-
Thông tin
-
Hỏi đáp
Vai trò của giáo viên trong sự giáo dục của trẻ | Đại học Sư Phạm Hà Nội
Vai trò của giáo viên trong sự giáo dục của trẻ | Đại học Sư Phạm Hà Nội với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp sinh viên tham khảo, ôn luyện và phục vụ nhu cầu học tập của mình cụ thể là có định hướng, ôn tập, nắm vững kiến thức môn học và làm bài tốt trong những bài kiểm tra, bài tiểu luận, bài tập kết thúc học phần, từ đó học tập tốt và có kết quả cao cũng như có thể vận dụng tốt những kiến thức mình đã học vào thực tiễn cuộc sống. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Tâm lý học giáo dục
278 tài liệu
Trường: Đại học Sư Phạm Hà Nội
2.1 K tài liệu
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
lOMoAR cPSD| 40420603
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
TIỂU LUẬN GIỮA KÌ I MÔN: TÂM LÝ HỌC
CÁC CON ĐƯỜNG HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN TÂM LÝ CÁ NHÂN
VAI TRÒ CỦA GIÁO VIÊN TRONG SỰ PHÁT TRIỂN TÂM LÝ CỦA TRẺ.
GIẢNG VIÊN HD: TH.S NGUYỄN HỮU HẠNH
SINH VIÊN: NGUYỄN THU HƯƠNG MSSV: 725601170 lOMoAR cPSD| 40420603 HÀ NỘI, 2022 LỜI CẢM ƠN
Đầu tiên, em xin gửi lời cảm ơn đến các thầy, cô khoa
Tâm lý học đã truyền đạt những kiến thức bổ ích cho em.
Đặc biệt, em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến giảng
viên Nguyễn Hữu Hạnh đã luôn đồng hành và hướng
dẫn cho chúng em trong học phần. Thầy đã tạo điều kiện,
cơ hội để giúp đỡ và hướng dẫn em làm bài tiểu luận này.
Lời cảm ơn chân thành và em chúc thầy luôn mạnh khỏe,
bình an, vui vẻ, hạnh phúc và thành công trên con đường
sự nghiệp giảng dạy của mình.
Học phần “Tâm lý học giáo dục” là môn học khá thú vị,
vô cùng bổ ích và có tính thực tế cao, đảm bảo cung cấp
đầy đủ kiến thức lý thuyết cũng như thực tế cho quá trình
học tập và làm việc của em sau này.
Cuối cùng, với khối lượng kiến thức nhiều và rộng, trong
khi đó khả năng và hiểu biết của bản thân em lại có giới
hạn và nhiều hạn chế. Vì vậy, trong quá trình thực hiện
bài tiểu luận, tuy đã cố gắng hết khả năng của mình
nhưng em vẫn không thể tránh khỏi những thiếu sót. Em
mong thầy thông cảm và nhận xét giúp em để bài làm của
em hoàn thiện hơn ạ. Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 1 tháng 11 năm 2022. MỞ ĐẦU
Thế giới tâm lý con người kì diệu và phong phú, nó
được mọi người quan tâm và nghiên cứu cùng với lịch sử
hình thành và phát triển của nhân loại. Từ những tư
tưởng đầu tiên sơ khai, hiện tượng tâm lý đã phát triển lOMoAR cPSD| 40420603
không ngừng và ngày càng giữ một vị trí quan trọng
trong nhóm các ngành khoa học về con người. Đây là
một ngành khoa học có ý nghĩa to lớn trong việc phát
huy nhân tố con người trong mọi lĩnh vực của đời sống
xã hội. Trong cuộc sống hàng ngày, người ta cho
rằng,tâm lý là những thứ gì đó thuộc về lòng người, về
cách ứng xử. Tâm lý học hành vi do John Watson ( 1878-
1958) sáng lập ra để nghiên cứu về hành vi. Ông xem
hành vi là tổ hợp các phản ứng của cơ thể người trước
kích thích của môi trường bên ngoài. Theo ông, mọi việc
làm ( kể cả suy nghĩ) đều thuộc một trong bốn loại hành
vi bên ngoài, bên trong, tự động minh nhiên và tự dộng
mặc nhiên. Trong tâm lý học hành vi cổ điển, hành vi của
động vật và người bị giản đơn hóa thành những cử động
cơ thể. Khi tâm lý học hoạt động Maccxit ra đời, những
chân lý khoa học đầu tiên mới lần lượt được kiểm chứng.
Quan điểm của Mác-xít trên nền tảng cơ sở lý luận và
phương pháp luận của chủ nghĩa Mác- Leenin đã vạch ra
nguồn gốc, bản chất của tâm lý, ý thức con người; vạch
ra đối tượng, nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu. Con
người tồn tại trong xã hội, lịch sử, lý trí, lao động và
phạm trù hoạt động có vai trò to lớn, quan trọng trong
nền tâm lý học. Hoạt động là chìa khóa tìm hiểu, hình
thành, đánh giá và điều khiển tâm lý. Ý thức được tạo bởi
tồn tại xã hội với cuộc sống thực, các quan hệ thực của
con người và là tố thành của cuộc sống. Hoạt động giao
lưu tạo ra tâm lý, ý thức và ngôn ngữ của con người. Và
tâm lý học Mác-xít đã phân tích sự phát triển của tâm lý
qua những giai đoạn khác nhau: bào thai, sơ sinh, nhà trẻ,
mẫu giáo, nhi đồng, thiếu niên, trưởng thành, trung niên và già lão.
Vả có khi nào chúng ta tự đặt ra câu hỏi rằng là: “ Tâm
lý của mỗi cá nhân hình thành và phát triển qua những
con đường nào” hay chưa? Và với một người giáo viên
thì liệu rằng họ có thấy được vai trò của mình trong sự
phát triển của trẻ hay không?
Vì vậy, em thực hiện đề tài “ Các con đường hình thành
nên tâm lý các nhân” nhằm đi sâu tìm hiểu, tổng kết một
số nét tâm lý lứa tuổi cơ bản và đưa ra một vài ý kiển cá
nhân về các vấn đề có liên quan, hướng đến việc củng cố lOMoAR cPSD| 40420603
kiến thức cá nhân và giúp mọi người tiếp cận vấn đề một cách thuận lợi hơn. NỘI DUNG I.
