lOMoARcPSD| 58797173
1. Quan niệm về con người
Dựa trên sở thế giới quan, phương pháp luận duy vật
biện chứng, Hồ Chí Minh đã đưa ra quan niệm về con
người. Theo Người, con người một chỉnh thể thống nhất
giữa mặt sinh học mặt hội, chủ thể của các mối
quan hệ xã hội trong lịch sử, là chủ thể sáng tạo và hưởng
thụ các giá trị vật chất và tinh thần của hội. Đối với
Người, giải phóng con người, đem lại hạnh phúc cho con
người mục đích cao nhất, giá trị nhân văn nhất. “Nghĩ
cho cùng, mọi vấn đề... vấn đề đời làm người.
đời làm người phải thương nước, thương dân, thương
nhân loại đau khổ, bị áp bức”.
Con người một thực thể mang tính xã hội: “Chữ Người,
nghĩa hẹp gia đình, anh em, họ hàng, bạn bè. Nghĩa rộng
đồng bào cả nước. Rộng hơn nữa cả loài người”. Con
người đây vừa mỗi thành viên cụ thể, vừa những
cộng đồng người cụ thể trong hội. Trong cộng đồng con
người Việt Nam, quan hệ gia đình, anh em, họ hàng là rất
quan trọng; Hơn nữa, nét độc đáo trong cộng đồng người
Việt Nam là quan hệ đồng bào, cùng một nguồn gốc “con
Rồng cháu Tiên ”. Hồ Chí Minh rất coi trọng sức mạnh
cộng đồng người Việt Nam, tìm mọi cách để bồi dưỡng
phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong quá
trình cách mạng Việt
Nam.
lOMoARcPSD| 58797173
Con người trước hết người lao động, nhân dân lao động
- chủ thể đích thực sáng tạo ra lịch sử hội: Hồ Chí Minh
đã tiếp thu quan điểm Mác - Lênin đặt con người trong
lịch sử sản xuất vật chất để xem xét. Người khẳng định
con người chthể sáng tạo mọi giá trị vật chất, tinh
thần; lao động sáng tạo của người là giá trị cao nhất, nhân
bản nhất của con người. Việt Nam, đó công nhân,
nông dân trí thức, bộ đội.., họ chủ thể sáng tạo hội
mới. Chính vì vậy, Hồ Chí Minh cho rằng “trong bầu trời
không quý bằng nhân dân “Người yêu cầu cán bộ
phải biết ơn những người dân lao động bình thường cơm
chúng ta ăn, áo chúng ta mặc, phương tiện chúng ta sử
dụng do công sức lao động của nhân dân sáng tạo ra.
tưởng Hồ Chí Minh về nhân dân lao động là chủ thể sáng
tạo lịch sử hội một trong những sở luận để Đảng
Cộng sản Việt Nam xác định hình chủ nghĩa hội của
Việt Nam với đặc trưng cơ bản hàng đầu là một xã hội do
nhân dân, trước hết nhân dân lao động, làm chủ.
Trong hoạch định đường lối chính sách, Đảng Nhà
nước phải luôn xuất phát từ lợi ích của nhân dân lao động.
Mọi chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước nếu
không còn phù hợp với nguyện vọng, lợi ích của nhân dân
đều phải bãi bỏ.
Con người trong tưởng Hồ Chí Minh còn sự thống
nhất giữa con người nhân con người hội. Người
khẳng định chủ nghĩa hội không hề phủ nhận cá nhân,
không chà đạp lên lợi ích cá nhân; mà ngược lại, hơn hẳn
bất một chế độ hội nào trong lịch sử, chủ nghĩa
hội luôn tôn trọng lợi ích nhân, tạo điều kiện tốt nhất
cho sự phát triển tự do toàn diện của nhân. Hồ Chí
lOMoARcPSD| 58797173
Minh không chỉ nhấn mạnh còn rất quan tâm đến con
người tập thể, con người thuộc một tầng lớp nhân dân cụ
thể trong hội. Người m hiểu tâm thấu hiểu nhu cầu,
lợi ích của các tư, nguyện vọng, chia sẻ niềm vui tầng lớp
nhân dân, từ nông dân, công nhân, bộ đội, phụ nữ, thanh
niên đến các cụ phụ lão, các cháu nhi đồng... Trong chỉ
đạo thực tiễn, Hồ Chí Minh không chỉ động viên, phát huy
tinh thần tập thể, chủ nghĩa anh hùng cách mạng, còn
biết khơi dậy những phẩm chất tốt đẹp trong mỗi con
người cụ thể, làm cho những đức tính tốt đẹp đó “nảy nở
như hoa mùa xuân ”. Để giải quyết đúng đắn mối quan hệ
giữa con người nhân con người hội, Hồ Chí Minh
quan tâm giải quyết mối quan hệ lợi ích. Người đã biết kết
hợp hài hoà lợi ích nhân lợi ích tập thể, lợi ích gần
và lợi ích xa, lợi ích vật chất và lợi ích tinh thần... tạo nên
động lực nhằm tích cực hóa nhân tố con người. Từ đây,
Đảng Cộng sản Việt Nam đưa ra c chính sách hội
xuất phát từ lợi ích của các tầng lớp người, để tập hợp, tổ
chức, đoàn kết rộng rãi mọi tầng lớp nhân dân trong mặt
trận dân tộc thống nhất, tạo sức mạnh tổng hợp để đẩy
nhanh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước.
