Vai trò của chủ nghĩa xã hội khoa học, CNXH được tiếp cận ở một số góc độ | Trường đại học Quốc tế Hồng Bàng

Vai trò của chủ nghĩa xã hội khoa học, CNXH được tiếp cận ở một số góc độ | Trường đại học Quốc tế Hồng Bàng được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!

CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
Vai trò của chủ nghĩa xã hội khoa học: Chủ nghĩa xã hội khoa học có vai trò quan
trọng trong việc phân tích và hiểu các vấn đề xã hội, kinh tế và chính trị. Nó chủ
trương việc áp dụng phương pháp khoa học và lý luận để phân tích các vấn đề xã
hội và đề xuất các giải pháp xã hội hợp lý, bao gồm cả các giải pháp về việc phân
phối tài nguyên và quản lý kinh tế. Chủ nghĩa xã hội khoa học cũng xem nhân dân
là nền tảng của xã hội và tập trung vào phát triển con người thông qua việc đảm
bảo quyền lợi và chăm sóc sức khỏe của họ.
CNXH được tiếp cận ở một số góc độ sau đây:
Là phong trào thực tiễn, PTĐT của NDLĐ chống lại áp bức, bóc lột, bất công,
chống lại giai cấp thống trị: Ý này đề cập đến phong trào thực tiễn của người lao
động chống lại sự bóc lột, bất công và áp bức từ giai cấp thống trị. PTĐT là một
cách đấu tranh của các tầng lớp thấp hơn trong xã hội để bảo vệ quyền lợi của
mình. Trong trường hợp này, nó là phong trào của người lao động chống lại các
hành động bất công và bóc lột từ giai cấp thống trị. Mục tiêu của PTĐT là cải thiện
điều kiện sống của người lao động và giảm bớt sự bất bình đẳng xã hội.
Là trào lưu tư tưởng, lý luận phản ánh lý tưởng giải phóng NDLĐ thoát khỏi áp
bức, bóc lột, bất công: Ý này đề cập đến một trào lưu tư tưởng, lý luận về giải
phóng người lao động khỏi sự áp bức, bóc lột và bất công trong xã hội. Những ý
tưởng này thường được phản ánh trong các động lực xã hội, chính trị, kinh tế và
văn hóa của một quốc gia hoặc vùng lãnh thổ. Các nhà lý luận phản ánh những ý
tưởng này thông qua các nghiên cứu, sách báo và các hoạt động xã hội để tìm cách
giải quyết vấn đề của người lao động và đạt được sự công bằng và bình đẳng.
Là một khoa học – CNXHKH, khoa học về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công
nhân: Ý này đang nói về lĩnh vực khoa học CNXHKH về sứ mệnh lịch sử của giai
cấp công nhân. Điều này có thể ám chỉ đến những nghiên cứu, phân tích về vai trò,
đóng góp của giai cấp công nhân trong quá trình phát triển lịch sử của xã hội và
những giải pháp khoa học kỹ thuật để nâng cao đời sống của họ.
Là chế độ xã hội tốt đẹp, giai đoạn đầu của hình thái kinh tế xã hội cộng sản
chủ nghĩa: Ý này là mô tả về giai đoạn đầu của hình thái kinh tế xã hội cộng sản
chủ nghĩa. Được miêu tả là một chế độ xã hội tốt đẹp, nghĩa là một hình thức xã
hội mà các thành viên có thể tận dụng tài nguyên và sản xuất để đáp ứng nhu cầu
của cộng đồng một cách công bằng và hiệu quả. Các yếu tố chính của chế độ xã
hội này có thể bao gồm sự công bằng, sự đoàn kết, sự chia sẻ và sự đổi mới trong
sản xuất. Tuy nhiên, ý kiến về tính đúng đắn của chế độ xã hội này vẫn chưa được
đồng nhất, và có nhiều tranh luận giữa các nhà hoạch định chính sách và các tầng
lớp dân cư.
