tư tưởng xã hội chủ nghĩa; có đạo đức xã hội
chủ nghĩa; có trí tuệ và bản lĩnh để làm chủ; có tác phong xã hội chủ nghĩa; có lòng nhân
ái, vị tha, độ lượng.
c. Chiến lược “trồng người” là một trọng tâm, một bộ phận hợp thành của chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội lOMoARcPSD| 40651217
- Để thực hiện chiến lược “trồng người”, cần có nhiều biện pháp, nhưng giáo dục - đào
tạo là biện pháp quan trọng nhất. Bởi vì, giáo dục tốt sẽ tạo ra tính thiện đem lại tương
lai tươi sáng cho thanh niên. Ngược lại, giáo dục tồi sẽ ảnh hưởng xấu đến thanh niên.
- Nội dung và phương pháp giáo dục phải toàn diện, cả đức, trí, thể, mỹ, phải đặt đạo đức,
lý tưởng và tình cảm cách mạng, lối sống xã hội chủ nghĩa lên hàng đầu. Hai mặt đức,
tài thống nhất với nhau, trong đó đức là gốc, là nền tảng cho tài năng phát triển. Phải kết
hợp giữa nhận thức và hành động, lời nói với việc làm... có như vậy mới có thể “Học để làm người”.
“Trồng người” là công việc “trăm năm”, không thể nóng vội “một sớm một chiều” không
phải làm một lúc là xong, cũng không phải tùy tiện đến đâu hay đến đó. Nhận thức và
giải quyết vấn đề này có ý nghĩa thường trực, bền bỉ trong suốt cuộc đời mỗi con người,
suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Hồ Chí Minh cho rằng: “việc học không bao giờ
cùng, còn sống còn phải học”. KẾT LUẬN
Hồ Chí Minh được cả thế giới tôn vinh là nhà văn hóa kiệt xuất, không chỉ vì
Người đã sáng tạo ra một thời đại mới và một nền văn hóa mới ở Việt Nam mà còn vì
những sự đóng góp mới của Người vào lý luận và sự phát triển chung của văn hóa nhân loại
- Trong lĩnh vực văn hóa, Hồ Chí Minh đã sớm nhận thấy vai trò và sức mạnh của văn
hóa, đã sớm đưa văn hóa vào chiến lược phát triển của đất nước.
- Trong lĩnh vực đạo đức, Hồ Chí Minh đã có những đóng góp rất đặc sắc vào tư tưởng
đạo đức macxit. Những đóng góp đó đã nâng Người lên vị trí một nhà đạo đức học lỗi
được thế giới thừa nhận.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người mới có giá trị lý luận và thực tiễn rất quan trọng:
Về lý luận: có nội dung sâu sắc và mới mẻ, có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự nghiệp
GD, ĐT con người Việt Nam. Trên cơ sở quan triệt quan điểm GD đạo lý để làm người, lOMoARcPSD| 40651217
coi con người là vốn quý nhất, chăm lo hạnh phúc của con người là mục tiêu phấn đấu
cao nhất của chế độ ta, con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp cách
mạng XHCN. Đảng ta xác định GD và ĐT là quốc sách hàng đầu.
Về thực tiễn: sự phát triển con người đã trở thành tiêu chí ngày càng quan trọng trong
việc xếp hạng các nước trên thế giới. Dưới ánh sáng của tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta
nhấn mạnh việc chăm lo cho hạnh phúc của con người là mục tiêu phấn đấu cao nhất của chế độ ta.
Tư tưởng về văn hóa, đạo đức và xây dựng con người mới là một bộ phận rất quan trọng
trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh. Nghiên cứu và học tập theo tấm gương đạo đức
Hồ Chí Minh không chỉ đơn thuần là vấn đề nhận thức, mà còn là trách nhiệm chính trị
của các dân tộc, nhằm xây dựng Việt Nam thành một quốc gia văn minh trong thời kỳ hội nhập quốc tế.
V.SINH VIÊN HỌC TÂP VÀ LÀM THEO TẤM GƯƠNG ĐẠO ĐỨC HCM
1. Học tập và làm theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh
- Xác định đúng vị trí, vai trò của đạo đức đối với cá nhân:
- Đạo đức, hiểu tổng quát là toàn bộ những chuẩn mực, những quy tắc, những quan niệm
về các giá trị thiện, ác, lương tâm, trách nhiệm, danh dự, hạnh phúc, công bằng được xã
hội thừa nhận. Đạo đức là yếu tố cơ bản của nhân cách tạo nên giá trị con người.
- Hồ Chí Minh quan tâm đến việc giáo dục đạo đức cho thanh niên từ rất sớm, vì thanh
niên là “người chủ tương lai của nước nhà”- Sdd, t 5, tr 185.
-Thực hành đạo đức trong đời sống hàng ngày không chỉ có tác dụng tôn vinh,
nâng cao giá trị chính họ mà còn tạo sức mạnh nội sinh, giúp họ vượt qua khó khăn, thử
thách . - Trong xã hội, mỗi người có công việc, tài năng và vị trí khác nhau, người làm lOMoARcPSD| 40651217
việc to, người làm việc nhỏ, nhưng ai giữ được đạo đức cách mạng đều là người cao thượng.
- Kiên trì, tu dưỡng theo các phẩm chất đạo đức Hồ Chí Minh:
- Sinh viên phải có “6 cái yêu”: Yêu Tổ quốc, yêu nhân dân, yêu chủ nghĩa xã hội, yêu
lao động, yêu khoa học và kỷ luật - Sinh viên phải:
+ Rèn luyện cho mình những đức tính: trung thành, tận tụy, thật thà, chính trực.
+ Phải xác định rõ nhiệm vụ của mình.
+ Trong học tập, phải kết hợp lý luận và thực hành, học tập với lao động; phải chống mọi
biểu hiện của chủ nghĩa các nhân, chống tư tưởng háo danh, hám lợi, chống lười biếng,
coi khinh lao động, kiêu ngạo, giả dối, khoa khoang…Phải trả lời được câu hỏi: học để
làm gì? Học để phục vụ cho ai?
+ Phải xác định rõ thế nào là tốt, thế nào là xấu? Ai là bạn, ai là thù?
2. Nội dung học tập theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh
- Thực trạng đạo đức lối sống trong sinh viên hiện nay
+ Phần lớn sinh viên, thanh niên vẫn giữ được lối sống tình nghĩa, trong sạch,
lành mạnh, khiêm tốn, cần cù và sáng tạo, có bản lĩnh, có chí lập thân, lập nghiệp, năng
động nhạy bén, dám chịu trách nhiệm; gắn bó với nhân dân, đồng hành cùng dân tộc,
phấn đấu cho sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
+ Do tác động của nền kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế, một bộ phận sinh viên
phai nhạt niềm tin, lý tưởng, mất phương hướng phấn đấu, không có chí lập thân, lập
nghiệp, chạy theo lối sống thực dụng, sống thử, sống dựa dẫm, thiếu trách nhiệm, thờ ơ
với gia đình và xã hội, sa vào nghiện ngập hút xách, thiếu trung thực, gian lận trong thi lOMoARcPSD| 40651217
cử, chạy điểm, chạy thầy, chạy trường, mua bằng cấp… Đây là những biểu hiện không thể coi thường.
- Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh
+ Một là, học trung với nước, hiếu với dân, suốt đời phấn đấu cho sự nghiệp giải
phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người
+ Hai là, học cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, đời riêng trong sáng, nếp
sống giản dị và đức tính khiêm tốn phi thường
+ Ba là, học đức tin tuyệt đối vào sức mạnh của nhân dân, kính trọng nhân dân và
hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân, luôn nhân ái, vị tha, khoan dung và nhân hậu với con người.
+ Bốn là, học tấm gương về ý chí và nghị lực tinh thần to lớn, quyết tâm vượt qua
mọi thử thách, gian nguy để đạt được mục đích cuộc sống.
VI.TÍNH NHÂN VĂN TRONG TƯ TƯỞNG HCM
Tư tưởng nhân văn của Hồ Chí Minh lúc đầu thể hiện ở những yêu cầu nhân bản
bao quát nhất. Đó là tư tưởng đòi lại cho con người những gì mà nó vốn có, trước hết là
quyền được sống theo nghĩa “người ta sinh ra ai cũng có quyền sống, quyền mưu cầu hạnh phúc”.
