Tư tưởng triết học đạo gia và những giá trị, hạn chế của nó | Tiểu luận triết học

Sơ lược sự hình thành và phát triển Đạo gia. Một số tư tưởng triết học cơ bản của Đạo gia. Tư tưởng triết học trong Đạo đức kinh của Lão Tử. Lý luận về đạo và đức. Quan niệm niệm biện chứng về thế giới của Lão Tử. Quan niệm nhân sinh và chính trị xã hội. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!

Thông tin:
16 trang 1 tháng trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Tư tưởng triết học đạo gia và những giá trị, hạn chế của nó | Tiểu luận triết học

Sơ lược sự hình thành và phát triển Đạo gia. Một số tư tưởng triết học cơ bản của Đạo gia. Tư tưởng triết học trong Đạo đức kinh của Lão Tử. Lý luận về đạo và đức. Quan niệm niệm biện chứng về thế giới của Lão Tử. Quan niệm nhân sinh và chính trị xã hội. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!

80 40 lượt tải Tải xuống
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
PHÒNG QUẢN LÝ ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
Đề tài:
TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC ĐẠO GIA &
NHỮNG GIÁ TRỊ, HẠN CHẾ CỦA
GVHD : TS Bùi Văn Mưa
Người thực hiện : Lâm Hữu Cường
Số thứ tự : 24
Lớp : Cao học Đêm 5
Khóa : 21
Tp. Hồ Chí Minh, tháng 02 năm 2012
Lâm Hữu Cường-CHKT.K21.D5 GVHD:TS Bùi Văn Mưa
MỤC LỤC




PHẦN MỞ ĐẦU.....................................................................................................................1
CHƯƠNG I: NHỮNG TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA TRƯỜNG PHÁI ĐẠO GIA..........2
1. Sơ lược sự hình thành và phát triển Đạo gia....................................................................2
2. Một số tư tưởng triết học cơ bản của Đạo gia..................................................................2
2.1 Tư tưởng triết học trong Đạo đức kinh của Lão Tử.....................................................2
2.1.1 Lý luận về đạo và đức..............................................................................................3
2.1.2 Quan niệm niệm biện chứng về thế giới của Lão Tử...............................................4
2.1.3 Quan niệm nhân sinh và chính trị xã hội..................................................................5
a) Thuyết vô vi.....................................................................................................................5
b) Về đường lối trị nước an dân...........................................................................................6
2.2 Trang Tử và sự phát triển của Đạo gia.........................................................................7
CHƯƠNG 2: NHỮNG GIÁ TRỊ VÀ HẠN CHẾ CỦA TRƯỜNG PHÁI ĐẠO GIA............9
1. Những giá trị của tư tưởng triết học trường phái Đạo gia...............................................9
2. Những hạn chế của tư tưởng triết học trường phái Đạo gia..........................................10
KẾT LUẬN...........................................................................................................................13
TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................................................................14
Lâm Hữu Cường-CHKT.K21.D5 GVHD:TS Bùi Văn Mưa
PHẦN MỞ ĐẦU
Triết học Đạo gia bắt nguồn từ Trung Quốc, phát triển từ thời Chiến Quốc xa xưa
được xem như tôn giáo chính thống của nước này. Trong thời kỳ tưởng con
người còn lạc hậu, triết học Đạo gia như một kim tự tháp lớn trong triết học Trung
Quốc, cùng với Nho gia, nó như cái bóng bao trùm và dẫn dắt quá trình tư tưởng của
Trung Hoa. Không chỉ một tôn giáo dạy con người trở về với gốc , Đạo giađạo
còn đóng góp rất nhiều cho nền văn minh Trung Quốc. Nhiều sinh hoạt độc đáo của
người Trung Quốc đã lan truyền khắp thế giới xuất phát từ Đạo giáo:
Khuynh hướng hội họa của dòng tranh thủy mặc hay tranh sơn thủy thể hiện
sự cân bằng tuyệt hảo giữa âm - dương.
Thuật phong thủy chỉ rõ cách chọn hướng, cách thiết kế môi trường xây dựng
theo một hệ thống phối hợp các yếu tố quan trọng của không gian thời
gian nhằm mang lại sự hài hòa tối đa trong mọi tương tác giữa con người
thiên nhiên.
thuật với nguyên tắc "mềm như nước" nhưng hết sức hiệu quả, giúp cho
con người giải tỏa những tắt nghẽn sinh lực, đưa thân thể trở về trạng thái cân
bằng, vừa hài hòa thể lẫn tinh thần ngày nay rất phổ biến. Đó môn
Thái Cực Quyền.
Về y học, phương pháp châm cứu và bấm huyệt được xem là cách trị bệnh rất
hiệu quả.
Về tư tưởng, Đạo gia đã chủ trương bất tử, tức là quan niệm lúc chết, sự sống
con người được thay đổi chứ không bị mất đi, cho nên con người có một thái
độ tích cực đối với thân phận chính mình.
Từ những giá trị mang lại từ trường phái Đạo gia, tôi lựa chọn đề tài nghiên cứu:
“Tư tưởng triết học Đạo gia & những giá trị, hạn chế của nó”.
Trang 1
Lâm Hữu Cường-CHKT.K21.D5 GVHD:TS Bùi Văn Mưa
CHƯƠNG I: NHỮNG TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA TRƯỜNG PHÁI
ĐẠO GIA
1. Sơ lược sự hình thành và phát triển Đạo gia
Đạo gia hay còn gọi là Đạo giáo là một nhánh triết học tôn giáo Trung Quốc,
được xem là tôn giáo chính thống của xứ này. Nguồn gốc lịch sử của Đạo gia nằm ở
thế kỉ thứ 4 trước CN, khi tác phẩm Đạo Đức kinh của Lão Tử xuất hiện.
Tại Trung Quốc, Đạo giáo đã ảnh hưởng đến các lĩnh vực chính trị, kinh tế, triết
học, văn chương, nghệ thuật, âm nhạc, dưỡng sinh, y khoa, hoá học,thuật và địa
lí. Hiện nay, Đạo giáo có khoảng 400 triệu tín đồ tập trung tại các nước Trung Quốc,
Singapore, Malaysia, Đài Loan và cộng đồng người Hoa hải ngoại.
Tôn giáo này hình thành qua một quá trình dài, thâu nhập nhiều trào lưu thượng
cổ khác. Đạo giáo tiếp thu nhiều tưởng đã phổ biến từ thời nhà Chu (1040-256
trước CN). Thuộc về những tưởng này trụ luận về thiên địa, ngũ hành,
thuyết về năng lượng, chân khí, thuyết âm dương và Kinh Dịch. Nhưng, ngoài chúng
ra, những truyền thống tu luyện thân tâm như điều hoà hơi thở, Thái cực quyền, Khí
công, Thiền định, thiết tưởng linh ảnh, thuật luyện kim những huyền thuật cũng
được hấp thụ với mục đích đạt trường sinh bất tử. Việc tu luyện đạt trường sinh có lẽ
bắt nguồn từ những khái niệm rất cổ xưa, bởi vì trong Trang Tử Nam Hoa chân kinh,
một tác phẩm trứ danh của Đạo giáo thế kỉ thứ 4 trước CN thì các vị tiên trường sinh
bất tử đã được nhắc đến, đại diện tiêu biểu cho họ chính Hoàng Đế Tây
Vương Mẫu, những hình tượng đã trong thời nhà Thương, thiên niên kỉ 2 trước
CN.
2. Một số tư tưởng triết học cơ bản của Đạo gia
2.1 Tư tưởng triết học trong Đạo đức kinh của Lão Tử
Tương truyền Lão Tử sống thời Chiến Quốc, thế kỉ thứ 6 trước CN, một thời
được đánh dấu bằng chiến tranh loạn li. Nhưng thời này cũng được xem thời
vàng son của triết học Trung Quốc vì nhiều nhà tư tưởng đã tìm cách giải hoá vấn đề
Trang 2
Lâm Hữu Cường-CHKT.K21.D5 GVHD:TS Bùi Văn Mưa
làm sao để an dân lập quốc. Do đó người sau cũng gọi thời này thời của
Bách gia chư tử - "hàng trăm trường phái". Đạo Đức kinh hàm chứa những tư tưởng
này, hướng đến những nhà cầm quyền và cách tạo hoà bình.
Trong dạng được truyền ngày nay thì Đạo Đức kinh bao gồm hai quyển với tổng
cộng 81 chương. Phần thứ nhất nói về Đạo, phần hai nói về Đức. Tuy nhiên, Đạo
Đức kinh không là một bộ kinh có một kết cấu lôgic của một thế giới quan, mà chỉ là
một tập hợp của những ngạn ngữ huyền bí, tối nghĩa, dường như nó muốn người đọc
phải tựgiải một cách chủ quan. Chính vì vậy mà người ta tìm thấy hàng trăm bản
chú giải, hàng trăm bản dịch của bộ Đạo Đức kinh này.
2.1.1 Lý luận về đạo và đức
Đạo là phạm trù triết học vừa để chỉ bản nguyên vô hình, phi cảm tính, phi ngôn
từ, sâu kín, huyền diệu của vạn vật, vừa để chỉ con đường, quy luật chung của mọi
sự hình thành, biến hóa xảy ra trong thế giới. Đức là phạm trù triết học dùng để thể
hiện sức mạnh tiềm ẩn của đạo,cái hình thức nhờ đó vạn vật được hình thành
phân biệt được với nhau, là cái lý sâu sắc để nhận biết vạn vật.
Đạo được tạm hiểu như cái tự nhiên tĩnh mịch, yên lặng, mộc mạc, hỗn độn,
mập mờ, thấp thoáng, không đặc tính, không hình thể; cái mắt không thấy,
tai không nghe, tay không nắm bắt, ngôn ngữ không thể diễn đạt, tư duy không nhận
thức được; là cái năng động tự sinh sôi, nảy nở. biến hóa…
Đạo vừa cái trước vừa cái nằm trong bản thân sự vật; nhưng khi sự
can thiệp của con người thì đạo không còn đạo nữa. Đạo ta thể gọi được
không phải là đạo,không tên là gốc của trời đất, có tên là mẹ của vạn vật…
Đạo sinh ra vạn vật, đức nuôi nấng, bảo tồn vạn vật. Vạn vật xuất phát từ đạo,
nghĩa trật tự trụ cũng từ đạo ra, nhờ đức thể hiện, khi mất đi lúc
vạn vật quay về với đạo. Đạo chẳng phải một nhân vật toàn năng, nguồn
gốc và sự dung hoà tất cả những cặp đối đãi và như thế, không thể định nghĩa được.
Đạo sinh ra Một (khí thống nhất), Một sinh ra Hai (âm, dương đối lập), Hai sinh ra
Ba (trời, đất, người), Ba sinh ra vạn vật.
Trang 3
Lâm Hữu Cường-CHKT.K21.D5 GVHD:TS Bùi Văn Mưa
Đạo gia xem đạo không chỉ nguồn gốc, bản chất còn quy luật của mọi
cái đã, đangsẽ tồn tại trong thế giới. Điều này cho phép hiểu đạo như nguyên
thống nhất - vận hành của vạn vật - nguyên lý đạo pháp tự nhiên. Đạo vừa mang tính
khách quan (vô vi) vừa mang tính phổ biến; vì vậy, trong thế giới, không đâu không
có đạo, không ai không theo đạo… Quan niệm về đạo, đức của trường phái Đạo gia
thể hiện một trình độ khái quát cao của tư duy biện chứng khi giải quyết vấn đề bản
nguyên thế giới.
Về mặt triết học thì đạo thể được xem siêu việt sở của tồn tại,
bao gồm tồn tại và phi tồn tại. Trên cơ sở này thì ta không thể luận đàm, định nghĩa
được đạomỗi định nghĩa đều có bản chất hạn chế. Nhưng Đạo lại cả hai, là sự
siêu việt mọi hạn lượng mà cũng là nguyên bên trong trong trụ. Cái Dụng của
Đạo tạo ra âm dương, nhị nguyên, những cặp đối đãi và từ sự biến hoá, chuyển động
của âm dương mà phát sinh thế giới thiên hình vạn trạng.
2.1.2 Quan niệm niệm biện chứng về thế giới của Lão Tử
Lão Tử cho rằng trụ vận động biến đổi theo hai quy luật: quy luật bình
quân và quy luật phản phục.
Quy luật bình quân luôn giữ cho sự vật được thăng bằng theo một trật
tự điều hòa tự nhiên, không cái thái quá, bất cập. Trong Đạo đức
kinh ông viết: ”cái gì khuyết ắt được tròn đầy, cái cong sẽ được thẳng,
cái gì cũ thì lại mới, cái gì ít sẽ được nhiều, nhiều sẽ mất”.
Quy luật phản phục sự phát triển đến cực điểm thì chuyển quay trở lại
phương hướng cũ. Lão Tử diễn đạt rằng “trở lại cái động của Đạo” -
nghĩa là “cái động của Đạo” không đi ra ngoài mà trở về gốc.
Bất cứ sự vật nào cũng thể thống nhất của hai mặt đối lập. Chúng ràng buộc,
bao hàm lẫn nhau. Lão Tử cho rằng, ai cũng biết đẹp đẹp tức xấu; hai mặt
dài ngắn tựa vào nhau, mới hình thể; hai mặt cao thấp liên hệ với nhau, mới
chênh lệch; và trong vạn vật, không vật nào không cõng âm, bồng dương. Trong vạn
vật, các mặt đối lập không chỉ thống nhất mà chúng còn xung đột, đấu tranh, chuyển
Trang 4
Lâm Hữu Cường-CHKT.K21.D5 GVHD:TS Bùi Văn Mưa
hóa nhau tạo ra sự thay đổi, biến hóa không ngừng của vạn vật trong trụ. Tuy
nhiên theo Lão Tử sự đấu tranh, chuyển hóa của các mặt đối lập này không làm xuất
hiện cái mới, mà theo vòng tuần hoàn khép kín. Đối với ông, họa chỗ dựa của
phúc, phúc là chỗ náu của họa; cái gì cong thì lại thẳng, cũ thì lại mới…
Lão Tử khẳng định càng tách xa đạo, hội càng chứa nhiều mâu thuẫn. Mâu
thuẫn là tai họa của xã hội. Theo ông khi đạo lớn bị phá bỏ thì xuất hiện nhân nghĩa;
khi trí tuệ ra đời sinh ra giả dối; khi nước loạn mới xuất hiện tôi trung; khi gia tộc
bất hòa mới sinh ra cha nhân từ con hiếu thảo… Vì vậy, để xóa bỏ tai họa cho xã hội
phải thủ tiêu mọi mâu thuẫn mang tính xã hội, có nguồn gốc chủ quan (xa đạo) trong
xã hội. Theo Lão Tử, mâu thuẫn trong xã hội được thủ tiêu bằng cách đẩy mạnh một
trong hai mặt đối lập để tạo ra sự chuyển hóa theo quy luật phản phục (quay trở lại
cái ban đầu), hay cắt bỏ một trong hai mặt đối lập để làm cho mặt đối lập kia tự mất
đi theo quy luật bình quân (cân bằng nhau). Với quan niệm này, ông cho rằng trong
đời sống hội, nếu dẹp bỏ trí tuệ thì dân sẽ chất phác; nếu không tôn trọng người
hiền thì dân không tranh nhau; nếu không coi trọng của cải quý báu thì dân không có
trộm cắp.
Phép biện chứng của Lão Tử mang tính chất máy móc, đơn giản. Vạn vật chỉ vận
động tuần hoàn, lặp đi lặp lại một cách buồn tẻ không sự ra đời của cái mới,
nghĩa là không có sự phát triển.
2.1.3 Quan niệm nhân sinh và chính trị xã hội
a) Thuyết vô vi
Khái niệmvi trong Đạo Đức kinh thường được hiểu lầm không nên làm
cả, nhưng thật ra Lão Tử khuyên rằngLàm như không làm, như thế đặng
không”. Ông cũng viết rằng nước tuy mềm mại uyển chuyển nhưng có thể chảy đến
bất cứ nơi nào, và với một khối lượng lớn thì có thể làm lở cả đất đá. Như vậy vô vi
thể von với cách hành xử của nước. vi hành động theo tự nhiên, thuần
phác, không giả tạo, làm không tâm riêng, cũng như đói thì phải ăn, khát
thì phải uống. Chỉ khi nào từ bỏ được thói lợi thì mới nhận thấy đạo, chỉ khi
Trang 5
Lâm Hữu Cường-CHKT.K21.D5 GVHD:TS Bùi Văn Mưa
nhận thấy đạo mới thể vi được. Lão Tử phản đối mọi chủ trương hữu vi,
ông cho rằng hữu vi chỉ làm xáo trộn trật tự tự nhiên vốn mang tính điều hòa, làm
mất bản tính tự nhiên của con người, dẫn đến sự xa lánhlàm mất đạo. Từ thuyết
vô vi, Lão Tử đã rút ra nghệ thuật sống dành cho con người là từ ái, cần kiệm, khiêm
nhường, khoan dung.
b) Về đường lối trị nước an dân
Ông khuyên tri nhân giả trí, tự tri giả minh, nghĩa biết người khác chỉ mới
trí, nhưng tự biết mình thì mới sáng. Như vậy ông chú trọng đến việc tự chinh
phục bản thân hơn là chinh phục kẻ khác. Nên bằng lòng với cái mình có, tri túc chi
túc hà thời túc, tri nhàn chi nhàn hà thời nhàn, nghĩa là biết đủ thì đủ và lúc nào cũng
đầy đủ cả, biết nhàn thì nhàn và lúc nào cũng nhàn cả.
Lão Tử cho rằng hành động hay nhất đừng can thiệp đến việc đời; nhưng nếu
đời cần ta phải làm thì ta hãy làm cái không làm một cách kín đáo, khéo léo. Ông coi
đây là giải pháp an bang tế thế. Đối với ông chính phủ yên tĩnh vô vi thì dân sẽ biến
thành chất phác, chính phủ tích cực làm việc thì dân đầy tai họa. Nếu Nho gia đòi
hỏi người trị thiên hạ phải bậc Thánh nhân quân tử, sang ngời các phẩm chất
đạo đức: nhân, lễ, nghĩa, trí, tín, dũng chủ trương xây dựng hội đại đồng thì
Lão Tử cho rằng bậc Thánh nhân trị vì thiên hạ phải bằng lẽ tự nhiên của đạo vô vi,
và chủ trương xóa bỏ hết mọi rang buộc về mặt đạo đức, pháp luật đối với con người
để trả lại cho con người cái bản tính tự nhiên vốn có của nó. Lão Tử mơ ước đưa xã
hội trở về thời đại nguyên thủy chất phác, ước cô lập nhân với hội để hòa
tan con người vào đạo (tự nhiên). hội tưởng đối với ông những nước nhỏ,
dân ít, có thuyền xe nhưng không đi, có gươm giáo nhưng không dùng, bỏ văn tự, từ
lợi, không học hành…; dân hai nước cạnh nhau, cách nhau bởi một bờ dậu
nhỏ hay một con mương cạn, cùng nghe tiếng chó sủa tối, tiếng gáy sáng…
nhưng đến già, đến chết họ không bao giờ qua lại thăm nhau.
2.2 Trang Tử và sự phát triển của Đạo gia
Trang 6
Lâm Hữu Cường-CHKT.K21.D5 GVHD:TS Bùi Văn Mưa
Trang Tử là một và tác gia . Tên thật của ông là Trang Chu, ôngtriết gia Đạo giáo
cũng sống vào thời , thời kỳ đỉnh cao của các tưởng Chiến Quốc triết học Trung
Hoa với .Bách Gia Chư Tử
Tương truyền rằng, khi Trang Tử đến ẩn nơi chân núi Nam Hoa, ông đem hết
tinh hoa của của Lão Tử viết thành bộ sách, lấy tên núi Nam Hoađặt,Đạo giáo
gọi là , đời sau người ta gọi là "sách Trang Tử".Nam Hoa kinh
Văn chương trong Nam Hoa kinh rất có tiết tấu, nhiều câu dùng phép biền ngẫu,
lời văn luôn luôn bóng bẩy, trôi chảy, ảnh hưởng rất lớn đến các thi nhân đời sau như
Khang, Nguyễn Tịch, Sơn Đào,... ngay cả đời như , đờinhà Đường Bạch
nhà Tống Tô Đông Pha như .
Kế thừa truyền thống của triết học cổ Trung Quốc, nguyên tắc trình bày quan
điểm triết học của Trang Tử "có lời ý, được ý quên lời". Vì vậy, tư tưởng triết
học của ông được biểu hiện một cách đơn sơ lại huyền hoặc, nửa sáng, nửa tối, cảm
nhận được nhưng không thể diễn đạt bằng lời. "Nó giống như một bức tranh mộc
mạc, đường t đơn sơ, nhưng lại chứa đựng tất cả tất cả đang biến động, biến
hóa như rồng uốn lượn, cuộn mình tan lẫn trong mây". Trang Tử - mặc rất
công trong việc mài dũa viên ngọc "đạo" của Lão Tử nhưng hết sức đề cao sự thực
hành bằng chính bản thân cuộc sống theo "đạo" (nguồn sống, đạo sống) hơn là việc
suy ngẫm nhưng triết thâm trầm về đạo. Sự gợi mở trong cách cảm nhận về học
thuyết của mình khiến cho Nam hoa chân kinh giữ được khoảng trống sáng tạo cho
nhiều thế hệ độc giả. Có thể hiểu một cách khái lược tư tưởng triết học của Trang Tử
như sau:
Vô danh: Ông viết: "Đạo chẳng thể nghe được, nghe được không phải là nó. Đạo
chẳng thể thấy được, thấy được không phải nó. Làm sao lấy trí hiểu được
cái hình dung của cái không hình dung được? Vậy không nên đặt tên cho đạo"
(Tri bắc du). Khác với học thuyết Chính danh và đường lối hữu vi của Khổng Tử,
ông cho rằng đạo không thể diễn đạt bằng lời, "Duy Kỳ ham mê, muốn tỏ
Trang 7
Lâm Hữu Cường-CHKT.K21.D5 GVHD:TS Bùi Văn Mưa
nó nên suốt đời mờ tối" (Tề vật luận) còn "phần tinh túy của chí đạo thì mờ mịt,
huyền ảo. Chỗ rất mực của đạo thì lặng hẳn, tối ráo" (Tại hựu).
thường: Trạng thái vận động, không ngừng biến đổi của trụ vạn vật
chính "sự sống" của đạo. đoạn viết rất hay về nội dung cốt lõiThiên hạ
trong tưởng này của ông khi đem so sánh đạo với con rồng uốn lượn, luôn
luôn biến đổi: "Thoắt lặng không hình, biến hóa không thường, chết chăng, sống
chăng? Muôn vật la liệt, không có gì đáng là nơi để ta về". Đây cũng là chỗ khác
biệt giữa Lão Trang. Trong của Lão Tử luôn luôn thể hiện cácĐạo đức kinh
mặt đối lập trong đạo: âm-dương, cương-nhu, sống-chết..., với Trang Tử, tất cả
chỉ có một - trong sự biến hóa không ngưng nghỉ.
Đức: Giống như đức của Mặt Trờilà sángnóng, đức của nước là lạnh tuôn
chảy, của gió là mát và dịch chuyển, đức của con người cũng là một trạng thái tự
nhiên không ràng buộc với bất kỳ mối quan hệ xã hội nào. "Đức của người thọ
nơi đất trời, hãy biết gìn giữ nó tột cùng, đừng làm hư hại nó" (Dưỡng sinh chủ).
Vì đức tự nhiên như "bò ngựa bốn chân thì thuộc về trời, còn thòng cổ ngựa, xâu
cổ thuộc về người" nên đức đời sống độc lập, vận động theo lẽ lớn của
tạo hóa và đạo.
vi: Từ các quan điểm triết học nêu trên, tưởng nhân sinh căn bản trong
Nam hoa kinh của Trang Tử vi - mẫu mực sống của các bậc thánh nhân -
đứng chỗ khôn lường chơi miền không có. vi hành động theo lẽ tự
nhiên nhi nhiên, tư, hồn nhiên như trẻ thơ "giữ tâm điềm đạm, khí điềm tĩnh,
thuận theo tự nhiên không theo ý riêng của mình" (Ứng đế vương). Cũng
giống như Vô vi của Lão Tử"vô vi nhi vô bất vi" nhưng mới hơnTrang Tử
là không thái quá biết phá bỏ những gì cản trở cho sự phát triển tự nhiên của
vạn vật, làm cho mọi vật đều được tự do, bình đẳng sống theo đúng bản tính, sở
thích tự nhiên của nó.
Trang 8
Lâm Hữu Cường-CHKT.K21.D5 GVHD:TS Bùi Văn Mưa
CHƯƠNG 2: NHỮNG GIÁ TRỊ HẠN CHẾ CỦA TRƯỜNG PHÁI
ĐẠO GIA
1. Những giá trị của tư tưởng triết học trường phái Đạo gia
Lý luận về đạo và đức:
Trong hệ thống triết học Lão Tử, học thuyết về “đạo” một vị trí cực quan
trọng. Nó nền tảng chi phối xuyên suốt các vấn đề trong triết học của ônghầu
hết các quan điểm về trụ, nhân sinh của người Trung Hoa cổ đại. Thuật ngữ
“đạo” lẽ được sử dụng từ thời trước Lão Tử. Tuy nhiên, đến Lão Tử “đạo” trở
thành một khái niệm có nội dung sâu sắc và hệ thống hơn. Nó được coi là một phạm
trù triết học cơ bản trong triết học của ông.
Phần quý giá nhất trong triết học của Lão Tử, đó phép biện chứng chất phác.
Lão Tử cho rằng, tòan bộ trụ vạn vật do sự chi phối của “đạo” luôn luôn trong
quá trình vận động, biến hóa không ngừng, không nghỉ.
Quan niệm niệm biện chứng về thế giới của Lão Tử:
Từ quy luật bình quân và phản phục, Lão Tử nâng lên thành nghệ thuật sống của
con người. Đó sự từ ái, khiêm nhường, tri túc, tri chỉ. Ông dạy mọi người: “Sắp
muốn thu lại, ắt hãy mở ra đấy; muốn làm yếu đi, ắt hãy m cho mạnh lên đấy;
muốn làm vật suy tàn hãy làm cho nó hưng lên; muốn đoạt lấy hãy cho đi...”.
Trong tưởng về phép biện chứng, thể nói về căn bản, Lão Tử đã vạch ra
được quy luật, con đường vận động, biến đổi của vạn vật trong thế giới khách quan.
Theo ông, nguồn gốc của sự vận động, biến đổi ấy củatrụ, vạn vậtsự liên hệ,
tác động, chuyển hóa giữa các mặt đối lập trong chính các sự vật. Đây là thành quả
đặc sắc nhất trong triết học của Lão Tử, biểu hiện năng lực quan sát tinh vi trình
độ tư duy sắc sảo của ông đối với sự vật khách quan.
Thuyết vô vi:
Lão Tử đã đề xướng học thuyết “vô vi”, qua đó ông đã trình bày những quan
niệm hết sức đặc sắc của mình về các vấn đề đạo đức nhân sinh và chính trị hội.
“Vô vi”một học thuyết triết học – đạo đức của người Trung Hoa cổ đại, đã được
Trang 9
Lâm Hữu Cường-CHKT.K21.D5 GVHD:TS Bùi Văn Mưa
Lão Tử nâng lên thành học thuyết về nghệ thuật sống của con người trong sự hòa
nhập với tự nhiên.
Trong quan điểm về chính trị - xã hội, với tư tưởng “vô vi”, Lão Tử kịch liệt lên
án chiến tranh, bạo ngược chủ trương “bất tranh” “khiêm hạ”. Ông coi chiến
tranh trái với đạo tự nhiên, tàn bạo đại họa cho hội. Theo ông, chẳng
cái gọi là vinh hay nhục gì khi thắng hay bại trong chiến tranh.Chiến tranh, theo Lão
Tử không chỉ gây ra sự chết chóc, tàn phá, đau thương hậu quả của còn ảnh
hưởng lâu dài trong đời sống xã hội.
Nam hoa kinh của Trang Tử:
Trang Tử được coi là nhà tư tưởng lớn về đạo học trong triết học cổ Trung Quốc,
người có công mài dũa viên ngọc “đạo” của Lão Tử làm hiện lên đầy đủ vẻ lấp lánh
huyền hoặc của nó.
Phần không kém đặc sắc trong triết học Trang Tử phép biện chứng tự phát.
Trang Tử đã xem xét trụ, tự nhiên bằng quan điểm biện chứng, nổi bật
tưởng về sự vận động, biến hóa không ngừng của thế giới.
Những quan điểm chính trịhội của Trang Tử đã phản ánh đúng đắn tưởng
và địa vị giai cấp của ông ở thời kỳ xã hội loạn lạc.
2. Những hạn chế của tư tưởng triết học trường phái Đạo gia
Lý luận về đạo và đức:
Lão Tử cố gắng tìm ra quy luật khách quan của vạn vật vận động biến hóa,
dạy mọi người phải hành động theo quy luật tự nhiên. Nhưng ông lại cho rằng con
người chỉ thể thích ứng với quy luật tự nhiên một cách bị động, đứng trước tự
nhiên, con người không cần làm gì cả. Đó là quan điểm sai lầm của Lão Tử trước sự
vận động và biến đổi của tự nhiên.
Quan niệm niệm biện chứng về thế giới của Lão Tử:
Lão Tử quá nhấn mạnh quy luật bình quân phản phục không nhấn mạnh
đến đấu tranh phương thức giải quyết mâu thuẩn. Trái lại, đề cao tưởng điều
hòa mâu thuẫn cho nêntriết học Đạo gia không bao gồm tư tưởng về sự phát triển.
Trang 10
Lâm Hữu Cường-CHKT.K21.D5 GVHD:TS Bùi Văn Mưa
Trong triết học của Lão Tử khi đề cập đến sự chuyển hóa của các mặt đối lập
không theo khuynh hướng phát triển, xuất hiện cái mới mà theo vòng tuần hoàn của
quy luật phản phục. Hơn nữa không chủ trương giải quyết mâu thuẫn bằng đấu tranh
giữa các mặt đối lập mà chủ trương lấy cái tĩnh, vô vi, điều hòa để chuyển thành sự
chuyển hóa của quy luật bình quân nên phép biện chứng mang tính máy móc, lặp đi
lặp lạimột cách tuần hoàn buồn tẻ.
Quan niệm biện chứng của ông không khuyến khích dân sử dụng trí tuệ, không
tôn trọng người hiền, không coi trọng của cải vật chất làm ra. tưởng của ông
không ủng hộ sự phát triển của hội mong muốn mang con người trở lại thời
ban đầu sơ khai, không phát sinh cái mới. Điều này không giúp ích cho sự phát triển
nhân loại và kéo lùi xã hội loài người về thời kỳ lạc hậu trước kia.
tưởng biện chứng của Lão Tử tuy đã vẽ nên đúng đắn bức tranh sinh động
của hiện thực, nhưng về căn bản vẫn mang tính chất tự phát, ngây thơ, dựa trên
những kinh nghiệm tính trực quan cảm tính chủ yếu tả sự biến chuyển
của sự vật, hiện tượng xảy ra trong tự nhiên cũng như trong hội. chưa
sở để vạch ra sự hạn chế bị quy định bởi tính chất thời đại lịch sử mà còn do sự hạn
chế bởi trình độ nhận thức còn thấp kém ở Trung Quốc thời bấy giờ.
Thuyết vô vi:
Trong tư tưởng “vô vi”, Lão Tửchống lại những chuẩn mực đạo đức thể chế
pháp luật. Ông coi đó sự áp đặt, cưỡng chế, can thiệp vào bản tính tự nhiên của
con người.Tất cả những cái gọi nhân, lễ, nghĩa, trítheo Lão Tử chỉ giả tạo, trái
với tự nhiên, xa rời mất đạo thôi.Ông phê phán những quan điểm và chủ trương
“hữu vi” của Nho giáo. Thậm chí, sống theo đạo “vô vi” theo Lão T ngay đến
chính bản thân mình cũng không quý nó và lo lắng cho nó.
Trị nước theo đạo “vô vi”, Lão Tử chủ trương xóa bỏ mọi lễ giáo, pháp luật, văn
hóa, kỹ thuật, bỏ tất cả nhữngtrái với tự nhiên, tổn hại đến bản chất tự nhiên của
con người. Nếu theo tưởng của ông xóa bỏ tất cả những thành tựu con người
Trang 11
Lâm Hữu Cường-CHKT.K21.D5 GVHD:TS Bùi Văn Mưa
đã đạt được, bỏ luôn lễ nghĩa thì xã hội không thể phát triển được, con người sẽ lạc
hậu và có thể nhân loại sẽ quay lại thời kỳ đồ đá trước kia.
Nam hoa kinh của Trang Tử:
Sự vận động không ngừng cùng của vạn vật Trang Tkhông phải theo
chiều hướng phát triển đi lên mà là theo một vòng tròn khép kín.Ta có thể thấy ở đây
tư tưởng về quy luật vận động của Trang Tử rất giống với các nhà triết học duy vật ở
Hy Lạp cổ đại. Chỉ điều khác biệt Trang Tử tuyệt đối hóa mặt vận động đến
mức xóa nhòa ranh giới giữa vận động đứng im, tồn tại không tồn tại,chất
lượng… để chỉ còn thấy tất cả đều tương đối, đều thoáng qua.
Thực chất Trang Tử đã đề cao và tuyệt đối hóa mặt tự nhiên của con người, xem
xét con người tách hẳn với xã hội hay đối lập hoàn toàn với xã hội. Biến con người
thành một thực thể riêng biệt, khép kín, phủ nhận mặt hội của con người, đồng
nhất họ với tự nhiên. Khi đề cao bản chất tự nhiên của con người, Trang Tử đã hạ
thấp con người, đánh đồng con người ý thức với muôn vật tri giác. Quan
điểm đó của ông đã thể hiện khuynh hướng đồng nhất tự nhiên và xã hội.
Xóa nhòa mọi mặt đối lập tương phản trong sự vật, cũng như giữa các sự vật,
không còn phân biệt vật ta, phải trái, tốt xấu, sống chết, Trang Tử đã bỏ mất cái sinh
động của phép biện chứng, không tìm thấy động lực thực sự của sự vận động biến
đổi. Đồng nhất cái chung và cái riêng, nội dung và hình thức, vận độngđứng im,
Trang Tử đã đi từ phép biện chứng đến chủ nghĩa chiết trung, ngụy biện.
Trang Tử đã hạ thấp nhận thứctính ở con người, giới hạn khả năng của nó
ông khuyên cái biết bằng trí của con người nên “dừng chỗ mình không biết
rất mực rồi”.
Tóm lại, phép biện chứng của Trang Tử mang tính chất tự phát, nó không phải là
một hệ thống chỉ những yếu tố tản mạn, rời rạc. chỉ dừng lại mặt hình
thức, còn về nội dung thì lại là thuật ngụy biện và chủ nghĩa chiết trung. Những đặc
điểm này đã dẫn đến tính thần bí và huyền hoặc trong tư tưởng của ông.
Trang 12
Lâm Hữu Cường-CHKT.K21.D5 GVHD:TS Bùi Văn Mưa
KẾT LUẬN
Những quan điểm chính trị hội của Lão Trang đã phản ánh đúng đắn
tưởng và địa vị giai cấp của ông ở thời kỳ xã hội loạn lạc. Họ đại diện cho tầng lớp
quý tộc sa sút, mất địa vị hội, nên hoài nghi hiện thực, lo sợ trước tương lai,
quay lưng với thực trạng hội đương thời để trốn tránh vào tự nhiên, hoài cổ.
Mong muốn cứu đời nhưng họ lại phủ nhận mọi hoạt động thực tiễn của con người
để cuối cùng tìm đến quyền lực, sức mạnh của tự nhiên “đạo”, chính họ đã
tuyệt đối hóa nó để biến thành sức mạnh siêu nhiên thần bí.
Với tư tưởng hết sức đặc sắc về “đạo” về phép biện chứng chất phác cũng như về
quan điểm “vô vi”, triết học Đạo gia thực sự trở thành viên ngọc quý của nền triết
học phương Đông. Tư tưởng của triết học Đạo gia làm người đời sau phải kinh ngạc
thán phục trước sức mạnh duy độc đáo. Tuy triết học Đạo gia vẫn còn những
thiếu sót, hạn chế, nhưng về phương diện lịch sử, chúng ta cũng phải nghiêng mình
trước những di sản tài hoa và sắc sảo.
Đạo gia ảnh hưởng rất nhiều đến tư tưởng văn hóa truyền thống của Trung Quốc
và nhiều nước trên thế giới. Đạo gia còn đóng góp rất nhiều cho nền văn minh Trung
Quốc nói riêng và thế giới nói chung về triết học và nghệ thuật. Nhiều sinh hoạt độc
đáo ra đời và lan truyền rộng rãi trên thế giới bắt nguồn từ Đạo gia như thuật phong
thủy, phương pháp châm cứu và bấm nguyệt…
Trang 13
Lâm Hữu Cường-CHKT.K21.D5 GVHD:TS Bùi Văn Mưa
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. TS Bùi Văn Mưa, Đại cương về lịch sử triết học (phần I), TP.HCM, 2011
2. http://vi.wikipedia.org/wiki/Đạo_giáo
3. http://vi.wikipedia.org/wiki/Lão_Tử
4. http://vi.wikipedia.org/wiki/Đạo_đức_kinh
5. http://vi.wikipedia.org/wiki/Trang_Tử
6. http://vi.wikipedia.org/wiki/Nam_Hoa_kinh
7. http://www.thienlybuutoa.org/Books/TuTuongDaoGia.pdf
8. http://giaoan.violet.vn/present/show/entry_id/3198050
Trang 14
| 1/16

Preview text:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
PHÒNG QUẢN LÝ ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC 
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC Đề tài:
TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC ĐẠO GIA &
NHỮNG GIÁ TRỊ, HẠN CHẾ CỦA NÓGVHD : TS Bùi Văn Mưa
Người thực hiện : Lâm Hữu CườngSố thứ tự : 24Lớp : Cao học Đêm 5Khóa : 21
Tp. Hồ Chí Minh, tháng 02 năm 2012
Lâm Hữu Cường-CHKT.K21.D5
GVHD:TS Bùi Văn Mưa MỤC LỤC 
PHẦN MỞ ĐẦU.....................................................................................................................1
CHƯƠNG I: NHỮNG TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA TRƯỜNG PHÁI ĐẠO GIA..........2
1. Sơ lược sự hình thành và phát triển Đạo gia....................................................................2
2. Một số tư tưởng triết học cơ bản của Đạo gia..................................................................2 2.1
Tư tưởng triết học trong Đạo đức kinh của Lão Tử.....................................................2 2.1.1
Lý luận về đạo và đức..............................................................................................3 2.1.2
Quan niệm niệm biện chứng về thế giới của Lão Tử...............................................4 2.1.3
Quan niệm nhân sinh và chính trị xã hội..................................................................5
a) Thuyết vô vi.....................................................................................................................5
b) Về đường lối trị nước an dân...........................................................................................6 2.2
Trang Tử và sự phát triển của Đạo gia.........................................................................7
CHƯƠNG 2: NHỮNG GIÁ TRỊ VÀ HẠN CHẾ CỦA TRƯỜNG PHÁI ĐẠO GIA............9
1. Những giá trị của tư tưởng triết học trường phái Đạo gia...............................................9
2. Những hạn chế của tư tưởng triết học trường phái Đạo gia..........................................10
KẾT LUẬN...........................................................................................................................13
TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................................................................14
Lâm Hữu Cường-CHKT.K21.D5
GVHD:TS Bùi Văn Mưa PHẦN MỞ ĐẦU
Triết học Đạo gia bắt nguồn từ Trung Quốc, phát triển từ thời Chiến Quốc xa xưa
và được xem như tôn giáo chính thống của nước này. Trong thời kỳ tư tưởng con
người còn lạc hậu, triết học Đạo gia như một kim tự tháp lớn trong triết học Trung
Quốc, cùng với Nho gia, nó như cái bóng bao trùm và dẫn dắt quá trình tư tưởng của
Trung Hoa. Không chỉ là một tôn giáo dạy con người trở về với gốc đạo, Đạo gia
còn đóng góp rất nhiều cho nền văn minh Trung Quốc. Nhiều sinh hoạt độc đáo của
người Trung Quốc đã lan truyền khắp thế giới xuất phát từ Đạo giáo: 
Khuynh hướng hội họa của dòng tranh thủy mặc hay tranh sơn thủy thể hiện
sự cân bằng tuyệt hảo giữa âm - dương. 
Thuật phong thủy chỉ rõ cách chọn hướng, cách thiết kế môi trường xây dựng
theo một hệ thống phối hợp các yếu tố quan trọng của không gian và thời
gian nhằm mang lại sự hài hòa tối đa trong mọi tương tác giữa con người và thiên nhiên. 
Võ thuật với nguyên tắc "mềm như nước" nhưng hết sức hiệu quả, giúp cho
con người giải tỏa những tắt nghẽn sinh lực, đưa thân thể trở về trạng thái cân
bằng, vừa hài hòa thể lý lẫn tinh thần mà ngày nay rất phổ biến. Đó là môn Thái Cực Quyền. 
Về y học, phương pháp châm cứu và bấm huyệt được xem là cách trị bệnh rất hiệu quả. 
Về tư tưởng, Đạo gia đã chủ trương bất tử, tức là quan niệm lúc chết, sự sống
con người được thay đổi chứ không bị mất đi, cho nên con người có một thái
độ tích cực đối với thân phận chính mình.
Từ những giá trị mang lại từ trường phái Đạo gia, tôi lựa chọn đề tài nghiên cứu:
“Tư tưởng triết học Đạo gia & những giá trị, hạn chế của nó”. Trang 1
Lâm Hữu Cường-CHKT.K21.D5
GVHD:TS Bùi Văn Mưa
CHƯƠNG I: NHỮNG TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA TRƯỜNG PHÁI ĐẠO GIA
1. Sơ lược sự hình thành và phát triển Đạo gia
Đạo gia hay còn gọi là Đạo giáo là một nhánh triết học và tôn giáo Trung Quốc,
được xem là tôn giáo chính thống của xứ này. Nguồn gốc lịch sử của Đạo gia nằm ở
thế kỉ thứ 4 trước CN, khi tác phẩm Đạo Đức kinh của Lão Tử xuất hiện.
Tại Trung Quốc, Đạo giáo đã ảnh hưởng đến các lĩnh vực chính trị, kinh tế, triết
học, văn chương, nghệ thuật, âm nhạc, dưỡng sinh, y khoa, hoá học, vũ thuật và địa
lí. Hiện nay, Đạo giáo có khoảng 400 triệu tín đồ tập trung tại các nước Trung Quốc,
Singapore, Malaysia, Đài Loan và cộng đồng người Hoa hải ngoại.
Tôn giáo này hình thành qua một quá trình dài, thâu nhập nhiều trào lưu thượng
cổ khác. Đạo giáo tiếp thu nhiều tư tưởng đã phổ biến từ thời nhà Chu (1040-256
trước CN). Thuộc về những tư tưởng này là vũ trụ luận về thiên địa, ngũ hành,
thuyết về năng lượng, chân khí, thuyết âm dương và Kinh Dịch. Nhưng, ngoài chúng
ra, những truyền thống tu luyện thân tâm như điều hoà hơi thở, Thái cực quyền, Khí
công, Thiền định, thiết tưởng linh ảnh, thuật luyện kim và những huyền thuật cũng
được hấp thụ với mục đích đạt trường sinh bất tử. Việc tu luyện đạt trường sinh có lẽ
bắt nguồn từ những khái niệm rất cổ xưa, bởi vì trong Trang Tử Nam Hoa chân kinh,
một tác phẩm trứ danh của Đạo giáo thế kỉ thứ 4 trước CN thì các vị tiê n trường sinh
bất tử đã được nhắc đến, và đại diện tiêu biểu cho họ chính là Hoàng Đế và Tây
Vương Mẫu, những hình tượng đã có trong thời nhà Thương, thiên niên kỉ 2 trước CN.
2. Một số tư tưởng triết học cơ bản của Đạo gia
2.1 Tư tưởng triết học trong Đạo đức kinh của Lão Tử
Tương truyền Lão Tử sống thời Chiến Quốc, thế kỉ thứ 6 trước CN, một thời kì
được đánh dấu bằng chiến tranh và loạn li. Nhưng thời này cũng được xem là thời
vàng son của triết học Trung Quốc vì nhiều nhà tư tưởng đã tìm cách giải hoá vấn đề Trang 2
Lâm Hữu Cường-CHKT.K21.D5
GVHD:TS Bùi Văn Mưa
làm sao để an dân lập quốc. Do đó mà người sau cũng gọi thời kì này là thời của
Bách gia chư tử - "hàng trăm trường phái". Đạo Đức kinh hàm chứa những tư tưởng
này, hướng đến những nhà cầm quyền và cách tạo hoà bình.
Trong dạng được truyền ngày nay thì Đạo Đức kinh bao gồm hai quyển với tổng
cộng 81 chương. Phần thứ nhất nói về Đạo, phần hai nói về Đức. Tuy nhiên, Đạo
Đức kinh không là một bộ kinh có một kết cấu lôgic của một thế giới quan, mà chỉ là
một tập hợp của những ngạn ngữ huyền bí, tối nghĩa, dường như nó muốn người đọc
phải tự lí giải một cách chủ quan. Chính vì vậy mà người ta tìm thấy hàng trăm bản
chú giải, hàng trăm bản dịch của bộ Đạo Đức kinh này.
2.1.1 Lý luận về đạo và đức
Đạo là phạm trù triết học vừa để chỉ bản nguyên vô hình, phi cảm tính, phi ngôn
từ, sâu kín, huyền diệu của vạn vật, vừa để chỉ con đường, quy luật chung của mọi
sự hình thành, biến hóa xảy ra trong thế giới. Đức là phạm trù triết học dùng để thể
hiện sức mạnh tiềm ẩn của đạo, là cái hình thức nhờ đó vạn vật được hình thành và
phân biệt được với nhau, là cái lý sâu sắc để nhận biết vạn vật.
Đạo được tạm hiểu như là cái tự nhiên tĩnh mịch, yên lặng, mộc mạc, hỗn độn,
mập mờ, thấp thoáng, không có đặc tính, không có hình thể; là cái mắt không thấy,
tai không nghe, tay không nắm bắt, ngôn ngữ không thể diễn đạt, tư duy không nhận
thức được; là cái năng động tự sinh sôi, nảy nở. biến hóa…
Đạo vừa là cái có trước vừa là cái nằm trong bản thân sự vật; nhưng khi có sự
can thiệp của con người thì đạo không còn là đạo nữa. Đạo mà ta có thể gọi được
không phải là đạo,không tên là gốc của trời đất, có tên là mẹ của vạn vật…
Đạo sinh ra vạn vật, đức nuôi nấng, bảo tồn vạn vật. Vạn vật xuất phát từ đạo,
nghĩa là trật tự vũ trụ cũng từ đạo mà ra, nhờ đức mà thể hiện, và khi mất đi là lúc
vạn vật quay về với đạo. Đạo chẳng phải là một nhân vật toàn năng, mà là nguồn
gốc và sự dung hoà tất cả những cặp đối đãi và như thế, không thể định nghĩa được.
Đạo sinh ra Một (khí thống nhất), Một sinh ra Hai (âm, dương đối lập), Hai sinh ra
Ba (trời, đất, người), Ba sinh ra vạn vật. Trang 3
Lâm Hữu Cường-CHKT.K21.D5
GVHD:TS Bùi Văn Mưa
Đạo gia xem đạo không chỉ là nguồn gốc, bản chất mà còn là quy luật của mọi
cái đã, đang và sẽ tồn tại trong thế giới. Điều này cho phép hiểu đạo như nguyên lý
thống nhất - vận hành của vạn vật - nguyên lý đạo pháp tự nhiên. Đạo vừa mang tính
khách quan (vô vi) vừa mang tính phổ biến; vì vậy, trong thế giới, không đâu không
có đạo, không ai không theo đạo… Quan niệm về đạo, đức của trường phái Đạo gia
thể hiện một trình độ khái quát cao của tư duy biện chứng khi giải quyết vấn đề bản nguyên thế giới.
Về mặt triết học thì đạo có thể được xem là siêu việt vì nó là cơ sở của tồn tại,
bao gồm tồn tại và phi tồn tại. Trên cơ sở này thì ta không thể luận đàm, định nghĩa
được đạo vì mỗi định nghĩa đều có bản chất hạn chế. Nhưng Đạo lại là cả hai, là sự
siêu việt mọi hạn lượng mà cũng là nguyên lí bên trong trong vũ trụ. Cái Dụng của
Đạo tạo ra âm dương, nhị nguyên, những cặp đối đãi và từ sự biến hoá, chuyển động
của âm dương mà phát sinh thế giới thiên hình vạn trạng.
2.1.2 Quan niệm niệm biện chứng về thế giới của Lão Tử
Lão Tử cho rằng vũ trụ vận động và biến đổi theo hai quy luật: quy luật bình
quân và quy luật phản phục. 
Quy luật bình quân là luôn giữ cho sự vật được thăng bằng theo một trật
tự điều hòa tự nhiên, không có cái gì thái quá, bất cập. Trong Đạo đức
kinh ông viết: ”cái gì khuyết ắt được tròn đầy, cái gì cong sẽ được thẳng,
cái gì cũ thì lại mới, cái gì ít sẽ được nhiều, nhiều sẽ mất”. 
Quy luật phản phục là sự phát triển đến cực điểm thì chuyển quay trở lại
phương hướng cũ. Lão Tử diễn đạt rằng “trở lại là cái động của Đạo” -
nghĩa là “cái động của Đạo” không đi ra ngoài mà trở về gốc.
Bất cứ sự vật nào cũng là thể thống nhất của hai mặt đối lập. Chúng ràng buộc,
bao hàm lẫn nhau. Lão Tử cho rằng, ai cũng biết đẹp là đẹp tức là có xấu; hai mặt
dài ngắn tựa vào nhau, mới có hình thể; hai mặt cao thấp liên hệ với nhau, mới có
chênh lệch; và trong vạn vật, không vật nào không cõng âm, bồng dương. Trong vạn
vật, các mặt đối lập không chỉ thống nhất mà chúng còn xung đột, đấu tranh, chuyển Trang 4
Lâm Hữu Cường-CHKT.K21.D5
GVHD:TS Bùi Văn Mưa
hóa nhau tạo ra sự thay đổi, biến hóa không ngừng của vạn vật trong vũ trụ. Tuy
nhiên theo Lão Tử sự đấu tranh, chuyển hóa của các mặt đối lập này không làm xuất
hiện cái mới, mà là theo vòng tuần hoàn khép kín. Đối với ông, họa là chỗ dựa của
phúc, phúc là chỗ náu của họa; cái gì cong thì lại thẳng, cũ thì lại mới…
Lão Tử khẳng định càng tách xa đạo, xã hội càng chứa nhiều mâu thuẫn. Mâu
thuẫn là tai họa của xã hội. Theo ông khi đạo lớn bị phá bỏ thì xuất hiện nhân nghĩa;
khi trí tuệ ra đời sinh ra giả dối; khi nước loạn mới xuất hiện tôi trung; khi gia tộc
bất hòa mới sinh ra cha nhân từ con hiếu thảo… Vì vậy, để xóa bỏ tai họa cho xã hội
phải thủ tiêu mọi mâu thuẫn mang tính xã hội, có nguồn gốc chủ quan (xa đạo) trong
xã hội. Theo Lão Tử, mâu thuẫn trong xã hội được thủ tiêu bằng cách đẩy mạnh một
trong hai mặt đối lập để tạo ra sự chuyển hóa theo quy luật phản phục (quay trở lại
cái ban đầu), hay cắt bỏ một trong hai mặt đối lập để làm cho mặt đối lập kia tự mất
đi theo quy luật bình quân (cân bằng nhau). Với quan niệm này, ông cho rằng trong
đời sống xã hội, nếu dẹp bỏ trí tuệ thì dân sẽ chất phác; nếu không tôn trọng người
hiền thì dân không tranh nhau; nếu không coi trọng của cải quý báu thì dân không có trộm cắp.
Phép biện chứng của Lão Tử mang tính chất máy móc, đơn giản. Vạn vật chỉ vận
động tuần hoàn, lặp đi lặp lại một cách buồn tẻ mà không có sự ra đời của cái mới,
nghĩa là không có sự phát triển.
2.1.3 Quan niệm nhân sinh và chính trị xã hội a) Thuyết vô vi
Khái niệm vô vi trong Đạo Đức kinh thường được hiểu lầm là không nên làm gì
cả, nhưng thật ra Lão Tử khuyên rằng “Làm mà như không làm, như thế có đặng
không”. Ông cũng viết rằng nước tuy mềm mại uyển chuyển nhưng có thể chảy đến
bất cứ nơi nào, và với một khối lượng lớn thì có thể làm lở cả đất đá. Như vậy vô vi
có thể ví von với cách hành xử của nước. Vô vi là hành động theo tự nhiên, thuần
phác, không giả tạo, là làm mà không có tâm riêng, cũng như đói thì phải ăn, khát
thì phải uống. Chỉ khi nào từ bỏ được thói tư lợi thì mới nhận thấy đạo, và chỉ khi Trang 5
Lâm Hữu Cường-CHKT.K21.D5
GVHD:TS Bùi Văn Mưa
nhận thấy đạo mới có thể vô vi được. Lão Tử phản đối mọi chủ trương hữu vi, vì
ông cho rằng hữu vi chỉ làm xáo trộn trật tự tự nhiên vốn mang tính điều hòa, làm
mất bản tính tự nhiên của con người, dẫn đến sự xa lánh và làm mất đạo. Từ thuyết
vô vi, Lão Tử đã rút ra nghệ thuật sống dành cho con người là từ ái, cần kiệm, khiêm nhường, khoan dung.
b) Về đường lối trị nước an dân
Ông khuyên tri nhân giả trí, tự tri giả minh, nghĩa là biết người khác chỉ mới là
trí, nhưng tự biết mình thì mới là sáng. Như vậy ông chú trọng đến việc tự chinh
phục bản thân hơn là chinh phục kẻ khác. Nên bằng lòng với cái mình có, tri túc chi
túc hà thời túc, tri nhàn chi nhàn hà thời nhàn, nghĩa là biết đủ thì đủ và lúc nào cũng
đầy đủ cả, biết nhàn thì nhàn và lúc nào cũng nhàn cả.
Lão Tử cho rằng hành động hay nhất là đừng can thiệp đến việc đời; nhưng nếu
đời cần ta phải làm thì ta hãy làm cái không làm một cách kín đáo, khéo léo. Ông coi
đây là giải pháp an bang tế thế. Đối với ông chính phủ yên tĩnh vô vi thì dân sẽ biến
thành chất phác, chính phủ tích cực làm việc thì dân đầy tai họa. Nếu Nho gia đòi
hỏi người trị vì thiên hạ phải là bậc Thánh nhân quân tử, sang ngời các phẩm chất
đạo đức: nhân, lễ, nghĩa, trí, tín, dũng và chủ trương xây dựng xã hội đại đồng thì
Lão Tử cho rằng bậc Thánh nhân trị vì thiên hạ phải bằng lẽ tự nhiên của đạo vô vi,
và chủ trương xóa bỏ hết mọi rang buộc về mặt đạo đức, pháp luật đối với con người
để trả lại cho con người cái bản tính tự nhiên vốn có của nó. Lão Tử mơ ước đưa xã
hội trở về thời đại nguyên thủy chất phác, mơ ước cô lập cá nhân với xã hội để hòa
tan con người vào đạo (tự nhiên). Xã hội lý tưởng đối với ông là những nước nhỏ,
dân ít, có thuyền xe nhưng không đi, có gươm giáo nhưng không dùng, bỏ văn tự, từ
tư lợi, không học hành…; dân hai nước ở cạnh nhau, dù cách nhau bởi một bờ dậu
nhỏ hay một con mương cạn, cùng nghe tiếng chó sủa tối, tiếng gà gáy sáng…
nhưng đến già, đến chết họ không bao giờ qua lại thăm nhau.
2.2 Trang Tử và sự phát triển của Đạo gia Trang 6
Lâm Hữu Cường-CHKT.K21.D5
GVHD:TS Bùi Văn Mưa
Trang Tử là một triết gia và tác gia . Tên thật của Đạo giáo ông là Trang Chu, ông
cũng sống vào thời Chiến Quốc, thời kỳ đỉnh cao của các tư tưởng triết học T rung Hoa với Bách Gia Chư Tử.
Tương truyền rằng, khi Trang Tử đến ở ẩn nơi chân núi Nam Hoa, ông đem hết
tinh hoa của Đạo giáo của Lão Tử viết thành bộ sách, lấy tên núi Nam Hoa mà đặt,
gọi là Nam Hoa kinh, đời sau người ta gọi là "sách Trang Tử".
Văn chương trong Nam Hoa kinh rất có tiết tấu, nhiều câu dùng phép biền ngẫu,
lời văn luôn luôn bóng bẩy, trôi chảy, ảnh hưởng rất lớn đến các thi nhân đời sau như
Kê Khang, Nguyễn Tịch, Sơn Đào,... và ngay cả đời nhà Đường như Lý Bạch, đời
nhà Tống như Tô Đông Pha.
Kế thừa truyền thống của triết học cổ Trung Quốc, nguyên tắc trình bày quan
điểm triết học của Trang Tử là "có lời vì ý, được ý quên lời". Vì vậy, tư tưởng triết
học của ông được biểu hiện một cách đơn sơ lại huyền hoặc, nửa sáng, nửa tối, cảm
nhận được nhưng không thể diễn đạt bằng lời. "Nó giống như một bức tranh mộc
mạc, đường nét đơn sơ, nhưng lại chứa đựng tất cả vì tất cả đang biến động, biến
hóa như rồng uốn lượn, cuộn mình tan lẫn trong mây". Trang Tử - mặc dù rất có
công trong việc mài dũa viên ngọc "đạo" của Lão Tử nhưng hết sức đề cao sự thực
hành bằng chính bản thân cuộc sống theo "đạo" (nguồn sống, đạo sống) hơn là việc
suy ngẫm nhưng triết lý thâm trầm về đạo. Sự gợi mở trong cách cảm nhận về học
thuyết của mình khiến cho Nam hoa chân kinh giữ được khoảng trống sáng tạo cho
nhiều thế hệ độc giả. Có thể hiểu một cách khái lược tư tưởng triết học của Trang Tử như sau: 
Vô danh: Ông viết: "Đạo chẳng thể nghe được, nghe được không phải là nó. Đạo
chẳng thể thấy được, thấy được không phải là nó. Làm sao lấy trí mà hiểu được
cái hình dung của cái không hình dung được? Vậy không nên đặt tên cho đạo"
(Tri bắc du). Khác với học thuyết Chính danh và đường lối hữu vi của Khổng Tử,
ông cho rằng đạo không thể diễn đạt bằng lời, "Duy Kỳ vì ham mê, muốn tỏ rõ Trang 7
Lâm Hữu Cường-CHKT.K21.D5
GVHD:TS Bùi Văn Mưa
nó nên suốt đời mờ tối" (Tề vật luận) còn "phần tinh túy của chí đạo thì mờ mịt,
huyền ảo. Chỗ rất mực của đạo thì lặng hẳn, tối ráo" (Tại hựu). 
Vô thường: Trạng thái vận động, không ngừng biến đổi của vũ trụ và vạn vật
chính là "sự sống" của đạo. Thiên
hạ có đoạn viết rất hay về nội dung cốt lõi
trong tư tưởng này của ông khi đem so sánh đạo với con rồng uốn lượn, luôn
luôn biến đổi: "Thoắt lặng không hình, biến hóa không thường, chết chăng, sống
chăng? Muôn vật la liệt, không có gì đáng là nơi để ta về". Đây cũng là chỗ khác
biệt giữa Lão và Trang. Trong Đạo đức kinh của Lão Tử luôn luôn thể hiện các
mặt đối lập trong đạo: âm-dương, cương-nhu, sống-chết..., với Trang Tử, tất cả
chỉ có một - trong sự biến hóa không ngưng nghỉ. 
Đức: Giống như đức của Mặt Trờilà sáng và nóng, đức của nước là lạnh và tuôn
chảy, của gió là mát và dịch chuyển, đức của con người cũng là một trạng thái tự
nhiên không ràng buộc với bất kỳ mối quan hệ xã hội nào. "Đức của người thọ ở
nơi đất trời, hãy biết gìn giữ nó tột cùng, đừng làm hư hại nó" (Dưỡng sinh chủ).
Vì đức tự nhiên như "bò ngựa bốn chân thì thuộc về trời, còn thòng cổ ngựa, xâu
cổ bò là thuộc về người" nên đức có đời sống độc lập, vận động theo lẽ lớn của tạo hóa và đạo. 
Vô vi: Từ các quan điểm triết học nêu trên, tư tưởng nhân sinh căn bản trong
Nam hoa kinh của Trang Tử là vô vi - mẫu mực sống của các bậc thánh nhân -
đứng ở chỗ khôn lường mà chơi ở miền không có. Vô vi hành động theo lẽ tự
nhiên nhi nhiên, vô tư, hồn nhiên như trẻ thơ "giữ tâm điềm đạm, khí điềm tĩnh,
thuận theo tự nhiên mà không theo ý riêng của mình" (Ứng đế vương). Cũng
giống như Vô vi của Lão Tử là "vô vi nhi vô bất vi" nhưng mới hơn ở Trang Tử
là không thái quá và biết phá bỏ những gì cản trở cho sự phát triển tự nhiên của
vạn vật, làm cho mọi vật đều được tự do, bình đẳng sống theo đúng bản tính, sở thích tự nhiên của nó. Trang 8
Lâm Hữu Cường-CHKT.K21.D5
GVHD:TS Bùi Văn Mưa
CHƯƠNG 2: NHỮNG GIÁ TRỊ VÀ HẠN CHẾ CỦA TRƯỜNG PHÁI ĐẠO GIA
1. Những giá trị của tư tưởng triết học trường phái Đạo gia
 Lý luận về đạo và đức:
Trong hệ thống triết học Lão Tử, học thuyết về “đạo” có một vị trí cực kì quan
trọng. Nó là nền tảng chi phối xuyên suốt các vấn đề trong triết học của ông và hầu
hết các quan điểm về vũ trụ, nhân sinh của người Trung Hoa cổ đại. Thuật ngữ
“đạo” có lẽ được sử dụng từ thời trước Lão Tử. Tuy nhiên, đến Lão Tử “đạo” trở
thành một khái niệm có nội dung sâu sắc và hệ thống hơn. Nó được coi là một phạm
trù triết học cơ bản trong triết học của ông.
Phần quý giá nhất trong triết học của Lão Tử, đó là phép biện chứng chất phác.
Lão Tử cho rằng, tòan bộ vũ trụ vạn vật do sự chi phối của “đạo” luôn luôn trong
quá trình vận động, biến hóa không ngừng, không nghỉ.
 Quan niệm niệm biện chứng về thế giới của Lão Tử:
Từ quy luật bình quân và phản phục, Lão Tử nâng lên thành nghệ thuật sống của
con người. Đó là sự từ ái, khiêm nhường, tri túc, tri chỉ. Ông dạy mọi người: “Sắp
muốn thu lại, ắt hãy mở ra đấy; muốn làm yếu đi, ắt hãy làm cho mạnh lên đấy;
muốn làm vật suy tàn hãy làm cho nó hưng lên; muốn đoạt lấy hãy cho đi...”.
Trong tư tưởng về phép biện chứng, có thể nói về căn bản, Lão Tử đã vạch ra
được quy luật, con đường vận động, biến đổi của vạn vật trong thế giới khách quan.
Theo ông, nguồn gốc của sự vận động, biến đổi ấy của vũ trụ, vạn vật là sự liên hệ,
tác động, chuyển hóa giữa các mặt đối lập trong chính các sự vật. Đây là thành quả
đặc sắc nhất trong triết học của Lão Tử, biểu hiện năng lực quan sát tinh vi và trình
độ tư duy sắc sảo của ông đối với sự vật khách quan.  Thuyết vô vi:
Lão Tử đã đề xướng học thuyết “vô vi”, qua đó ông đã trình bày những quan
niệm hết sức đặc sắc của mình về các vấn đề đạo đức nhân sinh và chính trị xã hội.
“Vô vi” là một học thuyết triết học – đạo đức của người Trung Hoa cổ đại, đã được Trang 9
Lâm Hữu Cường-CHKT.K21.D5
GVHD:TS Bùi Văn Mưa
Lão Tử nâng lên thành học thuyết về nghệ thuật sống của con người trong sự hòa nhập với tự nhiên.
Trong quan điểm về chính trị - xã hội, với tư tưởng “vô vi”, Lão Tử kịch liệt lên
án chiến tranh, bạo ngược và chủ trương “bất tranh” và “khiêm hạ”. Ông coi chiến
tranh là trái với đạo tự nhiên, là tàn bạo và đại họa cho xã hội. Theo ông, chẳng có
cái gọi là vinh hay nhục gì khi thắng hay bại trong chiến tranh.Chiến tranh, theo Lão
Tử không chỉ gây ra sự chết chóc, tàn phá, đau thương là hậu quả của nó còn ảnh
hưởng lâu dài trong đời sống xã hội.
 Nam hoa kinh của Trang Tử:
Trang Tử được coi là nhà tư tưởng lớn về đạo học trong triết học cổ Trung Quốc,
người có công mài dũa viên ngọc “đạo” của Lão Tử làm hiện lên đầy đủ vẻ lấp lánh huyền hoặc của nó.
Phần không kém đặc sắc trong triết học Trang Tử là phép biện chứng tự phát.
Trang Tử đã xem xét vũ trụ, tự nhiên bằng quan điểm biện chứng, mà nổi bật là tư
tưởng về sự vận động, biến hóa không ngừng của thế giới.
Những quan điểm chính trị xã hội của Trang Tử đã phản ánh đúng đắn tư tưởng
và địa vị giai cấp của ông ở thời kỳ xã hội loạn lạc.
2. Những hạn chế của tư tưởng triết học trường phái Đạo gia
 Lý luận về đạo và đức:
Lão Tử cố gắng tìm ra quy luật khách quan của vạn vật vận động và biến hóa,
dạy mọi người phải hành động theo quy luật tự nhiên. Nhưng ông lại cho rằng con
người chỉ có thể thích ứng với quy luật tự nhiên một cách bị động, đứng trước tự
nhiên, con người không cần làm gì cả. Đó là quan điểm sai lầm của Lão Tử trước sự
vận động và biến đổi của tự nhiên.
 Quan niệm niệm biện chứng về thế giới của Lão Tử:
Lão Tử quá nhấn mạnh quy luật bình quân và phản phục mà không nhấn mạnh
đến đấu tranh là phương thức giải quyết mâu thuẩn. Trái lại, đề cao tư tưởng điều
hòa mâu thuẫn cho nêntriết học Đạo gia không bao gồm tư tưởng về sự phát triển. Trang 10
Lâm Hữu Cường-CHKT.K21.D5
GVHD:TS Bùi Văn Mưa
Trong triết học của Lão Tử khi đề cập đến sự chuyển hóa của các mặt đối lập
không theo khuynh hướng phát triển, xuất hiện cái mới mà theo vòng tuần hoàn của
quy luật phản phục. Hơn nữa không chủ trương giải quyết mâu thuẫn bằng đấu tranh
giữa các mặt đối lập mà chủ trương lấy cái tĩnh, vô vi, điều hòa để chuyển thành sự
chuyển hóa của quy luật bình quân nên phép biện chứng mang tính máy móc, lặp đi
lặp lạimột cách tuần hoàn buồn tẻ.
Quan niệm biện chứng của ông không khuyến khích dân sử dụng trí tuệ, không
tôn trọng người hiền, không coi trọng của cải vật chất làm ra. Tư tưởng của ông
không ủng hộ sự phát triển của xã hội mà mong muốn mang con người trở lại thời
ban đầu sơ khai, không phát sinh cái mới. Điều này không giúp ích cho sự phát triển
nhân loại và kéo lùi xã hội loài người về thời kỳ lạc hậu trước kia.
Tư tưởng biện chứng của Lão Tử tuy đã vẽ nên đúng đắn bức tranh sinh động
của hiện thực, nhưng về căn bản nó vẫn mang tính chất tự phát, ngây thơ, dựa trên
những kinh nghiệm có tính trực quan cảm tính và chủ yếu là mô tả sự biến chuyển
của sự vật, hiện tượng xảy ra trong tự nhiên cũng như trong xã hội. Nó chưa có cơ
sở để vạch ra sự hạn chế bị quy định bởi tính chất thời đại lịch sử mà còn do sự hạn
chế bởi trình độ nhận thức còn thấp kém ở Trung Quốc thời bấy giờ.  Thuyết vô vi:
Trong tư tưởng “vô vi”, Lão Tửchống lại những chuẩn mực đạo đức và thể chế
pháp luật. Ông coi đó là sự áp đặt, cưỡng chế, can thiệp vào bản tính tự nhiên của
con người.Tất cả những cái gọi là nhân, lễ, nghĩa, trítheo Lão Tử chỉ là giả tạo, trái
với tự nhiên, xa rời mất đạo mà thôi.Ông phê phán những quan điểm và chủ trương
“hữu vi” của Nho giáo. Thậm chí, sống theo đạo “vô vi” theo Lão Tử ngay đến
chính bản thân mình cũng không quý nó và lo lắng cho nó.
Trị nước theo đạo “vô vi”, Lão Tử chủ trương xóa bỏ mọi lễ giáo, pháp luật, văn
hóa, kỹ thuật, bỏ tất cả những gì trái với tự nhiên, tổn hại đến bản chất tự nhiên của
con người. Nếu theo tư tưởng của ông xóa bỏ tất cả những thành tựu mà con người Trang 11
Lâm Hữu Cường-CHKT.K21.D5
GVHD:TS Bùi Văn Mưa
đã đạt được, bỏ luôn lễ nghĩa thì xã hội không thể phát triển được, con người sẽ lạc
hậu và có thể nhân loại sẽ quay lại thời kỳ đồ đá trước kia.
 Nam hoa kinh của Trang Tử:
Sự vận động không ngừng và vô cùng của vạn vật ở Trang Tử không phải theo
chiều hướng phát triển đi lên mà là theo một vòng tròn khép kín.Ta có thể thấy ở đây
tư tưởng về quy luật vận động của Trang Tử rất giống với các nhà triết học duy vật ở
Hy Lạp cổ đại. Chỉ có điều khác biệt là Trang Tử tuyệt đối hóa mặt vận động đến
mức xóa nhòa ranh giới giữa vận động và đứng im, tồn tại và không tồn tại,chất và
lượng… để chỉ còn thấy tất cả đều tương đối, đều thoáng qua.
Thực chất Trang Tử đã đề cao và tuyệt đối hóa mặt tự nhiên của con người, xem
xét con người tách hẳn với xã hội hay đối lập hoàn toàn với xã hội. Biến con người
thành một thực thể riêng biệt, khép kín, phủ nhận mặt xã hội của con người, đồng
nhất họ với tự nhiên. Khi đề cao bản chất tự nhiên của con người, Trang Tử đã hạ
thấp con người, đánh đồng con người có ý thức với muôn vật vô tri vô giác. Quan
điểm đó của ông đã thể hiện khuynh hướng đồng nhất tự nhiên và xã hội.
Xóa nhòa mọi mặt đối lập tương phản trong sự vật, cũng như giữa các sự vật,
không còn phân biệt vật ta, phải trái, tốt xấu, sống chết, Trang Tử đã bỏ mất cái sinh
động của phép biện chứng, không tìm thấy động lực thực sự của sự vận động biến
đổi. Đồng nhất cái chung và cái riêng, nội dung và hình thức, vận động và đứng im,
Trang Tử đã đi từ phép biện chứng đến chủ nghĩa chiết trung, ngụy biện.
Trang Tử đã hạ thấp nhận thức lý tính ở con người, giới hạn khả năng của nó và
ông khuyên cái biết bằng lý trí của con người nên “dừng ở chỗ mình không biết là rất mực rồi”.
Tóm lại, phép biện chứng của Trang Tử mang tính chất tự phát, nó không phải là
một hệ thống mà chỉ là những yếu tố tản mạn, rời rạc. Nó chỉ dừng lại ở mặt hình
thức, còn về nội dung thì lại là thuật ngụy biện và chủ nghĩa chiết trung. Những đặc
điểm này đã dẫn đến tính thần bí và huyền hoặc trong tư tưởng của ông. Trang 12
Lâm Hữu Cường-CHKT.K21.D5
GVHD:TS Bùi Văn Mưa KẾT LUẬN
Những quan điểm chính trị xã hội của Lão – Trang đã phản ánh đúng đắn tư
tưởng và địa vị giai cấp của ông ở thời kỳ xã hội loạn lạc. Họ đại diện cho tầng lớp
quý tộc sa sút, mất địa vị xã hội, nên hoài nghi ở hiện thực, lo sợ trước tương lai,
quay lưng với thực trạng xã hội đương thời để trốn tránh vào tự nhiên, hoài cổ.
Mong muốn cứu đời nhưng họ lại phủ nhận mọi hoạt động thực tiễn của con người
để cuối cùng tìm đến quyền lực, sức mạnh của tự nhiên – “đạo”, và chính họ đã
tuyệt đối hóa nó để biến thành sức mạnh siêu nhiên thần bí.
Với tư tưởng hết sức đặc sắc về “đạo” về phép biện chứng chất phác cũng như về
quan điểm “vô vi”, triết học Đạo gia thực sự trở thành viên ngọc quý của nền triết
học phương Đông. Tư tưởng của triết học Đạo gia làm người đời sau phải kinh ngạc
và thán phục trước sức mạnh tư duy độc đáo. Tuy triết học Đạo gia vẫn còn những
thiếu sót, hạn chế, nhưng về phương diện lịch sử, chúng ta cũng phải nghiêng mình
trước những di sản tài hoa và sắc sảo.
Đạo gia ảnh hưởng rất nhiều đến tư tưởng văn hóa truyền thống của Trung Quốc
và nhiều nước trên thế giới. Đạo gia còn đóng góp rất nhiều cho nền văn minh Trung
Quốc nói riêng và thế giới nói chung về triết học và nghệ thuật. Nhiều sinh hoạt độc
đáo ra đời và lan truyền rộng rãi trên thế giới bắt nguồn từ Đạo gia như thuật phong
thủy, phương pháp châm cứu và bấm nguyệt… Trang 13
Lâm Hữu Cường-CHKT.K21.D5
GVHD:TS Bùi Văn Mưa TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. TS Bùi Văn Mưa, Đại cương về lịch sử triết học (phần I), TP.HCM, 2011
2. http://vi.wikipedia.org/wiki/Đạo_giáo
3. http://vi.wikipedia.org/wiki/Lão_Tử
4. http://vi.wikipedia.org/wiki/Đạo_đức_kinh
5. http://vi.wikipedia.org/wiki/Trang_Tử
6. http://vi.wikipedia.org/wiki/Nam_Hoa_kinh
7. http://www.thienlybuutoa.org/Books/TuTuongDaoGia.pdf
8. http://giaoan.violet.vn/present/show/entry_id/3198050 Trang 14