1. Chủ nghĩa xã hội
1.1. Chủ nghĩa xã hội, giai đoạn đầu của hình thái kinh tế - xã hội cộng
sản chủ nghĩa
Chủ nghĩa xã hội là một hình thái kinh tế-xã hội trong đó các phương tiện sản
xuất được sở hữu và điều hành bởi toàn bộ xã hội, và các sản phẩm được phân
phối theo nhu cầu thực sự của mọi người trong xã hội. Trong giai đoạn đầu của
chủ nghĩa xã hội, thường được gọi là chủ nghĩa xã hội khoa học, các lực lượng
sản xuất cơ bản đã được thay thế bằng các lực lượng sản xuất mới, bao gồm sức
lao động và công nghệ tiên tiến. Quyền lực chính trị và kinh tế được tập trung
vào tay nhà nước và các tổ chức công cộng, đồng thời tri thức và giáo dục được
đưa vào hàng đầu. Giai đoạn này thường được coi là giai đoạn chuyển đổi từ xã
hội tư bản sang xã hội chủ
Chủ nghĩa xã hội coi trọng quyền lực của nhân dân và đề cao chế độ dân chủ.
Họ tin rằng người dân nên được tham gia vào quyết định về các vấn đề chính trị
và kinh tế trong xã hội.
Giai đoạn đầu của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa là giai đoạn
chuyển tiếp từ nền kinh tế - xã hội tư bản sang nền kinh tế - xã hội cộng sản.
Trong giai đoạn này, những nỗ lực được đặt ra nhằm thực hiện các mục tiêu
chính trị và kinh tế của cộng sản chủ nghĩa, như tăng cường quyền lực của nhân
dân lao động, tiêu diệt giai cấp tư sản và tạo ra một xã hội bình đẳng.
Để đạt được mục tiêu này, các biện pháp như thu nhận tài sản của tư sản, tăng
cường quyền lực của nhà nước, cải tạo cơ cấu kinh tế và đẩy mạnh phong trào
sản xuất tập thể được triển khai.
Xã hội loài người trải qua các hình thái kinh tế - xã hội:
Lịch sử xã hội loài người đã trải qua các hình thái kinh tế - xã hội: cộng sản
nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và sẽ tiến tới
cộng sản chủ nghĩa.
HTKT-XH Công xã nguyên thủy: Công xã nguyên thủy là hình thái kinh tế xã
hội đầu tiên và sơ khai nhất trong lịch sử loài người. Trong xã hội công xã
nguyên thủy, tư liệu lao động được sử dụng thô sơ chủ yếu là sử dụng đồ đá,
thân cây làm công cụ lao động. Do đó, cơ sở kinh tế thời kỳ này là sự sở hữu
chung về tư liệu sản xuất và sản phẩm lao động.
HTKT-XH Chiếm hữu nô lệ: Khi chế độ thị tộc tồn tại trong công xã nguyên
thủy tan rã và hình thành nên xã hội có Nhà nước, và cuộc cách mạng xã hội
đầu tiên trong lịch sử loài người đã hình thành nên hình thái KTXH chiếm hữu
nô lệ. Đặc trưng của hình thái này là đã thay thế chế độ công hữu (sở hữu
chung) về từ liệu sản xuất sang chế độ tư hữu chủ nô, thay thế xã hội không có
giai cấp thành xã hội có giai cấp đối kháng (chủ nô – nô lệ), thay thế chế độ tự
quản thị tộc bằng trật tự có nhà nước của giai cấp chủ nô. Giai cấp chủ nô dùng
bộ máy cai trị của mình bóc lột tàn nhẫn sức lao động của nô lệ, nô lệ trong xã
hội này được coi như một công cụ lao động biết nói. Hình thái này cũng tạo ra
kiểu nhà nước đầu tiên: Nhà nước chủ nô.
HTKT-XH phong kiến: Giai cấp thống trị mới trong hình thái này là giai cấp
quý tộc – địa chủ, giai cấp bị trị là nông nô. Phương pháp bóc lột sức lao động
trong xã hội chiếm hữu nô lệ được thay thế bằng hình thức bóc lột địa tô –
người nông dân được giao đất đai và canh tác trên thửa ruộng của mình, đến kỳ
hạn nộp tô thuế cho địa chủ. So với hình thái chiếm hữu nô lệ, hình thức lao
động trong thời kỳ phong kiến đã tiến bộ hơn nhiều, tuy phải nộp tô thuế nhưng
nông dân vẫn có thể được giữ lại phải của cải dư thừa của mình. Đồng thời
nhiều tầng lớp, giai cấp mới đã xuất hiện trong xã hội.