KHÁI NIỆM CÁ NHÂN VÀ SỰ PHÁT TRIỂN TÂM LÝ CÁ NHÂN.
1.KHÁI NIỆM CÁ NHÂN
Cá nhân là một con người cụ thể, sống trong một xã
hội nhất định; có đời sống hoạt động giao tiếp và thế giới
tâm lý riêng. Cá nhân chính là kết quả của quá trình xã
hội hóa cá thể người, với tư cách là một cá thể loài, mang
tính tự nhiên. Nói tới cá nhân là nói tới tính chủ thể của
một con người, để phân biệt với một nhóm chủ thể và nhóm xã hội.
Để trở thành cá nhân, mỗi người phải trải qua một quá
trình xã hội hóa, trong đó diên ra quá trình con người đó
học hỏi, tiếp thu kinh nghiệm lịch sử-văn hóa của xã hội,
chuyển hóa thành kinh nghiệm của bản thân. Đó là quá
trình chuyển hóa từ con người- sinh vật thành con
ngườixã hội. Vì vậy, có thể nói, khi nhắc tới khái niệm cá
nhân, chúng ta phải bắt đầu từ khái niệm con người.
Chung quy, cá nhân chính là khái niệm dùng để chỉ một
con người cụ thể sống và hoạt động trong một xã hội nhất
định. Một con người, dù già hay trẻ, nam hay nữ, bình
thường hay tật nguyền, dân thường hay lãnh đạo thì đều
là cá nhân. Và mỗi quá trình phát triển của mỗi cá nhân,
từ lúc lọt lòng cho đến khi qua đời sẽ diễn ra theo nhiều
giai đoạn khác nhan; ở mội giai đoạn phát triển, cá nhân
lại có những đặc điểm riêng về tâm lý.
2.CÁC QUAN NIỆM VỀ PHÁT TRIỂN TÂM LÝ CÁ NHÂN.
Quan niệm sai lầm về sự phát triển tâm lý cá nhân
Quan điểm duy tâm coi sự phát triển tâm lý chỉ là sự
tăng lên hoặc giảm đi về số lượng các hiện tượng đang
phát triển, mà không có sự chuyển biến về chất lượng.
Ví dụ: Họ coi sự phát triển tâm lý ở trẻ em là sự tăng số
lượng từ trẻ như: tăng tốc độ hình thành kĩ xảo, tăng thời
gian tập trung, hoặc tăng khối lượng tri thức được giữ lại trong trí nhớ...
Từ đó, những người theo quan niệm này đã nhìn nhận
không kém sai lầm về nguồn gốc của sự phát triển tâm lý. lOMoAR cPSD| 40420603
Quan niệm này xem sự phát triển của mỗi hiện tượng như
là một quá trình diễn ra một cách tự phát. Sự phát triển
diễn ra dưới ảnh hưởng của một loại sức mạnh nào đó mà
người ta không thể điều khiển được, không thể nghiên
cứu và nhận thức được. Quan niệm sai lầm này được biểu
hiện rõ ràng ở thuyết tiền định, thuyết duy cảm, thuyết hội tụ hai yếu tố..
Quan điểm duy vật biện chứng về sự phát triển tâm lý.
Nguyên lý phát triển trong triết học Mác- Lenin thừa
nhận sự phát triển là quá trình biến đổi của sự vật từ thấp
đến cao, từ đơn giản đến phức tạp. Đó là 1 quá trình tích
lũy dần về số lượng dẫn đến sự thay đổi về chất lượng, là
quá trình nảy sinh cái mới trên cơ sở cái cũ, do sự đấu
tranh giữa các mặt đối lập nằm ngay trong bản thân sự vật, hiện tượng.
Quan điểm Mác- xít này được vận dụng để xem xét sự
phát triển tâm lý trẻ em. Bản chất của sự phát triển tâm lý
trẻ em không phải là sự tăng hoặc giảm về số lượng, mà
là một quá trình biến đổi về chất lượng tâm lý. Sự thay
đổi về lượng của các chức năng tâm lý dẫn đến sự thay
đổi về chất và đưa đến sự hình thành cái mới một cách
nhảy vọt. Sự phát triển tâm lý gắn liền với sự xuất hiện
những đặc điểm mới về chất – những cấu tạo tâm lý mới
ở những giai đoạn lứa tuổi nhất định( như nhu cầu tự lập
ở trẻ lên ba...). Trong các giai đoạn phát triển khác nhau,
có sự cải biến về chất của các quá trình tâm lý và toàn bộ
nhân cách của trẻ. Xét trong toàn cục, phát triển là cả 1
quá trình kế thừa. Sự phát triển tâm lý trẻ em là 1 quá
trình trẻ em lĩnh hội nền văn hóa của xã hội loài người.
Và bằng lao động của mình, con người đã ghi lại những
năng lực, kinh nghiệm... trong các công cụ sản xuất, các
đồ dùng hàng ngày, các tác phẩm văn hóa nghệ thuật...,
con người đã tích lũy kinh nghiệm thực tiễn xã hội của
mình trong đối tượng do con người tạo ra và các mối
quan hệ giữa người với người.
Những đứa trẻ không tự lớn lên giữa môi trường, nó
chỉ có thể lĩnh hội kinh nghiệm xã hội khi có vai trò
trung gian củ người lớn. Nhờ sự tiếp xúc với người lớn
và hướng dẫn của người lớn mà những quá trình nhận
thức, kĩ năng, kĩ xảo và cả những nhu cầu xã hội của trẻ
được hình thành. Những biến đổi về chất trong tâm lý sẽ lOMoAR cPSD| 40420603
đưa đứa trẻ từ lứa tuổi này sang lứa tuổi khác. Bất cứ một
mức độ nào của trình độ trước cũng là sự chuẩn bị cho
trình độ sau. Yếu tố tâm lý lúc đầu ở vị trí thứ yếu, sau
chuyển sang vị trí chủ yếu.