-Đất nước Việt Nam - cái nôi của con rồng cháu tiên, phải để cho người Việt Nam được
gọi là Tổ quốc, chứ không cần đến một “mẫu quốc” bên phương Tây xa xôi tới “khai
hoá”! Đã là con người thì ai cũng có quyền làm người, quyền tự do, quyền sống bình
đẳng. Phải trả lại độc lập cho nhân dân Việt Nam để họ làm chủđất nước mình, tự mình
xây dựng cuộc sống. Đưa con người trở về với chính con người, đó là tư tưởng nhân bản
cơ bản đầu tiên được hình thành trong con người Hồ Chí Minh. Trên cơ sởđó, Người kêu
gọi xoá bỏ nô lệ, áp bức, bần cùng, đối xử với con người như là Con Người chân chính. lOMoARcPSD| 40651217
Tư tưởng nhân văn của Hồ Chí Minh được nâng lên tầm cao hơn khi ở Người hội tụ
những tư tưởng tiến bộ toàn nhân loại, trong đó có các hệ tư tưởng nhân văn Phục hưng,
Khai sáng. Đặc biệt, tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh chỉ thật sự trở thành lý luận khoa
học, trở thành học thuyết vững chắc khi Người thấm nhuần tư tưởng cộng sản chủ nghĩa
của các lãnh tụ thiên tài là C. Mác, Ph. Ăng-ghen và V. I. Lênin.
-Thấm nhuần tư tưởng nhân văn cộng sản chủ nghĩa, Hồ Chí Minh tự nguyện đứng vào
hàng ngũ những người cộng sản quốc tế, chiến đấu hi sinh cho lý tưởng nhân văn cộng
sản chủ nghĩa. Và thực tế, Người đãtrở thành một trong những chiến sĩđi tiên phong trong
cuộc đấu tranh lật đổ chế độ xã hội cũ, xây dựng chếđộ xã hội mới trên phạm vi toàn thế
giới. Người quan tâm đến số phận từng con người , vận mệnh từng dân tộc, từng quốc gia
khắp năm châu. Cuộc cách mạng mà người theo đuổi là cuộc đấu tranh giai cấp, lật đổ
giai cấp bóc lột, giải phóng giai cấp bị bóc lột, đưa loài người tiến đến một xã hội tốt đẹp.
Tư tưởng Hồ Chí Minh vì thế có tầm giai cấp quốc tế, tầm nhân loại.
- Hồ Chí Minh tiếp thu một cách sâu sắc lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, lấy nguyên lý của
chủ nghĩa cộng sản để thực hiện lý tưởng nhân văn cụ thể của con người: xoá bỏ xã hội
cũ thối nát và phản nhân đạo để xây dựng một xã hội mới màởđó, người với người
làđồng chí, bạn bè, anh em, sống hoà bình, hợp tác, hữu nghị trong thế giới đại đồng.
Chính vì vậy khi Quốc tế II phân hóa thành nhiều khuynh hướng khác nhau, Người đã
chọn Quốc tế III, vì nóđề ra mục tiêu đúng với tư tưởng của Người là chống phong kiến,
đế quốc, giải phóng dân tộc, mà thực chất là giải quyết vấn đề dân tộc và thuộc địa - vấn
đề bức xúc nhất, bản chất nhất của cách mạng thế giới lúc bấy giờ.
-Giải quyết vấn đề dân tộc và thuộc địa, theo Hồ Chí Minh không phải là nhiệm vụ cuối
cùng, mà là khâu đột pháđể tiến tới giải quyết vấn đề cách mạng thế giới. Giải phóng
từng dân tộc làđiều kiện cho việc giải phóng tất cả các dân tộc thuộc địa; giải phóng giai
cấp vô sản làđểđi đến xã hội cộng sản chủ nghĩa. Mục tiêu đó quán xuyến toàn bộ sự
nghiệp cách mạng của Người. Đó cũng là nền tảng cho tinh thần đoàn kết giữa các dân
tộc toàn nhân loại trên cơ sở chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa Quốc tế chân chính. Giải
phóng dân tộc, giải phóng xã hội và giải phóng con người, theo Người, cũng chỉ mới là lOMoARcPSD| 40651217
tiền đềđể thực hiện mục tiêu thiêng liêng nhất của con người là phát triển toàn bộ bản
chất người với mọi phẩm chất tốt đẹp, với mọi tiềm năng và năng lực sáng tạo cũng như
khả năng hưởng thụ cao các giá trị văn hoá do chính mình sáng tạo ra.
-Chính với quyết tâm thực hiện lý tưởng nhân văn đó, Hồ Chí Minh có một thái độ hết
sức khoan dung, độ lượng, một tinh thần đoàn kết, hoà hợp. Phê phán phản đối tư tưởng
biệt phái, chia rẽ các tín ngưỡng tôn giáo trong nước và trên thế giới, Người tiếp thu tất
cả tinh hoa trí tuệ, ước mơ, khát vọng chân chính của nhân loại nhằm đạt tới mục đích
cuối cùng làđem lại hạnh phúc cho nhân dân. Người đã hội tụ những tinh hoa của tất cả
các tư tưởng nhân văn của nhân loại, từ tư tưởng Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín, Dũng, Trung,
Hiếu của đạo Nho, tinh thần từ bi, cứu nhân độ thế, phấn đấu đạt tới sự sáng láng của đạo
Phật, đến ước mơ vươn tới một xã hội cao đẹp, con người hoàn thiện của đạo Thiên chúa.
Người đã chắt lọc ưu điểm trong các học thuyết của Khổng Tử, Thích ca Mâu ni, Tôn Dật
Tiên, Giê-su… Đặc biệt người đã tìm thấy ở học thuyết Mac-Lênin nhân sinh quan cộng
sản chủ nghĩa. Người nhận thấy rằng, ở tất cả các vị tiền bối đều có chung một ưu điểm là
mưu cầu hạnh phúc cho con người. Công lao đó của Người, tự nóđã thể hiện một tinh
thần, một bản chất nhân văn lớn lao, cao cả, vì cuộc sống tốt đẹp của con người, vì hạnh
phúc và tiến bộ của nhân gian.
- Tư tưởng nhân văn của Hồ Chí Minh còn thể hiện một cách đặc sắc ở khát vọng và
tinh thần quyết tâm biến tư tưởng thành hiện thực. Cốt lõi của thế giới quan duy vật,
phương pháp luận khoa học và nhân sinh quan cộng sản chủ nghĩa được Hồ Chí Minh
chuyển hoá thành một tổ hợp tư tưởng Mác - Lênin - Hồ Chí Minh , rồi nó lại được
thăng hoa, biến thành một chất tư tưởng mới rất riêng, trong đó có sự hoà quyện giữa
chiều sâu lý luận và sinh khí cuộc sống. Tiếp thu bản chất khoa học và cách mạng, tinh
thần cải tạo thế giới của chủ nghĩa Mác- Lênin, Người thực hiện khát vọng cháy bỏng của
mình là biến tình thương người , tình yêu cuộc sống thành hành động.
Lòng nhân ái Hồ Chí Minh bao la rộng, lớn bao nhiêu đối với nhân loại thì cũng sâu
nặng bấy nhiêu đối với con người, dân tộc Việt Nam. Nhận nhiệm vụ từ Quốc tế cộng
sản, trở về Tổ quốc, Người dành tất cả tình thương yêu cho dân tộc Việt Nam. Khi trở lOMoARcPSD| 40651217
thành lãnh tụ của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà , Người không màng danh lợi cá
nhân, suốt đời chăm lo cho hạnh phúc của nhân dân, cho sự trường tồn của dân tộc và sự
phát triển của đất nước. Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh bao quát toàn bộ cách mạng
Việt Nam là giải phóng dân tộc, đem lại độc lập tự do cho Tổ quốc, hạnh phúc cho nhân
dân. Tư tưởng đóđược kết tinh thành một tuyên ngôn bất hủ không chỉđối với nhân dân
Việt Nam mà còn đối với toàn thể loài người tiến bộ: Không có gì quý hơn độc lập, tự do.