Con người trong tưởng Hồ Chí Minh được xem xét
trong sự thống nhất giữa tính giai cấp, tính dân tộc tính
nhân loại. Khi đề cập đến con người, Hồ Chí Minh không
chỉ đề cập đến “người phương Đông”, “người châu Á ”,
“người châu Âu”.. còn đề cập một cách cụ thể hơn đến
“người da vàng”, “người da trắng”, “người da đen",
"người Đông Dương, “người Pháp, người Việt Nam”,..ư
vậy, con người bao giờ cũng thuộc về một chủng tộc, sắc
tộc, dân tộc, thuộc về một quốc gia nhất định. Bên cạnh
lOMoARcPSD| 58797173
việc nói đến con người dân tộc, Người đặc biệt chú ý con
người giai cấp như người bị áp bức, người bị bóc lột,
“tên bản ”, nhà độc tài, công nhân, nông dân, the thuyền
”. Người khẳng định, trên thế giới này, chỉ hai giống
người giống người bóc lột giống người lao động,
nhấn mạnh nh hữu ai giai cấp. Người luôn tự đặt mình
về phía các giai cấp lao động, nói lên tiếng nói phản đối
áp bức, bóc lột, đấu tranh để giải phóng con người khỏi
mọi sự tha hoá.
một người mácxít chân chính, Hồ Chí Minh quan niệm
đấu tranh giai cấp phương tiện để giải phóng con người;
nhưng Người không hề tuyệt đối hóa đấu tranh giai cấp,
mà tuỳ
thiêng liêng cùng sự đấu tranh không ngừng nghỉ, hy sinh
quên mình để hiện thực hóa lý tưởng đó, Hồ Chí Minh đã
trở thành một biểu tượng cao cả, trường tồn trong lòng dân
tộc Việt Nam và nhân loại tiến bộ vì sự nghiệp giải phóng
con người.
Toàn bộ cuộc đời hoạt động của Hồ Chí Minh là quá trình
đấu tranh mục đích giải phóng con người. Trong lời ra
mắt báo Người cùng khổ, Người chủ trương “đi từ giải
phóng những người lệ mất nước, những người lao động
cùng khổ đến giải phóng con người . Hồ Chí Minh,
lòng yêu Tổ quốc gắn chặt chẽ với lòng yêu nhân dân
bao la, sâu sắc. Người có lòng yêu thương sâu sắc đến con
người : “Lòng yêu thương của tôi đến nhân dân nhân
loại không bao giờ thay đổi”. Trong Di chúc, Người viết :
lOMoARcPSD| 58797173
“Cuối cùng, tôi để lại muôn vàn tình thân yêu cho toàn
dân, toàn Đảng, toàn thể bộ đội, cho các cháu thanh niên
nhi đồng. Tôi cũng gửi lời chào thân ái đến các đồng
chí, các bầu bạn các cháu thanh niên, nhi đồng quốc
tế”.
Người xác định mục đích của chủ nghĩa hội hạnh
phúc con người : “Mục đích chủ nghĩa hội gì? Nói
một cách giản đơn dễ hiểu là: không ngừng nâng cao
đời sống vật chất tinh thần của nhân dân, trước hết
nhân dân lao động”. Lý tưởng phấn đấu của Người không
trừu tượng cụ thể gắn liền với lợi ích của con người,
con người : “Nước độc lập dân không được hưởng
hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng không nghĩa lý ”.