Tóm lại, sự phát triển tâm lý của trẻ đầy biến động và
diễn ra cực kì nhanh chóng. Đó là một quá trình không
phẳng lặng, mà có khủng hoảng và đột biến. Chính hoạt
động của trẻ dưới sự hướng dẫn của người lớm làm cho
tâm lý của nó được hình thành và phát triển. Nhưng
các nhà tâm lý học Mác-xít cũng thừa nhận rằng, sự phát
triển tâm lý chỉ có thể xảy ra trên nền của một cơ sở vật
chất nhất định( một cơ thể người với những đặc điểm
bẩm sinh di truyền của nó). Trẻ em sinh ra với những
đặc điểm bẩm sinh, di truyền nhất định. Vì vậy, sự phát
triển tâm lý của mỗi người dựa trên cơ sở vật chất riêng.
Sự khác nhau này có thể ảnh hưởng tới tốc độ đỉnh cao...
của các thành tựu của con người cụ thể trong một lĩnh
vực nào đó, có thể ảnh hưởng tới con đường và phương
thức khác nhau của sự phát triển các thuộc tính tâm lý.
Chúng là tiền đề, điều kiện cần thiết để phát triển tâm lý,
những điều kiện đó không quyết định sự phát triển tâm
lý, những điều kiện đó không quyết định sự phát triển
tâm lý, nó có thể trở thành hiện thực hay không còn phụ
thuộc vào một tổ hợp những yếu tố khác nữa. II.
CÁC CON ĐƯỜNG HÌNH THÀNH VÀ PHÁT
TRIỂN TÂM LÝ CÁ NHÂN.
Có nhiều con đường hình thành và phát triển tâm lý cá
nhân với những con đường phổ biến như: kế thừa, bắt
chước, đồng nhất hóa, lây lan, thỏa hiệp, học tập... Kế thừa:
Kế thừa được hiểu là sự chuyển giao từ thế hệ này
sang thế hệ khác các giá trị vật chất( công cụ lao động,
đồ dùng sinh hoạt, công trình văn hóa nghệ thuật, văn
hóa...) hay các giá trị tinh thần( phong tục tập quán,
truyền thống của quê hương, kinh nghiệm sản xuất...)
Trong tâm lý học, kế thừa là quá trình cá nhân biết lựa
chọn, giữ gìn và phát huy những giá trị văn hóa, nề nếp,
truyền thống của gia đình, cộng đồng vốn được hình
thành trong lịch sử và loại bỏ đi những nét tâm lý truyền
thống không còn phù hợp. lOMoAR cPSD| 40420603
Ví dụ: : “Trọng nam khinh nữ” là nét tâm lý đã có từ
rất lâu và đây được xem là một quan điểm sai lầm bởi
trong xã hội ngày nay nam, nữ bình đẳng như nhau. Mỗi
cá nhân khi hình thành và phát triển nhân cách phải biết
lựa chọn những quan điểm đúng đắn để học tập, loại bỏ
và nói không với những quan điểm lệch lạc để tránh ảnh
hưởng đến tâm lý cũng như nhân cách của mỗi người.
Kế thừa tâm lý diễn ra với nhiều con đường khác nhau.
Nó có thể là con đường của “vô thức tập thể”, tức là cá
nhân sống trong một môi trường nhóm , cộng đồng xã
hội nào đó với các đặc điểm tâm lý riêng,ở đó cá nhân có
sự kế thừa các đặc điểm tâm lý đó mà bản thân cá nhân
không ý thức được điều đó. Các thế hệ sau nối tiếp thế hệ
trước và tiếp tục duy trì các nét tâm lý đó. Tính cách dân
tộc, lòng tự hào dân tộc , cách thức ứng xử với người
khác, thậm chí là cr cách thức nhìn nhận, đánh giá và tư
duy của cả một cộng đồng là minh chứng rõ ràng về con đường kế thừa này.
Nói đến cách tư duy của các dân tộc, các nhà nghiên
cứu đều nhắc đến hai kiểu tư duy có sự phân biệt tương
đối rõ rệt. Mỗi kiểu tư duy gắn với các cộng đồng người
ở các khu vực và các nền văn hóa khác nhau. Đó là kiểu
tư duy biện chứng nhìn nhận sự vật luôn vận động và
biến đổi liên tục, thậm chí không thấy được sự ổn định
tương đối của nó trong các xã hội phương Đông mà
thuyết “vô thường- sắc không” của Phật giáo là ví dụ.
Ngược lại là kiểu tư duy logic chặt chẽ coi trọng sự ổn
định của sự vật đến mức siêu hình của phương Tây. Các
hiện tượng tâm lý xã hội đó được kế thừa một cách “tự
nhiên”. Chúng ngấm vào từng cá nhân trong cộng đồng
xã hội thông qua giao tiếp tương tác của cá nhân với các
cá nhân khác trong các nhóm xã hội.
Theo cách nói của Mác: “Sự phát triển của mỗi cá
nhân phụ thuộc vào các cá nhân mà nó giao tiếp trực tiếp
hay gián tiếp”. Bên cạnh con đường kế thừa tự nhiên là
kế thừa một cách có ý thức, thông qua các tác động giáo
dục của xã hội. Bất kì một thể chế xã hội nào cũng đề cao
các giá trị truyền thống nào đó phù hợp với tính chất và
xu hướng phát triển của nó. Do vậy, việc giáo dục các giá
trị, các chuẩn mực trở thành công việc được tổ chức một
cách có ý thức trong các hoạt động của xã hội đó như lOMoAR cPSD| 40420603
giáo dục, truyền thông. Đồng thời, mỗi cá nhân ở mức độ
phát triển nhất định, có khả năng lựa chọn những giá trị
phù hợp với bản thân để kế thừa.
Và nhờ có sự kế thừa này mà mỗi cá nhân đã có những
“nguyên liêu” đầu tiên để phục vụ cho quá trình “xã hội
hóa” của chính bản thân mình. Bắt chước:
Bắt chước là làm theo có ý thức (có chủ ý) và vô
thức. Đối với cá nhân, bắt chước là một phương thức
hòa nhập mình vào nhóm xã hội. Trong nhiều trường
hợp, việc bắt chước là một phương thức lĩnh hội những
hành vi, thói quen, cách ứng xử và những nét tâm lý
chung của nhóm. Bắt chước tâm lý có tầm quan trọng
đáng kể trong việc đồng hóa trải nghiệm xã hội của
một người, được quan sát trong nhiều giai đoạn phát triển cá nhân khác nhau
Ví dụ: Ở lứa tuổi mẫu giáo và trẻ nhỏ, thông qua bắt
chước, các chuẩn mực hành vi, kỹ năng tự phục vụ và
hành động khách quan được thông qua. Ở lứa tuổi lớn
hơn nó lại mang một ý nghĩa khác.