-Để thực hiện lý tưởng nhân văn đó, Hồ Chí Minh đã vạch ra con đường đúng đắn cho
cách mạng Việt Nam là “ Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội”. Giải phóng dân
tộc là mục tiêu số một khi đất nước còn nô lệ. Vì vậy ham muốn tột bậc của Người là
“làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do”. Độc lập, tự
do trở thành bản chất cao quý trong tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh, trở thành ngọn cờ
chiến đấu và mục tiêu suốt đời hi sinh cống hiến của Người. Bởi vìđó làđiều kiện tiên
quyết đem lại hạnh phúc và tiến bộ cho nhân dân Việt Nam.
- Lý tưởng nhân văn đó được Hồ Chí Minh biến thành mục tiêu của cách mạng Việt Nam
là xây dựng xã hội mới- xã hội xã hội chủ nghĩa. Với sức mạnh khoa học của chủ nghĩa
Mac- Lênin, với niềm tin sắt đá vào tương lai vàý chí quyết tâm của người cộng sản,
Người đã lãnh đạo nhân dân Việt Nam lam nên những chiến công hiển hách. Tư tưởng
nhân văn Hồ Chí Minh thấm sâu trong đường lối của Đảng, trở thành ngọn cờ hướng dẫn
nhân dân ta làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954 chấn động địa cầu vàđại
thắnng mùa xuân 1975 thần thánh.
-Đất nước giành được độc lập, dân tộc giành được tự do,nhiệm vụ trọng tâm của dân tộc
Việt Nam là xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đó là lô-gích tất yếu của lý thuyết phát triển theo
hướng nhân văn, vì chủ nghĩa xã hội là xã hội phù hợp nhất với bản chất con người, là xã
hội tốt đẹp nhất mà loài người hằng vươn tới. Xã hội xã hội chủ nghĩa Việt Nam do
Người lãnh đạo toàn dân xây dựng không phải là thứ chủ nghĩa xã hội cực đoan, hẹp hòi,
vị kỷ của một giai cấp, một đảng phái nào. Mục tiêu và phương thức tiến hành xây dựng
chủ nghĩa xã hội của Hồ Chí Minh cũng không chỉ là chuyên chính, phá bỏ, cũng không
phải là một cái gìđó mơ hồ, không tưởng như nhiều người, nhiều đảng đương thời trên lOMoARcPSD| 40651217
thế giới quan niệm. Đó là chủ nghĩa xã hội hiện thực, cụ thể gắn liền với dặc điểm lịch
sử, truyền thống văn hoá và bản sắc dân tộc. Chủ nghĩa xã hội mà người lãnh đạo ở Việt
Nam là một xã hội mới công bằng, nhân đạo và tốt đẹp, nhằm mục tiêu cụ thể là: dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, con người hạnh phúc.
-Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội do Hồ Chí Minh lãnh đạo thực sự là một cuộc cách
mạng giải phóng và phát triển mọi tiềm năng của dân tộc, của xã hội, cụ thể là giải phóng
và phát triển con người. Người luôn quan niệm rằng: “ Nếu nước độc lập mà người dân
không hưởng hạnh phúc tự do thìđộc lập cũng chẳng cóý nghĩa gì”. Chính tấm lòng nhân
hậu Hồ Chí Minh đãđúc kết nên tư tưởng nhân văn của Người: con người không chỉđược
giải phóng về mặt xă hội, mà chủ yếu và cuối cùng là giải phóng và phát triển toàn bộ
bản chất và bản tính tốt đẹp của mình. Bản chất sâu xa, lớn lao trong tư tưởng nhân văn
Hồ Chí Minh là, tất cảđều vì sự phát triển con người Việt Nam: xoá bỏ tha hoá, trả lại
cho con người phẩm chất Người, giải phóng toàn bộ tiềm năng, thể chất, trí tuệ, tài năng
sáng tạo của con người, tạo mọi điều kiện cho con người phát triển toàn diện - hài hoà
vềđức - trí - thể - mỹ . Với tinh thần đó, Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến thanh, thiếu
niên. Vì thanh niên là:” người chủ tương lai của nước nhà”,”nước nhà thịnh hay suy, yếu
hay mạnh một phần lớn là do các thanh niên”. Người yêu cầu Chính phủ phải chúýđặc
biệt tới việc giáo dục thanh, thiếu niên về thể dục, đức dục và trí dục.
Một điểm đáng được lưu ý là tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh có tính vượt thời đại,
đó là sự tuyệt đối tin tưởng vào thắng lợi ngày mai, lo cho tương lai của đất nước. Trong
chiến tranh ác liệt, vận mệnh đất nước lâm nguy, nhưng với nhãn quan duy vật biện
chứng, Hồ Chí Minh đã thấy trước thắng lợi tất yếu của cách mạng Việt Nam. Người
luôn nghĩ tới vàđặt kế hoạch cho sự phát triển tương lai của đất nước. Người có kế hoạch
đào tạo nhân tài cho đất nước, kể cảđào tạo ở nước ngoài. Trong hoàn cảnh đời sống vật
chất còn rất nhiều khó khăn, Người vẫn quan tâm xây dựng đời sống văn hoá, phát triển
khoa học kỹ thuật. Đặc biệt, Người rất quan tâm tới xây dựng và phát triển đời sống tinh
thần của nhân dân. Theo Người, giá trị thiêng liêng nhất, cao quý nhất và trường tồn nhất
của con người chính là giá trị tinh thần. Càng lùi xa chiến tranh, lùi xa đời sống vật chất lOMoARcPSD| 40651217
khó khăn, thiếu thốn của quá khứ, chúng ta càng thấy tư tưởng đó của Người làđúng đắn
và sẽ mãi giữ nguyên giá trị
VII.TƯ TƯỞNG HCM ĐỐI VỚI SỰ PT CỦA THẾ GIỚI
a. Phản ánh khát vọng thời đại:
Hồ Chí Minh là nhân vật lịch sử vĩ đại, không chỉ là sản phẩm của dân tộc, của giai cấp
công nhân Việt Nam mà còn là sản phẩm của thời đại, của nhân loại tiến bộ.
Bởi lẽ, Người có những cống hiến xuất sắc về lý luận cách mạng giải phóng dân tộc,
giành độc lập dân tộc, tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội theo con đường cách mạng vô sản.
-Việc xác định đúng đắn những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam và các vấn đề về
chủ nghĩa xã hội và xây dựng chủ nghĩa xã hội; về hòa bình, hợp tác, hữu nghị giữa các
dân tộc… có giá trị to lớn về mặt lý luận và đang trở thành hiện thực của nhiều vấn đề quốc tế ngày nay.
b. Tìm ra các giải pháp đấu tranh giải phóng loài người:
Đóng góp lớn nhất của Hồ Chí Minh đối với thời đại là việc xác định con đường cách
mạng giải phóng các dân tộc thuộc địa thoát khỏi ách nô dịch của chủ nghĩa đế quốc. Các
dân tộc thuộc địa cần phải đoàn kết, liên minh với nhau trong cuộc đấu tranh chống kẻ
thù chung là chủ nghĩa đế quốc.
-Bên cạnh đó, Hồ Chí Minh còn nhận thức đúng sự biến chuyển của thời đại, đặc điểm
của thời đại, đặt cách mạng giải phóng các dân tộc thuộc địa vào phạm trù cách mạng vô
sản: xác định giai cấp lãnh đạo, phương pháp cách mạng và hướng phát triển của phong
trào giải phóng dân tộc. Người khẳng định: “Trong thời đại đế quốc chủ nghĩa ở một
nước thuộc địa nhỏ, với sự lãnh đạo của giai cấp vô sản và Đảng của nó, dựa vào quần
chúng nhân dân rộng rãi, trước hết là nông dân và đoàn kết được mọi tầng lớp nhân dân
yêu nước trong Mặt trân thống nhất, với sự đồng tình và ủng hộ của phong trào cách lOMoARcPSD| 40651217
mạng thế giới, trước hết là của phe xã hội chủ nghĩa hùng mạnh, nhân dân nước đó nhất định thắng lợi”.
c. Cổ vũ các dân tộc đấu tranh vì những mục tiêu cao cả:
Tư tưởng Hồ Chí Minh là ngọn cờ lý luận soi đường cho cách mạng Việt Nam đi từ
thắng lợi này đến thắng lợi khác, xóa bỏ được mọi hình thức áp bức, bóc lột, xây dựng
chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước.