Người nêu n tiêu chí căn bản của chủ nghĩa hội : “Chủ
nghĩa xã hội là dân giàu, nước mạnh”. Hồ Chí Minh nhấn
mạnh Đảng và Nhà nước phải luôn luôn chăm lo đến con
người. “Đầu tiêncông việc đối với con người”, “hễ còn
người Việt Nam bị bóc lột, bị nghèo nàn thì Đảng vẫn đau
thương, cho đó là vì mình chưa làm tròn nhiệm vụ”; Đảng
phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hoá,
nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân.
Như vậy, trong quan niệm của Hồ Chí Minh về con người
điểm tương đồng với quan điểm của các nhà sáng lập
chủ nghĩa Mác Lênin. Nhưng nét độc đáo ở Hồ Chí Minh
Người xem xét con người từ truyền thống văn hóa của
dân tộc Việt Nam, từ một nước thuộc địa nghèo nàn, lạc
hậu, trình độ dân trí thấp. Nếu bắt đầu từ những điều rộng
lớn, từ lý luận cao siêu thì có thể rất khó đi vào lòng dân.
lOMoARcPSD| 58797173
Xuất phát từ truyền thống dân tộc, Hồ Chí Minh đã đưa ra
khái niệm “Người “một cách ngắn gọn mộc mạc dễ hiểu,
để qua đó nhằm làm cho mọi người hiểu rằng : “Vậy là,
u da khác nhau, trên đời này chỉ hai giống
người: giống người bóc lột giống người bị bóc lột ”.
“Trên quả đất, có hàng muôn triệu người. Song, số người
ấy thể chia thành hai hạng : người Thiện và người Ác”.
Đối với những người bị bóc lột thì đoàn kết, yêu thương.
Đối với hạng người bóc lột thì phải kiên quyết đánh đổ.
Chúng ta thấy, đây chính duy sáng tạo của Hồ Chí
Minh.
Hồ Chí Minh coi con người vốn quý nhất, thương yêu
vô hạn và tin tưởng tuyệt đối vào con người.
-Hồ Chí Minh coi con người vốn quý nhất, trong đó,
Người nhấn mạnh : “Trong bầu trời không có gì quý bằng
nhân dân, trong thế giới không mạnh bằng lực lượng
đoàn kết của toàn dân”. Con người được giác ngộ, được
tổ chức, được lãnh đạo đúng đắn sẽ tạo ra tất cả. “Người
là gốc của làng nước”.
Hồ Chí Minh luôn luôn tưởng kính trọng nhân dân.
tưởng đó được biểu hiện trong thực tế thông qua nếp
sống thanh bạch, ứng xử văn hoá, chân thành lắng nghe
ý kiến nhân dân, trân trọng thành tích chiến đấu, lao động,
công tác của các tầng lớp nhân dân. Hồ Chí Minh luôn
động viên khuyến khích nhân dân, coi nhân dân đại.
Từ tưởng kính trọng nhân dân Hồ Chí Minh không xa
rời nhân dân, không dành đặc quyền, đặc lợi cho mình.
Mọi tưởng, hành động của Người đều lợi ích nhân
dân : “Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm, việc gì hại
lOMoARcPSD| 58797173
cho dân, ta phải hết sức tránh. Chúng ta phải yêu dân thì
dân mới yêu ta, kính ta”.
Hồ Chí Minh luôn trân trọng sinh mệnh con người, rất chú
trọng tiết kiệm sức người. Nối tiếp truyền thống nhân đạo
của dân tộc, trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam,
Người luôn bảo vệ con người, hạn chế đến mức thấp nhất
sự hi sinh xương máu của nhân dân. Để bảo vệ sinh mệnh
của nhân dân, Người chủ trương lập chiến khu, tán nhân
dân lúc chiến tranh. Trong cách mạng tháng Tám 1945,
Người đã lãnh đạo toàn Đảng, toàn dân tạo thời cơ, nắm
thời cơ để phát động cách mạng ít đồ máu nhất. Người đã
phát triển sáng tạo nghệ thuật biết đánh thắng từng bước,
quyết tâm tổ chức quần chúng đấu tranh giành thắng lợi
cho cách mạng : “Thà hi sinh tất cả, chứ nhất định không
chịu mất nước, nhất định không chịu làm lệ ”. Trong
giờ phút hiểm nghèo của cách mạng, Người kêu gọi n
bộ, chiến sĩ, quân dân : “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh
”. Người luôn quan tâm đến chính sách khoan thư sức dân,
an dân, dưỡng dân, đưa tiết kiệm lên thành quốc sách, kiên
quyết chống tham ô, lãng phí. Người giáo dục cán bộ phải
biết quý trọng tài sản của nhân dân. Hồ Chí Minh luôn
luôn tin tưởng vào mặt tốt, mặt tiến bộ của con người, tin
tưởng sức mạnh tuyệt đối của nhân dân.
Hồ Chí Minh luôn luôn nhìn nhận mặt tiến bộ, tính cực
của con người tin tưởng con người, kể cả những
người lầm đường lạc lối. Hồ Chí Minh trân trọng phần
thiện, dù nhỏ nhất, ở
lOMoARcPSD| 58797173
giai đoạn cách mạng. Chủ nghĩa hội trong quan niệm
của Người rất cụ thể, gần gũi với nhu cầu, nguyện vọng
của mọi tầng lớp nhân dân. Người đề ra những chủ trương
chính sách để từng bước hiện thực hóa mục tiêu đó.
Hồ Chí Minh quan tâm việc kết hợp giữa lợi ích vật chất
lợi ích tinh thần, trong đó, coi trọng phát huy vai trò
động lực chính trị - tinh thần. Người chú trọng tuyên
truyền giáo dục, động viên kịp thời các hành động tích cực
của con người; đề ra và thi hành chính sách xã hội hướng
tới con người, phát động các phong trào cách mạng nhằm
phát huy tính tích cực sáng tạo của mọi tầng lớp nhân dân;
đồng thời, Người chú trọng phát hiện, khắc phục các nhân
tố tiêu cực, chống chủ nghĩa cá nhân. Giá trị bền vững
lớn nhất tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề phát huy tính
tích cực, con người và giải phóng con người chủ động, tự
giác, sáng tạo của con người trong sự nghiệp cách mạng
nước ta.

Preview text:

lOMoAR cPSD| 58797173
1. Quan niệm về con người
Dựa trên cơ sở thế giới quan, phương pháp luận duy vật
biện chứng, Hồ Chí Minh đã đưa ra quan niệm về con
người. Theo Người, con người là một chỉnh thể thống nhất
giữa mặt sinh học và mặt xã hội, là chủ thể của các mối
quan hệ xã hội trong lịch sử, là chủ thể sáng tạo và hưởng
thụ các giá trị vật chất và tinh thần của xã hội. Đối với
Người, giải phóng con người, đem lại hạnh phúc cho con
người mục đích cao nhất, là giá trị nhân văn nhất. “Nghĩ
cho cùng, mọi vấn đề... là vấn đề ở đời và làm người. Ở
đời và làm người là phải thương nước, thương dân, thương
nhân loại đau khổ, bị áp bức”.
Con người là một thực thể mang tính xã hội: “Chữ Người,
nghĩa hẹp là gia đình, anh em, họ hàng, bạn bè. Nghĩa rộng
là đồng bào cả nước. Rộng hơn nữa là cả loài người”. Con
người ở đây vừa là mỗi thành viên cụ thể, vừa là những
cộng đồng người cụ thể trong xã hội. Trong cộng đồng con
người Việt Nam, quan hệ gia đình, anh em, họ hàng là rất
quan trọng; Hơn nữa, nét độc đáo trong cộng đồng người
Việt Nam là quan hệ đồng bào, cùng một nguồn gốc “con
Rồng cháu Tiên ”. Hồ Chí Minh rất coi trọng sức mạnh
cộng đồng người Việt Nam, tìm mọi cách để bồi dưỡng và
phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong quá trình cách mạng Việt Nam. lOMoAR cPSD| 58797173
Con người trước hết là người lao động, nhân dân lao động
- chủ thể đích thực sáng tạo ra lịch sử xã hội: Hồ Chí Minh
đã tiếp thu quan điểm Mác - Lênin đặt con người trong
lịch sử sản xuất vật chất để xem xét. Người khẳng định
con người là chủ thể sáng tạo mọi giá trị vật chất, tinh
thần; lao động sáng tạo của người là giá trị cao nhất, nhân
bản nhất của con người. Ở Việt Nam, đó là công nhân,
nông dân trí thức, bộ đội.., họ là chủ thể sáng tạo xã hội
mới. Chính vì vậy, Hồ Chí Minh cho rằng “trong bầu trời
không có gì quý bằng nhân dân “Người yêu cầu cán bộ
phải biết ơn những người dân lao động bình thường vì cơm
chúng ta ăn, áo chúng ta mặc, phương tiện chúng ta sử
dụng là do công sức lao động của nhân dân sáng tạo ra. Tư
tưởng Hồ Chí Minh về nhân dân lao động là chủ thể sáng
tạo lịch sử xã hội là một trong những cơ sở lý luận để Đảng
Cộng sản Việt Nam xác định mô hình chủ nghĩa xã hội của
Việt Nam với đặc trưng cơ bản hàng đầu là một xã hội do
nhân dân, mà trước hết là nhân dân lao động, làm chủ.
Trong hoạch định đường lối chính sách, Đảng và Nhà
nước phải luôn xuất phát từ lợi ích của nhân dân lao động.
Mọi chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước nếu
không còn phù hợp với nguyện vọng, lợi ích của nhân dân đều phải bãi bỏ.
Con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh còn là sự thống
nhất giữa con người cá nhân và con người xã hội. Người
khẳng định chủ nghĩa xã hội không hề phủ nhận cá nhân,
không chà đạp lên lợi ích cá nhân; mà ngược lại, hơn hẳn
bất kì một chế độ xã hội nào trong lịch sử, chủ nghĩa xã
hội luôn tôn trọng lợi ích cá nhân, tạo điều kiện tốt nhất
cho sự phát triển tự do và toàn diện của cá nhân. Hồ Chí lOMoAR cPSD| 58797173
Minh không chỉ nhấn mạnh mà còn rất quan tâm đến con
người tập thể, con người thuộc một tầng lớp nhân dân cụ
thể trong xã hội. Người tìm hiểu tâm thấu hiểu nhu cầu,
lợi ích của các tư, nguyện vọng, chia sẻ niềm vui tầng lớp
nhân dân, từ nông dân, công nhân, bộ đội, phụ nữ, thanh
niên đến các cụ phụ lão, các cháu nhi đồng... Trong chỉ
đạo thực tiễn, Hồ Chí Minh không chỉ động viên, phát huy
tinh thần tập thể, chủ nghĩa anh hùng cách mạng, mà còn
biết khơi dậy những phẩm chất tốt đẹp trong mỗi con
người cụ thể, làm cho những đức tính tốt đẹp đó “nảy nở
như hoa mùa xuân ”. Để giải quyết đúng đắn mối quan hệ
giữa con người cá nhân và con người xã hội, Hồ Chí Minh
quan tâm giải quyết mối quan hệ lợi ích. Người đã biết kết
hợp hài hoà lợi ích cá nhân và lợi ích tập thể, lợi ích gần
và lợi ích xa, lợi ích vật chất và lợi ích tinh thần... tạo nên
động lực nhằm tích cực hóa nhân tố con người. Từ đây,
Đảng Cộng sản Việt Nam đưa ra các chính sách xã hội
xuất phát từ lợi ích của các tầng lớp người, để tập hợp, tổ
chức, đoàn kết rộng rãi mọi tầng lớp nhân dân trong mặt
trận dân tộc thống nhất, tạo sức mạnh tổng hợp để đẩy
nhanh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước.
Con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh được xem xét
trong sự thống nhất giữa tính giai cấp, tính dân tộc và tính
nhân loại. Khi đề cập đến con người, Hồ Chí Minh không
chỉ đề cập đến “người phương Đông”, “người châu Á ”,
“người châu Âu”.. mà còn đề cập một cách cụ thể hơn đến
“người da vàng”, “người da trắng”, “người da đen",
"người Đông Dương, “người Pháp, người Việt Nam”,..ư
vậy, con người bao giờ cũng thuộc về một chủng tộc, sắc
tộc, dân tộc, thuộc về một quốc gia nhất định. Bên cạnh lOMoAR cPSD| 58797173
việc nói đến con người dân tộc, Người đặc biệt chú ý con
người giai cấp như ‘ người bị áp bức, ‘ người bị bóc lột,
“tên tư bản ”, nhà độc tài, công nhân, nông dân, the thuyền
”. Người khẳng định, trên thế giới này, chỉ có hai giống
người giống người bóc lột và giống người lao động, và
nhấn mạnh tình hữu ai giai cấp. Người luôn tự đặt mình
về phía các giai cấp lao động, nói lên tiếng nói phản đối
áp bức, bóc lột, đấu tranh để giải phóng con người khỏi mọi sự tha hoá.
Là một người mácxít chân chính, Hồ Chí Minh quan niệm
đấu tranh giai cấp là phương tiện để giải phóng con người;
nhưng Người không hề tuyệt đối hóa đấu tranh giai cấp, mà tuỳ
thiêng liêng cùng sự đấu tranh không ngừng nghỉ, hy sinh
quên mình để hiện thực hóa lý tưởng đó, Hồ Chí Minh đã
trở thành một biểu tượng cao cả, trường tồn trong lòng dân
tộc Việt Nam và nhân loại tiến bộ vì sự nghiệp giải phóng con người.
Toàn bộ cuộc đời hoạt động của Hồ Chí Minh là quá trình
đấu tranh vì mục đích giải phóng con người. Trong lời ra
mắt báo Người cùng khổ, Người chủ trương “đi từ giải
phóng những người nô lệ mất nước, những người lao động
cùng khổ đến giải phóng con người ”. Ở Hồ Chí Minh,
lòng yêu Tổ quốc gắn bó chặt chẽ với lòng yêu nhân dân
bao la, sâu sắc. Người có lòng yêu thương sâu sắc đến con
người : “Lòng yêu thương của tôi đến nhân dân và nhân
loại không bao giờ thay đổi”. Trong Di chúc, Người viết : lOMoAR cPSD| 58797173
“Cuối cùng, tôi để lại muôn vàn tình thân yêu cho toàn
dân, toàn Đảng, toàn thể bộ đội, cho các cháu thanh niên
và nhi đồng. Tôi cũng gửi lời chào thân ái đến các đồng
chí, các bầu bạn và các cháu thanh niên, nhi đồng quốc tế”.
Người xác định mục đích của chủ nghĩa xã hội là vì hạnh
phúc con người : “Mục đích chủ nghĩa xã hội là gì? Nói
một cách giản đơn và dễ hiểu là: không ngừng nâng cao
đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, trước hết là
nhân dân lao động”. Lý tưởng phấn đấu của Người không
trừu tượng mà cụ thể và gắn liền với lợi ích của con người,
vì con người : “Nước độc lập mà dân không được hưởng
hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng không có nghĩa lý gì ”.
Người nêu lên tiêu chí căn bản của chủ nghĩa xã hội : “Chủ
nghĩa xã hội là dân giàu, nước mạnh”. Hồ Chí Minh nhấn
mạnh Đảng và Nhà nước phải luôn luôn chăm lo đến con
người. “Đầu tiên là công việc đối với con người”, “hễ còn
người Việt Nam bị bóc lột, bị nghèo nàn thì Đảng vẫn đau
thương, cho đó là vì mình chưa làm tròn nhiệm vụ”; Đảng
phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hoá,
nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân.
Như vậy, trong quan niệm của Hồ Chí Minh về con người
có điểm tương đồng với quan điểm của các nhà sáng lập
chủ nghĩa Mác Lênin. Nhưng nét độc đáo ở Hồ Chí Minh
là Người xem xét con người từ truyền thống văn hóa của
dân tộc Việt Nam, từ một nước thuộc địa nghèo nàn, lạc
hậu, trình độ dân trí thấp. Nếu bắt đầu từ những điều rộng
lớn, từ lý luận cao siêu thì có thể rất khó đi vào lòng dân. lOMoAR cPSD| 58797173
Xuất phát từ truyền thống dân tộc, Hồ Chí Minh đã đưa ra
khái niệm “Người “một cách ngắn gọn mộc mạc dễ hiểu,
để qua đó nhằm làm cho mọi người hiểu rằng : “Vậy là,
dù màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống
người: giống người bóc lột và giống người bị bóc lột ”.
“Trên quả đất, có hàng muôn triệu người. Song, số người
ấy có thể chia thành hai hạng : người Thiện và người Ác”.
Đối với những người bị bóc lột thì đoàn kết, yêu thương.
Đối với hạng người bóc lột thì phải kiên quyết đánh đổ.
Chúng ta thấy, đây chính là tư duy sáng tạo của Hồ Chí Minh.
Hồ Chí Minh coi con người là vốn quý nhất, thương yêu
vô hạn và tin tưởng tuyệt đối vào con người.
-Hồ Chí Minh coi con người là vốn quý nhất, trong đó,
Người nhấn mạnh : “Trong bầu trời không có gì quý bằng
nhân dân, trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng
đoàn kết của toàn dân”. Con người được giác ngộ, được
tổ chức, được lãnh đạo đúng đắn sẽ tạo ra tất cả. “Người
là gốc của làng nước”.
Hồ Chí Minh luôn luôn có tư tưởng kính trọng nhân dân.
Tư tưởng đó được biểu hiện trong thực tế thông qua nếp
sống thanh bạch, ứng xử có văn hoá, chân thành lắng nghe
ý kiến nhân dân, trân trọng thành tích chiến đấu, lao động,
công tác của các tầng lớp nhân dân. Hồ Chí Minh luôn
động viên khuyến khích nhân dân, coi nhân dân là vĩ đại.
Từ tư tưởng kính trọng nhân dân Hồ Chí Minh không xa
rời nhân dân, không dành đặc quyền, đặc lợi cho mình.
Mọi tư tưởng, hành động của Người đều vì lợi ích nhân
dân : “Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm, việc gì hại lOMoAR cPSD| 58797173
cho dân, ta phải hết sức tránh. Chúng ta phải yêu dân thì
dân mới yêu ta, kính ta”.
Hồ Chí Minh luôn trân trọng sinh mệnh con người, rất chú
trọng tiết kiệm sức người. Nối tiếp truyền thống nhân đạo
của dân tộc, trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam,
Người luôn bảo vệ con người, hạn chế đến mức thấp nhất
sự hi sinh xương máu của nhân dân. Để bảo vệ sinh mệnh
của nhân dân, Người chủ trương lập chiến khu, sơ tán nhân
dân lúc có chiến tranh. Trong cách mạng tháng Tám 1945,
Người đã lãnh đạo toàn Đảng, toàn dân tạo thời cơ, nắm
thời cơ để phát động cách mạng ít đồ máu nhất. Người đã
phát triển sáng tạo nghệ thuật biết đánh thắng từng bước,
quyết tâm tổ chức quần chúng đấu tranh giành thắng lợi
cho cách mạng : “Thà hi sinh tất cả, chứ nhất định không
chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ ”. Trong
giờ phút hiểm nghèo của cách mạng, Người kêu gọi cán
bộ, chiến sĩ, quân dân : “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh
”. Người luôn quan tâm đến chính sách khoan thư sức dân,
an dân, dưỡng dân, đưa tiết kiệm lên thành quốc sách, kiên
quyết chống tham ô, lãng phí. Người giáo dục cán bộ phải
biết quý trọng tài sản của nhân dân. Hồ Chí Minh luôn
luôn tin tưởng vào mặt tốt, mặt tiến bộ của con người, tin
tưởng sức mạnh tuyệt đối của nhân dân.
Hồ Chí Minh luôn luôn nhìn nhận mặt tiến bộ, tính cực
của con người và tin tưởng ở con người, kể cả những
người lầm đường lạc lối. Hồ Chí Minh trân trọng phần
thiện, dù nhỏ nhất, ở lOMoAR cPSD| 58797173
giai đoạn cách mạng. Chủ nghĩa xã hội trong quan niệm
của Người rất cụ thể, gần gũi với nhu cầu, nguyện vọng
của mọi tầng lớp nhân dân. Người đề ra những chủ trương
chính sách để từng bước hiện thực hóa mục tiêu đó.
Hồ Chí Minh quan tâm việc kết hợp giữa lợi ích vật chất
và lợi ích tinh thần, trong đó, coi trọng phát huy vai trò
động lực chính trị - tinh thần. Người chú trọng tuyên
truyền giáo dục, động viên kịp thời các hành động tích cực
của con người; đề ra và thi hành chính sách xã hội hướng
tới con người, phát động các phong trào cách mạng nhằm
phát huy tính tích cực sáng tạo của mọi tầng lớp nhân dân;
đồng thời, Người chú trọng phát hiện, khắc phục các nhân
tố tiêu cực, chống chủ nghĩa cá nhân. Giá trị bền vững và
lớn nhất tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề phát huy tính
tích cực, con người và giải phóng con người chủ động, tự
giác, sáng tạo của con người trong sự nghiệp cách mạng ở nước ta.