HTKT- XH tư bản chủ nghĩa: Xuất hiện đầu tiên ở châu Âu, phôi thai và phát
triển trong lòng xã hội phong kiến châu Âu và chính thức xác lập như một hình
thái KTXH đầu tiên ở Anh và Hà Lan vào thế kỷ 17. Adam Smith (1723-1790)
là người có đóng góp to lớn nhất xây dựng một hệ thống lý luận tương đối hoàn
chỉnh về chủ nghĩa tư bản tự do hay tự do kinh tế. Những nét đặc trưng cơ bản
của hình thái KTXH tư bản chủ nghĩa: Quyền sở hữu tư nhân và quyền tự do
kinh doanh được pháp luật bảo vệ và coi như quyền thiêng liêng của con người;
Cá nhân dùng sở hữu tư nhân để kinh doanh trong điều kiện thị trường tự do:
mọi sự phân chia của cải đều thông qua quá trình mua bán của các thành phần
tham gia vào quá trình kinh tế; Gắn với nền sản xuất công nghiệp có năng suất
lao động cao; Bản chất sự “bóc lột” nằm ở giá trị thặng dư mà sức lao động tạo
ra khi các nhà tư bản thuê lao động và sử dụng sức lao động.
HTKT-XH cộng sản chủ nghĩa: là chế độ xã hội phát triển cao nhất, có quan hệ
sản xuất dựa trên sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất, thích ứng với lực lượng
sản xuất ngày càng phát triển, tạo thành cơ sở hạ tầng có trình độ cao hơn so với
cơ sở hạ tầng của chủ nghĩa tư bản; có kiến trúc thượng tầng tương ứng thực sự
là của nhân dân với trình độ xã hội hoá ngày càng cao.
Sự thay thế HTKT-XH TBCN = CSCN
- Sự thành công của Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga với sự ra
đời của nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới đã mở đầu thời đại
quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Sau đó là sự ra đời của
nhiều nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu, châu Á, châu Mỹ đã minh chứng
cho tính chất khoa học và cách mạng của Học thuyết Mác xít về hình thái
kinh tế - xã hội, mà những người phê phán C. Mác cũng phải khẳng định “có
sức thuyết phục như bản thân sự thật”1. Ngay Brê-din-xki, tác giả cuốn sách
“Thất bại lớn - sự hưng vong của chủ nghĩa cộng sản thế kỷ XX” cũng thừa
nhận: “Đối với những phần tử tri thức giàu năng lực phân tích giám định, thì
lý luận chủ nghĩa Mác đã cung cấp cho họ chiếc chìa khóa để hiểu biết lịch
sử nhân loại, là một phương pháp phân tích đánh giá xã hội, phân tích những
nguyên nhân biến động chính trị, là một lý luận chặt chẽ khám phá những bí
mật của đời sống kinh tế, và một loạt những kiến giải vì nhân tố động cơ xã
hội”
- Trong giai đoạn chuyển đổi từ tư bản chủ nghĩa sang cộng sản chủ nghĩa, lực
lượng sản xuất đã phát triển theo hướng tập trung và hợp nhất để tạo ra các
sản phẩm và dịch vụ cho nhu cầu của xã hội. Việc tập trung lực lượng sản
xuất và tăng cường việc quản lý, điều hành đã giúp tăng năng suất lao động
và nâng cao chất lượng sản phẩm. Trong thời kỳ này, các nước cộng sản đã
áp dụng nhiều chính sách kinh tế để khuyến khích việc phát triển lực lượng
sản xuất, bao gồm: quản lý kinh tế trung ương, quản lý kế hoạch và chính
sách về giá cả và thu nhập. Việc tạo ra các kế hoạch năm và định hướng phát
triển kinh tế dài hạn cũng giúp tăng cường quản lý lực lượng sản xuất.