-Trong lòng nhân dân thế giới, Chủ tịch Hồ Chí Minh là bất diệt. Tư tưởng Hồ Chí Minh
là nguồn cổ vũ đối với tất cả các dân tộc thuộc địa châu Á, châu Phi đứng dậy đấu tranh
giải phóng khỏi ách áp bức bóc lột của đế quốc phong kiến, đấu tranh cho độc lập tự do.
Tư tưởng Hồ Chí Minh đã chỉ đường cho các dân tộc đi tới thực hiện ước mơ cao đẹp của con người.
VII.QUAN ĐIỂM CỦA HCM VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA VẤN ĐỀ DÂN TỘC VÀ VẤN ĐỀ GIAI CẤP
* Vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp có mối quan hệ chặt chẽ với nhau.
Hồ Chí Minh rất coi trọng vấn đề dân tộc, đề cao sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước,
nhưng Người luôn đứng trên quan điểm giai cấp để nhận thức và giải quyết vấn đề dân
tộc. Sự kết hợp vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc của Hồ Chí Minh thể hiện: -
Khẳn định vai trò lịch sử của giai cấp công nhân và quyền lãnh đạo duy nhất của
Đảng Cộng sản trong quá trình cách mạng Việt Nam; -
Chủ trương đại đoàn kết dân tộc rộng rãi trên nền tảng liên minh công nhân, nông
dân và tầng lớp trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng; -
Sử dụng bạo lực cách mạng của quần chúng để chống lại bạo lực phản cách mạng của kẻ thù; -
Thiết lập chính quyền nhà nước của dân, do dân và vì dân; lOMoARcPSD| 40651217 -
Gắn kết mục tiêu độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội.
* Giải phóng dân tộc là vấn đề trên hết, trước hết; độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội
- Khác với con đường cứu nước của ông cha, gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa phong
kiến hoặc tư bản, con đường cứu nước của Hồ Chí Minh là độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội. Vì theo Người, chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải
phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh vừa phản ánh quy luật khách quan của sự nghiệp giải phóng dân
tộc trong thời đại chủ nghĩa đế quốc, vừa phản ánh mối quan hệ khăng khít giữa mục tiêu
giải phóng dân tộc với mục tiêu giải phóng giai cấp và giải phóng con người.
* Giải phóng dân tộc tạo tiền đề để giải phóng giai cấp
Hồ Chí Minh giải quyết vấn đề dân tộc theo quan điểm giai cấp, nhưng đồng thời đặt vấn
đề giai cấp trong vấn đề dân tộc. Giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị của chủ nghĩa
thực dân là điều kiện để giải phóng giai cấp. Vì thế, lợi ích của giai cấp phải phục tùng lợi ích dân tộc.
* Giữ vững độc lập dân tộc cho dân tộc mình, đồng thời tôn trọng độc lập của dân tộc khác
Nêu cao tinh thần độc lập tự chủ, thực hiện nguyên tắc về quyền dân tộc tự quyết, nhưng
Hồ Chí Minh không quên nghĩa vụ quốc tế trong việc ủng hộ các cuộc đấu tranh giải
phóng dân tộc trên thế giới. Người đề ra khẩu hiệu “Giúp bạn là giúp mình” và chủ
trương phải bằng thắng lợi của cách mạng mỗi nước mà đóng góp vào thắng lợi chung
của cách mạng thế giới.
VIII.QUAN ĐIỂM CỦA HCM VỀ MỤC TIÊU VÀ ĐỘNG LỰC CỦA CNXH Ở VN * Mục tiêu lOMoARcPSD| 40651217 -Mục tiêu chung:
Ở Hồ Chí Minh, mục tiêu chung của CNXH và mục tiêu phấn đấu của Người là một, đó
là độc lập tự do cho dân tộc, hạnh phúc cho nhân dân; đó là làm sao cho nước ta được
hoàn toàn độc lập, nhân dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo
mặc, ai cũng được học hành. - Mục tiêu cụ thể:
+ Về chính trị: phải là do nhân dân lao động làm chủ, Nhà nước là của dâ, do dân, và vì dân.
+ Về kinh tế: Đó là nền kinh tế XHCN với công – nông nghiệp hiện đại, khoa học – kỹ
thuật tiên tiến, cách bóc lột theo chủ nghĩa tư bản được bỏ dần, đời sống vật chất của
nhân dân ngày càng được cải thiện.
+ Về văn hóa – xã hội: Theo Người, văn hóa là một mục tiêu cơ bản của cách mạng
XHCN. Văn hóa thể hiện trong mọi sinh hoạt của nhân dân, đó là xóa nạn mù chữ, xây
dựng, phát triển giáo dục, nâng cao dân trí, xây dựng, phát triển văn hóa nghệ thuật, thực hiện nếp sống mới…
+ Về bản chất của nền văn hóa XHCN Việt Nam, Người khẳng định: “Phải XHCN về nội
dung”. Để có một nền văn hóa như thế, ta phải phát huy vốn quý báu của dân tộc, đồng
thời học tập văn hóa tiên tiến của thế giới. Phương châm xây dựng nền văn hóa mới là: dân
tộc, khoa học, đại chúng. * Động lực
-Để đạt được những mục tiêu trên, theo Hồ Chí Minh cần phải có những động lực, nhất là
động lực bên trong. Những động lực đó là: vật chất và tinh thần; nội sinh và ngoại sinh.
(động lực thúc đẩy và cản trở) lOMoARcPSD| 40651217
-Người khẳng định: động lực quan trọng và quyết định nhất là con người, là nhân dân lao
động, nòng cốt là công – nông – trí thức. Người nhận thấy được ở động lực này có sự kết
hợp giữa cá nhân với xã hội.
-Hồ Chí Minh rất coi trọng động lực kinh tế, phát triển kinh tế, sản xuất, kinh doanh, giải
phóng mọi năng lực sản xuất, làm cho mọi người, mọi nhà trở nên giàu có, ích quốc, lợi
dân gắn kinh tế với kỹ thuật, kinh tế với xã hội.
-Văn hóa, khoa học, giáo dục là một động lực tinh thần không thể thiếu của CNXH.
-Hồ Chí Minh nhận thấy sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng có ý nghĩa quyết định đối với sự
phát triển của chủ nghĩa xã hội. Đây là hạt nhân trong hệ động lực của chủ nghĩa xã hội.
-Theo Hồ Chí Minh, phải biết kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại, tăng
cường đoàn kết quốc tế, chủ nghĩa yêu nước phải gắn liền với chủ nghĩa quốc tế của giai
cấp công nhân, phải sử dụng tốt những thành quả KH – KT thế giới.
-Bên cạnh chỉ ra những nguồn động lực, Hồ Chí Minh còn cảnh báo, ngăn ngừa các yếu
tố kìm hãm, triệt tiêu nguồn lực vốn có của CNXH, làm cho CNXH trở nên trì trệ, xơ
cứng, không có sức hấp dẫn, đó là tham ô, lãng phí, quan liêu…
-Giữa nội lực và ngoại lực, Hồ Chí Minh xác định rất rõ nội lực là quyết định nhất, ngoại lực là rất quan trọng.
IX. VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HCM VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC TRONG
THỜI ĐẠI HIỆN NAY
1. Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc:
để thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đòi
hỏiđảng, nhà nước phải xây dựng và phát huy cao độ sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc,
kết hợp sứcmạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.Trong thời gian qua, nhìn chung, khối đại
đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấpcông nhân với giai cấp nông dân và
đội ngũ trí thức được mở rộng hơn, là nhân tố quan trọng thúcđẩy sự phát triển kinh tế, xã lOMoARcPSD| 40651217
hội, giữ vững ổn định chính trị xã hội của đất nước. Tuy nhiên, trongkhi sự nghiệp đổi
mới đang có yêu cầu cao về tập hợp sức mạnh của nhân dân thì việc tập hợpnhân dân vào
mặt trận và các đoàn thể, các tổ chức xã hội còn nhiều hạn chế, nhất là ở khu vựckinh tế
tư nhân, khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, ở một số vùng có đông đồng
bào theo đạo, đồng bào dân tộc thiểu số...
trong công cuộc đổi mới, mặt trận tổ quốc việt nam với tính chất là một tổ chức liên minh
chính trị, liênhiệp tự nguyện rộng lớn nhất của nhân dân ta, nơi thể hiện ý chí và nguyện
vọng của mọi tầng lớp nhândân, nơi hiệp thương và thống nhất hành động của các thành
viên, đã phối hợp với chính quyền giảiquyết ngày càng có hiệu quả những vấn đề bức xúc
của nhân dân, thực hiện dân chủ, đổi mới xã hội,chăm lo lợi ích chính đáng của các tầng
lớp nhân dân; tham gia ngày càng thiết thực vào việc xây dựng,giám sát, bảo vệ đảng và
chính quyền.Với tư cách là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, mặt trận tổ quốc
việt nam đã phối hợp ngàycàng nhiều hơn với chính quyền các cấp từ trung ương đến địa
phương trong việc thực hiện các nhiệmvụ kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng và đối
ngoại nhằm cùng nhau nỗ lực xây dựng và bảo vệ tổquốc.
trước yêu cầu của nhiệm vụ mới, mặt trận tổ quốc việt nam phải chủ động góp phần cùng
đảngvà nhà nước xây dựng và hoàn thiện một số chính sách chung để sức mạnh đại đoàn
kết toàn dântộc trở thành động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định, bảo đảm
thắng lợi bền vữngcủa sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc.kế thừa và phát huy truyền
thống vẻ vang, mặt trận tổ quốc việt nam chủ trương “đoàn kếtrộng rãi, đoàn kết chân
thành mọi thành viên trong xã hội có thể đoàn kết được, không phân biệtquá khứ, thành
phần giai cấp, dân tộc, tôn giáo, ở trong nước hay ở nước ngoài trên cơ sở mụctiêu chung
là giữ vững độc lập thống nhất chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia vì mục tiêu“dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”; đoàn kết giữa nhân dân với
nhândân các nước trên thế giới; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc để trở thành
động lực chủyếu để xây dựng và bảo vệ vững chắc tổ quốc”.trong những năm trước mắt,
mặt trận tập trung đẩy mạnh hơn nữa các cuộc vận động, các phong trào thi đua yêu lOMoARcPSD| 40651217
nước, nhất là cuộc vận động “toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoáở khu dân cư”
và cuộc vận động “ngày vì người nghèo”, phấn đấu xoá xong nhà dột nát cho
ngườinghèo, góp phần cùng đảng và nhà nước thực hiện mục tiêu đến năm 2010 đưa đất
nước ta ra khỏitình trạng nước kém phát triển.
2. Khơi dậy và phát huy tinh thần đại đoàn kết dân tộc:
trong thực tiễn, việc chuyển sức mạnh đoàn kết dân tộc trong thời kỳ giữ nước sang thời kỳdựng
nước không phải là việc dễ dàng, lịch sử đang đòi hỏi những nỗ lực lớn của đảng và nhànước ta trong
lĩnh vực này. Vận dụng tư tưởng hồ chí minh trong xu thế hiện nay là hội nhập kinhtế quốc tế, một
loạt vấn đề đặt ra mà chúng ta phải chú ý:- khơi dậy và phát huy cao độ sức manh nội lực, phải xuất
phát từ lợi ích dân tộc, từ phát huynội lực dân tộc mà mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, tranh thủ mọi
khả năng có thể tranh thủ đượcđể xây dựng, phát triển đất nước.- trong điều kiện xây dựng nền kinh
tế thị trường đinh hướng xã hội chủ nghĩa, để khơi dậy và phát huy tối đa nội lực, nâng cao ý chí tự
cường dân tộc, trong chính sách đại đoàn kết, phải chú ý phát huy tính năng động của mỗi người, mỗi
bộ phận để mọi việc từ lãnh đạo, quản lý, đến sảnxuất kinh doanh, học tập và lao động đều có năng
suất, chất lượng, hiệu quả ngày càng cao. Đồngthời, phải khắc phục được những tiêu cực của kinh tế
thị trường, đặc biệt tâm lý chạy theo đồngtiền, cạnh tranh không lành mạnh làm phai nhạt truyền
thống đoàn kết, tình nghĩa tương thântương ái của dân tộc, giải quyết đói nghèo, thu hẹp khoảng
cách, ranh giới giữa kinh và thượng,giữa nông thôn và thành thị, cũng cố khối đại đoàn kết 54 dân tộc
anh em, chăm lo đời sống đồng bào dân tộc ít người, đặc biệt là vùng sâu, vùng xa, tôn trọng tín
ngưỡng tôn giáo, các tập quán tốtđẹp của dân tộc, kiên quyết loại bỏ những âm mưu lợi dụng tôn
giáo, tà giáo để gây rối.- phải xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Phải chống các tệ
nạn xã hội, nhất làtệ nạn tham nhũng, quan liêu, vi phạm quyền làm chủ của nhân dân, phải biết lắng
nghe những ýnguyện chính đáng của nhân dân, phải kịp thời giải quyết những oan ức của nhân dân,
làm cholòng dân được yên. Phải tiếp tục đổi mới chính sách giai cấp, chính sách xã hội, đặc biệt coi
trọngviệc xây dựng mặt trận, đổi mới, hoàn thiện chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo, chính
sáchđối với công nhân, với nông dân, với trí thức, chính sách đối với cộng đồng người việt nam ở
nước ngoài, chính sách đối với các thành phần kinh tế, tập hợp đến mức rộng rãi nhất mọi nhântài,
vật lực vào sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước.- trong điều kiện thực hiện lOMoARcPSD| 40651217
chính sách mở cửa, hội nhập quốc tế, đa phương hóa, đa dạng hóaquan hệ đối ngoại trong xu thế khu
vực hóa, toàn cầu hóa kinh tế ngày càng phát triển, đòi hỏi phải củng cố sự đoàn kết với phong trào
cách mạng các nước, đồng thời phải nắm vững phươngchâm ngoại giao mềm dẻo, có nguyên tắc
nhằm thực hiện thắng lợi chính sách đối ngoại hiện naycủa đảng và nhà nước ta là: việt nam muốn là
bạn và đói tác tin cậy với tất cả các nước trong cộngđồng quốc tế, vì hòa bình, hợp tác và phát
triển.trong tình hình thế giới hiện nay, đòi hỏi chúng ta phải có những chủ trương đúng đắn, sángtạo
trong việc nắm bắt cơ hội, vượt qua thử thách, đẩy lùi nguy cơ, để vừa nâng cao hiệu quả hợptác
quốc tế, vừa giữ vững bản sắc dân tộc, giữ vững đinh hướng xã hội chủ nghĩa.ngoài ra, đảng và nhà
nước ta phải chủ trương phát huy mạnh mẽ sức mạnh dân tộc - sứcmạnh của chủ nghĩa yêu nước, sức
mạnh của người làm chủ, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, trêncơ sở sức mạnh bên trong mà tranh thủ
và vận dụng sự đồng tình, ủng hộ rộng rãi của lực lượng bên ngoài.
Đề tài thuyết trình: Hồ Chí Minh nói: “ Văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi”. Làm sáng tỏ
luận điểm và liên hệ với vấn đề xây dựng văn hóa mới trong giai đoạn hiện nay?
Bài thuyết trình của chúng em gồm 3 phần
1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về văn hóa
2. Hiện trạng nền văn hóa việt nam
3.Giải pháp xây dựng nền văn hóa Việt Nam hiện đại I.
Quan điểm của Hồ Chí Minh về văn hóa.
Trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh, tư tưởng về văn hóa chiếm một vị trí quan trọng. Nó là sự
chắt lọc, tổng hợp và kết tinh những giá trị văn hóa của Việt Nam với văn hóa phương Đông và
Phương Tây, là sự kết hợp của truyền thống và hiện đại, của dân tộc và quốc tế mà cốt lõi là sự kết
hợp chủ nghĩa Mác – Lênin với tinh hoa, bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam. Theo Hồ Chí Minh thì
văn hóa có vai trò to lớn trong đời sống của mỗi quốc gia dân tộc.
Hồ Chí Minh nêu lên khái niệm văn hoá như sau: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc
sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn
giáo, văn học nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức
sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hoá. Văn hoá là sự tổng hợp của mọi lOMoARcPSD| 40651217
phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những
nhu cầu đời sống và đòi hỏi sự sinh tồn”.
Văn hóa được xây dựng và bồi đắp nên trong suốt chiều dài lịch sử, nó làm nên nền tảng tinh thần
của một xã hội, giữ vai trò quan trọng vừa là mục tiêu, vừa là động lực để phát triển KT-XH. Phải giữ
gìn và phát huy những truyền thống, bản sắc văn hóa dân tộc. Đó là những giá trị bền vững, những
tinh hoa của cộng đồng dân tộc VN được hun đúc lên qua hàng nghìn năm lịch sử. Đó là lòng yêu
nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng, dũng cảm trong chiến
đấu…Bên cạnh việc giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc phải biết tiếp thu tinh hoa văn hóa thế giới,
biến gạn đục khơi trong, nâng cao trình độ văn hóa của nhân dân, biết chọn lọc và sáng tạo cho phù
hợp với hoàn cảnh và đặc tính của dân tộc mình.
Văn hóa cũng phải thắm nhuần sâu sắc quan điểm: Vì dân phục vụ và phát huy sức mạnh của toàn
dân làm văn hóa. Làm cho văn hóa thắm sâu vào đời sống và hoạt động xã hội vào mọi lĩnh vực sinh
hoạt và quan hệ con người là yêu cầu rất cao, là nhiệm vụ khó khăn và lâu dài. Chỉ khi nào được mọi
tầng lớp nhân dân, mọi tổ chức chính trị xã hội, các đoàn thể tôn giáo, nhà trường và gia đình… tham
gia tích cực, thường xuyên và liên tục thì văn hóa mới có thể thực hiện được những nhiệm vụ đã đề ra.
Tư tưởng HCM về văn hóa đã và đang là định hướng lớn cho việc xây dựng và phát triền nền văn
hóa nước ta. Mó mãi là ánh sáng soi đường cho công cuộc xây dựng và phát triển nần văn hóa nước nhà!
Hồ Chí Minh đưa ra một quan điểm tổng quát nhất về vai trò của văn hoá là: “Văn hoá soi
đường cho quốc dân đi”. Để làm rõ luận điểm “văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi”, Hồ
Chí Minh đã thấy rõ ý nghĩa, vị trí, vai trò của văn hóa đối với sự phát triển xã hội. Tiếp cận
theo nghĩa rộng, Người phác họa các nét cơ bản của "văn hóa soi đường" vừa phải được biểu
hiện, vừa phải là kết quả tổng hòa của các yếu tố:
1. Xây dựng tâm lý: Tinh thần độc lập, tự cường.
2. Xây dựng luân lý: Biết hy sinh mình, làm lợi cho quần chúng.
3. Xây dựng xã hội: Mọi sự nghiệp có liên quan đến phúc lợi nhân dân trong xã hội.
4. Xây dựng chính trị: Dân quyền. 5. Xây dựng kinh tế". lOMoARcPSD| 40651217
HCM nó rằng “văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi” chính là muốn nói văn háo đã làm
cho lý trí con người thêm sáng suốt và tình cảm con người ngày càng trở nên tươi đẹp hơn.
Văn hoá đi đến mục tiêu giải phóng con người, giải phóng con người khỏi mọi sự áp bức, bất
công, mọi sự đè nén, ức chế của tự nhiên, xã hội, đi đến đất nước của tự do - điều đó tạo ra sự thôi
thúc mãnh liệt cho mọi người hợp lực lại, đoàn kết lại để đạt được mục tiêu đó. Sự nghiệp xây dựng
xã hội mới ở nước ta cũng chính là sự nghiệp của văn hoá. Chính vì vậy, văn hoá có vai trò, chức
năng dẫn đường cho cách mạng Việt Nam.
Trước hết, văn hoá định hướng đi cho cả một dân tộc. Bản thân Hồ Chí Minh đã khởi đầu xây
dựng một nền văn hoá mới cho dân tộc theo hướng dân tộc, khoa học và đại chúng. Việc chọn hướng
đi cho cả một dân tộc là một công việc rất hệ trọng. Hồ Chí Minh đã chọn con đường độc lập dân tộc
gắn liền với CNXH. Đó cũng là sự lựa chọn của văn hoá. Sự định hướng đúng đắn ấy đã có tác dụng
huy động toàn bộ sức mạnh của dân tộc – cả quá khứ và hiện tại – kết hợp với sức mạnh của thời đại,
vào việc phát triển theo con đường đó.
Hai là, trong sự phát triển của dân tộc, văn hoá điều chỉnh sự hoạch định cương lĩnh, đường lối,
chính sách của hệ thống chính trị. Tính đúng đắn của cương lĩnh, đường lối, chính sách, chủ trương
của hệ thống chính trị thường là tỷ lệ thuận với trình độ văn hoá của dân tộc. Đồng thời, hành vi văn
hoá của tổ chức chính trị, của con người cũng phản ánh trình độ văn hoá chính trị của tổ chức, hoặc con người đó.
Ba là, văn hoá chính là thước đo của sự phát triển xã hội. Một chỉ số phát triển chung của một dân
tộc phải được coi là chỉ số phát triển của văn hoá. Do vậy, không thể lấy chỉ số phát triển của một
lĩnh vực đơn lẻ để đo sự phát triển chung của một dân tộc, tuy rằng chỉ số ấy rất quan trọng.
Văn hóa khẳng định cốt cách của dân tộc, của cộng đồng dân cư. Mỗi một dân tộc, quốc gia, mỗi
một cộng đồng dân cư… trong quá trình hình thành và phát triển đều hình thành nên một cốt cách,
hay bản sắc văn hóa riên biệt. Không có dân tộc, quốc gia nào mà lại không có một nền văn hóa sở
thuộc và ngược lại, không có văn hóa nằm ngoài dân tộc, quốc gia. Nếu đánh mất đi cái cốt cách, bản
sắc văn hóa thì coi như đánh mất đi chính mình và cộng đồng dân cư, dân tộc, quốc gia sẽ bị đồng hóa. lOMoARcPSD| 40651217
Các cộng đồng dân cư, các dân tộc, quốc gia luôn có sự giao lưu về văn hóa nhưng cái chính là
phải biết giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc của riêng mình “hòa nhập chứ đừng để hòa tan”, điều đó
chứng tỏ được sức sống và lòng tự hào dân tộc cảu mỗi quốc gia, dân tộc.
Đồng thời, quá trình đó còn là quá trình tiếp nhận những yếu tố ngoại lai, nhào nặn, chắt lọc để
làm giàu văn hóa cho mình nhưng cái gốc vẫn là những yếu tố văn hóa bản địa. Do vậy, văn hóa của
mỗi quốc gia, dân tộc là yếu tố nội sinh có vai trò cực kỳ quan trọng để bảo tồn và phát triển dan tộc mình.
Đó là việc phải chủ động gaio lưu, không nên đóng cửa, không bài ngoại mà hội nhập. Đó là việc
phải tiếp thu những cái tốt, không được lai căng. HCM cho rằng: “phải mở rộng tri thức của mình về
văn hóa thế giới; đống thời phải tránh phải tránh nguy cơ chúng ta trở thành những kẻ bắt chước. VH
của các dên tộc khác cần phải được nghiên cứu một cách toàn diện, chỉ có như thế mới có thể thu lại
được nhiều hơn cho văn hóa của chình mình”.
Bản sắc VH của mỗi dân tộc không bao giờ là bất biến, nó là yếu tố động. Nó “động” nhưng
vẵn giữ được cốt cách của một dân tộc, một cộng đồng. Mỗi dân tộc đều phải có một trách
nhiệm chăm lo đến việc giữ gìn và phát huy bản sắc VH dân tộc của mình và không để chịu
một sức ép nô dịch về văn hóa. Đồng thời VH cũng có tính đặc thù riêng cho từng dân tộc,dân
tộc này không thể đem những giá trị VH của dân tộc mình áp đặt lên dân tộc khác.
Như vậy, chính bản sắc dân tộc là yếu tố đảm bảo cho các quyền dân tộc cơ bản của mỗi
quốc gia: độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ. II.
Liên hệ thực trạng nền VH nước ta trong giai đoạn hiện nay. 1. Thành tựu
Trong điều kiện hiện nay đất nước ta đang đi lên XHCN, văn háo VN cũng đã đạt được
nhiều thành tựu đáng kể. Trước tiên phải xét đến lĩnh vực tư tưởng lối sống và đạo đức – trong
lính vực này, chúng ta đi theo con đường CN Mác-Lênin và tư tưởng HCM. Đây chính là con
đường đúng đắn mà từ đây vận dụng và sáng tạo cho nền văn hóa dân tộc. Có thể coi đây là
kim chỉ nam cho hành động của Đảng và Cách Mạng nước ta phát triển đúng hướng. Nhờ đó
mà ý thức rèn luyện phấn đấu cho lý tưởng của Đảng được nâng cao lên. Sự nghiệp giáo dục,
KH-KT, văn học nghệ thuật thu được rất nhiều thành quả. Trình độ dân chúng nâng cao, học
vấn của thế hệ trẻ mở rộng các hoạt động sáng tạo có bước phát triển mới. Nhiều bộ môn nghệ lOMoARcPSD| 40651217
thuật truyền thống được giữ gìn như: hội họa, sươn mài, tuồng, cải lương,.... Quan hệ hợp tác
quốc tế được chú trọng, thông tin đại chúng phát triển nhanh cả về số lấn chất lượng. Điều này
dần khẳng định vị thế của VN trên trường quốc tế, nền văn hóa trong nước ngày càng có điều
kiện tiếp thu tinh hoa văn hóa thế giới. Đồng thời cũng có thể giới thiệu với bạn bè quốc tế về nền VH đậm chất VN.
Sau 15 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII đã đạt được những thành tựu
đáng kể: Vai trò của văn hóa truyền thống được đề cao, thiết chế văn hóa được củng cố, tăng
cường về số lượng, từng bước nâng cao chất lượng; vai trò của văn hóa trong phát triển kinh tế
ngày càng được chú trọng; xã hội hóa hoạt động văn hóa được đẩy mạnh nhất là trong công
tác bảo tồn di sản văn hóa, hoạt động sân khấu, văn nghệ quần chúng, giao lưu văn hóa quốc
tế, mở rộng hợp tác đào tạo nguồn nhân lực; xây dựng đời sống văn hóa cơ sở. Phong trào
“Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” có tác động to lớn đối với việc xóa đói giảm
nghèo, tương thân tương ái, góp phần ổn định chính trị, giữ gìn, bảo vệ trật tự, an toàn xã hội,
xây dựng nếp sống văn hóa, môi trường văn hóa lành mạnh ở cơ sở. Việc ban hành luật pháp,
chính sách về văn hóa được quan tâm và có tác động tích cực tới đời sống văn hóa- xã hội,
tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước trên lĩnh vực văn hóa.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, đánh giá: Hoạt động văn hoá, văn nghệ, thông tin, thể
dục, thể thao ngày càng được mở rộng, từng bước đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hoá ngày
càng cao của nhân dân. Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá” từng bước đi vào chiều sâu.
Nguyên nhân của thành tựu: Là sự kết hợp giữa vai trò lãnh đạo chỉ đạo của Đảng sự
quản lý Nhà nước và sự tham gia chấp hành của nhân dân. Nhờ những chính sách sáng suốt
của Đảng và Nhà nước nên nền kinh tế đã vượt qua được những cơn hoạn nạn. 2. Hạn chế
So với yêu cầu của thời kỳ đổi mới, trước những biến đổi ngày càng phong phú trong đời
sống xã hội những năm gần đây, những thành tựu và tiến bộ đạt được trong lĩnh vực văn hóa
còn chưa tương xứng và chưa vững chắc, chưa đủ để tác động có hiệu quả đối với các lĩnh vực
của đời sống xã hội, đặc biệt là lĩnh vực tư tưởng, đạo đức, lối sống. Sự suy thoái về phẩm lOMoARcPSD| 40651217
chất, đạo đức, lối sống tiếp tục diễn biến phức tạp, có một số mặt nghiêm trọng hơn, tổn hại
không nhỏ đến uy tín của Đảng và Nhà nước, niềm tin của nhân dân.
Sự phát triển của văn hóa chưa đồng bộ và tương xứng với tăng trưởng kinh tế, thiếu gắn
bó với nhiệm vụ xây dựng và chỉnh đốn Đảng là một trong những nguyên nhân ảnh hưởng đến
quá trình phát triển kinh tế và nhiệm vụ xây dựng Đảng. Nhiệm vụ xây dựng con người Việt
Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa chưa tạo được chuyển biến rõ rệt. Môi
trường văn hóa còn bị ô nhiễm bởi các tệ nạn xã hội, sự lan tràn của các sản phẩm và dịch vụ
văn hóa mê tín dị đoan, độc hại, thấp kém, lai căng... Sản phẩm văn hóa và các dịch vụ văn
hóa ngày càng phong phú nhưng vẫn rất thiếu những tác phẩm văn học, nghệ thuật có giá trị
cao về tư tưởng và nghệ thuật, có ảnh hưởng tích cực và sâu sắc trong đời sống. Có biểu hiện
lúng túng, hữu khuynh trong cuộc đấu tranh giữa các khuynh hướng tư tưởng trong lý luận -
phê bình và sáng tác, trước những tác động ngày càng phức tạp của quá trình hội nhập kinh tế
và giao lưu văn hóa. Xu hướng "thương mại hóa", chạy theo thị hiếu thấp kém trong một bộ
phận báo chí, xuất bản, hoạt động văn hóa nghệ thuật chưa được ngăn chặn có hiệu quả, đã
làm giảm sút, hạ thấp các chức năng nhận thức, giáo dục, thẩm mỹ của văn hóa.
Việc xây dựng thể chế văn hóa, các văn bản quy phạm pháp luật, các chính sách trên lĩnh
vực văn hóa, đặc biệt là chính sách về quan hệ giữa kinh tế và văn hóa còn chậm, chưa đổi
mới, thiếu đồng bộ, làm hạn chế tác dụng của văn hóa đối với các lĩnh vực quan trọng của đời sống đất nước.
Tình trạng nghèo nàn, thiếu thốn, lạc hậu về đời sống văn hóa - tinh thần ở nhiều vùng
nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào các dân tộc thiểu số và vùng căn cứ
cách mạng trước đây vẫn chưa được khắc phục có hiệu quả. Khoảng cách chênh lệch về hưởng
thụ văn hóa giữa các vùng miền, khu vực, tầng lớp xã hội tiếp tục mở rộng.
Về lĩnh vực giao lưu thông tin với nước ngoài gia tăng quá nhanh khiến cho việc kiểm soát
hết sức khó khăn . Nhiều thông tin mang nội dung tiêu cực có kích động đã xâm nhập làm bại
văn hóa nước ta . Trong công tác thể chế văn hóa còn chậm và thiếu nghiêm minh Việc khen
thưởng và kỷ luật tiến hành rất chậm.
Nguyên nhân của những yếu kém trên: lOMoARcPSD| 40651217
Những khuyết điểm, yếu kém nói trên do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan :
Khách quan : Do các thế lực thù địch ráo riết chống phá trên mọi lĩnh vực . Do nước
ta còn nghèo nhu cầu về văn hóa lơn nhưng chưa đáp ứng đủ vì thiếu thốn vật chất Song
cần nhấn mạnh các nguyên nhân chủ quan là:
+ Nhận thức trong Đảng từ Trung ương đến cấp ủy các cấp về vai trò đặc biệt quan
trọng của văn hóa chưa thật đầy đủ, các quan điểm chỉ đạo, phương hướng phát triển và
các nhiệm vụ của văn hóa được xác định trong Nghị quyết chưa được quán triệt và thực
hiện nghiêm túc, việc tổ chức thực hiện còn thiếu tập trung, chưa đồng bộ, không kiên quyết.
+ Nhiệm vụ xây dựng văn hóa trong Đảng, trong bộ máy nhà nước chưa được triển
khai tích cực, có nơi còn bị xem nhẹ; không ít cán bộ, đảng viên chưa nêu được tấm gương văn hóa cho quần chúng.
+ Trong tổ chức thực hiện, năng lực và tầm lãnh đạo văn hóa của các cấp ủy, chính
quyền, Mặt trận Tổ quốc, đoàn thể còn nhiều hạn chế. Chậm thể chế hóa các quan điểm,
chủ trương lớn, bị động trước những khuynh hướng mới xuất hiện và một số biến đổi phức
tạp trên lĩnh vực văn hóa. Chưa có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng tài năng, nâng cao năng
lực của những người hoạt động, sáng tạo văn hóa; coi nhẹ cuộc đấu tranh trên lĩnh vực lý
luận, phê bình văn học - nghệ thuật; chưa xây dựng được cơ chế, chính sách và giải pháp
phù hợp để phát triển văn hóa trong cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
+ Trong một bộ phận đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ, những người hoạt động trên lĩnh
vực văn hóa, thông tin, báo chí và xuất bản có những biểu hiện xa rời đời sống, lúng túng
trong định hướng sáng tạo và hoạt động nghiệp vụ, chạy theo chủ nghĩa thực dụng, chiều
theo thị hiếu thấp kém đã tạo ra một số sản phẩm văn hóa chất lượng thấp, thậm chí sai trái. 3. Giải pháp:
- Củng cố và tiếp tục xây dựng môi trường văn hoá lành mạnh, phong phú, đa dạng lOMoARcPSD| 40651217
Đưa phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá” đi vào chiều sâu, thiết
thực, hiệu quả; xây dựng nếp sống văn hoá trong các gia đình, khu dân cư, cơ quan, đơn
vị, doanh nghiệp, làm cho các giá trị văn hoá thấm sâu vào mọi mặt đời sống, được thể
hiện cụ thể trong sinh hoạt, công tác, quan hệ hằng ngày của cộng đồng và từng con người,
tạo sức đề kháng đối với các sản phẩm độc hại. Tiếp tục đẩy mạnh việc giáo dục, bồi dưỡng
đạo đức, lối sống có văn hóa; xây dựng nếp sống văn minh trong việc cưới, tang, lễ hội;
ngăn chặn và đẩy lùi các hủ tục, bạo lực, gây rối trật tự công cộng, mại dâm, ma tuý, cờ
bạc... Sớm có chiến lược quốc gia về xây dựng gia đình Việt Nam, góp phần giữ gìn và
phát triển những giá trị truyền thống của văn hoá, con người Việt Nam, nuôi dưỡng, giáo
dục thế hệ trẻ. Đúc kết và xây dựng hệ giá trị chung của người Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế.
Tăng cường hiệu quả hoạt động của hệ thống thiết chế văn hoá ở các cấp, đồng thời có
kế hoạch cải tạo, nâng cấp và đầu tư xây dựng mới một số công trình văn hoá, nghệ thuật,
thể dục, thể thao hiện đại ở các trung tâm kinh tế - chính trị - văn hoá của đất nước. Xã hội
hoá các hoạt động văn hoá, chú trọng nâng cao đời sống văn hoá ở nông thôn, vùng khó
khăn, thu hẹp dần khoảng cách hưởng thụ văn hoá giữa các vùng, các nhóm xã hội, giữa đô thị và nông thôn.
- Phát triển sự nghiệp văn học, nghệ thuật; bảo tồn, phát huy giá trị các di sản văn
hoá truyền thống, cách mạng
Tiếp tục phát triển nền văn học, nghệ thuật Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc,
giàu chất nhân văn, dân chủ, vươn lên hiện đại, phản ánh chân thật, sâu sắc đời sống, lịch
sử dân tộc và công cuộc đổi mới đất nước; cổ vũ, khẳng định cái đúng, cái đẹp, đồng thời
lên án cái xấu, cái ác. Khuyến khích tìm tòi, thể nghiệm những phương thức thể hiện và
phong cách nghệ thuật mới, đáp ứng nhu cầu tinh thần lành mạnh, đa dạng và bồi dưỡng
lý tưởng, thị hiếu thẩm mỹ cho công chúng, đặc biệt là thế hệ trẻ. Bảo vệ sự trong sáng của
tiếng Việt. Khắc phục yếu kém, nâng cao tính khoa học, sức thuyết phục của hoạt động lý
luận, phê bình văn học, nghệ thuật, góp phần hướng dẫn sự phát triển của sáng tạo văn học,
nghệ thuật, từng bước xây dựng hệ thống lý luận văn nghệ Việt Nam. Hoàn thiện và lOMoARcPSD| 40651217
thực hiện nghiêm túc các quy định của pháp luật về sở hữu trí tuệ, về bảo tồn, phát huy giá
trị các di sản văn hoá vật thể và phi vật thể của dân tộc. Gắn kết chặt chẽ nhiệm vụ phát
triển văn hoá, văn nghệ, bảo tồn, phát huy giá trị các di sản văn hoá với phát triển du lịch
và hoạt động thông tin đối ngoại nhằm truyền bá sâu rộng các giá trị văn hoá trong công
chúng, đặc biệt là thế hệ trẻ và người nước ngoài. Xây dựng và thực hiện các chính sách
bảo tồn, phát huy giá trị văn hoá, ngôn ngữ, chữ viết các dân tộc thiểu số. Xây dựng và
thực hiện các chính sách, chế độ đào tạo, bồi dưỡng, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần,
tạo điều kiện để đội ngũ những người hoạt động văn hoá, văn học, nghệ thuật sáng tạo
nhiều tác phẩm có giá trị cao về tư tưởng và nghệ thuật.
- Phát triển hệ thống thông tin đại chúng
Chú trọng nâng cao tính tư tưởng, phát huy mạnh mẽ chức năng thông tin, giáo dục,
tổ chức và phản biện xã hội của các phương tiện thông tin đại chúng vì lợi ích của nhân
dân và đất nước; khắc phục xu hướng thương mại hoá, xa rời tôn chỉ, mục đích trong hoạt
động báo chí, xuất bản. Tập trung đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ hoạt động báo chí,
xuất bản vững vàng về chính trị, tư tưởng, nghiệp vụ và có năng lực đáp ứng tốt yêu cầu
của thời kỳ mới. Rà soát, sắp xếp hợp lý mạng lưới báo chí, xuất bản trong cả nước theo
hướng tăng cường hiệu quả hoạt động, đồng thời đổi mới mô hình, cơ cấu tổ chức, cơ sở
vật chất - kỹ thuật theo hướng hiện đại.
Phát triển và mở rộng việc sử dụng internet, đồng thời có biện pháp quản lý, hạn chế mặt
tiêu cực, ngăn chặn có hiệu quả các hoạt động lợi dụng internet để truyền bá tư tưởng phản
động, lối sống không lành mạnh.
- Mở rộng và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế về văn hoá
Đổi mới, tăng cường việc giới thiệu, truyền bá văn hoá, văn học, nghệ thuật, đất nước,
con người Việt Nam với thế giới. Mở rộng, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động thông
tin đối ngoại, hợp tác quốc tế trong lĩnh vực văn hoá, báo chí, xuất bản. Xây dựng một số
trung tâm văn hoá Việt Nam ở nước ngoài và trung tâm dịch thuật, quảng bá văn hoá Việt Nam ra nước ngoài.
Tiếp thu những kinh nghiệm tốt về phát triển văn hoá của các nước, giới thiệu các tác
phẩm văn học, nghệ thuật đặc sắc của nước ngoài với công chúng Việt Nam. Thực hiện lOMoARcPSD| 40651217
đầy đủ cam kết quốc tế về bảo đảm quyền sở hữu trí tuệ, quyền tác giả các sản phẩm văn
hoá. Xây dựng cơ chế, chế tài ngăn chặn, đẩy lùi, vô hiệu hoá sự xâm nhập và tác hại của
các sản phẩm đồi trụy, phản động; bồi dưỡng và nâng cao sức đề kháng của công chúng, nhất là thế hệ trẻ.