Hiện tượng bắt chước là một hiện tượng xã hội học vô
cùng hợp lý. Ví dụ như,khi một người phải chịu áp lực
với sự trợ giúp của các chuẩn mực xã hội, thì hầu hết
những người tham gia trong một nhóm xã hội hành xử
theo một cách nhất định, thực hiện các hành động cụ thể
và sẽ khó để một người chống lại điều này. Trong trường
hợp này, bắt chước là một kiểu suy nghĩ của nhóm. Mọi
người muốn cảm nhận và hiểu rằng họ đúng. Những
người này cư xử theo cách này để phù hợp với những
người khác. Họ xem cách người khác cư xử và lấy ví dụ,
sao chép mô hình hành vi của họ, tin rằng điều này là
chính xác, vì đa số hành xử theo cách này.
Trong hiện tượng bắt chước, nỗi sợ bị cô lập có vấn đề.
Mọi người đều muốn được hiểu và dễ chịu để được chấp
nhận trong xã hội, bởi vì nhiều người không muốn trở
thành những con quạ trắng để rồi bị loại khỏi nhóm. Đó
là nhu cầu công nhận góp phần vào sự chấp nhận của họ
đối với các giá trị và chuẩn mực của đa số. Nói về hiệu
ứng của bắt chước, nó là một biểu hiện hoàn toàn không
ổn định, bởi vì mọi người có thể dễ dàng chấp nhận sở
thích và từ bỏ chúng nhanh chóng. Hiện tượng này trong lOMoAR cPSD| 40420603
khía cạnh tâm lý và xã hội học là một ý thức theo sau
hành vi của người khác, một sự giải trí của hành vi nhận thức.
Cơ chế bắt chước trong tâm lý học có thể có ý thức và
vô thức, tuyệt đối hoặc một phần, sáng tạo và nghĩa đen,
tự nguyện và bắt buộc. Bắt chước như một cơ chế của
tâm lý đại chúng có một đặc điểm đến nỗi nó biểu hiện
bằng sự suy giảm ý thức cá nhân. Sự cần thiết là trong
quần chúng, không chỉ giúp giảm mức độ hợp lí mà nó
còn làm tăng cảm xúc. Trạng thái cảm xúc này góp phần
khiến một người mong muốn chia sẻ nó với những người
khác. Nếu tình huống thuận lợi phát sinh cho điều này,
khả năng bắt chước sẽ được cập nhật. Các yếu tố thuận
lợi có thể là sự hiện diện của một số người nhất định cảm
thấy điều kiện gần gũi, sẵn sàng chia sẻ nó. Nó chỉ ra
rằng nó sẽ trở thành cơ chế của hành vi vì nó trở thành
một khả năng cụ thể từ một khả năng tiềm năng. Một
người bắt đầu hiển thị các mô hình hành vi cảm nhận của
mọi người trong trạng thái cảm xúc tương tự, quan sát
các mô hình đề xuất điều chỉnh trạng thái cảm xúc tạo ra
một khối người bắt chước lẫn nhau. Với sự tương tác này,
trạng thái thử nghiệm tăng cường, đạt đến đỉnh điểm và
sau đó giảm dần, trạng thái thử nghiệm tăng cường, đạt
đến đỉnh điểm và sau đó giảm dần.
Khả năng bắt chước là vô hạn, nó cạn kiệt, xả trạng thái
cảm xúc, trong khi nhu cầu điều chỉnh trạng thái này đã
bão hòa, sau đó kiểm soát hành vi bắt đầu được khôi phục.
Cơ chế bắt chước trong việc hình thành tâm lý cá nhân
sẽ có nhiều dấu hiệu khác nhau ở các nhóm tuổi khác nhau.
Ví dụ: - Ở thời thơ ấu, hiện tượng này đặc trưng bởi thực
tế là đứa trẻ cảm nhận được giọng nói và chuyển động
của người lớn, cố gắng xác định lần tiếp xúc đầu tiên với nó.
Ở lứa tuổi của một trẻ mẫu giáo, bắt chước tâm lý
đã là một cái nhìn sâu sắc về cấu trúc ngữ nghĩa của hoạt
động của một cá nhân. Nó phát triển, trải qua các giai
nhất định và hoạt động hàng đầu liên quan đến tuổi tác,
từ đó trò chơi cốt truyện cũng thay đổ. Đầu tiên, trẻ bắt
đầu bắt chước các tính năng mở các hoạt động của người lOMoAR cPSD| 40420603
lớn, dần dần bắt đầu sao chép các mô hình hành vi phản
ánh ý nghĩa của tình huống.
-Ở tuổi thanh thiếu niên, bắt chước được định hướng
nhiều hơn về nhận dạng bên ngoài với một người quan
trọng hoặc với một khuôn mẫu về đặc điểm hành vi cá
nhân. Ở người lớn, nó là một yếu tố của đào tạo trong các
hoạt động của một số loại ( chuyên nghiệp, thể thao, cá
nhân và những người khác).
Bắt chước tạo nên sự thống nhất trong ý thức, trong
hành động, lối sống của các thành viên, tạo nên những
đặc điểm tâm lý chung trong nhân cách của họ. Chính vì
thế, bắt chước là một phương thức trong quá trình hình
thành và phát triển nhân cách của mỗi cá nhân trong
nhóm xã hội: con cháu bắt chước tấm gương của ông bà,
cha mẹ: học sinh bắt chước hành vi của giáo viên ... cả
mặt tốt lẫn mặt xấu, mặt tích cực lẫn mặt tiêu cực... Qua
cơ chế bắt chước, mối quan hệ tương tác giữa các thành
viên trong nhóm, đặc biệt là trong gia đình được bộc lộ
rõ nét. Trong gia đình, sức mạnh ảnh hưởng của cha mẹ
là ở lòng yêu thương, tin tưởng của họ vào con cái mình
và ở niềm tin của trẻ đối với những người thương yêu của
nó. Trong con mắt của trẻ em, cha mẹ là một mẫu hình
chuẩn, mọi việc làm của cha mẹ đều đúng và trẻ muốn
bắt chước cha mẹ, muốn trở thành một người giống với
cha mẹ của mình. Trẻ bắt chước cha mẹ trong mọi hành
động, lời nói. Những quan niệm đầu tiên về lý tưởng, về
sự hoàn thiện của trẻ có được từ “nguyên mẫu” cha mẹ.
Trẻ sẽ cảm thấy tự hào khi giống cha mẹ về tính cách,
khuynh hướng. Việc mong muốn được giống cha mẹ trở
thành một động lực thúc đẩy trẻ ngày càng cố gắng học
tập và rèn luyện theo những điều cha mẹ dạy bảo, hướng
dẫn. Đồng nhất hóa:
Có nhiều quan niệm khác nhau về sự đồng nhất hóa. Có
quan điểm coi đồng nhất hóa như một quá trình so sánh,
đối chiếu một đối tượng này với đối tượng khác theo một
quan điểm hay tiêu chí nhất định, từ đó khái quát, xác lập
sự tương đồng giữa chúng. Ví dụ khi cá nhân nhận biết
các phẩm chất khác của một số cá nhân khác sẽ tiến hành
việc sắp xếp cá nhân đó theo các kiểu loại khác nhau và
sau đó có thế bắt chước, phỏng theo một kiểu nào đó.
Như vậy theo cách hiểu này, đồng hóa chính là việc cá lOMoAR cPSD| 40420603
nhân lựa chọn và đồng nhất bản thân với các chủ thể
khác hay với nhóm nào đó.
Theo S.Freud, đồng nhất hóa có thể hiểu như sau: -
Sự đồng nhất hóa là hình thức sơ cổ nhất của sự ràng buộc với đối tượng
-Vì sự biến đổi thoái hóa, sự đồng nhất hóa chiếm chỗ
của sự ràng buộc Libido với đối tượng, sở dĩ như vậy là
vì đối tượng được đưa vào trong cái tôi.
-Sự đồng nhất hóa xuất hiện khi nào một người nhận
thấy mình có một nét chung với một người khác, tuy rằng
người khác ấy không phải là đối tượng của Libido.
Những nét chung càng nhiều và càng quan trọng thì sự
đồng nhất hóa diễn ra càng mạnh.
Hiện nay, những nghiên cứu mới nhất về đồng nhất hóa
trong Tâm lý học cho rằng đồng nhất hóa là một khái
niệm bao trùm cả ba lĩnh vực.
-Đồng nhất hóa là quá trình chủ thể thống nhất bản thân
mình với cá nhân khác dựa trên mối dây liên hệ cảm xúc
và đồng thời chuyển những chuẩn mực, giá trị, hình mẫu
của họ vào thế giới nội tâm của mình. Điều này có thể
nhận thấy trong sự bắt chước công khai hình mẫu, đặc
biệt ở trẻ em trước tuổi đến trường( ví dụ: trẻ bắt chước các hình mẫu...)
-Đồng nhất hóa là sự nhìn nhận, đánh giá, hình dung
của chủ thể về người khác như sự kéo dài của chính bản
thân mình, gán cho người đó những đặc tính, tình cảm và
mong muốn của mình. Ví dụ: cha mẹ luôn mong muốn,
kì vọng ở con cái mình sẽ thực hiện được những ước mơ, lý tưởng của họ.
-Đồng nhất hóa là cơ chế tự đặt mình vào vị trí của
người khác, dịch chuyển bản thân mình vào phạm vi,
không gian, hoàn cảnh của người khác dẫn đến việc đồng
hóa ý nghĩa cá nhân của người đó. Kiểu đồng nhất hóa
này cho phép mô hình hóa phạm vi có ý nghĩa của đối
tượng giao tiếp, đảm bảo quá trình hiểu biết lẫn nhau...
Một trong những yếu tố giúp cho cơ chế bắt chước, đồng
nhất hóa đạt hiệu quả hơn đó là tính chất của mối quan hệ
giữa các thành viên trong nhóm xã hội. Những người
thân, gần gũi, người nổi tiếng... trong nhóm xã hội
thường được người khác đồng nhất. Trong gia đình, cha
mẹ là những người thường xuyên gần gũi với trẻ. Tất cả lOMoAR cPSD| 40420603
những gì cha mẹ làm thường được trẻ chấp nhận một
cách vô điều kiện. Trẻ luôn cho rằng tất cả những điều
cha mẹ làm đều đúng đắn và chúng có sức ám thị rất cao
đối vơiis trẻ( đặc biệt là khi trẻ còn nhỏ). Theo quan
điểm của S.Freud, trẻ nam thường có xu hướng đồng
nhất hóa với người cha, còn trẻ nữ lại có xu hướng đồng
nhất hóa với mẹ. Sự đồng nhất hóa này được thể hiện ở
việc trẻ nam hoặc trẻ nữ cố gắng bắt chước, tiếp thu toàn
bộ những thái độ, thuộc tính và hành vi của cha hoặc mẹ
cùng giới. Việc làm này sẽ giúp trẻ tiếp thu những chuẩn
mực đạo đức của chính người cha hoặc người mẹ của
chúng và trẻ sẽ bắt chước được những đặc tính giới riêng
biệt của cha mẹ, từ đó có sự phát triển hoàn thiện về phương diện tâm lý.
Đồng nhất hóa có vai trò quan trọng trong việc hình
thành và phát triển tâm lý. Nhờ nó mà cá nhân có thể
thực hiện tốt vai trò xã hội của bản thân, từ đó các quan
hệ xã hội được vận hành một cách hiệu quả. Các cá nhân
trong nhóm có được những điểm chung: sự đồng nhất về
cảm xúc; sự đồng nhất về cách nhìn nhận, giải quyết vấn
đề... Trong các nhóm lớn xã hội, cơ chế đồng nhất hóa có
thể diễn ra một cách ẩn tàng để tạo ra những hiện tượng
tâm lý xã hội của nhóm dân tộc, giai cấp như ý thức tự
hào dân tộc, nếp suy nghĩ dân tộc, tình cảm dân tộc...
Bên cạnh những ý nghĩa mang yếu tố tích cực, đồng nhất
hóa cũng mang trong mình những hạn chế nhất định. Đó
là khi cá nhân bị đồng nhất hóa quá mức sẽ khiến cá nhân
trở nên bị động, đánh mất đi cái riêng và bản sắc riêng. Lây lan:
Lây lan được xem là một con đường đặc thù của việc
hình thành nên tâm lý, ý thức xã hội. Về bản chất, lây lan
là quá trình chuyển trạng thái cảm xúc từ người này sang
người khác, tạo nên trạng thái cảm xúc chung của nhóm
đối với một sự vật, hiện tượng nhất định.
Ví dụ: Hiện tượng buồn lây, vui lây từ người này sang
người kia, từ nhóm này sang nhóm khác trong một gia
đình, một lớp học, một doanh nghiệp... được thể hiện qua
câu: “Một con ngựa đau, cả tàu bỏ cỏ”.
Có rất nhiều lý thuyết khác nhau giải thích cơ chế của sự
lây lan tâm lý. Cho đến nay, các nhà tâm lý vẫn chưa thể
thống nhất về quan điểm và cơ chế lây lan tâm lý. Hiện lOMoAR cPSD| 40420603
nay, có 3 quan điểm về cơ chế lây lan tâm lý được nhiều
người thừa nhận như sau:
-Thứ nhất, lây lan tâm lý vận hành theo nguyên tắc cộng
hưởng mang tính chất tự phát, theo cơ chế này trạng thái
tâm lý nào đó được tích lũy dần dần ở chủ thể( cá nhân
hoặc nhóm) và khi đủ mạnh, chúng bắt đầu lây lan.
Cường độ xúc cảm được lây lan tỉ lệ thuận với số lượng
người trong nhóm (N.K Mikhailopxki).
-Thứ hai, lây lan tâm lý được vận hành theo cơ chế quy
nạp. Những xúc cảm của con người được biểu lộ ra bằng
các hành vi phi ngôn ngữ như: điệu bộ, nét măt, cử chỉ...
Những hành vi này sẽ tạo ra các phản ứng tương tự ở
người bên cạnh (Mc.Daugas), cứ như vậy, trạng thái tâm lý được lây lan
-Thứ ba, lây lan tâm lý được giải thích theo cơ chế
phản ứng vòng, cá nhân trong đám đông thường kích
thích người xung quanh bằng hành vi của mình, và khi họ
nhìn thấy, nghe thấy phản ứng của người khác lại làm
tăng thêm hứng khởi của chính họ,cứ như vậy trạng thái
tâm lý của nhóm phát triển và lây lan không ngừng (Pa. Allport).
Bản chất xã hội của tâm lý người là cơ chế quan trọng
choviệc lây lan tâm lý trong nhóm. Giáo viên có thể sử
dụng hiện tượng lây lan tâm lý để kích thích tính tò mò,
tìm hiểu của học sinh; chủ động lan truyền các trạng thái
tâm lý tích cực, thúc đẩy quá trình tiếp nhận tri thức của học sinh.
Có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng tới lây lan tâm lý,
trong đó có những yếu tố như:
-Bầu không khí lành mạnh trong tập thể ảnh hưởng rất
nhiều tới tốc độ lây lan tâm lý. Môi trường văn hóa trong
tập thể được thể hiện bằng các hành vi ứng xử chuẩn
mực, hiểu biết và thông cảm lẫn nhau là môi trường tốt
nhất cho việc lây lan các trạng thái tâm lý thoải mái, tăng
cường sự gắn kết thành viên của tập thể
-Các điều kiện của môi trường sống, học tập và làm
việc như: âm nhạc, ánh sáng, trang thiết bị, mức độ độc
hại, tình huống và thời cơ... có thể tạo ra sự thỏa mãn hay
không thỏa mãn ở người lao động, điều này có thúc đẩy
hoặc cản trở lây lan tâm lý. lOMoAR cPSD| 40420603
-Mức độ đoàn kết của các thành viên, trình độ phát
triển của tập thể cũng ảnh hưởng tới sự lây lan tâm lý.
Các nhà tâm lý học đã chứng minh rằng: tập thể càng
phát triển cao bao nhiêu thì tốc độ lây lan tâm lý càng nhanh bấy nhiêu.
-Các đặc điểm tâm lý và đặc điểm cá nhân cũng ảnh
hưởng lớn tới lây lan tâm lý. Các đặc điểm tâm lý như:
nhu cầu, động cơ, sở thích, xu hướng, trình độ, vốn
sống... có thể tăng cường hoặc cản trở lây lan tâm lý. Ví
dụ, những người có cùng sở thích thì sẽ dễ lây lan tâm lý
cho nhau hơn. Các đặc điểm cá nhân như: giới tính, lứa
tuổi, hệ thần kinh cũng là yếu tố ảnh hưởng tới lây lan
tâm lý( nữ giới dễ lây lan tâm lý hơn nam giới, trẻ em dễ
lây lan tâm lý hơn người lớn)
Có thể nói rằng, lây lan không chỉ áp đặt ý kiến mà còn
ảnh hưởng đến sự cảm nhận và hành vi của cả nhóm lớn
xã hội, thậm chí lan tỏa cả một dân tộc. Thỏa hiệp:
Thỏa hiệp là sự nhân nhượng của cá nhân trước áp lực
của cá nhân khác hoặc của nhóm xã hội dẫn đến sự thay
dổi tâm thế và cách ứng xử của cá nhân cho phù hợp với
đa số... Trong thực tế, giáo dục của các bậc cha mẹ nhiều
khi gặp phải những khó khăn như mâu thuẫn về quan
điểm sống, định hướng giá trị giữa các thế hệ...Chính vì
vậy, trong giáo dục gia đình, sự thỏa hiệp là điều vô cùng quan trọng.
Thỏa hiệp là cơ chế tạo ra sự thống nhất giữa các cá
nhân trong nhóm mặc dù còn có sự khác biệt nhất định.
Nó đảm bảo cho việc xác định mục đích chung hay ra
quyết định chung của nhóm, đồng thời tránh tạo ra sự
xung đột trong một khoảng thời gian. Như vậy, với tư
cách là một cơ chế tâm lý xã hội giúp giảm bớt xung đột
trong một số tình huống, thỏa hiệp có vai trò tích cực
nhất định khác với hiểu đơn giản thiên về tiêu cực của
hiện tượng này. Trong nhóm xã hội với các lợi ích, vị trí
khác nhau thì khó có thể có sự thống nhất hoàn toàn. Cơ
chế này có thể coi như một sự “tạm dừng” để có thể tiến
tới sự thống nhất hơn khi được trao đổi, thảo luận.
Trong Tâm lý học xã hội, người ta thường quan tâm tới
hai loại thỏa hiệp: thỏa hiệp hình thức và thỏa hiệp thực
tâm. Thỏa hiệp hình thức có nghĩa là bề ngoài tiếp nhận lOMoAR cPSD| 40420603
ý kiến nhưng thực tế vẫn chống lại. Thỏa hiệp thực tâm
là bên trong cá nhân có sự biến đổi tâm thế và quan
điểm theo xu hướng chung của nhóm.
Có một loạt các yếu tố ảnh hưởng tới sự thỏa hiệp. Các
yếu tố đó thuộc hai nhóm cơ bản: các yếu tố cá nhân và
các yếu tố tâm lý xã hội.
Các yếu tố cá nhân như đặc trưng tâm lý của cá nhân phải
chịu áp lực thỏa hiệp, giới tính, lứa tuổi, trí tuệ, trình độ
nhận thức. Các cá nhân có tính độc lập có xu hướng ít
thỏa hiệp hơn và ngược lại; nữ giới có khả năng thỏa hiệp cao hơn nam giới.
Các yếu tố tâm lý xã hội như: quy mô nhóm, trình độ
phát triển của nhóm, tính chất của các mối quan hệ trong
nhóm, vị trí cá nhân, mức độ phụ thuộc lẫn nhau trong
nhóm, hoàn cảnh đặc thù như nội dung cần thỏa hiệp, các nhiệm vụ chung.
Thỏa hiệp cũng được coi cũng là một cơ chế mang
màu sắc văn hóa, bởi lẽ trong một số nền văn hóa, cơ chế
thỏa hiệp chi phối một cách phổ biến các quan hệ xã hội,
trong nền văn hóa khác cơ chế này lại ít phát huy tác dụng. Học tập:
Sự lĩnh hội các chuẩn mực đạo đức, tri thức, kinh
nghiệm xã hội của trẻ em thông qua kế thừa, bắt chước,
lây lan... thường diễn ra một cách tự phát. Tuy nhiên,
trong suốt quá trình phát triển, trẻ còn có thể phát triển
theo cơ chế lĩnh hội tự giác, tức là học tập.
Việc học của cá nhân có thể diễn ra theo các phương
thức: học ngẫu nhiên, học kết hợp hoặc học tập có chủ đích
Học ngẫu nhiên: là sự thay đổi nhận thức, hành vi hay
thái độ nhờ lặp lại các hành vi mang tính ngẫu nhiên, không chủ định.
Ví dụ: Một cháu bé lần đầu tiên thấy cốc nước nóng
đang bốc hơi, không biết đó là nước nóng nên đã sờ tay
vào. Sau nhiều lần như vậy, khi thấy cốc nước đang bốc
hơi, cháu sẽ không dám đụng vào nữa. Ở đây, cháu bé đã
thu thập được kinh nghiệm thông qua hành vi ngẫu nhiên
của mình, từ đó thay đổi nhận thức và hành vi. Học kết
hợp: là cá nhân thu được kiến thức, kĩ năng, thái độ nhờ
vào việc triển khai một hoạt động nhất định. Nói cách lOMoAR cPSD| 40420603
khác, học kết hợp là việc học gắn liền và nhờ vào việc
triển khai một hoạt động khác.
Ví dụ: Trong đợt tham gia phong trào “ đi tìm địa chỉ đỏ”
do Đoàn TNCS HCM tổ chức, em thiếu niên đã hiểu
thêm nhiều về truyền thống cách mạng của quê hương
mình. Niềm tự hào và tình yêu quê hương của em đã được nhân lên
Trong trường hợp này, em thiếu niên được bồi dưỡng
niềm tự hào, tình yêu quê hương khi thông qua một hoạt
động cụ thế( hoạt động do Đoàn tổ chúc). Vì vậy, đây là học kết hợp.
Học kết hợp là phương thức học phổ biến của con người,
nó là phương tiện chủ yếu để duy trì sự tồn tại của cá
nhân và xã hội, nhất là trong các xã hội có trình độ sản
xuất và khoa học thấp kém. Cá nhân có thể thu được
nhiều kinh nghiệm qua trực tiếp sản xuất, qua giao tiếp
và ứng xử hàng ngày, qua hoạt động vui chơi...
Học tập có chủ đích: là việc học có chủ ý, có mục
đích từ trước, được tiến hành bởi một hoạt động đặc thù-
hoạt động học, nhằm thỏa mãn như cầu học của cá nhân.
Ví dụ: Em học sinh chưa biết tính diện tích hình vuông,
hình chữ nhật... Sau thời gian tìm hiểu lý thuyết trên lớp
và làm bài tập kết hợp với hướng dẫn của giáo viên và sự
chăm chỉ học bài cũ, em đã biết tính diện tích các hình trên.
Đặc trưng của học tập có chủ đích và cũng là sự khác biệt
lớn giữa nó với học ngẫu nhiên và học kết hợp là bao giờ
nó cũng nhằm thoả mãn một nhu cầu nhất định nào đấy,
được kích thích bởi động cơ học và được thực hiện bởi
một hoạt động chuyên nghiệp. Hoạt động học với nội
dung, phương pháp và phương tiện riêng. Một điểm khác
biệt nữa là hoạt động học không chỉ đem lại cho người
học kinh nghiệm cá nhân như trong học kết hợp, mà còn
giúp người học lĩnh hội được những tri thức khoa học đã
được loài người thực nghiệm và khái quát hóa thành
những chân lý phổ biến. Vì vậy, xã hội càng hiện đại,
khoa học càng phát triển thì học tập càng đóng vai trò
quyết định trong sự phát triển của cá nhân và xã hội.
Trong thực tiễn, học tập có thể thực hiện bằng nhiều hình
thức phong phú. Học tập được diễn ra theo một quy trình
chặt chẽ về không gian, thời gian, có tổ chức, có kế lOMoAR cPSD| 40420603
hoạch và được điều khiển trực tiếp thông qua người dạy,
đó là học tập chính thức. Còn học tập được triển khai
một cách linh hoạt, ít chịu ràng buộc bởi yếu tố kế hoạch
và sự điều khiển trực tiếp của người dạy thì đó là học tập
không chính thức. Học tập chính thức có phổ rất rộng: từ
học tập trên lớp đến các khóa bồi dưỡng ngắn ngày về
một chủ đề nhất định.... Học tập không chính thức cũng
có nhiều hình thức và mức độ như: tự nghiên cứu không
có hướng dẫn, học thông qua trao đổi,hội thảo khoa học...
Trong cuộc sống cá nhân, học tập chính thức và học tập
không chính thức cùng tồn tại đan xen và hỗ trợ cho nhau.
III. VAI TRÒ CỦA GIÁO VIÊN TRONG SỰ PHÁT
TRIỂN TÂM LÝ CỦA TRẺ.
Trong suốt cuộc đấu tranh trường kỳ dựng nước và giữ
nước, Đảng và Nhà nước ta luôn tôn vinh nghề dạy học
và vị trí cao cả của người thầy, Bác Hồ đã nói: “Có gì vẻ
vang hơn là nghề đào tạo những thế hệ sau này tích cực
góp phần xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng
sản? Người thầy giáo tốt- thầy giáo xứng đáng là thầy
giáo- là người vẻ vang nhất. Dù là tên tuổi không đăng
trên báo, không được thưởng huân chương, song những
thầy giáo tốt là những anh hung vô danh”. Giáo viên
không chỉ là người giáo dục và đào tạo học sinh mà còn
là lực lượng chủ tạo tác động trực tiếp đến việc hình
thành và phát triển tâm lý ở trẻ.
Vì vậy, giáo viên là người có khả năng chia sẻ, trợ giúp,
khơi dậy tiềm năng của học sinh của người giáo viên để
giúp cho các em tin vào bản thân, nâng cao hiểu biết về
bản thân, về người khác cũng như về các sự vật, hiện
tượng để có thể giải quyết được các vấn đề đang gặp
phải; là người gây ảnh hưởng trực tiếp của mình đến với
học sinh về mặt tình cảm và ý chí ( đó chính là khả năng
làm cho học sinh nghe, tin và làm theo giáo viên bằng
tình cảm, bằng niềm tin). Giáo viên là người gây ảnh
hưởng trực tiếp đến việc hình thành và phát triển tâm lý ở
trẻ bằng con đường học tập. Thông qua học tập, bằng
nhiều hình thức khác nhau mà giáo viên có thể giúp học
sinh thỏa mãn một nhu cầu học nhất định nào đó, bồi đắp
thêm tri thức trên con đường hoàn thiện và phát triển tâm
lý của mình. Ngoài ra, giáo viên còn được xem là “ hình lOMoAR cPSD| 40420603
mẫu lý tưởng” để học sinh bắt chước theo. Giáo viên
không chỉ là người truyền đạt tri thức cho học sinh mà
còn là một tấm gương để học sinh noi theo. Học sinh có
thể hình thành được tâm lý ổn định hay không, tốt hay
không cũng có sự góp mặt của hành động của giáo viên
về cả mặt tốt và mặt xấu, mặt tích cực lẫn tiêu cực. Hơn
nữa, giáo viên còn là người định hướng học sinh lựa chọn
những con đường hình thành tâm lý phù hợp với bản thân
mỗi người; trao đổi, tâm sự và giúp các các em giải đáp
những thắc mắc mà chính bản thân các em không giải
thích được. Có thể thấy, giáo viên có vai trò cực kì quan
trọng trong việc hình thành và phát triển tâm lý của học sinh. IV. KẾT LUẬN.
Trên đây là những suy nghĩ và kết quả quá trình nghiên
cứu của bản thân em về các con đường hình thành nên
tâm lý cá nhân cũng như vai trò, trách nhiệm của người
giáo viên trong việc hình thành và phát triển tâm lý của
học sinh thông qua trao đổi, tìm hiểu tài liệu. Dưới vai trò
là một sinh viên sư phạm- người giáo viên tương lai, em
nhận ra rằng, bản thân mỗi sinh viên bên cạnh việc tích
cực học tập tốt các môn học trong chương trình giáo dục
chuyên môn sư phạm, sinh viên còn phải tích cực chủ
động trao đổi kiến thức lý luận, phương pháp về tổ chức
các hoạt động trải nghiệm nhằm trang bị cho sinh viên
những hiểu biết đúng đắn về hoạt động giáo dục này.
Quan trọng hơn cả là tăng cường tham gia bồi dưỡng
những năng lực cần thiết về tâm lý học giáo dục để có thể
định hướng, hình thành và phát triển tâm lý của học sinh.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê Minh Nguyệt- Trần Quốc Thành- Khúc Năng Toàn
(đồng chủ biên). Hướng dẫn học tâm lý học giáo dục.
NXB Đại học Sư phạm.
2. Nguyễn Đức Sơn-Lê Minh Nguyệt- Nguyễn Thị
Huệ- Đỗ Thị Hạnh Phúc- Trần Quốc Thành- Trần Thị Lệ
Thu (đồng chủ biên) ( 2015) . Giáo trình tâm lý học giáo
dục. NXB Đại học Sư phạm. lOMoAR cPSD| 40420603
3. Phạm Minh Hạc ( 2016), Tâm lí học đại cương, NXB
Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.
4. Dương Thị Diệu Hoa (Chủ biên, 2012), Giáo trình
Tâm lí học phát triển, NXB Đại học sư phạm, Hà Nội.
5. Nguyễn Quang Uẩn (Chủ biên, 2005), Giáo trình Tâm
lí học đại cương, NXB Đại học Sư phạm, Hà Nội lOMoAR cPSD| 40420603