- Trong giai đoạn thay đổi hình thái kinh tế xã hội từ tư bản chủ nghĩa sang
cộng sản chủ nghĩa, giai cấp công nhân đã trưởng thành và trở thành lực
lượng chủ lực trong cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa.Trước đó, giai cấp
công nhân là những người lao động bị bóc lột, không được đối xử công bằng
và không có quyền lợi đáng kể. Tuy nhiên, khi cách mạng xã hội chủ nghĩa
được thực hiện, công nhân trở thành lực lượng chủ lực trong sự phát triển
kinh tế và xã hội. Công nhân đã được đào tạo và hướng dẫn để trở thành
những nhân công có trình độ chuyên môn cao và có khả năng tham gia vào
việc sản xuất, quản lý và điều hành kinh tế xã hội. Tại đây, công nhân trở
thành một lực lượng lao động chính trong sản xuất và là nhóm người đầu
tiên tận hưởng các quyền lợi và chế độ bảo vệ của nhà nước. Tuy nhiên, họ
vẫn bị bó buộc bởi chính quyền tư bản và chưa thể đòi hỏi quyền lực chính
đáng.
Vận dụng quan điểm duy vật về lịch sử để nghiên cứu xã hội loài người, C.Mác
và Ph.Ăngghen xây dựng nên học thuyết hình thái kinh tế - xã hội. Theo đó, sự
chuyển biến từ HKTT-XH thấp lên HTKT – XH cao là một quá trình lịch sử, tự
nhiên.
Học thuyết hình thái kinh tế xã hội cho rằng sự thay thế hình thái kinh tế xã hội
tư bản chủ nghĩa bằng hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa là tất yếu.
Điều này được giải thích bởi việc rằng hình thái kinh tế xã hội tư bản chủ nghĩa
bao gồm sự tách biệt giữa các tầng lớp xã hội, sản xuất về mục đích lợi nhuận,
và chủ quyền sở hữu tư nhân. Trong khi đó, hình thái kinh tế xã hội cộng sản
chủ nghĩa hướng tới sự cộng đồng, sản xuất vì mục đích chung, và chủ quyền
sở hữu công cộng. Do đó, sự thay thế này là tất yếu để xây dựng một xã hội
cộng sản chủ nghĩa.
1.2. Điều kiện ra đời của chủ nghĩa xã hội
Chủ nghĩa xã hội ra đời trong bối cảnh xã hội bị chia cắt, phân tầng và bất công.
Các tầng lớp thấp kém bị áp bức và bị lợi dụng bởi tầng lớp giàu có và quyền lực.
Mâu thuẫn giữa chủ nghĩa Đế quốc xâm lược với các quốc gia, dân tộc bị xâm lược
và bị áp bức. Đây là mâu thuẫn đặc trưng cho thời kì mới. Mâu thuẫn giữa các
nước tư bản với nhau do xung đột lợi ích. Mâu thuẫn giữa các nước giàu trong thế
giới tư bản và các nước nghèo, lạc hậu do bị tụt hậu xa về kinh tế. Do đó, chủ
nghĩa xã hội được sinh ra nhằm giải quyết vấn đề bất công xã hội và đảm bảo sự
bình đẳng cho tất cả mọi người. Chủ nghĩa xã hội bắt nguồn từ triết lý của các nhà
tư tưởng phương Tây như Marx, Engels và Lenin, và phát triển rộng rãi trong thế
kỷ 19 và 20.
Điều kiện về kinh tế: Nền đại công nghiệp cơ khí làm cho phương thức sản xuất
tư bản chủ nghĩa có bước phát triển vượt bậc. Cùng với quá trình phát triển của nền
đại công nghiệp, sự ra đời hai hai giai cấp cơ bản, đối lập về lợi ích, nhưng nương
tựa vào nhau: giai cấp tư sản và giai cấp công nhân. Do sự ra đời của sản xuất công
nghiệp với thành tựu khoa học kỹ thuật công nghệ, lao động mang tính xã hội, lực
lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ và đạt tới trình độ xã hội hóa ngày càng cao,
mâu thuẫn với quan hệ sản xuất dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ
nghĩa về tư liệu sản xuất chủ yếu. Mâu thuẫn này ngày càng phát triển. Đây là mâu
thuẫn cơ bản trong phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Điều kiện về chính trị - xã hội: cùng với sự hình thành và phát triển của chủ nghĩa
tư bản cũng hình thành và phát triển hai giai cấp cơ bản: giai cấp công nhân và giai
cấp tư sản có lợi ích đối lập nhau nên xã hội xuất hiện mâu thuẫn đối kháng. Giai
cấp công nhân giác ngộ lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học và dưới sự lãnh đạo của
Đảng cộng sản lật đổ nhà nước của giai cấp tư sản, xác lập nhà nước của giai cấp
công nhân và nhân dân lao động. Việc thiết lập nhà nước của giai cấp công nhân và
nhân dân lao động là sự mở đầu của hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa
| 1/6

Preview text:

CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
Vai trò của chủ nghĩa xã hội khoa học: Chủ nghĩa xã hội khoa học có vai trò quan
trọng trong việc phân tích và hiểu các vấn đề xã hội, kinh tế và chính trị. Nó chủ
trương việc áp dụng phương pháp khoa học và lý luận để phân tích các vấn đề xã
hội và đề xuất các giải pháp xã hội hợp lý, bao gồm cả các giải pháp về việc phân
phối tài nguyên và quản lý kinh tế. Chủ nghĩa xã hội khoa học cũng xem nhân dân
là nền tảng của xã hội và tập trung vào phát triển con người thông qua việc đảm
bảo quyền lợi và chăm sóc sức khỏe của họ.
CNXH được tiếp cận ở một số góc độ sau đây:
Là phong trào thực tiễn, PTĐT của NDLĐ chống lại áp bức, bóc lột, bất công,
chống lại giai cấp thống trị
:
Ý này đề cập đến phong trào thực tiễn của người lao
động chống lại sự bóc lột, bất công và áp bức từ giai cấp thống trị. PTĐT là một
cách đấu tranh của các tầng lớp thấp hơn trong xã hội để bảo vệ quyền lợi của
mình. Trong trường hợp này, nó là phong trào của người lao động chống lại các
hành động bất công và bóc lột từ giai cấp thống trị. Mục tiêu của PTĐT là cải thiện
điều kiện sống của người lao động và giảm bớt sự bất bình đẳng xã hội.
Là trào lưu tư tưởng, lý luận phản ánh lý tưởng giải phóng NDLĐ thoát khỏi áp
bức, bóc lột, bất công
: Ý này đề cập đến một trào lưu tư tưởng, lý luận về giải
phóng người lao động khỏi sự áp bức, bóc lột và bất công trong xã hội. Những ý
tưởng này thường được phản ánh trong các động lực xã hội, chính trị, kinh tế và
văn hóa của một quốc gia hoặc vùng lãnh thổ. Các nhà lý luận phản ánh những ý
tưởng này thông qua các nghiên cứu, sách báo và các hoạt động xã hội để tìm cách
giải quyết vấn đề của người lao động và đạt được sự công bằng và bình đẳng.
Là một khoa học – CNXHKH, khoa học về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công
nhân
: Ý này đang nói về lĩnh vực khoa học CNXHKH về sứ mệnh lịch sử của giai
cấp công nhân. Điều này có thể ám chỉ đến những nghiên cứu, phân tích về vai trò,
đóng góp của giai cấp công nhân trong quá trình phát triển lịch sử của xã hội và
những giải pháp khoa học kỹ thuật để nâng cao đời sống của họ.
Là chế độ xã hội tốt đẹp, giai đoạn đầu của hình thái kinh tế xã hội cộng sản
chủ nghĩa:
Ý này là mô tả về giai đoạn đầu của hình thái kinh tế xã hội cộng sản
chủ nghĩa. Được miêu tả là một chế độ xã hội tốt đẹp, nghĩa là một hình thức xã
hội mà các thành viên có thể tận dụng tài nguyên và sản xuất để đáp ứng nhu cầu
của cộng đồng một cách công bằng và hiệu quả. Các yếu tố chính của chế độ xã
hội này có thể bao gồm sự công bằng, sự đoàn kết, sự chia sẻ và sự đổi mới trong
sản xuất. Tuy nhiên, ý kiến về tính đúng đắn của chế độ xã hội này vẫn chưa được
đồng nhất, và có nhiều tranh luận giữa các nhà hoạch định chính sách và các tầng lớp dân cư. 1. Chủ nghĩa xã hội
1.1. Chủ nghĩa xã hội, giai đoạn đầu của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa
Chủ nghĩa xã hội là một hình thái kinh tế-xã hội trong đó các phương tiện sản
xuất được sở hữu và điều hành bởi toàn bộ xã hội, và các sản phẩm được phân
phối theo nhu cầu thực sự của mọi người trong xã hội. Trong giai đoạn đầu của
chủ nghĩa xã hội, thường được gọi là chủ nghĩa xã hội khoa học, các lực lượng
sản xuất cơ bản đã được thay thế bằng các lực lượng sản xuất mới, bao gồm sức
lao động và công nghệ tiên tiến. Quyền lực chính trị và kinh tế được tập trung
vào tay nhà nước và các tổ chức công cộng, đồng thời tri thức và giáo dục được
đưa vào hàng đầu. Giai đoạn này thường được coi là giai đoạn chuyển đổi từ xã
hội tư bản sang xã hội chủ
Chủ nghĩa xã hội coi trọng quyền lực của nhân dân và đề cao chế độ dân chủ.
Họ tin rằng người dân nên được tham gia vào quyết định về các vấn đề chính trị và kinh tế trong xã hội.
Giai đoạn đầu của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa là giai đoạn
chuyển tiếp từ nền kinh tế - xã hội tư bản sang nền kinh tế - xã hội cộng sản.
Trong giai đoạn này, những nỗ lực được đặt ra nhằm thực hiện các mục tiêu
chính trị và kinh tế của cộng sản chủ nghĩa, như tăng cường quyền lực của nhân
dân lao động, tiêu diệt giai cấp tư sản và tạo ra một xã hội bình đẳng.
Để đạt được mục tiêu này, các biện pháp như thu nhận tài sản của tư sản, tăng
cường quyền lực của nhà nước, cải tạo cơ cấu kinh tế và đẩy mạnh phong trào
sản xuất tập thể được triển khai.
Xã hội loài người trải qua các hình thái kinh tế - xã hội:
 Lịch sử xã hội loài người đã trải qua các hình thái kinh tế - xã hội: cộng sản
nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và sẽ tiến tới cộng sản chủ nghĩa.
HTKT-XH Công xã nguyên thủy: Công xã nguyên thủy là hình thái kinh tế xã
hội đầu tiên và sơ khai nhất trong lịch sử loài người. Trong xã hội công xã
nguyên thủy, tư liệu lao động được sử dụng thô sơ chủ yếu là sử dụng đồ đá,
thân cây làm công cụ lao động. Do đó, cơ sở kinh tế thời kỳ này là sự sở hữu
chung về tư liệu sản xuất và sản phẩm lao động.
HTKT-XH Chiếm hữu nô lệ: Khi chế độ thị tộc tồn tại trong công xã nguyên
thủy tan rã và hình thành nên xã hội có Nhà nước, và cuộc cách mạng xã hội
đầu tiên trong lịch sử loài người đã hình thành nên hình thái KTXH chiếm hữu
nô lệ. Đặc trưng của hình thái này là đã thay thế chế độ công hữu (sở hữu
chung) về từ liệu sản xuất sang chế độ tư hữu chủ nô, thay thế xã hội không có
giai cấp thành xã hội có giai cấp đối kháng (chủ nô – nô lệ), thay thế chế độ tự
quản thị tộc bằng trật tự có nhà nước của giai cấp chủ nô. Giai cấp chủ nô dùng
bộ máy cai trị của mình bóc lột tàn nhẫn sức lao động của nô lệ, nô lệ trong xã
hội này được coi như một công cụ lao động biết nói. Hình thái này cũng tạo ra
kiểu nhà nước đầu tiên: Nhà nước chủ nô.
HTKT-XH phong kiến: Giai cấp thống trị mới trong hình thái này là giai cấp
quý tộc – địa chủ, giai cấp bị trị là nông nô. Phương pháp bóc lột sức lao động
trong xã hội chiếm hữu nô lệ được thay thế bằng hình thức bóc lột địa tô –
người nông dân được giao đất đai và canh tác trên thửa ruộng của mình, đến kỳ
hạn nộp tô thuế cho địa chủ. So với hình thái chiếm hữu nô lệ, hình thức lao
động trong thời kỳ phong kiến đã tiến bộ hơn nhiều, tuy phải nộp tô thuế nhưng
nông dân vẫn có thể được giữ lại phải của cải dư thừa của mình. Đồng thời
nhiều tầng lớp, giai cấp mới đã xuất hiện trong xã hội.
HTKT- XH tư bản chủ nghĩa: Xuất hiện đầu tiên ở châu Âu, phôi thai và phát
triển trong lòng xã hội phong kiến châu Âu và chính thức xác lập như một hình
thái KTXH đầu tiên ở Anh và Hà Lan vào thế kỷ 17. Adam Smith (1723-1790)
là người có đóng góp to lớn nhất xây dựng một hệ thống lý luận tương đối hoàn
chỉnh về chủ nghĩa tư bản tự do hay tự do kinh tế. Những nét đặc trưng cơ bản
của hình thái KTXH tư bản chủ nghĩa: Quyền sở hữu tư nhân và quyền tự do
kinh doanh được pháp luật bảo vệ và coi như quyền thiêng liêng của con người;
Cá nhân dùng sở hữu tư nhân để kinh doanh trong điều kiện thị trường tự do:
mọi sự phân chia của cải đều thông qua quá trình mua bán của các thành phần
tham gia vào quá trình kinh tế; Gắn với nền sản xuất công nghiệp có năng suất
lao động cao; Bản chất sự “bóc lột” nằm ở giá trị thặng dư mà sức lao động tạo
ra khi các nhà tư bản thuê lao động và sử dụng sức lao động.
HTKT-XH cộng sản chủ nghĩa: là chế độ xã hội phát triển cao nhất, có quan hệ
sản xuất dựa trên sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất, thích ứng với lực lượng
sản xuất ngày càng phát triển, tạo thành cơ sở hạ tầng có trình độ cao hơn so với
cơ sở hạ tầng của chủ nghĩa tư bản; có kiến trúc thượng tầng tương ứng thực sự
là của nhân dân với trình độ xã hội hoá ngày càng cao.
Sự thay thế HTKT-XH TBCN = CSCN
- Sự thành công của Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga với sự ra
đời của nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới đã mở đầu thời đại
quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Sau đó là sự ra đời của
nhiều nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu, châu Á, châu Mỹ đã minh chứng
cho tính chất khoa học và cách mạng của Học thuyết Mác xít về hình thái
kinh tế - xã hội, mà những người phê phán C. Mác cũng phải khẳng định “có
sức thuyết phục như bản thân sự thật”1. Ngay Brê-din-xki, tác giả cuốn sách
“Thất bại lớn - sự hưng vong của chủ nghĩa cộng sản thế kỷ XX” cũng thừa
nhận: “Đối với những phần tử tri thức giàu năng lực phân tích giám định, thì
lý luận chủ nghĩa Mác đã cung cấp cho họ chiếc chìa khóa để hiểu biết lịch
sử nhân loại, là một phương pháp phân tích đánh giá xã hội, phân tích những
nguyên nhân biến động chính trị, là một lý luận chặt chẽ khám phá những bí
mật của đời sống kinh tế, và một loạt những kiến giải vì nhân tố động cơ xã hội”
- Trong giai đoạn chuyển đổi từ tư bản chủ nghĩa sang cộng sản chủ nghĩa, lực
lượng sản xuất đã phát triển theo hướng tập trung và hợp nhất để tạo ra các
sản phẩm và dịch vụ cho nhu cầu của xã hội. Việc tập trung lực lượng sản
xuất và tăng cường việc quản lý, điều hành đã giúp tăng năng suất lao động
và nâng cao chất lượng sản phẩm. Trong thời kỳ này, các nước cộng sản đã
áp dụng nhiều chính sách kinh tế để khuyến khích việc phát triển lực lượng
sản xuất, bao gồm: quản lý kinh tế trung ương, quản lý kế hoạch và chính
sách về giá cả và thu nhập. Việc tạo ra các kế hoạch năm và định hướng phát
triển kinh tế dài hạn cũng giúp tăng cường quản lý lực lượng sản xuất.
- Trong giai đoạn thay đổi hình thái kinh tế xã hội từ tư bản chủ nghĩa sang
cộng sản chủ nghĩa, giai cấp công nhân đã trưởng thành và trở thành lực
lượng chủ lực trong cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa.Trước đó, giai cấp
công nhân là những người lao động bị bóc lột, không được đối xử công bằng
và không có quyền lợi đáng kể. Tuy nhiên, khi cách mạng xã hội chủ nghĩa
được thực hiện, công nhân trở thành lực lượng chủ lực trong sự phát triển
kinh tế và xã hội. Công nhân đã được đào tạo và hướng dẫn để trở thành
những nhân công có trình độ chuyên môn cao và có khả năng tham gia vào
việc sản xuất, quản lý và điều hành kinh tế xã hội. Tại đây, công nhân trở
thành một lực lượng lao động chính trong sản xuất và là nhóm người đầu
tiên tận hưởng các quyền lợi và chế độ bảo vệ của nhà nước. Tuy nhiên, họ
vẫn bị bó buộc bởi chính quyền tư bản và chưa thể đòi hỏi quyền lực chính đáng.
Vận dụng quan điểm duy vật về lịch sử để nghiên cứu xã hội loài người, C.Mác
và Ph.Ăngghen xây dựng nên học thuyết hình thái kinh tế - xã hội. Theo đó, sự
chuyển biến từ HKTT-XH thấp lên HTKT – XH cao là một quá trình lịch sử, tự nhiên.
Học thuyết hình thái kinh tế xã hội cho rằng sự thay thế hình thái kinh tế xã hội
tư bản chủ nghĩa bằng hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa là tất yếu.
Điều này được giải thích bởi việc rằng hình thái kinh tế xã hội tư bản chủ nghĩa
bao gồm sự tách biệt giữa các tầng lớp xã hội, sản xuất về mục đích lợi nhuận,
và chủ quyền sở hữu tư nhân. Trong khi đó, hình thái kinh tế xã hội cộng sản
chủ nghĩa hướng tới sự cộng đồng, sản xuất vì mục đích chung, và chủ quyền
sở hữu công cộng. Do đó, sự thay thế này là tất yếu để xây dựng một xã hội cộng sản chủ nghĩa.
1.2. Điều kiện ra đời của chủ nghĩa xã hội
Chủ nghĩa xã hội ra đời trong bối cảnh xã hội bị chia cắt, phân tầng và bất công.
Các tầng lớp thấp kém bị áp bức và bị lợi dụng bởi tầng lớp giàu có và quyền lực.
Mâu thuẫn giữa chủ nghĩa Đế quốc xâm lược với các quốc gia, dân tộc bị xâm lược
và bị áp bức. Đây là mâu thuẫn đặc trưng cho thời kì mới. Mâu thuẫn giữa các
nước tư bản với nhau do xung đột lợi ích. Mâu thuẫn giữa các nước giàu trong thế
giới tư bản và các nước nghèo, lạc hậu do bị tụt hậu xa về kinh tế. Do đó, chủ
nghĩa xã hội được sinh ra nhằm giải quyết vấn đề bất công xã hội và đảm bảo sự
bình đẳng cho tất cả mọi người. Chủ nghĩa xã hội bắt nguồn từ triết lý của các nhà
tư tưởng phương Tây như Marx, Engels và Lenin, và phát triển rộng rãi trong thế kỷ 19 và 20.
Điều kiện về kinh tế: Nền đại công nghiệp cơ khí làm cho phương thức sản xuất
tư bản chủ nghĩa có bước phát triển vượt bậc. Cùng với quá trình phát triển của nền
đại công nghiệp, sự ra đời hai hai giai cấp cơ bản, đối lập về lợi ích, nhưng nương
tựa vào nhau: giai cấp tư sản và giai cấp công nhân. Do sự ra đời của sản xuất công
nghiệp với thành tựu khoa học kỹ thuật công nghệ, lao động mang tính xã hội, lực
lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ và đạt tới trình độ xã hội hóa ngày càng cao,
mâu thuẫn với quan hệ sản xuất dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ
nghĩa về tư liệu sản xuất chủ yếu. Mâu thuẫn này ngày càng phát triển. Đây là mâu
thuẫn cơ bản trong phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Điều kiện về chính trị - xã hội: cùng với sự hình thành và phát triển của chủ nghĩa
tư bản cũng hình thành và phát triển hai giai cấp cơ bản: giai cấp công nhân và giai
cấp tư sản có lợi ích đối lập nhau nên xã hội xuất hiện mâu thuẫn đối kháng. Giai
cấp công nhân giác ngộ lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học và dưới sự lãnh đạo của
Đảng cộng sản lật đổ nhà nước của giai cấp tư sản, xác lập nhà nước của giai cấp
công nhân và nhân dân lao động. Việc thiết lập nhà nước của giai cấp công nhân và
nhân dân lao động là sự mở đầu của hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa