



















Preview text:
lOMoAR cPSD| 60797905
Văn hoá trong văn kiện Đại hội XIII của Đảng
Văn hoá giữ vai trò điều tiết xã hội bằng hệ thống giá trị, chuẩn mực văn hoá của cộng đồng, văn hoá
giữ vai trò định hướng sự phát triển của xã hội bằng mục đích nhân văn của mình và cột mốc văn hoá
trong tâm trí con người luôn là cột mốc vững chắc nhất.
Văn kiện Đại hội XIII của Đảng không chỉ khẳng định cần phải “đúc kết, xây dựng hệ giá trị văn hoá,
hệ giá trị con người Việt Nam” mà còn nhấn mạnh khẩn trương “nghiên cứu xây dựng hệ giá trị quốc
gia, hệ giá trị văn hoá và chuẩn mực con người gắn với giữ gìn, phát triển hệ giá trị gia đình Việt Nam thời kỳ mới”.
Phát triển văn hoá -phát triển con người
Tại Hội nghị văn hoá toàn quốc (2021), Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh: “Phải tiếp tục xây
dựng, giữ gìn và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thực sự là “nền
tảng tinh thần”, “động lực phát triển”, và “soi đường cho quốc dân đi”.
Nghị quyết Trung ương 5 khoá VIII về xây dựng và phát triển văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc đã xác định “văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc
đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội”.
Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 9.6.2014 của Ban Chấp hành Trung ương khoá XI về xây dựng và phát
triển văn hoá, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước đề ra mục tiêu: “Văn
hoá thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hôi, là sức mạnh nội sinh quan trọng ̣ bảo
đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Trên cơ sở đánh giá những thành tựu và hạn chế, văn kiện Đại hội XIII của Đảng tiếp tục một cách nhất
quán quan điểm “phát triển văn hoá là nền tảng tinh thần” và định hướng phát triển văn hoá giai đoạn
2021-2030 “xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc để văn hoá thực sự trở
thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc”.
Bằng quan điểm và định hướng đó, trong văn kiện Đại hội XIII, Đảng đề ra một số vấn đề mới về
văn hoá và phát triển văn hoá.
Một, tập trung nghiên cứu, xác định và triển khai xây dựng “hệ giá trị văn hoá”. Trong điều kiện đất
nước ngày càng phát triển, hội nhập sâu rộng, các giá trị văn hoá ngày càng bộc lộ những giá trị cốt lõi,
nền tảng, là gốc rễ, hồn cốt của dân tộc, là động lực mạnh mẽ để thúc đẩy kinh tế - xã hội, đưa nước ta
bước vào thời kỳ phát triển mới.
Vì vậy, cần thiết triển khai xây dựng hệ giá trị văn hoá, bao gồm cả các giá trị văn hoá truyền thống,
hiện đại và tinh hoa văn hoá của nhân loại. Xây dựng “hệ giá trị” văn hoá phản ánh tư duy mới của
Đảng ta về văn hoá, với nghĩa rất rộng, không chỉ tập trung vào các loại hình văn hoá, dịch vụ văn hoá,
mà còn hướng đến các giá trị văn hoá trong tất cả các mặt của đời sống xã hội, như là thước đo, chuẩn
mực để góp phần định hướng, giáo dục, điều chỉnh hành vi, suy nghĩ của con người theo hướng tiến
bộ, tích cực, thúc đẩy ý chí tự cường, tự hào dân tộc và khát vọng vươn lên.
Hai, xác định mối quan hệ gắn kết chặt chẽ giữa văn hoá với con người, “giữa hệ giá trị quốc gia, hệ
giá trị văn hoá và chuẩn mực con người” với “hệ giá trị gia đình Việt Nam”. Vấn đề này một lần nữa
thể hiện quan điểm coi yếu tố con người là trung tâm, xuyên suốt, song, điểm mới là Đảng ta nhấn
mạnh yếu tố con người, hệ giá trị văn hoá phải đi đôi với việc xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa.
Mặt khác, Đảng đề cao vai trò của gia đình trong xây dựng văn hoá; gia đình- tế bào của xã hội, là hạt
nhân lưu giữ và phát huy các giá trị quốc gia, giá trị văn hoá và con người Việt Nam; đồng thời, là môi
trường giáo dục đầu tiên, quan trọng nhất của mỗi con người.
Ba, cụ thể hoá vấn đề phát triển công nghiệp văn hoá, đặt trong mối quan hệ với “sức mạnh mềm” của
văn hoá. Đại hội XIII xác định “khẩn trương triển khai phát triển có trọng tâm, trọng điểm ngành công lOMoAR cPSD| 60797905
nghiệp văn hoá và dịch vụ văn hoá trên cơ sở xác định và phát huy sức mạnh mềm của văn hoá Việt
Nam, vận dụng có hiệu quả các giá trị và thành tựu mới của văn hoá, khoa học, kỹ thuật, công nghệ của thế giới”.
Như vậy, để khai thác, phát huy hiệu quả giá trị, tiềm năng, thế mạnh của văn hoá Việt Nam cần thực
hiện tốt mối quan hệ hài hoà giữa phát triển văn hoá với phát triển kinh tế, gắn văn hoá với phát triển
du lịch, dịch vụ cũng như giới thiệu, quảng bá văn hoá ra thế giới thông qua những sản phẩm của ngành công nghiệp văn hoá.
Bốn, thống nhất giữa “phát triển” và “quản lý” văn hoá, nhất là trên các lĩnh vực báo chí, truyền thông.
Đại hội XIII nhấn mạnh yêu cầu “tiếp tục xây dựng nền báo chí, truyền thông chuyên nghiệp, nhân văn
và hiện đại”, đi đôi với việc “tăng cường quản lý và phát triển các loại hình truyền thông và thông tin
trên internet. Kiên quyết đấu tranh, loại bỏ các sản phẩm, thông tin độc hại, xuyên tạc, phản động, ảnh
hưởng xấu đến ổn định chính trị - xã hội, thuần phong mỹ tục”.
Quan điểm của Đảng ta về xây dựng và phát triển văn hóa, con người
Xây dựng, phát triển văn hóa, con người có vai trò vô cùng quan trọng đối với mục tiêu phát triển và
tiến bộ xã hội vì nó góp phần kiến tạo nền tảng tinh thần cho đất nước; tạo động lực, nguồn lực nội sinh
cho sự phát triển bền vững đất nước và khẳng định tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa. Chính vì
thế, Đảng ta luôn chú trọng công tác xây dựng, phát triển văn hóa, con người Việt Nam, đặc biệt là
trong bối cảnh hội nhập quốc tế, toàn cầu hóa hiện nay.
Từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta luôn luôn coi trọng vai trò của văn hóa và hết sức quan tâm đến
công tác xây dựng văn hóa trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước, nhất là
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đồng thời, Đảng ta khẳng định: Con người là chủ thể, giữ
vị trí trung tâm trong chiến lược phát triển; phát triển văn hóa, xây dựng con người vừa là mục tiêu,
vừa là động lực của sự nghiệp đổi mới.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII về xây dựng và phát triển văn hóa Việt Nam tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc (7/1998) nêu những quan điểm chỉ đạo cơ bản, khẳng định “văn hóa là nền tảng
tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội; nền văn
hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; là nền văn hóa thống nhất
mà đa dạng trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam; xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của
toàn dân do Đảng lãnh đạo, trong đó đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng; văn hóa là một mặt trận;
xây dựng và phát triển văn hóa là một sự nghiệp cách mạng lâu dài, đòi hỏi phải có ý chí cách mạng
và sự kiên trì thận trọng”.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011)
nêu rõ: “xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện, thống
nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ. Phải làm cho văn hóa gắn
kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh
nội sinh quan trọng của phát triển. Kế thừa và phát huy những truyền thống văn hóa tốt đẹp của cộng
đồng các dân tộc Việt Nam, tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại, xây dựng một xã hội dân chủ,
công bằng, văn minh, vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người, với trình độ tri thức, đạo đức, thể
lực và thẩm mỹ ngày càng cao. Phát triển, nâng cao chất lượng sáng tạo văn học, nghệ thuật; khẳng
định và biểu dương các giá trị chân, thiện, mỹ, phê phán những cái lỗi thời, thấp kém, đấu tranh chống
những biểu hiện phản văn hóa. Bảo đảm quyền được thông tin, quyền tự do sáng tạo của công dân.
Phát triển các phương tiện thông tin đại chúng, đồng bộ, hiện đại, thông tin chân thực, đa dạng, kịp
thời, phục vụ có hiệu quả sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Theo tinh thần các nghị quyết của Đảng, chúng ta phải nhận thức sâu sắc, đúng đắn, đầy đủ khái niệm
văn hóa và vai trò, sứ mệnh của văn hóa đối với sự phát triển bền vững. Mỗi bước đi lên, phát triển của
đất nước đều có dấu ấn và sự khai sáng của văn hóa. Cần phải nhận thức những yếu tố bản chất của
văn hóa như văn hóa gắn với con người, phản ánh những mặt căn cốt như tư tưởng, đạo đức, lối sống,
nhân cách, tâm hồn, cách ứng xử. Văn hóa còn thì chế độ còn, văn hóa mất thì chế độ mất; không gì
đáng sợ bằng văn hóa lâm nguy. Phát triển nền văn hóa toàn diện, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần lOMoAR cPSD| 60797905
sâu sắc tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ, khoa học; làm cho văn hóa gắn kết chặt chẽ và thấm sâu
vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 9 khóa XI về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam
đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước (Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 9/6/2014) khẳng định:
“Xây dựng nền văn hóa và conngười Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm
nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học.
Ngày 4/6/2020, Bộ Chính trị khóa XII ban hành Kết luận số 76-KL/TW về tiếp tục thực hiện Nghị
quyết 33-NQ/TW nhấn mạnh: “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, đẩy mạnh công tác tuyên truyền,
quán triệt, nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân về vị trí, vai trò của văn
hoá trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Xây dựng và phát triển văn hóa, con người là nhiệm
vụ quan trọng, thường xuyên của cả hệ thống chính trị. Văn hóa là hồn cốt của dân tộc, là nền tảng tinh
thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ
vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Đại hội XIII của Đảng tiếp tục khẳng định vai trò, ý nghĩa đặc biệt của việc xây dựng và phát triển văn
hóa, con người Việt Nam, xác định một trong 12 định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021 - 2030
là: “Phát triển con người toàn diện và xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc để văn hóa thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc”.
Tăng cường đầu tư cho phát triển sự nghiệp văn hóa. Xây dựng, phát triển, tạo môi trường và điều kiện
xã hội thuận lợi nhất để khơi dậy truyền thống yêu nước, niềm tự hào dân tộc, niềm tin, khát vọng phát
triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; tài năng, trí tuệ, phẩm chất của con người Việt Nam là trung tâm,
mục tiêu và động lực phát triển quan trọng nhất của đất nước”… “Tập trung nghiên cứu và triển khai
xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực con người Việt Nam gắn với giữ gìn, phát
triển hệ giá trị gia đình Việt Nam trong thời kỳ mới. Tăng cường giáo dục lòng yêu nước, lòng tự hào
dân tộc, truyền thống và lịch sử dân tộc, ý thức trách nhiệm xã hội cho các tầng lớp nhân dân, nhất là
thanh niên”…“Từng bước vươn lên khắc phục các hạn chế của con người Việt Nam; xây dựng con
người Việt Nam phát triển toàn diện, gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa giá trị truyền thống và giá trị hiện đại”.
Hội nghị Văn hóa toàn quốc ngày 24/11/2021 triển khai thực hiên Ngḥ ị quyết Đại hôi XIII c ̣ ủa
Đảng, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhiều lần khẳng định vai trò to lớn của văn hóa: “Văn hóa còn
là dân tộc còn”. Để tiếp tục xây dựng, giữ gìn, chấn hưng và phát triển nền văn hóa của dân tộc, Tổng
Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chỉ rõ 06 nhiêm ṿ ụ: (1)
Khơi dậy mạnh mẽ hơn nữa tinh thần yêu nước, ý chí tự cường, tinh thần đoàn kết, khát vọng
phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc của toàn dân tộc; phát huy cao độ những giá trị văn hóa, sức
mạnh và tinh thần cống hiến của mọi người Việt Nam, tạo nguồn lực nội sinh và động lực đột phá để
thực hiện thành công mục tiêu phát triển đất nước đến năm 2025, 2030, tầm nhìn 2045 mà Đại hội XIII của Đảng đã đề ra. (2)
Xây dựng con người Việt Nam thời kỳ đổi mới, phát triển, hội nhập với những giá trị chuẩn
mực phù hợp, gắn với giữ gìn, phát huy giá trị gia đình Việt Nam, hệ giá trị văn hóa, giá trị của quốc
gia - dân tộc; kết hợp nhuần nhuyễn những giá trị truyền thống với giá trị thời đại: yêu nước, đoàn kết,
tự cường, nghĩa tình, trung thực, trách nhiệm, kỷ cương, sáng tạo... (3)
) Phát triển toàn diện và đồng bộ các lĩnh vực văn hóa, môi trường văn hóa, đời sống văn hóa:
bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, đồng thời nâng
cao chất lượng, hiệu quả sáng tạo các giá trị văn hóa mới.
Xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, văn minh, gắn liền với đấu tranh không khoan nhượng với
cái xấu, cái ác, phi văn hóa, phản văn hóa; bảo vệ những giá trị chân - thiện - mỹ. Nâng cao đời sống lOMoAR cPSD| 60797905
văn hóa của nhân dân; xây dựng đời sống văn hóa vui tươi, lành mạnh, hạnh phúc; khắc phục sự chênh
lệch về trình độ phát triển và hưởng thụ văn hóa giữa các vùng, miền của đất nước. (4)
Phát huy vai trò chủ thể sáng tạo, chủ thể thụ hưởng văn hóa là nhân dân; tôn trọng và bảo vệ
sự biểu đạt đa dạng của văn hóa, của người dân, các dân tộc, các vùng, miền; phát triển các phong trào
văn hóa sâu rộng, thực chất; cải thiện điều kiện, nâng cao mức hưởng thụ văn hóa của nhân dân, bảo đảm sự công bằng.
Đề cao, phát huy vai trò tiên phong của đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ, của những người làm công tác văn hóa. (5)
Chú trọng xây dựng Đảng và hệ thống chính trị về văn hóa, về đạo đức; kiên quyết đấu tranh
phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, để Đảng ta và hệ thống chính trị của nước ta thật sự là đạo đức, là
văn minh, tiêu biểu cho lương tri và phẩm giá con người Việt Nam.
Xây dựng văn hóa trong lãnh đạo, quản lý; phát huy vai trò nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là
cán bộ cấp chiến lược, người đứng đầu theo tư tưởng, đạo đức, phong cách văn hóa của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Nâng cao vai trò, năng lực lãnh đạo của Đảng; hiệu quả quản lý của Nhà nước; sự tham gia tích cực
của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội trong sự nghiệp phát triển văn hóa. (6)
Xây dựng môi trường văn hóa số phù hợp với nền kinh tế số, xã hội số và công dân số, làm cho
văn hóa thích nghi, điều tiết sự phát triển bền vững đất nước trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp
lần thứ tư. Khẩn trương phát triển các ngành công nghiệp văn hóa, xây dựng thị trường văn hóa lành mạnh.
Chiến lược văn hóa đên năm 2030 đã đề ra 5 quan điểm: 1.
Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy phát triển
kinh tế - xã hội. Văn hóa phải được đặt ngang hàng và phát triển hài hòa với kinh tế, chính trị, xã hội;
bảo đảm yếu tố văn hóa và con người trong phát triển kinh tế; thích ứng với xu thế phát triển của cuộc
Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, các công nghệ mới, hiện đại và biến đổi kinh tế - xã hội, con người
do tác động của thiên tai, dịch bệnh, khủng hoảng... 2.
Xây dựng và phát triển văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa
học, thống nhất trong đa dạng của cộng đồng các dân tộc là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo,
Nhà nước quản lý, Nhân dân là chủ thể sáng tạo, đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ và những người làm công
tác văn hóa giữ vai trò nòng cốt. 3.
Phát triển văn hóa vì sự hoàn thiện nhân cách con người và xây dựng con người để phát triển
văn hóa, trọng tâm là chăm lo xây dựng con người có nhân cách, lối sống tốt đẹp, với các đặc tính cơ
bản: yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn kết, cần cù, sáng tạo. 4.
Phát huy mọi nguồn lực phát triển để văn hóa thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực
khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, niềm tự hào dân tộc, niềm tin, khát vọng xây dựng đất nước
phồn vinh, hạnh phúc; nhân tố thúc đẩy phát triển con người Việt Nam trở thành trung tâm, chủ thể,
nguồn lực quan trọng nhất và mục tiêu của sự phát triển. 5.
Chủ động hợp tác và quảng bá các giá trị văn hóa của Việt Nam ra thế giới, phát huy sức mạnh
mềmvăn hóa, góp phần quan trọng vào sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị để nâng cao vị thế
đất nước trên trường quốc tế, tạo dựng môi trường hoà bình, bảo vệ vững chắc Tổ quốc, bảo đảm sự
phát triển bền vững và hội nhập quốc tế.
Trong Chiến lược văn hóa cũng đã đề ra mục tiêu chung đó là: a)
Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam toàn diện, phù hợp với xu thế thời đại,
yêu cầucủa cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và những tác động to lớn với kinh tế, xã hội và con
người của thiên tai, dịch bệnh, khủng hoảng... lOMoAR cPSD| 60797905 b)
Xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh trong các lĩnh vực của đời sống xã hội. Không ngừng
nâng cao đời sống tinh thần của nhân dân, từng bước thu hẹp khoảng cách về hưởng thụ văn hóa giữa
thành thị và nông thôn, giữa các vùng miền, các đối tượng chính sách và yếu thế; chú trọng phát triển
văn hóa vùng đồng bào dân tộc thiểu số. c)
Hoàn thiện cơ chế thị trường trong lĩnh vực văn hóa gắn với nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa. Ưu tiên phát triển một số ngành công nghiệp văn hóa có tiềm năng, lợi thế. d)
Có cơ chế đột phá để thu hút, trọng dụng nhân tài, huy động nguồn lực để phát triển văn hóa, con người
Về xây dựng con người Việt Nam giáo trình 252
Nguồn cổng thông tin điện tử huyện Phước Sơn
Sau ngày đất nước thống nhất (30/4/1975), mặt dù đứng trước muôn vàn khó khăn thách thức, Đảng
bộ, chính quyền, quân và dân các dân tộc của huyện Phước Sơn đã đoàn kết một lòng, nỗ lực phấn đấu,
tập trung khắc phục hậu quả nặng nề của chiến tranh, khôi phục sản xuất, phát triển kinh tế - xã hội.
Sau 43 năm thống nhất đất nước và 32 năm thực hiện công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và
lãnh đạo, huyện Phước Sơn đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trên tất cả các lĩnh vực. Từ một
huyện nghèo, thuần nông, kinh tế tự cung, tự cấp, thu ngân sách trên địa bàn thấp, hoàn toàn lệ thuộc
vào trợ cấp kinh phí từ cấp trên. Đến nay, kinh tế huyện nhà đã có bước phát triển vượt bậc, cơ cấu
kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực, tỷ trọng các ngành công nghiệp, thượng mại – dịch vụ tăng.
Năm 2017, tỷ trọng công nghiệp - xây dựng chiếm 70,6%, thương mại – dịch vụ chiếm 23,5%, nông –
lâm nghiệp chiếm 5,9% trong tổng sản phẩm; thu ngân sách do kinh tế phát sinh trên địa bàn huyện đạt trên 450 tỷ đồng.
Kinh tế: Trên lĩnh vực nông – lâm nghiệp, huyện chủ trương đẩy mạnh việc giao đất, giao rừng, trồng
rừng; phát triển kinh tế vườn đồi, vườn rừng, hình thành các vùng chuyên canh cây nguyên liệu, tăng
cường ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất
hàng hóa. Cùng với cơ chế chính sách của Trung ương, của tỉnh, huyện đã ban hành các cơ chế hỗ trợ
phát triển sản xuất; nhờ vậy năng xuất cây trồng, tổng sản lượng lương thực có hạt tăng đáng kể, năm
2017 tổng sản lượng lương thực có hạt tăng gấp 3,24 lần so với năm 1997. Lĩnh vực Công nghiệp - tiểu
thủ công nghiệp luôn được huyện quan tâm, tạo thuận lợi cho đầu tư phát triển. Hiện nay trên địa bàn
huyện có Nhà máy thủy điện ĐăkMi 3, ĐăkMi 4, ĐăkSa với công suất trên 270 MW đang hoạt động;
Nhà máy thủy điện ĐăkMi 2, Nước Chè đang được đầu tư xây dựng; thu thuế từ các nhà máy thủy điện
nộp ngân sách Nhà nước hàng năm trên 200 tỷ đồng. Việc phát triển mạnh các loại hình thương mại –
dịch vụ đã góp phần tích cực thúc đẩy phát triển kinh tế của huyện.
Được sự quan tâm đầu tư của Trung ương và tỉnh, cùng với nguồn ngân sách huyện, huyện đã tập trung
xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật. Đến nay 12 xã, thị trấn đã có điện lưới quốc gia, trên 98% số hộ dùng
điện; trên 90% đường liên thôn được bê tông hóa. Các tuyến đường như: Khâm Đức – Phước Thành,
Phước Chánh - Phước Công – Phước Lộc, Phước Mỹ - Phước Công đã được đầu tư xây dựng, nâng
cấp, cùng với các tuyến đường Quốc lộ 14E và đường Hồ Chí Minh đi qua địa bàn đã hình thành mạng
lưới giao thông thông suốt từ huyện đến xã và đến các địa phương khác trong cả nước, góp phần thúc
đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Bên cạnh đầu tư hạ tầng khu vực nông thôn, huyện đã ưu tiên bố trí
nguồn lực đầu tư, chỉnh trang đô thị thị trấn Khâm Đức, đến nay bộ mặt đô thị Khâm Đức khá khang
trang, hiện đại, hầu hết các tuyến đường nội thị đạt tiêu chuẩn đường cấp 3, cấp 4 và cấp 5, trong đó có
31 tuyến đường được đặt tên. Thị trấn Khâm Đức đã được công nhận đô thị loại V, đang phấn đấu để
cơ bản đạt các tiêu chí đô thị loại IV vào năm 2020. Thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây
dựng nông thôn mới tuy còn nhiều khó khăn, điểm xuất phát thấp, nhưng với sự quyết tâm của cả hệ
thống chính trị, đến nay đã đạt được những kết quả tích cực, góp phần làm thay đổi đáng kể diện mạo
nông thôn miền núi Phước Sơn.
Về lĩnh vực văn hoá, xã hội có nhiều tiến bộ. Hiện nay, toàn huyện có 28 trường học, trong đó 8
trường đạt chuẩn quốc gia, cơ sở vât cḥ ất cơ bản đảm bảo phục vụ cho dạy và học; công tác phổ cập
giáo dục các cấp học từ mần non đến trung học cơ sở được duy trì và giữ vững, chất lượng giáo dục lOMoAR cPSD| 60797905
tăng hằng năm. Công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe cho nhân dân được chú trọng; cơ sở
vật chất trang thiết bị và đội ngũ cán bộ y tế được tăng cường. Hiện nay Trung tâm Y tế huyện có quy
mô 80 giường bệnh, đạt 29 giường bệnh/vạn dân; đạt trên 13 Bác sĩ/vạn dân; 05 xã được công nhận xã
đạt chuẩn quốc gia về y tế. Dịch bệnh đã được khống chế và đẩy lùi; chất lượng dân số, tuổi thọ trung
bình của người dân từng bước được nâng lên.
Hoạt động văn hóa – thể thao có nhiều khởi sắc, phong trào rèn luyện thể dục – thể thao nâng cao sức
khỏe trong nhân dân có chuyển biến tích cực; phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn
hoá” ngày càng phát triển và đi vào chiều sâu. Hệ thống thông tin, tuyên truyền phủ kín tất cả các xã,
thị trấn đáp ứng nhu cầu nghe nhìn, thông tin liên lạc cho người dân. Các chính sách an sinh xã hội,
nhất là công tác đền ơn đáp nghĩa, chăm lo các gia đình chính sách, các đối tượng bảo trợ xã hội được
các cấp, các ngành, xã hội quan tâm thực hiện tốt; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải
thiện và nâng lên rõ rệt. Công tác giảm nghèo được triển khai quyết liệt và đạt được những kết quả tích
cực; tỷ lệ hộ nghèo giảm bình quân trên 5%/năm, đến nay còn 38,26%.
Công tác Quốc phòng - an ninh luôn được tăng cường, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được
giữ vững. Phương thức lãnh đạo của các cấp ủy Đảng được đổi mới; năng lực quản lý, điều hành của
chính quyền các cấp được nâng lên. Công tác dân vận, Mặt trận và các đoàn thể chính trị có nhiều đổi
mới về nội dung, phương thức hoạt động, sâu sát cơ sở, góp phần quan trọng vào việc thực hiện thắng
lợi các nhiệm vụ chính trị của huyện. Công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị được triển
khai thực hiện đồng bộ và có hiệu quả. Từ một đảng bộ ban đầu mới thành lập chỉ 4 chi bộ và 27 đảng
viên, đến nay toàn huyện có 53 tổ chức cơ sở đảng với gần 1.800 đảng viên, chất lượng ngày càng được
nâng lên, điều đó nói lên bước trưởng thành không ngừng của Đảng bộ huyện.
Phấn khởi và tự hào với những thành tựu đã đạt được qua 70 năm xây dựng và phát triển, Đảng bộ,
quân và dân huyện nhà càng ý thức sâu sắc trách nhiệm, nêu cao ý chí quyết tâm, phấn đấu đưa Phước
Sơn ngày càng phát triển nhanh theo hướng bền vững. Để đạt được mục tiêu đó, trong những năm tới,
Đảng bộ, quân và dân huyện Phước Sơn tiếp tục phát huy truyền thống cách mạng, tinh thần đoàn kết
và những bài học kinh nghiệm của thời kỳ đổi mới, tiếp tục nỗ lực vượt khó, năng động, sáng tạo, triển
khai thực hiện quyết liệt và đồng bộ các nhiệm vụ, giải pháp Nghị quyết Đại hội Đảng các cấp, Nghị
quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XX đã đề ra với những nội dung chính là:
Thứ nhất, tập trung đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế theo cơ cấu “Công nghiệp - Xây dựng, Dịch
vụ và Nông - Lâm nghiệp". Tiếp tục đầu tư phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa; đẩy
mạnh xúc tiến đầu tư trên lĩnh vực sản xuất nông - lâm nghiệp; phát huy lợi thế từ rừng để phát triển
cây dược liệu, du lịch sinh thái. Khuyến khích phát triển các loại hình doanh nghiệp đầu tư vào công
nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, gia công chế biến. Tập trung nguồn lực đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng
kinh tế - xã hội. Tăng cường công tác quản lý tài nguyên, khoáng sản; đẩy mạnh công tác giao khoáng
quản lý bảo vệ rừng. Tập trung thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo gắn với xây dựng
nông thôn mới, đô thị văn minh, phấn đấu xây dựng thị trấn Khâm Đức cơ bản đạt tiêu chí đô thị loại IV vào năm 2020.
Thứ hai, thường xuyên quan tâm, chăm lo phát triển văn hóa - xã hội; sắp xếp hợp lý mạng lưới trường
lớp, vận động tối đa học sinh ra lớp, nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, giữ vững kết quả phổ cập
giáo duc. Đẩy mạnh đào tạo nghề, giải quyết viêc làm cho lao động nông thôn. Thực hiện tốt công tác
bảo vệ, chăm sóc sức khỏe nhân dân; bảo đảm an sinh xã hội; chăm lo gia đình chính sách, người có
công và nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Tiếp tục chỉ đạo thực hiện tốt phong trào
toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa; bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa dân tộc Bhnong.
Thứ ba, xây dựng chính quyền trong sạch vững mạnh; nâng cao hiệu lực hiệu quả quản lý điều hành
của chính quyền các cấp đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. Đẩy mạnh cải cách hành
chính; sắp xếp các cơ quan, đơn vị và đội ngũ cán bộ, công chức theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu
quả. Phát huy vai trò của Mặt trận và các đoàn thể trong tập hợp, đoàn kết các dân tộc; tăng cường công
tác giám sát và phản biện xã hội; đổi mới phương thức vận động quần chúng theo hướng sâu sát cơ sở. lOMoAR cPSD| 60797905
Thứ tư, tăng cường công tác giáo dục quốc phòng toàn dân; hoàn thành tốt các chỉ tiêu nhiệm vụ quốc
phòng quân sự địa phương; xây dựng lực lượng vũ trang địa phương vững mạnh; chủ động phòng ngừa,
đấu tranh với các tệ nạn xã hội. Tăng cường công tác nội chính và cải cách tư pháp; nâng cao chất
lượng điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án.
Thứ năm, tập trung xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh; nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu
của các tổ chức đảng, xây dựng đội ngũ cán bộ đảng viên có đủ năng lực và phẩm chất đáp ứng với
yêu cầu nhiệm vụ phát triển của địa phương. Thực hiện tốt Nghị quyết TW 4 (khóa XII) về “tăng cường
xây dựng, chỉnh đốn Đảng, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống,
những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ, gắn với thực hiện Chỉ thị số 05 của Bộ
Chính trị về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, làm cho Đảng
thật sự là hạt nhân lãnh đạo thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ, xây dựng Phước Sơn tiếp tục đi lên, thực
hiện tốt mục tiêu giảm nghèo bền vững. Kinh tế DH XI
Về Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 – 2020, Đại hội Đảng lần thứ XI đã quyết định mục tiêu
tổng quát của Chiến lược là: Phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo
hướng hiện đại; chính trị - xã hội ổn định, dân chủ, kỷ cương, đồng thuận; đời sống vật chất và tinh
thần của nhân dân được nâng lên rõ rệt; độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ được giữ
vững; vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế tiếp tục được nâng lên; tạo tiền đề vững chắc để phát
triển cao hơn trong giai đoạn sau.
Nhằm thực hiện tốt mục tiêu đề ra, Đại hội đã nhất trí thông qua những định hướng phát triển được nêu
ra trong Chiến lược như: hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; bảo đảm
ổn định kinh tế vĩ mô; huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực; phát triển mạnh công nghiệp
và xây dựng theo hướng hiện đại, nâng cao chất lượng, sức cạnh tranh, tạo nền tảng cho một nước công
nghiệp; phát triển nông nghiệp toàn diện theo hướng hiện đại, hiệu quả, bền vững; phát triển mạnh các
ngành dịch vụ, nhất là các dịch vụ có giá trị cao, tiềm năng lớn và có sức cạnh tranh; phát triển nhanh
kết cấu hạ tầng, nhất là hạ tầng giao thông... XÂY DỰNG ĐẢNG DH XII Mục tiêu tổng quát :
Tăng cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
Đảng, xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh. Phát huy sức mạnh toàn dân tộc và dân chủ xã hội chủ
nghĩa. Đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; phát triển kinh tế nhanh, bền vững, phấn đấu
sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nâng cao đời sống vật chất
và tinh thần của Nhân dân. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống
nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa.
Giữ gìn hoà bình, ổn định, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế để phát triển đất nước; nâng cao vị
thế và uy tín của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới.
Các nhiệm vụ trọng tâm : (1)
Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị,
đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ. Tập trung xây dựng đội ngũ
cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ năng lực, phẩm chất và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ. (2)
Xây dựng tổ chức bộ máy của toàn hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả;
đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu. (3)
Tập trung thực hiện các giải pháp nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động và sức
cạnhtranh của nền kinh tế. Tiếp tục thực hiện có hiệu quả ba đột phá chiến lược (hoàn thiện thể chế
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo; phát lOMoAR cPSD| 60797905
triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao; xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng
bộ), cơ cấu lại tổng thể và đồng bộ nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng; đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, chú trọng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn
gắn với xây dựng nông thôn mới. Chú trọng giải quyết tốt vấn đề cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước,
cơ cấu lại ngân sách nhà nước, xử lý nợ xấu và bảo đảm an toàn nợ công.
Nhiệm vụ trọng tâm trong nhiệm kỳ Đại hội XIII:
(1) Tiếp tục đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và
hệ thống chính trị toàn diện, trong sạch, vững mạnh. Đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền
của Đảng. Xây dựng tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.
Tiếp tục đẩy mạnh đấu tranh phòng chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, "lợi ích nhóm",
những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" trong nội bộ. Xây dựng đội ngũ đảng viên và cán
bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, người đứng đầu đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, ngang tầm
nhiệm vụ. Củng cố lòng tin, sự gắn bó của nhân dân với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa.
Quảng Nam đã thực hiện theo chủ trương phát triển văn hóa và xây dựng con người trong các kỳ Đại hội:
1. Đầu tư nguồn lực cho văn hóa a) Về ngân sách:
Trong 11 năm (2012–2023), Quảng Nam đã bố trí khoảng 1.992 tỷ đồng cho các hoạt động văn hóa từ ngân sách tỉnh.
Trong giai đoạn đầu tư công 2016–2025, riêng nguồn vốn đầu tư công cho văn hóa là 316,065 tỷ đồng. b) Mục tiêu sử dụng:
Số tiền trên được chi cho:
Cải tạo và xây dựng thiết chế văn hóa cơ sở: nhà văn hóa thôn, xã; thư viện; trung tâm văn hóa cấp huyện.
Tổ chức lễ hội, sự kiện lớn như Festival Di sản Quảng Nam, các sự kiện văn hóa - du lịch gắn với Hội An, Mỹ Sơn.
Đào tạo nguồn nhân lực văn hóa, đặc biệt là nghệ nhân và cán bộ chuyên môn. 2.
Bảo tồn và phát huy di sản văn hóa a) Thống kê di sản:
Quảng Nam có 458 di tích được xếp hạng, trong đó:
4 di tích cấp quốc gia đặc biệt: Phố cổ Hội An, Thánh địa Mỹ Sơn, Khu dự trữ sinh quyển Cù Lao
Chàm, và Địa đạo Kỳ Anh.
Hàng trăm di tích cấp tỉnh và cấp quốc gia. b)
Các hành động cụ thể:
Phục hồi, trùng tu di tích bằng công nghệ hiện đại, hợp tác với quốc tế (Nhật Bản, Ấn Độ...).
Phát triển du lịch di sản: Gắn bảo tồn với khai thác du lịch bền vững tại Hội An, Mỹ Sơn, làng nghề
truyền thống (gốm Thanh Hà, làng mộc Kim Bồng...).
Số hóa di sản: Lưu trữ, quảng bá các giá trị văn hóa qua nền tảng số.
3. Xây dựng con người Quảng Nam thời kỳ mới lOMoAR cPSD| 60797905
Nhằm phát huy tốt hơn vai trò của Người có uy tín trên địa bàn trong thời gian tới, Phước Sơn đã triển
khai những chính sách nào dành cho họ? Ông Nguyễn Văn Bằng:
Trong thời gian qua, các chế độ, chính sách dành cho Người có uy tín trên địa bàn được các cấp chính
quyền quan tâm thực hiện đầy đủ, kịp thời. Hằng năm, Phòng Dân tộc huyện đều tổ chức Hội nghị tập
huấn bồi dưỡng kiến thức đối với Người có uy tín trong cộng đồng DTTS, phối hợp với Ban Dân tộc
tỉnh Quảng Nam tổ chức các lớp tập huấn, bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho lực lượng này, đồng thời
phát hàng ngàn tờ báo Dân tộc và Phát triển cho lực lượng Người có uy tín trên địa bàn.
Người có uy tín ở Phước Sơn có nhiều đóng góp cho sự phát triển của buôn, làng
Theo đó, trong giai đoạn 2022 – 2023, Phòng Dân tộc đã tổ chức khen thưởng 12 Người có uy tín tiêu
biểu năm 2023. Đồng thời đưa đón những người này tham gia Đoàn tham quan do Ban Dân tộc tổ chức
học tập kinh nghiệm ở các tỉnh Bắc miền Trung, Thừa Thiên Huế, Quảng Bình, Quảng Trị; Tây Ninh,
Đồng Nai, Bình Phước… Đồng thời tổ chức thăm hỏi, động viên, tặng quà cho toàn bộ Người có uy
tín trên địa bàn. Trong thời gian này, huyện cấp phát hơn 2.700 tờ báo Dân tộc và Phát triển cho lực
lượng Người có uy tín, và hỗ trợ đau ốm, nhập viện cho một trường hợp với số tiền 1,5 triệu đồng…
Riêng trong năm 2024, Phòng Dân tộc huyện đã tổ chức các lớp tập huấn nâng cao năng lực cho lực
lượng Người có uy tín với các chuyên đề, như: Thông tin tình hình kinh tế-xã hội của huyện; tập huấn
về các chính sách mới của Đảng và Nhà nước về an nình mạng và phòng chống tội phạm an ninh mạng;
tập huấn về tuyên truyền phòng chống tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống… Phòng Dân tộc đã xây
dựng kế hoạch tổ chức các lớp tập huấn cho Người có uy tín trên địa bàn vào cuối năm.
Phòng Dân tộc cũng phối hợp với các cơ quan, đơn vị liên quan nhằm nắm bắt tình hình của Người có
uy tín ở địa phương; phối hợp với Ban Dân tộc tỉnh Quảng Nam thăm, tặng quà trong dịp Tết Nguyên
đán Giáp Thìn 2024 cho lực lượng Người có uy tín ở địa phương. Ngoài ra, Phòng cũng tham mưu
UBND huyện hỗ trợ thăm ốm đau cho lực lượng Người có uy tín với 25 suất quà, mỗi suất 1 triệu đồng.
Cùng với đó, triển khai Tiểu dự án 1 Dự án 10 Chương trình MTQG 1719, địa phương cũng tổ chức 2
đoàn Người có uy tín với 54 đại biểu đi trao đổi, học tập kinh nghiệm tại các địa phương trong tỉnh,
như: Đông Giang, Bắc Trà My, Núi Thành. Ngoài ra, Phòng cũng chọn 10 đại biểu tham gia cùng Đoàn
thăm quan, học tập kinh nghiệm do Ban Dân tộc tổ chức….
Việc thực hiện tốt các chế độ, chính sách sẽ kịp thời động viên, khích lệ, tạo điều kiện cho Người có
uy tín phát huy vai trò, tiếng nói của mình, có nhiều đóng góp thiết thực hơn trong việc thực hiện các
phong trào thi đua yêu nước, phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói giảm nghèo, xây dựng đời sống văn
hóa, góp phần củng cố niềm tin, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong thời gian tới. a) Định
hướng phát triển con người:
Phát triển con người toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ.
Gắn con người Quảng Nam với giá trị truyền thống cần cù, nghĩa tình, sáng tạo, đồng thời tiếp thu
tinh thần hội nhập và đổi mới. b) Các hành động cụ thể:
Giáo dục giá trị sống và kỹ năng sống trong trường học.
Tôn vinh gương người tốt – việc tốt qua các phong trào như “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn
hóa”, “Gia đình văn hóa”.
Phát triển môi trường văn hóa số: Khuyến khích ứng xử văn minh trên mạng, phát triển văn hóa đọc, văn hóa mạng.
4. Tổ chức hội thảo khoa học định hướng phát triển văn hóa a) Mục đích:
Định hình rõ nét chân dung văn hóa và con người Quảng Nam. lOMoAR cPSD| 60797905
Tạo cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc xây dựng chiến lược phát triển văn hóa dài hạn. b) Ví dụ cụ thể:
Hội thảo năm 2023 với chủ đề: “Nhận diện và phát huy giá trị văn hóa, con người Quảng Nam trong
giai đoạn mới” do Tỉnh ủy Quảng Nam phối hợp với Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh tổ chức. Nội dung tập trung:
Bản sắc văn hóa Quảng Nam xưa và nay.
Vai trò của con người trong bảo tồn, phát triển văn hóa địa phương.
Đề xuất giải pháp xây dựng con người hiện đại, gắn kết giữa truyền thống và hội nhập. 5.
Phát triển công nghiệp văn hóa và du lịch
a) Nhận diện tiềm năng:
Quảng Nam được xác định có tiềm năng lớn để phát triển các ngành công nghiệp văn hóa:
Du lịch văn hóa – di sản.
Làng nghề truyền thống (gốm, mộc, lụa…).
Ẩm thực, thời trang, thủ công mỹ nghệ. b) Hành động cụ thể:
Kết hợp phát triển du lịch – văn hóa: Tăng cường đầu tư cơ sở hạ tầng, quảng bá du lịch di sản.
Tổ chức lễ hội và sự kiện văn hóa quốc tế: Festival Di sản Quảng Nam, giao lưu văn hóa các nước ASEAN…
Hỗ trợ khởi nghiệp trong lĩnh vực văn hóa sáng tạo.
giải pháp và hành động cụ thể mà tỉnh Quảng Nam đã triển khai nhằm thúc đẩy nền kinh tế
phát triển mạnh mẽ sau giai đoạn khó khăn (đặc biệt là sau đại dịch và năm 2023 suy giảm): 1.
Cải thiện môi trường đầu tư và thu hút doanh nghiệp
a) Đơn giản hóa thủ tục hành chính:
Thực hiện chuyển đổi số trong cấp phép đầu tư, đăng ký doanh nghiệp. Tăng
tốc giải quyết thủ tục đất đai, xây dựng, môi trường cho nhà đầu tư. b) Hỗ trợ doanh nghiệp:
Thành lập Tổ công tác đặc biệt hỗ trợ doanh nghiệp (theo mô hình “Tổ phản ứng nhanh”).
Tổ chức đối thoại định kỳ giữa chính quyền và doanh nghiệp. c) Kết quả:
Năm 2024, tỉnh thu hút 29 dự án đầu tư trong nước với vốn đăng ký hơn 4.915 tỷ đồng, và 10 dự án
FDI với 134,85 triệu USD vốn đầu tư nước ngoài.
2. Đẩy mạnh phát triển công nghiệp và khu kinh tế
a) Phát triển khu công nghiệp:
Đầu tư hoàn thiện hạ tầng Khu kinh tế mở Chu Lai, thu hút các ngành công nghiệp ô tô, hàng không, công nghiệp phụ trợ. lOMoAR cPSD| 60797905
Phát triển KCN Tam Thăng, KCN Thaco Chu Lai, KCN Đông Quế Sơn… b) Hợp tác chiến lược:
Hợp tác với Tập đoàn Trường Hải (THACO) trong phát triển công nghiệp ô tô, logistics, cơ khí chế tạo.
Gắn kết công nghiệp hỗ trợ với chuỗi cung ứng khu vực miền Trung và ASEAN. 3.
Tái cơ cấu và nâng cao hiệu quả sản xuất nông nghiệp a) Tái cơ cấu ngành:
Tập trung phát triển nông nghiệp hữu cơ, công nghệ cao, liên kết theo chuỗi giá trị.
Phát triển sản phẩm đặc trưng theo Chương trình OCOP (mỗi xã một sản phẩm). b) Kết quả:
Sản lượng và giá trị gia tăng nông nghiệp tăng ổn định.
Sản phẩm OCOP của tỉnh ngày càng mở rộng thị trường trong và ngoài nước. 4.
Phát triển du lịch – dịch vụ gắn với văn hóa và công nghệ
a) Tái phục hồi sau COVID-19:
Mở rộng quảng bá du lịch, đặc biệt du lịch văn hóa – di sản tại Hội An, Mỹ Sơn.
Kích cầu nội địa, liên kết tour với các tỉnh miền Trung và Tây Nguyên. b) Số hóa ngành du lịch:
Phát triển du lịch thông minh: bản đồ số, đặt vé điện tử, hướng dẫn viên ảo...
Đẩy mạnh du lịch xanh – bền vững – trách nhiệm. c) Kết quả:
Năm 2024, Quảng Nam đón 8,02 triệu lượt khách, doanh thu du lịch đạt 9.200 tỷ đồng. 5.
Đầu tư công và phát triển kết cấu hạ tầng
a) Đầu tư trọng điểm:
Đẩy nhanh tiến độ các dự án giao thông quan trọng: cao tốc Bắc Nam, đường ven biển 129, cầu nối vùng đông.
Cải tạo hệ thống điện, nước, thông tin, logistics phục vụ sản xuất và sinh hoạt. b) Giải ngân mạnh:
Giải ngân vốn đầu tư công đạt kết quả cao, đóng vai trò dẫn dắt tăng trưởng kinh tế.
6. Chuyển đổi số và phát triển kinh tế số
Phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo.
Ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý nhà nước, kinh doanh, thương mại điện tử.
Khuyến khích doanh nghiệp nhỏ và vừa ứng dụng nền tảng số để mở rộng thị trường.
7. Chính sách an sinh – tạo đà tiêu dùng
Tăng cường chi hỗ trợ an sinh xã hội, kích cầu tiêu dùng nội địa.
Phát triển thị trường lao động, nâng cao chất lượng đào tạo nghề, đáp ứng nhu cầu doanh nghiệp. lOMoAR cPSD| 60797905
Tóm lại: Quảng Nam đã phát triển kinh tế nhờ kết hợp hài hòa giữa thu hút đầu tư, phát triển công
nghiệp – du lịch – nông nghiệp, cải cách hành chính, chuyển đổi số, cùng với tăng cường chi tiêu công
và hạ tầng. Đây là nền tảng giúp kinh tế Quảng Nam vượt khó và tăng trưởng bền vững.
Là một sinh viên và cũng là người con của Quảng Nam – một vùng đất giàu truyền thống văn hóa,
bạn có vai trò quan trọng trong việc giữ gìn và phát triển bản sắc văn hóa quê hương. Dưới đây
là một số việc làm bạn có thể làm được, chưa làm được, kèm theo giải pháp cụ thể:
I. Việc đã, đang và có thể làm được
Tìm hiểu, học tập về văn hóa Quảng Nam
Chủ động tìm hiểu về lịch sử, lễ hội, phong tục, làng nghề (như làng mộc Kim Bồng, làng gốm Thanh
Hà, làng rau Trà Quế...).
Đọc sách, tài liệu hoặc tham gia các câu lạc bộ nghiên cứu văn hóa dân gian ở trường.
Quảng bá văn hóa Quảng Nam trên mạng xã hội
Viết bài, đăng ảnh, làm video ngắn giới thiệu về ẩm thực (mì Quảng, cao lầu…), di sản (phố cổ Hội
An, Mỹ Sơn), trang phục, tiếng nói địa phương.
Sử dụng TikTok, Instagram, YouTube… để truyền thông tích cực về văn hóa quê hương.
Tham gia các hoạt động tình nguyện, sự kiện văn hóa địa phương
Đăng ký tham gia các lễ hội truyền thống như lễ hội Bà Thu Bồn, lễ vía Ngũ Hành Tiên Nương…
Tham gia các chương trình giữ gìn vệ sinh, bảo vệ di tích, hỗ trợ du khách tại Hội An, Mỹ Sơn…
Đưa yếu tố văn hóa Quảng Nam vào học tập, sáng tạo
Chọn đề tài khóa luận, bài thuyết trình liên quan đến văn hóa quê hương.
Viết truyện ngắn, làm phim ngắn, thiết kế đồ họa… lấy cảm hứng từ Quảng Nam.
II. Những điều còn chưa làm được
Chưa kết nối tốt với cộng đồng nghệ nhân, người gìn giữ văn hóa Thiếu
tiếp xúc với các bậc cao niên, nghệ nhân thủ công, nghệ sĩ dân gian.
Ít cơ hội trải nghiệm thực tế tại làng nghề, lễ hội.
Chưa tham gia sâu vào các hoạt động bảo tồn văn hóa
Chưa có tiếng nói trong các đề xuất, dự án bảo tồn văn hóa ở địa phương.
Chưa biết cách phối hợp với chính quyền hay tổ chức xã hội để thực hiện ý tưởng.
Thiếu kiến thức chuyên sâu về di sản văn hóa
Có thể biết tên gọi các di tích, nhưng chưa hiểu rõ ý nghĩa, giá trị.
Chưa phân biệt được giữa "bảo tồn" và "khai thác" đúng cách. III. Giải pháp cụ thể
Tham gia các khóa học, hội thảo về văn hóa dân tộc và di sản
Đăng ký các buổi tọa đàm, lớp học ngoại khóa tại trường hoặc địa phương.
Tìm hiểu các chương trình hợp tác giữa sinh viên với các trung tâm văn hóa tỉnh.
Tổ chức nhóm sinh viên “Vì văn hóa Quảng Nam” lOMoAR cPSD| 60797905
Kêu gọi bạn bè cùng quê hoặc có chung đam mê thành lập nhóm nghiên cứu, truyền thông về văn hóa địa phương.
Làm dự án nhỏ: Podcast về tiếng Quảng, mini tour di sản Hội An cho du khách trẻ…
Tham gia hoặc đề xuất dự án bảo tồn văn hóa
Viết thư gửi địa phương, đoàn thanh niên hoặc Trung tâm văn hóa tỉnh với đề xuất tình nguyện, hoặc
lập nhóm sinh viên hỗ trợ số hóa di sản.
Góp sức cùng các dự án số hóa tài liệu, tư liệu, hình ảnh về làng nghề, trang phục, dân ca...
Xây dựng sản phẩm truyền thông sáng tạo
Dự thi các cuộc thi thiết kế, nhiếp ảnh, clip ngắn về quê hương.
Kết hợp văn hóa Quảng Nam với công nghệ (AR, VR, app du lịch văn hóa…). Kết luận:
Là một sinh viên, bạn không cần chờ đến khi có quyền lực hay danh tiếng mới hành động. Từng bài
viết, từng hành động nhỏ của bạn hôm nay đều góp phần lưu giữ và lan tỏa văn hóa Quảng Nam. Quan
trọng là: ý thức rõ giá trị văn hóa quê hương, và luôn tìm cách biến tình yêu ấy thành hành động cụ thể.
"Là sinh viên cần làm gì để xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh?" là một nội dung mang tính
chính trị – tư tưởng quan trọng, đặc biệt trong bối cảnh sinh viên là lực lượng trí thức trẻ, góp
phần vào sự nghiệp phát triển và bảo vệ Tổ quốc. Dưới đây là những việc cụ thể mà sinh viên có
thể và cần làm để góp phần xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh:
1. Tích cực học tập, rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng
Tu dưỡng, rèn luyện theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, sống trung thực, trách nhiệm, giản dị, đoàn kết.
Nói đi đôi với làm, giữ gìn lối sống trong sạch, lành mạnh, tránh xa các biểu hiện suy thoái về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống.
Thực hiện nghiêm túc các quy định, kỷ luật của nhà trường, của Đoàn – Hội sinh viên và pháp luật Nhà nước.
2. Tích cực tham gia tổ chức Đoàn Thanh niên – Hội Sinh viên
Xem đây là môi trường rèn luyện lý tưởng để phấn đấu trở thành Đảng viên.
Gương mẫu, năng nổ trong các phong trào tình nguyện, học thuật, khởi nghiệp, góp phần lan tỏa tinh
thần trách nhiệm và cống hiến.
Tham gia xây dựng tổ chức Đoàn – Hội vững mạnh, đóng vai trò nòng cốt trong việc bồi dưỡng nguồn
cán bộ trẻ, giới thiệu đoàn viên ưu tú cho Đảng xem xét kết nạp.
3. Chủ động tìm hiểu và nhận thức đúng đắn về Đảng Cộng sản Việt Nam
Nghiêm túc học tập các môn lý luận chính trị, hiểu về lịch sử Đảng, Cương lĩnh, Điều lệ Đảng.
Có nhận thức rõ ràng, không mơ hồ trước các luận điệu xuyên tạc, sai trái của các thế lực thù địch.
Biết tự bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, có bản lĩnh chính trị, lập trường vững vàng.
4. Phấn đấu trở thành Đảng viên – Gương mẫu, tiên phongTích cực rèn luyện để đủ điều kiện kết nạp Đảng.
Gương mẫu trong học tập, đạo đức và hành xử; làm tấm gương tốt trong tập thể sinh viên. lOMoAR cPSD| 60797905
Sau khi được kết nạp, tiếp tục tu dưỡng và thực hiện tốt trách nhiệm của người Đảng viên, đóng góp
vào công tác xây dựng Đảng ngay từ cơ sở.
5. Góp ý xây dựng Đảng một cách chân thành, trách nhiệm
Không ngại nói lên sự thật, đấu tranh với biểu hiện sai trái, tiêu cực, quan liêu, tham nhũng.
Tham gia các hoạt động góp ý văn kiện Đại hội, hội thảo chính trị, các diễn đàn thanh niên với tinh
thần xây dựng, cống hiến. Kết luận
Là sinh viên, dù chưa đứng trong hàng ngũ của Đảng, em vẫn có thể và cần có trách nhiệm góp phần
xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh thông qua hành động, nhận thức và thái độ sống tích cực, đúng
đắn. Đây chính là cách thể hiện tình cảm, niềm tin và vai trò trách nhiệm của thế hệ trẻ đối với Đảng và Tổ quốc.
Là một sinh viên, để học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, em cần thực hiện một
cách thiết thực và phù hợp với vị trí, hoàn cảnh học tập của mình. Dưới đây là một số việc cụ thể
1. Rèn luyện phẩm chất đạo đức
Trung thực, khiêm tốn, giản dị: Sống chân thật, không gian dối trong học tập hay các mối quan hệ; ứng
xử văn minh, khiêm nhường.
Yêu nước, có lý tưởng sống cao đẹp: Xác định rõ mục tiêu học tập vì sự phát triển của bản thân, gia đình và đất nước.
Có tinh thần trách nhiệm: Dám chịu trách nhiệm với lời nói và hành động của mình; hoàn thành tốt
nhiệm vụ học tập và công việc được giao.
2. Học tập suốt đời – cần, kiệm, ham học hỏi
Chủ động học tập, không ngừng nâng cao trình độ: Bác Hồ từng tự học rất nhiều thứ từ ngoại ngữ, lý
luận chính trị đến kỹ năng thực tiễn – sinh viên cần học theo tinh thần đó.
Tiết kiệm thời gian và chi tiêu hợp lý: Tránh lối sống xa hoa, tiêu xài hoang phí; dành thời gian cho những việc có ích.
3. Tham gia các hoạt động tập thể và vì cộng đồng
Tham gia tích cực các phong trào Đoàn, Hội: Rèn luyện kỹ năng sống, làm việc nhóm, tinh thần cống hiến cho cộng đồng.
Tình nguyện, giúp đỡ người khó khăn: Góp phần lan tỏa tinh thần nhân ái, sống vì mọi người – điều
Bác Hồ luôn nhấn mạnh.
4. Tu dưỡng ý chí và lối sống lành mạnh
Không sa vào các tệ nạn xã hội, tránh xa lối sống thực dụng.
Có bản lĩnh chính trị vững vàng, yêu chuộng lẽ phải, biết đấu tranh với cái xấu.
5. Gương mẫu trong học tập và sinh hoạtĐi học đúng giờ, giữ gìn trật tự lớp học.
Không quay cóp, gian lận trong thi cử.
Biết giúp đỡ bạn bè học tập và cùng nhau tiến bộ. Kết luận
Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh không phải là việc gì to tát hay cao siêu, mà bắt
đầu từ những việc nhỏ nhất, gần gũi nhất, phù hợp với lứa tuổi, hoàn cảnh. Điều quan trọng là phải làm
thật, từ tâm, không hình thức. lOMoAR cPSD| 60797905
NHỮNG ĐIỂM SÁNG TẠO TRONG TTHCM + TRONG VỞ
xây dựng Đảng về mặt đạo đức là một điểm sáng tạo trong tư tưởng Hồ Chí Minh bởi vì đây là một
bổ sung lý luận độc đáo, mang dấu ấn cá nhân Hồ Chí Minh, đồng thời phản ánh một bước phát triển
trong nhận thức về xây dựng Đảng mà chủ nghĩa Mác – Lênin chưa đề cập rõ ràng hoặc nhấn mạnh
sâu sắc. Dưới đây là phân tích cụ thể lý do vì sao đây là một điểm sáng tạo:
1. Bổ sung mới mẻ vào lý luận xây dựng Đảng của chủ nghĩa Mác – Lênin
Chủ nghĩa Mác – Lênin chủ yếu nhấn mạnh xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức, kỷ luật.
Hồ Chí Minh bổ sung khía cạnh đạo đức, coi đạo đức là một nội dung cơ bản, cốt lõi, thường xuyên và
lâu dài trong công tác xây dựng Đảng.
Người khẳng định: “Đảng ta là đạo đức, là văn minh.”
⟶ Đây là điểm mới, chưa từng được hệ thống rõ trong các văn bản lý luận kinh điển trước đó.
2. Đạo đức là nền tảng để giữ vững bản chất cách mạng của Đảng
Theo Hồ Chí Minh, nếu Đảng cầm quyền mà thiếu đạo đức, xa rời nhân dân, thì sẽ biến chất, dẫn đến suy thoái và tan rã.
Người nhấn mạnh: “Một dân tộc, một Đảng, và mỗi con người ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn
lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến nếu lòng dạ không trong sáng nữa.”
⟶ Tư tưởng này thể hiện tầm nhìn chiến lược, cảnh báo sớm nguy cơ suy thoái từ bên trong – điều mà
nhiều Đảng cộng sản trên thế giới đã vấp phải.
3. Đề cao phẩm chất người cán bộ: “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”
Hồ Chí Minh cho rằng người cán bộ, đảng viên phải lấy đạo đức làm gốc. Người nói: “Có tài
mà không có đức là người vô dụng, có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó.” Việc rèn
luyện đạo đức không phải chuyện nhất thời mà là quá trình suốt đời:
“Cũng như ngọc phải mài, vàng phải luyện.”
⟶ Đặt đạo đức cá nhân trong mối quan hệ với đạo đức của Đảng là một tư duy sâu sắc và nhân văn.
4. Xây dựng Đảng vững mạnh không chỉ về tổ chức mà cả về “tâm”
Trong bối cảnh Đảng là đảng cầm quyền, quyền lực rất dễ dẫn đến tha hóa, nên Hồ Chí Minh nhấn
mạnh đến đạo đức như một cơ chế tự kiểm soát nội tâm của người cán bộ.
Người ví đạo đức cách mạng như “gốc của cây”:
“Gốc có vững thì cây mới bền. Cũng như người cách mạng phải có đạo đức cách mạng thì mới hoàn
thành được nhiệm vụ cách mạng.”
⟶ Đây là cách tiếp cận mang tính phòng ngừa, bền vững và toàn diện.
5. Thể hiện bản sắc tư tưởng phương Đông và văn hóa Việt Nam
Tư tưởng đề cao đạo đức thể hiện ảnh hưởng sâu sắc của truyền thống đạo lý phương Đông (Nho giáo,
Phật giáo), trong đó đạo đức được xem là nền tảng của xã hội và chính trị.
Hồ Chí Minh vận dụng tinh hoa truyền thống này vào công tác xây dựng Đảng kiểu mới của giai cấp
công nhân, tạo nên sự hài hòa giữa lý luận cách mạng hiện đại và giá trị đạo lý dân tộc. Kết luận: lOMoAR cPSD| 60797905
Việc Hồ Chí Minh đặt vấn đề xây dựng Đảng về đạo đức là một điểm sáng tạo lớn, vừa mang tính bổ
sung lý luận, vừa mang ý nghĩa thực tiễn sâu sắc và bền vững. Đây không chỉ là một nội dung lý thuyết
mà còn là lời cảnh tỉnh, kim chỉ nam đạo đức cho Đảng trong suốt quá trình lãnh đạo đất nước, nhất là khi cầm quyền lâu dài.
bản chất nhà nước ta là nhà nước dân chủ triệt để là một điểm sáng tạo trong tư tưởng Hồ Chí
Minh bởi vì tư tưởng này thể hiện một bước phát triển mới, vừa tiếp thu tinh hoa tư tưởng dân chủ của
nhân loại, vừa vận dụng phù hợp với điều kiện lịch sử – xã hội Việt Nam, tạo nên một mô hình nhà
nước kiểu mới. Cụ thể, sự sáng tạo ấy thể hiện qua các khía cạnh sau:
1. Dân chủ gắn liền với giải phóng dân tộc
Truyền thống dân chủ phương Tây thường nhấn mạnh dân chủ dưới góc độ thiết chế (bầu cử, lập pháp
– hành pháp – tư pháp, quyền công dân...).
Hồ Chí Minh sáng tạo ở chỗ gắn dân chủ với sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng con người – coi
độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện dân chủ thực chất.
Câu nói nổi tiếng: “Nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”.
⟶ Đây là tư tưởng rất tiến bộ: không coi dân chủ là khái niệm trừu tượng mà phải gắn với đời sống
thực tiễn, quyền lợi thiết thân của nhân dân.
2. Dân là gốc – nhà nước là của dân, do dân, vì dân
Hồ Chí Minh xác định bản chất nhà nước Việt Nam là nhà nước của dân, do dân, vì dân: "Bao nhiêu
lợi ích đều vì dân, bao nhiêu quyền hạn đều của dân..."
"Chính phủ là công bộc của dân..."
Đây là tư tưởng dân chủ triệt để – vì dân không chỉ là mục tiêu, mà còn là chủ thể làm chủ quyền lực nhà nước.
⟶ So với mô hình nhà nước phong kiến và thuộc địa, đây là bước chuyển căn bản về bản chất giai cấp và mục tiêu phục vụ.
3. Dân chủ không chỉ trên giấy – phải là dân chủ thực chất
Hồ Chí Minh không chỉ nhấn mạnh hình thức dân chủ (bầu cử, hiến pháp...), mà đặc biệt nhấn mạnh
dân chủ trong đời sống hằng ngày, từ quyền được học, được sống ấm no, đến việc được tham gia giám
sát, phản biện chính quyền.
Người yêu cầu cán bộ, công chức phải gần dân, hiểu dân, lắng nghe dân, không được “làm quan cách mạng”.
⟶ Tư tưởng này đòi hỏi nhà nước không chỉ là đại diện quyền lực, mà là cơ quan phục vụ dân, thực
hành đạo đức công vụ vì lợi ích nhân dân.
4. Kết hợp hài hòa giữa dân chủ và kỷ cươngHồ Chí Minh từng nhấn mạnh:
> “Dân chủ nghĩa là làm sao cho dân được mở miệng ra, được nói... nhưng đồng thời phải giữ kỷ luật
nghiêm minh, nếu không sẽ sinh ra hỗn loạn.”
Tư tưởng này thể hiện sự sáng tạo và thực tiễn: dân chủ phải đi đôi với tổ chức, kỷ luật – tránh tình
trạng dân chủ hình thức hay hỗn loạn vô tổ chức. 5. Nhà nước dân chủ gắn với đạo đức cách mạng
Theo Hồ Chí Minh, người cán bộ, công chức – đại diện cho nhà nước – phải có đạo đức: “Cần, kiệm,
liêm, chính, chí công vô tư”. lOMoAR cPSD| 60797905
Nhà nước dân chủ theo Hồ Chí Minh là nhà nước của những người phục vụ nhân dân bằng phẩm chất
đạo đức, không phải đặc quyền đặc lợi.
⟶ Đây là điểm sáng tạo, vì gắn thể chế chính trị với chuẩn mực đạo đức, phù hợp với văn hóa phương
Đông và truyền thống dân tộc. Tổng kết:
Nói bản chất nhà nước ta là nhà nước dân chủ triệt để là điểm sáng tạo trong tư tưởng Hồ Chí Minh vì:
Vượt lên mô hình dân chủ tư sản hình thức.
Kết hợp nhuần nhuyễn giữa truyền thống Á Đông, tư tưởng phương Tây và điều kiện thực tiễn Việt Nam.
Gắn dân chủ với độc lập, đạo đức, phục vụ nhân dân – tạo nên mô hình nhà nước kiểu mới, mang tính nhân văn sâu sắc.
yếu tố phong trào yêu nước là điểm sáng tạo của Hồ Chí Minh về sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt
Nam là vì Hồ Chí Minh đã chủ động gắn lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin với thực tiễn phong trào yêu
nước Việt Nam, biến nó thành nền tảng thực tiễn và động lực chủ yếu cho sự thành lập Đảng. Tư tưởng
này không rập khuôn mô hình cách mạng vô sản ở châu Âu, mà thể hiện sự sáng tạo độc đáo, phù hợp
với điều kiện dân tộc thuộc địa như Việt Nam.
1. Xuất phát từ phong trào yêu nước chứ không thuần túy từ phong trào công nhân
Theo lý luận Mác – Lênin, Đảng cộng sản ra đời là kết quả của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác – Lênin và phong trào công nhân.
Tuy nhiên, ở Việt Nam đầu thế kỷ XX, giai cấp công nhân còn non trẻ, nhỏ bé về số lượng và kinh nghiệm đấu tranh.
Hồ Chí Minh nhận thấy rằng: chính phong trào yêu nước, vốn có rễ sâu trong quần chúng và truyền
thống dân tộc, mới là lực lượng chính trị mạnh mẽ nhất, rộng khắp nhất lúc bấy giờ.
⟶Sáng tạo ở đây là: không máy móc áp dụng công thức quốc tế, mà chủ động gắn chủ nghĩa Mác –
Lênin với truyền thống yêu nước Việt Nam để tạo sức mạnh thực tiễn cho cách mạng.
2. Tư tưởng yêu nước là “cái nôi” để truyền bá lý luận cách mạng
Hồ Chí Minh nói rõ: “Lúc đầu, chính lòng yêu nước chứ chưa phải là chủ nghĩa cộng sản đã đưa tôi
đến với Lênin, đến với Quốc tế III...”
⟶ Câu nói này cho thấy Người không phủ nhận truyền thống yêu nước mà ngược lại, coi đó là bệ
phóng để tiếp thu tư tưởng cách mạng tiên tiến của thế giới.
Người hiểu rằng muốn thuyết phục quần chúng đi theo con đường cách mạng vô sản thì phải bắt đầu
từ khát vọng dân tộc – từ tình yêu nước thương nòi vốn đã sâu sắc trong lòng dân.
⟶ Đây là sáng tạo về cách truyền bá và vận dụng lý luận Mác – Lênin một cách mềm dẻo, gần gũi với tâm lý dân tộc.
3. Tổ chức lực lượng cách mạng dựa trên nền tảng yêu nước
Hồ Chí Minh không phủ nhận vai trò giai cấp công nhân, nhưng Người chủ trương xây dựng lực lượng
cách mạng bao gồm đông đảo các tầng lớp, đặc biệt là:
Nông dân – chiếm đa số dân cư Trí thức yêu nước
Tiểu tư sản, trung tiểu địa chủ có tinh thần dân tộc lOMoAR cPSD| 60797905
Đó là lý do vì sao Hồ Chí Minh chọn con đường mặt trận dân tộc rộng rãi, tập hợp các lực lượng yêu
nước để làm cơ sở cho sự hình thành tổ chức cách mạng.
⟶ Cách làm này cho thấy sự sáng tạo trong việc xây dựng Đảng không tách rời truyền thống và phong
trào dân tộc, mà gắn bó hữu cơ với nó.
4. Phong trào yêu nước là điều kiện lịch sử – xã hội để Đảng ra đời
Trong quá trình khảo sát phong trào cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh nhận thấy:
Phong trào yêu nước tuy sôi nổi nhưng thiếu đường lối đúng đắn, thiếu tổ chức và lãnh đạo thống nhất.
Sự thất bại của các phong trào yêu nước đầu thế kỷ XX (Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh...) chứng minh điều đó.
Vì thế, Đảng Cộng sản ra đời không phải để thay thế tinh thần yêu nước, mà để nâng tầm và tổ chức
hóa phong trào ấy dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân và lý luận Mác – Lênin.
⟶ Đây là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa nội dung dân tộc và hình thức giai cấp, rất phù hợp với đặc
điểm thuộc địa nửa phong kiến của Việt Nam. Kết luận:
Yếu tố phong trào yêu nước là điểm sáng tạo trong tư tưởng Hồ Chí Minh về sự ra đời của Đảng vì:
Không rập khuôn công thức Mác – Lênin ở phương Tây;
Gắn lý luận cách mạng với truyền thống dân tộc;
Khai thác sức mạnh tinh thần yêu nước làm nền tảng quần chúng;
Tạo điều kiện thực tiễn để hình thành Đảng cách mạng kiểu mới, mang bản sắc Việt Nam.
Nói “độc lập dân tộc là tiền đề, là cơ sở để tiến lên chủ nghĩa xã hội” là một điểm sáng tạo trong tư
tưởng Hồ Chí Minh vì tư tưởng này vừa xuất phát từ thực tiễn cách mạng Việt Nam, vừa đáp ứng đúng
nhu cầu khách quan của cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa, lại vừa phù hợp với quy
luật vận động của thời đại, trong đó chủ nghĩa xã hội được xác định là xu thế phát triển tất yếu. Cụ thể,
tư tưởng này thể hiện sự sáng tạo ở ba phương diện lớn:
I. Sáng tạo vì xuất phát từ nhu cầu khách quan, cụ thể của cách mạng Việt Nam
1. Thực tiễn Việt Nam là một nước thuộc địa, nửa phong kiến
Hồ Chí Minh nhận rõ: trong điều kiện bị thực dân Pháp thống trị, mâu thuẫn cơ bản và cấp thiết nhất
là mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với chủ nghĩa thực dân.
Vì vậy, nhiệm vụ hàng đầu, trước mắt của cách mạng Việt Nam là giành lại độc lập dân tộc, chứ không
thể nóng vội làm cách mạng vô sản như ở châu Âu.
→ Sáng tạo ở chỗ: Hồ Chí Minh không máy móc sao chép mô hình cách mạng vô sản ở phương Tây,
mà tùy theo điều kiện cụ thể để xác định lộ trình phù hợp.
2. Độc lập dân tộc là điều kiện để nhân dân làm chủ đất nước
Nếu chưa có độc lập dân tộc, mọi khẩu hiệu về dân chủ, tự do, công bằng xã hội đều không thể thực
hiện vì đất nước vẫn nằm dưới ách áp bức ngoại bang.
Hồ Chí Minh từng khẳng định:
> “Nếu nước mất thì tất cả sẽ mất...” “Độc lập rồi mới có điều kiện thực hiện đời sống mới, văn hóa mới, xã hội mới...”
→ Độc lập dân tộc không phải là điểm dừng, mà là bước đầu tiên để đi đến chủ nghĩa xã hội – một xã hội tốt đẹp hơn. lOMoAR cPSD| 60797905
II. Sáng tạo vì đáp ứng đúng yêu cầu khách quan của cách mạng vô sản ở thuộc địa
1. Tư tưởng “giải phóng dân tộc gắn liền với giải phóng giai cấp”Hồ Chí Minh không tách rời hai quá trình:
Giải phóng dân tộc (thoát khỏi ách thống trị của thực dân)
Giải phóng xã hội – tiến lên CNXH (xóa bỏ bất công, xây dựng xã hội công bằng)
Nhưng Người xác định rõ: muốn giải phóng xã hội thì trước hết phải giải phóng dân tộc, bởi lẽ dưới
ách thực dân thì giai cấp công nhân, nông dân không có cơ hội phát triển.
→ Đây là điểm sáng tạo lớn, vì Hồ Chí Minh đặt nhiệm vụ dân tộc lên hàng đầu, nhưng không tách
khỏi mục tiêu xã hội chủ nghĩa.
2. Kết hợp dân tộc và giai cấp một cách biện chứng
Trong điều kiện các nước thuộc địa, vấn đề dân tộc bao trùm lên tất cả, nên nếu không giải quyết vấn
đề dân tộc, thì cách mạng giai cấp sẽ rơi vào bế tắc.
Hồ Chí Minh kết luận: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác ngoài
con đường cách mạng vô sản.”
→ Như vậy, Người gắn phong trào yêu nước với cách mạng vô sản, tạo nên con đường mới phù hợp
với hoàn cảnh đặc biệt của các dân tộc thuộc địa.
III. Sáng tạo vì phù hợp với quy luật phát triển của thời đại
1. Chủ nghĩa xã hội là xu thế tất yếu của thời đại sau Cách mạng Tháng Mười Nga
Hồ Chí Minh nhận thấy rằng: sau Cách mạng Tháng Mười Nga 1917, chủ nghĩa xã hội không còn là lý
tưởng xa vời mà đã trở thành hiện thực sống động, là một mô hình thay thế cho chủ nghĩa tư bản đầy bất công.
Người khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc thành công thì phải đi theo con đường cách mạng vô sản.”
→ Tư duy này rất mới mẻ và vượt thời đại khi nhiều sĩ phu yêu nước thời đó vẫn còn lúng túng, chưa tìm ra con đường đúng.
2. Phù hợp với khát vọng dân tộc Việt Nam
Dân tộc Việt Nam không chỉ muốn độc lập, mà còn muốn:
Xóa bỏ bất công xã hội Người cày có ruộng
Mọi người đều có cơm ăn, áo mặc, được học hành
Hồ Chí Minh xác định: “Mục tiêu của chủ nghĩa xã hội là nâng cao đời sống nhân dân.”
→ Tiến lên CNXH là con đường duy nhất để thực hiện khát vọng đó, và chỉ có thể thực hiện sau khi
giành được độc lập dân tộc. 🎯 Kết luận:
Tư tưởng “độc lập dân tộc là tiền đề, là cơ sở để tiến lên CNXH” là một điểm sáng tạo lớn trong tư tưởng Hồ Chí Minh, vì:
Xuất phát đúng từ thực tiễn cách mạng Việt Nam và yêu cầu của dân tộc;
Gắn giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp một cách biện chứng; lOMoAR cPSD| 60797905
Phù hợp với quy luật vận động của thời đại và xu thế phát triển của nhân loại.
⟶ Nhờ sự sáng tạo ấy, Hồ Chí Minh đã vạch ra con đường cách mạng đúng đắn, dẫn dắt dân tộc Việt
Nam đi từ nô lệ → độc lập → tiến lên chủ nghĩa xã hội, không rơi vào vết xe đổ của nhiều phong trào yêu nước trước đó.
Sáng tạo của Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc thể hiện ở hai điểm đặc biệt quan trọng:
1. Tìm ra con đường cứu nước đúng đắn – cách mạng vô sản,
2. Khẳng định cách mạng giải phóng dân tộc cần chủ động, sáng tạo và có khả năng giành thắng
lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc. Lý luận:
1. Tìm ra con đường giải phóng dân tộc đúng đắn – cách mạng vô sản a. Bối cảnh lịch sử
Đầu thế kỷ XX, các phong trào yêu nước (Cần Vương, Đông Du, Duy Tân...) đều thất bại vì:
Thiếu đường lối đúng đắn,
Lệ thuộc vào các thế lực phong kiến, tư sản, Không
có lý luận cách mạng dẫn đường.
Hồ Chí Minh nhận ra: mọi con đường cứu nước cũ đều không hiệu quả, vì không giải quyết được tận
gốc vấn đề áp bức dân tộc và bất công xã hội. b. Sự lựa chọn mang tính sáng tạo
Hồ Chí Minh tiếp cận Chủ nghĩa Mác – Lênin và nhận thấy đây là học thuyết duy nhất trả lời đúng câu
hỏi: "Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác ngoài con đường cách mạng vô sản."
Người không tiếp cận lý luận một cách giáo điều, mà gắn với hoàn cảnh cụ thể Việt Nam:
Ách thống trị thực dân là mâu thuẫn cơ bản.
Độc lập dân tộc là yêu cầu cấp thiết.
Chỉ cách mạng vô sản mới đủ lực lượng và lý luận để thực hiện triệt để nhiệm vụ đó.
→ Đây là một sáng tạo lớn vì:
Chuyển hóa một lý luận quốc tế (vốn chủ yếu áp dụng ở các nước tư bản phát triển) thành con đường
khả thi cho một nước thuộc địa như Việt Nam.
Từ đó đặt nền móng cho một đường lối cách mạng độc lập, không phụ thuộc vào giai cấp tư sản hay thế lực ngoại bang.
2. Khẳng định cách mạng giải phóng dân tộc có thể thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc
a. Vượt ra khỏi khuôn mẫu của Quốc tế Cộng sản
Theo quan điểm của Quốc tế Cộng sản đầu thế kỷ XX, cách mạng vô sản ở các nước tư bản phát triển
sẽ là tiền đề để hỗ trợ cách mạng ở các thuộc địa.
Hồ Chí Minh bổ sung và phát triển lý luận này, khi khẳng định:
> “Trong khi cách mạng vô sản ở chính quốc còn đang chờ thời cơ, thì cách mạng thuộc địa có thể
giành thắng lợi trước.”
→ Đây là điểm sáng tạo mang tầm lý luận quốc tế, khẳng định: