Vai trò của Hồ Chí Minh đối với sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam | Tiểu luận Lịch sử đảng | Đại học Bách Khoa Hà Nội
Vai trò của Hồ Chí Minh đối với sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam | Tiểu luận Lịch sử đảng | Đại học Bách Khoa Hà Nội. Tài liệu được biên soạn giúp các bạn tham khảo, củng cố kiến thức, ôn tập và đạt kết quả cao kết thúc học phần. Mời các bạn đọc đón xem!
Môn: Lịch sử đảng (BKHN)
Trường: Đại học Bách Khoa Hà Nội
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
TIU LUÂN
MÔN HC: ĐƯNG LI CCH MNG CA ĐNG CÔNG SN VIÊT NAM
Đề tài: Vai trò của Hồ Chí Minh đối với sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam Danh sách nhóm: Họ và tên Mã số sinh viên Mã lớp Nguyễn Hoàng Đan 20198210 121905 Lê Hoàng Hiếu 20198226 121905 Bùi Công Danh 20198211 121905 MỤC LỤC
I. Đặt vấn đề..............................................................................................................................................2
II. Nội Dung...............................................................................................................................................3
1. Nguyễn i Quốc đã tìm ra con đường đúng đắn cho cách mạng Việt Nam: con đường cách mạng vô
sản — mở tiền đề cho việc thành lập Đảng cộng sản..................................................................................3
1.1. Hoàn cảnh đắt nước ta trước khi Bác ra đi tìm đường cứu nước..............................................3
1.2. Quá trình tìm đường cứu nước của Nguyễn i Quốc...............................................................4
2. Sau khi tìm ra con đường cứu nước đúng đắn, Nguyễn i Quốc tích cực chuẩn bị mọi mặt cho sự ra
đời của một chính đảng vô sản ở Việt Nam................................................................................................5
2.1. Chuẩn bị về tư tưởng................................................................................................................5
II.1.1. Thời kỳ ở Pháp(1919-1923): Xác định kẻ thù chính của nhân dân ta.............................5
II.1.2. Thời kỳ ở Liên Xô (1923-1924) : Người tham gia hoạt động quốc tế và học tập kinh
nghiệm từ Cách mạng Tháng Mười Nga....................................................................................................6
II.1.3. Thời kỳ ở Trung Quốc (1924-1927) : Hình thành quan niệm lý luận cách mạng
cơ bản.......................................................................................................................................7
2.2: Chuẩn bị về tổ chức..................................................................................................................8
II.1.4. Các tổ chức do Người thành lập ra.................................................................................8
II.1.5. Cách thức truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin cửa Hội Việt Nam cách mạng thanh niên....9
3. Năm 1930, Nguyễn i Quốc trực tiếp chủ trì Hội nghị hợp nhất thành lập Đảng và soạn thảo cương
lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng................................................................................................................10
3.1. Nguyễn i Quốc đứng đầu trong hội nghị thành lập Đảng.....................................................10
3.2. Người đã soạn thảo ra cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng................................................11
III. Kết luận và liên hệ thực tiễn...............................................................................................................13
1. Kết luận............................................................................................................................................13
2. Liên hệ thực tiễn vai trò của Hỗ Chí Minh đối với Đảng ta hôm nay...............................................13
IV. Các tài liệu tham khảo.........................................................................................................................16 I. Đặt vấn đề
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã đánh dầu bước ngoặt quan trọng của
cách mạng Việt Nam, chấm dứt sự khủng hoảng về đường lối chính trị, về con
đường cứu nước, cứu dân, thống nhất đất nước, thoát khỏi ách áp bức của thực
dân, phong kiến, thoát khỏi bằn cùng, lạc hậu. Chính đường lối này là cơ sở
đảm bảo cho sự tập hợp lực lượng và sự đoàn kết, thống nhất của toàn dân tộc
có chung tư tưởng và hành động để tiền hành cuộc cách mạng ví đại giành
những thắng lợi to lớn sau này. Đây cũng là điều kiện cơ bản quyết định
phương hướng phát triển, bước đi của cách mạng Việt Nam trong suốt 75 năm qua.
Những thành công mà Đảng ta đã đạt được ngày hôm nay có sự đóng góp
rất lớn của chủ tịch Hồ Chí Minh. Chính Người đã chuẩn bị các điều kiện về
chính trị, tư tưởng và tổ chức cho việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Người đã tìm ra con đường cứu nước đúng đắn và truyền bá khuynh hướng vô
sản cho tằng lớp thanh niên yêu nước Việt Nam. Và cũng chính Người đã thống
nhất 3 tổ chức cộng sản để thành lập ra Đảng Cộng sản Việt Nam như hôm nay. II. Nội dung
1. Nguyễn i Quốc đã tìm ra con đường đúng đắn cho cách mạng
Việt Nam: con đường cách mạng vô sản — mở tiền đề cho việc
thành lập Đảng cộng sản.
1.1. Hoàn cảnh đắt nước ta trước khi Bác ra đi tìm đường cứu nước.
Cuối thế kỷ XIX, mặc dù triều đình phong kiến nhà Nguyễn ký các hiệp
ước Harmand (1883), Patenotre (1884), đầu hàng thực dân Pháp, song phong
trào đầu tranh chống thực dân Pháp vẫn diễn ra. Phong trào đầu tranh giải
phóng dân tộc theo khuynh hướng phong kiến và tư sản diễn ra mạnh mẽ. Tiêu
biểu nhất cho thời kỳ này là phong trào Cần Vương. (1885-1896), cuộc khởi
nghĩa Yên Thế (Bắc Giang), cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy,... Tuy nhiên các cuộc
khởi nghĩa này đều bị thực dân Pháp dập tắt trong biển máu. Thất bại của các
phong trào trên đã chứng tỏ gaii cấp phong kiến và hệ tư tưởng phong kiến
không đủ điều kiện để lãnh đạo phong trào yêu nước giải quyết thành công
nhiệm vụ dân tộc Việt Nam.
Sang đầu thế kỷ XX, phong trào yêu nước dưới sự lãnh đạo của tầng lớp sĩ
phu tiền bộ chịu ảnh hưởng của tư tưởng dân chủ tư sản diễn ra sôi nổi. Về mặt
phương pháp, tầng lớp sĩ phu lãnh đạo phong trào giải phóng dân tộc đầu thế kỷ
XX có sự phân hóa thành 2 xu hướng. Một bộ phận chủ trương đánh đuổi thực
dân Pháp giành độc lập dân tộc, khôi phục lại chủ quyền quốc gia bằng biện
pháp bạo động . Một bộ phận khác lại coi cải cách là giải pháp để tiến tới khôi phục độc lập.
Đại diện của xu hướng bạo động là Phan Bội Châu, ông chủ trương dựa vào
sự giúp đỡ bên ngoài, chủ yếu là Nhật Bản, để đánh Pháp giành độc lập dân tộc,
thiết lập một nhà nước theo mô hình quân chủ lập hiến của Nhật. Ông lập ra
Hội Duy Tân( 1904), tổ chức phong trào Đông Du( 1906-1908). Rồi sau đó về
Trung Quốc lập ra Việt Nam Quang Phục Hội( 1912) với ý định tập hợp lực
lượng rồi kéo quân về nước võ trang bạo đông chống Pháp, giải phóng dân tộc,
nhưng rồi cũng không thành công.
Đại biểu xu hướng cải cách là Phan Chu Trinh, với chủ trương vận động cải
cách văn hóa, xã hội, động viên lòng yêu nước trong nhân dân, đả kích bọn
phong kiến vua quan thối nát, thực hiện chắn dân khí, hậu dân sinh, mở mang
dân quyền, phản đối đấu tranh vũ trang,...Hoạt động cách mạng của Phan Chu
Trinh đã góp phần thức tỉnh lòng yêu nước của nhân dân Việt Nam. Tuy nhiên
về phương pháp, “Cụ Phan Chu Trinh chỉ yêu cầu người Pháp thực hiện cải
lương,...điều đó là sai lầm, chẳng khác gì đến xin giặc rủi lòng thương.”
Ngoài ra trong thời kỳ này ở Việt Nam còn có nhiều phong trào đầu tranh
nỗ ra, theo đó các tổ chức đảng phái cũng bắt đầu ra đời. Các đảng phái chính
trị tư sản và tiểu tư sản đã góp phần thúc đẩy phong trào yêu nước chống Pháp ,
đặc biệt là Tân Việt cách mạng Đảng và Việt Nam quốc dân Đảng. Trong nội bộ
Tân Việt cách mạng Đảng thì khuynh hướng cách mạng theo quan điểm vô sản
đã thắng thế, còn Việt Nam quốc dân Đảng là một đảng chính trị theo xu hướng
dân chủ tư sản. Về sau cuộc khởi nghĩa của Việt Nam quốc dân Đảng đã bị thực
dân Pháp dập tắt, còn số đảng viên tiên tiến còn lại trong Tân Việt tích cực
chuẩn bị để tiến tới thành lập một chính đảng theo chủ nghĩa Mac-Lenin.
1.2. Quá trình tìm đường cứu nước của Nguyên i Quốc.
Nguyễn i Quốc sinh ngày 19-5-1890, quê ở làng Kim Liên, huyện Nam
Đàn, tỉnh Nghệ An. Lúc nhỏ có tên là Nguyễn Sinh Cung, khi đi học lấy tên là
Nguyễn Tắt Thành. Lớn lên giữa lúc nước mắt nhà tan, đau xót tước cảnh lầm
than của đồng bào. Nguyễn Tất Thành sớm có chí đánh đuổi thực dân Pháp, giải
phóng dân tộc. Ngày 5-6-1911. Nguyễn Tất Thành rời đắt nước ra đi tìm đường
cứu nước, xem các nước làm thế nào rồi trở về giúp đồng bào.
Gần mười năm bôn ba khắp các châu lục (1911-1920), Người đến những
nước thuộc địa và những nước đề quốc như Anh, Mỹ, Pháp... quan sát, nghiên
cứu, suy nghĩ, đã phát hiện một chân lý: chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đồ quốc,
thực dân là cội nguôn của mọi đau khổ của giai cắp công nhân với nhân dân lao
đồng ở chính quốc cũng như ở các nước thuộc địa.
Năm 1917, Nguyễn i Quốc trở lại Pháp. Khi Cách mạng tháng Mười Nga
thành công, Người tham gia những hoạt động chính trị sôi nỗi ngay trên đắt
Pháp như : tham gia hoạt động trong phong trào công nhân Pháp. Năm 1919,
Người tham gia Đảng Xã hội Pháp. Tháng 6 - 1919, Nguyễn i Quốc đã thay
mặt nhóm người yêu nước Việt Nam tại Pháp gửi “Bản yêu sách 8 điểm” đến
Hội nghị Vécxai, nhằm tố cáo chính sách của Pháp và đòi Chính phủ Pháp thực
hiện các quyền tự do, dân chủ và quyền bình đẳng của dân tộc Việt Nam. Mặc
dù không được chấp nhận, nhưng “Bản yêu sách” đã gây tiếng vang lớn đối với
nhân dân Pháp và nhân dân các nước thuộc địa của Pháp.
Vào tháng 7-1920, Nguyễn i Quốc đọc bản “Sơ thảo lần thứ nhất những
luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” của Lênin đăng trên báo
Nhân đạo. Người tìm thấy trong luận cương của Lênin lời giải đáp về con
đường giải phóng cho nhân dân Việt Nam, về vấn đề thuộc địa trong mối quan
hệ với phong trào cách mạng thế giới... Nguyễn i Quốc đã đến với chủ nghĩa Mác-Lênin.
Tháng 12 năm 1920, tại Đại hội lần thứ 18 của Đảng xã hội Pháp họp ở
Tua, Nguyễn i Quốc đã bỏ phiều tán thành gia nhập Quốc tế cộng sản và chủ
trương thành lập Đảng cộng sản Pháp. Giải thích việc làm đầy ý nghĩa đó, đồng
chí Nguyễn i Quốc viết: “Đệ tam Quốc tế nói sẽ giúp đỡ các dân tộc bị áp bức
giành lại tự do và độc lập của họ. Còn Đệ nhị Quốc tế không hề nhắc đến vận
mạng các thuộc địa. Vì vậy, tôi đã bỏ phiếu tán thành Đệ tam Quốc tế. Tự do
cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đây là tắt cả những điều tôi muốn.”
Sự kiện này đánh dấu ngoặt trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Người
- từ yêu nước trở thành người cộng sản và tìm thấy con đường cứu nước đúng
đắn. “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con
đường cách mạng vô sản” .Nguyễn i Quốc đã khẳng định : “bây giờ học
thuyết nhiễu, chủ nghĩa nhiễu, nhưng chủ nghĩa chân chính nhắt là chủ nghĩa
Mác - Lênin, con đường cách mạng Việt Nam không có con đường nào khác là
con đường cách mạng vô sản.”
2. Sau khi tìm ra con đường cứu nước đúng đắn, Nguyễn i Quốc
tích cực chuẩn bị mọi mặt cho sự ra đời của một chính đảng vô sản ở Việt Nam.
2.1. Chuẩn bị về tư tưởng : II.1.1.
Thời kỳ ở Pháp (1919-1923) : Xác định kẻ thù chính của nhân dân ta.
Từ khi trở thành người cộng sản, Nguyễn i Quốc đã xúc tiền mạnh mẽ
việc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào phong trào giải phóng dân tộc và
phong trào vô sản ở các nước thuộc địa, trong đó có Việt Nam.
Năm 1921 Người cùng với một số nhà yêu nước của các nước thuộc địa
khác như: Angiêri, Tuynidi, Marốc ... thành lập " Hội liên hiệp thuộc địa" để
tuyên truyền, tập hợp lực lượng chống chủ nghĩa đế quốc. Năm 1922 : Ra báo “
Le Paria” ( Người cùng khổ ) vạch trần chính sách đàn áp, bóc lột dã man của
chủ nghĩa đế quốc, góp phần thức tỉnh các dân tộc bị áp bức đứng lên tự giải
phóng.Nguyễn i Quốc là người phụ trách chính của tờ báo.
Năm 1925, được sự giúp đỡ của những người cộng sản Pháp, tác phẩm Bản
án chế độ thực dân Pháp của đồng chí Nguyễn ái Quốc viết bằng tiếng Pháp
được xuắt bản lần đầi tiên ở Pari. Tư tưởng, quan điểm cơ bản của Người về
chiến lược và sách lược cách mạng thuộc địa đã bước đầu thể hiện trong tác phẩm.
Bản án chế độ thực dân Pháp tố cáo trước nhân dân Pháp và thế giới những
tội ác của bọn thực dân không chỉ ở Việt Nam, Angiêri mà ở khắp các thuộc địa.
Bằng biểu tượng “con đỉa hai vòi’, Nguyễn i Quốc đã làm cho người đọc thấy
rằng: chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa thực dân là kẻ thù chung của giai cắp vô sản
và nhân dân lao động bị áp bức, bị bóc lột ở các nước chính quốc và các dân tộc
thuộc địa. Bản án chế độ thực dân Pháp đã góp phần vào việc thiết lập sự liên
minh giữa cách mạng vô sản ở chính quốc với cách mạng giải phóng dân tộc ở
các thuộc địa, phải thực hiện sự liên minh chật chế với nhau để chống kẻ thù
chung, vì "chỉ có sự hợp tác này mới bảo đảm cho giai cấp công nhân quốc tế
giành được thắng lợi cuối cùng". II.1.2.
Thời kỳ ở Liên Xô (1923-1924) : Người tham gia hoạt động
quốc tế và học tập kinh nghiệm từ Cách mạng Tháng Mười Nga.
Tháng 6-1923, Nguyễn i Quốc bí mật từ Pari sang Liên Xô dự Hội nghị
Quốc tế Nông dân lần thứ nhất ( 10-1923 ), Đại hội Quốc tế Cộng sản lần thứ
V ( 7-1924 ) ... Ở Liên Xô, Nguyễn i Quốc tích cực nghiên cứu các vấn đề về
dân tộc và thuộc địa. Người đã có các tham luận quan trọng tại các đại hội quốc
tế, viết nhiều bài cho các báo " Sự Thật" – cơ quan ngôn luận của Đảng Cộng
Sản Liên Xô, tạp chí " Thư tín Quốc tế" của Quốc tế Cộng Sản.
Nguyễn i Quốc tiếp tục phát triển và hoàn thiện thêm tư tưởng về cách
mạng giải phóng dân tộc, thông qua hoạt động thực tiễn và nghiên cứu sách báo
mácxít. Nguyễn i Quốc đã nêu rõ mối quan hệ giữa cách mạng thuộc địa với
cách mạng chính quốc, về vai trò của giai cắp nông dân trong sự nghiệp giải
phóng dân tộc. Đây là bước chuẩn bị quan trọng về chính trị, tư tưởng cho sự
thành lập Đảng Cộng Sản ở Việt Nam. II.1.3.
Thời kỳ ở Trung Quốc (1924-1927) : Hình thành quan niệm lý
luận cách mạng cơ bản
Tháng 11 năm 1924, với tư cách là uỷ viên Bộ phương Đông của Quốc tế
cộng sản, trực tiếp phụ trách Cục phương Nam, Nguyễn i Quốc đã từ Liên Xô
đến Quảng Châu (Trung Quốc) để hoạt động, xây dựng phong trào và đào tạo
cán bộ cách mạng cho một số nước ở Đông Nam . Tại đây, đồng chí đã cùng
với các nhà lãnh đạo cách mạng Trung Quốc, Triều Tiên, n Độ, Thái Lan,
Inđônêxia, Malaixia, v.v..sáng lập ra Hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở - Đông.
Tháng 6 năm 1925, Người thành lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên.
Chương trình và Điều lệ của Hội nêu rồ mục đích là : làm cách mạng dân tộc và
cách mạng thế giới. Sau khi cách mạng thành công, Hội chủ trương thành lập
Chính phủ nhân dân, mưu cầu hạnh phúc cho nhân dân, tiền lên xây dựng xã
hội cộng sản chủ nghĩa, thực hiện đoàn kết với giai cắp vô sản các nước, với
phong trào cách mạng thế giới.
Từ năm 1925 đến năm 1927, Hội Việt Nam cách mạng thanh niên đã mở
các lớp huấn luyện chính trị cho cán bộ cách mạng Việt Nam. Hội đã xây dựng
được nhiều cơ sở ở các trung tâm kinh tế, chính trị trong nước. Năm 1928, Hội
thực hiện chủ trương “ vô sản hóa ”, đưa hội viên vào nhà máy, hầm mỏ, đồn
điền để rèn luyện lập trường, quan điểm giai cấp công nhân, để truyền bá chủ
nghĩa Mac-Lênin và lý luận giải phóng dân tộc nhằm thúc đầy sự phát triển của
phong trào cách mạng Việt Nam.
Đầu năm 1927, cuốn “Đường cách mệnh” gồm những bài giảng của Người
trong các lớp đào tạo cán bộ ở Quảng Châu, được Bộ tuyên truyền của Hội liên
hiệp các dân tộc bị áp bức ở - Đông xuất bản. Trong tác phẩm quan trọng này,
đồng chí Nguyễn ái Quốc nêu ra những tư tưởng cơ bản về chiến lược và sách
lược của cách mang Việt Nam.
“Đường cách mệnh” chỉ rõ đối tượng đầu tranh của cách mạng Việt Nam là
tư bản đề quốc chủ nghĩa, phong kiến địa chủ; đồng thời, chỉ rõ động lực và lực
lượng cách mạng. Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng là việc chung của cả
dân chúng chứ không phải việc của một hai người, do đó phải đoàn kết toàn
dân. Nhưng cái cốt của nó là công - nông và phải luôn ghi nhớ rằng công - nông
là người chủ cách mệnh, công - nông là gốc của cách mệnh.
Nguyễn i Quốc khẳng định : Muốn thắng lợi thì cách mạng phải có một
đảng lãnh đạo, Đảng có vững, cách mạng mới thành công cũng như người cầm
lái có vững thì thuyền mới chạy. Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm
cốt, chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin.
Về phương pháp cách mạng, Người nhắn mạnh đến việc giác ngộ và tổ
chức quần chúng cách mạng, phải làm cho quần chúng hiểu rõ mục đích cách
mạng, biết đồng tâm hiệp lực để đánh đỗ giai cắp áp bức mình, làm cho cách
mạng biết cách làm, phải có “mưu chước ”, có như thế mới đảm bảo thành công
cho cuộc khởi nghĩa với sự nổi dậy của toàn dân.
Tác phẩm Đường cách mệnh đã đề cập những vấn đề cơ bản của một cương
lĩnh chính trị, chuẩn bị về tư tưởng chính trị cho việc thành lập Đảng Cộng sản
Việt Nam. Đường cách mệnh có giá trị lý luận và thực tiễn to lớn đối với cách
mạng Việt Nam. Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội và tác phẩm
Đường cách mệnh đã trực tiếp chuẩn bị về tư tưởng, lý luận chính trị và tổ chức
cho việc thành lập Đảng vô sản kiểu mới ở Việt Nam.
2.2. Chuẩn bị về tổ chức. II.1.4.
Các tổ chức do Người thành lập ra.
Năm 1921, nhờ sự giúp đỡ của Đảng cộng sản Pháp, Nguyễn i Quốc cùng
với một số chiến sĩ cách mạng ở nhiều nước thuộc địa của Pháp lập ra Hội liên
Hiệp Thuộc địa nhằm tập hợp tất cả những người ở thuộc địa sống trên đất Pháp
đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân. Hội quyết định xuất bản tờ báo Người
củng khổ, do Bác làm chủ nhiệm kế bút.
Cuối năm 1921, tại đại hội lần thứ nhất của Đảng Cộng sản Pháp họp ở
Macxay, Người đã trình bày dự thảo nghị quyết về vấn đề “ chủ nghĩa cộng sản
và thuộc địa” và ý kiến nghị thành lập Ban Nghiên Cứu thuộc địa trực thuộc ủy
ban Trung ương Đảng Cộng sản Pháp. Kiến nghị đó được Đại hội chấp nhận .
Năm 1922, Ban nghiên cứu thuộc địa được cư làm trưởng tiểu ban nghiên cứu
về vần đề Đông Dương.
Tháng 6-1925, Người sáng lập Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên, hạt
nhân là Cộng sản đoàn. Cơ quan tuyên truyền của Hội là tuần báo báo Thanh
niên. Đây là một bước chuẩn bị có ý nghĩa quyết định về mặt tổ chức cho sự ra
đời Đảng Cộng sản Việt Nam. Từ năm 1925-1927, người mở nhiều lớp huấn
luyện chính trị tại Quảng Châu, đào tạo một đội ngũ cán bộ cho cách mạng Việt
Nam. Sau các khóa học một số được chọn đi học ở trường Đại học Phương
Đông của Quốc tế Cộng sản, một số được cử đi học trường quân sự Hoàng Phố,
còn phần lớn trở về nước để “truyền bá lí luận giải phóng dân tộc, và tổ chức nhân dân”. II.1.5.
Cách thức truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin cửa Hội Việt Nam
cách mạng thanh niên.
Sự truyền bá chủ nghĩa Mac-Lenin và tư tưởng cách mạng Hồ Chí Minh
vào trong phong trào công nhân và phong trào yêu nước gắn liền với xây dựng
các tổ chức cơ sở của Hội ở nhiều trung tâm kinh tế, chính trị quan trọng. Số
hội viên của Hội tăng mạnh. Năm 1928, có 300 hội viên, năm 1929 có 1700 hội
viên. Tổ chức cũng được xây dựng trong nhiều nhà máy, hầm mỏ. Một số đảng
viên tiên tiền trong Tân Việt cũng ngả theo Hội, nhiều người đã trở thành hôij
viên của Hội. Việc truyền bá lí luận giải phóng dân tộc và tổ chức vận động
nhân dân dấy lên một phong trào dân tộc chủ ở Việt Nam ngày càng mạnh mẽ,
đặc biệt là phong trào công nhân.
Trong những năm 1926-1929, phong trào công nhân đã có sự lãnh đạo của
các tổ chức như Hội Việt Nam cách mạng thanh niên, Công hội đỏ và các tổ
chức cộng sản ra đời trong năm 1929. Ở giai đoạn này nhiều cuộc bãi công diễn
ra. Từ năm 1928 đến năm 1929, có khoảng 40 cuộc đầu tranh của công nhân
diễn ra trong toàn quốc. Các cuộc đầu tranh của công nhân Việt Nam trong
những năm 1926-1929 mang tính chất chính trị rõ rệt. Mỗi cuộc đầu tranh đã có
sự liên kết giữa các nhà máy, các nghành và các địa phương. Phong trào công
nhân có sức lôi cuốn phong trào dân tộc theo con đường cách mạng vô sản.
3. Năm 1930, Nguyễn i Quốc trực tiếp chủ trì Hội nghị hợp nhất
thành lập Đảng và soạn thảo cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng.
3.1. Nguyễn i Quốc đứng đầu trong hội nghị thành lập Đảng.
Tại đại hội lần thứ nhất của hội Việt Nam cách mạng thanh niên (5-1929)
đã xảy ra sự bất đồng giữa các đại biểu về việc thành lập Đảng cộng sản, thực
chất là sự khác nhau giữa các đại biểu muốn thành lập ngay một Đảng cộng sản
và giải thể tổ chức hội Việt Nam cách mạng thanh niên, với nhưng đại biểu
cũng muốn thành lập Đảng cộng sản nhưng không muốn tổ chức đảng ở giữa
đại hội thanh niên và không muốn giải tán Hội Việt Nam cách mạng thanh niên.
Trong bối cảnh đó các tổ chức cộng sản ở Việt Nam ra đời.
Đông Dương cộng sản Đảng ra đời ngày 17-6-1929, tại Hà Nội, do đại biểu
các tổ chức cộng sản ở miền bắc thành lập. An Nam cộng sản Đảng thành lập
vào mùa thu năm 1929, do các đại biểu trong hội Việt Nam cách mạng thanh
niên ở Trung Quốc và Nam Kỳ thành lập. Sự ra đời của hai tổ chức cộng sản
trên làm cho nội bộ Đảng Tân Việt phân hoá, những đảng viên tiên tiền của Tân
Việt đứng ra thành lập Đông Dương cộng sản liên đoàn.
Mặc dù đều giương cao ngọn cờ chống đề quốc, phong kiến, xây dựng chủ
nghĩa cộng sản ở Việt Nam, nhưng ba tổ chức cộng sản trên hoạt động phân tán,
chia rẽ đã ảnh hưởng xấu đến phong trào cách mạng ở Việt Nam lúc này. Vì
vậy, việc khắc phục sự chia rẽ, phân tán giữa các tổ chức cộng sản là yêu cầu
cấp thiết của cách mạng nước ta, là nhiệm vụ cắp bách trước mắt của tất cả
những người cộng sản Việt Nam.
Ngày 27-10-1929, Quốc tế Cộng sản gửi những người Cộng sản Đông
Dương tài liệu “Về việc thành lập một Đảng Cộng sản ở Đông Dương”, yêu cầu
những người cộng sản Đông Dương phải khắc phục ngay sự chia rẽ giữa các
nhóm cộng sản và thành lập một đảng của giai cắp vô sản. Nhận được tin về sự
chia rố của những người cộng sản ở Đông Dương, Nguyễn i Quốc rời Xiêm
đến Trung Quốc. Người chủ trì Hội nghị hợp nhất Đảng, tại Hương Cảng,
Trung Quốc. “Với tư cách là Phái viên của Quốc tế Cộng sản có đầy đủ quyền
quyết định mọi vấn đề liên quan đến phong trào cách mạng ở Đông Dương”,
Người chủ động triệu tập “ đại biểu của hai nhóm (Đông Dương và An Nam)"
và chủ trì Hội Nghị hợp nhất đảng tại Cửu Long (Hương Cảng, Trung Quốc).
Hội nghị bắt đầu họp từ ngày 6-1-1930.
Thành phần Hội nghị hợp nhất gồm: 1 đại biểu của Quốc tế Cộng sản, 2 đại
biểu của Đông Dương Cộng sản Đảng, 2 đại biểu An Nam Cộng sản Đảng. Hội
nghị thảo luận đề nghị của Nguyễn i Quốc gồm 5 điểm lớn, với nội dung:
1. Bỏ mọi thành kiến xung đột cũ, thành thật hợp tác để thống nhất các nhóm cộng sản Đông Dương.
2. Định tên Đảng là Đảng Cộng sản Việt Nam.
3. Thảo Chính cương và Điều lệ sơ lược của Đảng.
4. Định kế hoạch thực hiện việc thống nhất trong nước
Cử một Ban Trung ương lâm thời gồm chín người, trong đó có hai đại biểu
chỉ bộ cộng sản Trung Quốc ở Đông Dương.
Hội nghị nhất trí với Năm điểm lớn theo đề nghị của Nguyễn i Quốc và
quyết định hợp nhất các tổ chức cộng sản, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam.
Hội nghị thảo luận và thông qua các văn kiện: Chánh cương vắn tắt, Sách lược
vắn tắt, Chương trình tóm tắt và Điều lệ vắn tắt của Đảng do Nguyễn i Quốc
soạn thảo ra. Ngày 24-2-1930, theo yêu cầu của Đông Dương Cộng sản Liên
đoàn, Ban Chấp hành Trung ương lâm thời họp và ra Nghị quyết chấp nhận
Đông Dương Cộng sản Liên đoàn gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam. Như vậy
Đảng Cộng sản Việt Nam đã hoàn tắt việc hợp nhất ba tổ chức công sản ở Việt Nam.
3.2. Người đã soạn thảo ra cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng.
Các văn kiện được thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt
Nam như: Chánh cương vắn tắt của Đảng, Sách lược vắn tắt của Đảng, Chương
trình tóm tắt của Đảng hợp thành Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng
sản Việt Nam. Cương lĩnh xác định các vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam:
Phương hướng chiến lược của cách mạng Việt Nam là : "tư sản dân quyền
cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”.
Nhiệm vụ của cách mạng tư sản dân quyền và thỗ địa cách mạng là đánh đổ
đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến làm cho Việt Nam hoàn toàn độc
lập. Sau đó lập chính phủ công nông binh, tổ chức quân đội công nông. Về kinh
tế thì thủ tiêu hết các thứ quốc trái, tịch thu toàn bộ sản nghiệp của tư bản đế
quốc Pháp để giao cho Chính phủ công nông binh quản lý. Tịch thu toàn bộ ruộng đất của bọn
để quốc chủ nghĩa chia cho dân nghèo, bãi bỏ các sưu thuế. Về văn hóa thì
phổ thông giáo dục theo công nông hóa, nam nữ bình đẳng...
Về lực lượng cách mạng : Lực lượng cách mạng là giai cắp công nhân và
nông dân nhưng bên cạnh đó cũng phải liên minh đoàn kết với tiểu tư sản, lợi
dụng hoặc trung lập phú nông, trung nông, tiểu địa chủ và tư bản Việt Nam
chưa rõ mặt phản cách mạng.
Về lãnh đạo cách mạng: Giai cắp vô sản là lực lượng lãnh đạo cách mạng
Việt Nam. Đảng là đội tiên phong cho giai cắp vô sản.
Về quan hệ của cách mạng Việt Nam với phong trào cách mạng thề giới:
Cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới, phải thực hành
liên lạc với các dân tộc bị áp bức và giai cắp vô sản thế giới, nhất là giai cắp vô sản Pháp.
III. Kết luận và liên hệ thực tiễn. 1. Kết luận
Qua những gì đã tìm hiểu ở trên ta thấy được rằng:
a. Sau gần 10 năm tìm đường cứu nước, Nguyễn i Quốc đã đến với
chủ nghĩa Mác- Lênin, tìm thấy con đường cứu nước đúng đắn cho
dân tộc đồng thời đó là cơ sở lý luận của Đảng.
b. Nguyễn i Quốc đã chuyển bị về tư tưởng chính trị và tổ chức cho sự
thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam:
Tuyên truyền chủ nghĩa Máo- Lênin vào nước ta thông qua các
sách báo: Nhân đạo, Đời sống công nhân, Bản án chế độ thực dân
Pháp, Đường cách mạng v.v...
b) Thành lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên truyền bá chủ
nghĩa Mác- Lênin chuẩn bị thành lập Đảng.
c. Đến 1929, ba tổ chức cộng sản ra đời nhưng lại công kích lẫn nhau.
Yêu cầu của lịch sử cần phải có một Đảng Cộng sản thống nhất trong
cả nước. Với thiên tài và uy tín, Nguyễn i Quốc đá thống nhất 3 tổ
chức cộng sản thành 1 đảng duy nhất - Đảng Cộng sản Việt Nam.
d. Người đã vạch ra cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, đặt nền
tảng cho đường lối cách mạng của Đảng ta.
Tóm lại Hồ Chí Minh có vai trò rất lớn đối với sự thành lập Đảng Cộng sản
Việt Nam. Có. thể nói Bác là người đã sáng lập ra Cộng sản Việt Nam.
2. Liên hệ thực tiễn vai trò của Hỗ Chí Minh đối với Đảng ta hôm nay
Dù Bác đã cách xa chúng ta hơn 40 năm nhưng vai trò của Người đối với
Đảng và cuộc sống chúng ta hôm nay vẫn là rất lớn. Tư tưởng của Người không
chỉ là kim chỉ nam cho định hướng, chính sách của Đảng mà còn đóng góp giáo
dục thế hệ thanh thiếu niên hôm nay luôn kiên định với con đường xã hội chủ
nghĩa mà Người đã dày công vun đắp. Qua những gì đã chứng minh ở trên ta
thầy được rằng Người đóng vai trò rất lớn đối với việc thành lập Đảng. Trong
những năm tháng chiến tranh cũng chính là Người đã dìu dắt Đảng ta, nhân dân
ta vượt qua những khó khăn để dành được thắng lợi cuối cùng. Trong công cuộc
đổi mới hôm nay, chúng ta đã tiền hành nhiều cải cách nhiều thay đổi để phù
hợp với yêu cầu khách quan của thực tiễn. Thế nhưng vẫn luôn tuyệt đối trung
thành theo con đường vô sản mà Người đã chọn.
Bác là người đã đặt nền móng cho chủ nghĩa vô sản ở đất nước ta, và từ
những tư tưởng của Người đã được Đảng và nhân dân áp dụng sáng tạo trong
công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hôm nay. Quán triệt tư tưởng
Hồ Chí Minh,Đảng ta đẩy mạnh công tác xây dựng Đảng trên tắt cả các mặt : tư
tưởng-lí luận, chính trị tổ chức và cán bộ đạo đức..làm cho Đảng trong sạch
vững mạnh,đạt tầm cao về đạo đức.trí tuệ bản lĩnh chính trị vững vàng trước
mọi thử thách của lịch sử.
Về chính trị: có đường lồi chính trị đúng đắn,bản lĩnh chính trị vững vàng
trong mọi tình huống phức tạp,một đường lối cứng rắn về chiến lược,mềm dẻo
về sách lược linh hoạt về biện pháp đấu tranh.Đặc biệt trong tình hình chính trị
thế giới hiện nay,với những cuộc xung đột liên quan tới vũ khí hạt nhân thì
Đảng ta cần phải có một bản lính vững vàng để bảo vệ đất nước. Hơn nữa trong
các cuộc tranh chấp của các nước, chủ trương của Đảng ta là trung lập không
theo phe phái nào. Tình hình thế giới hiện nay đang ngày càng phức tạp, tranh
chấp trên Biển Đông cũng đang xấu đi. Nhưng vẫn theo những đường lối mềm
dẻo mà Bác đã áp dụng khi nước ta vừa dành được độc lập năm 1945, chủ
trương của Đảng vẫn là giải quyết các cuộc tranh chấp trên cơ sở các cuộc đàm
phán ngoại giao, thỏa hiệp. Tuy nhiên như thế cũng không phải là chúng ta nhín
nhường, chúng ta vẫn luôn cứng rắn bảo vệ chủ quyền đất nước ta, chuẩn bị các
vũ khí tối tân nhằm trường hợp xấu nhất có thể xảy ra. Đảng và nhân dân ta
quyết tâm bảo vệ độc lập chủ quyền cho đất nước, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa.
Về tư tưởng: Sự đúng đắn của tư tưởng Hồ Chí Minh đã được chứng minh
qua những thắng lợi trong chiến tranh. Và giờ đây khi đất nước đang trong quá
trình hội nhập với thế giới, cuộc chiến về diễn biến hòa bình cũng thằm lặng và
cam go hơn hết. Trách nhiệm của Đảng không chỉ là duy trì những tinh hoa từ
tư tưởng của Người mà còn phải phát huy sáng tạo trước những điều kiện hoàn
cảnh mới. Bác đã thành lập và đặt nền móng cho chủ nghĩa xã hội ở đất nước ta,
con đường của Người đã giải phóng ách nô lệ cho đồng bào ta. Vì thế mỗi
người dân hôm nay phải phát huy tích cực hơn nữa xây dựng đất nước ngày
càng giàu đẹp phỗn vinh và kiên định theo con đường chủ nghĩa xã hội mà bác đã chọn.
Về đạo đức,lối sống: Khi còn sống Bác vẫn thường căn dặn mỗi cán
bộ,đảng viên phải coi trọng tu dưỡng đạo đức,cần kiệm liêm chính,chí công vô
tư. Thế nhưng hiện nay những đức tính này dần dần đã bị suy thoái,và những
hạn chế này đã là giảm sút nghiêm trọng niềm tin của nhân dân đối với Đảng.
Bởi vẫn có những người tham ô,lãng phí, để lại hâu quả nghiêm trọng cho xã
hội và kinh tế, những người đứng trong hàng ngũ của Đảng, giữ những chức vụ
cao nhưng không nêu gương đạo đức tốt mà còn tha hóa suy đồi là những điều
cần được xem lại để có những biện pháp ngăn chặn và đẩy lùi. Chúng ta cũng
đá đạt được nhiều thành tựu trong công tác xây dựng Đảng cầm quyền. Được
chiếu rọi bởi ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng quyết tâm xây dựng và
chỉnh đốn về mọi mặt một cách thiết thực,đáp ứng nhu cầu phát triển của giai
cấp và dân tộc là quy luật tồn tại sống còn của Đảng.Chính trên ý nghĩa quan
trong đó,việc tiếp tục đầy mạnh nghiên cứu,tuyên truyền,giáo dục tư tưởng Hồ
Chí Minh về Đảng và xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh phải được quán
triệt đến từng tổ chức cơ sở Đảng, từng cán bộ, đảng viên.
IV. Các tài liệu tham khảo :
Giáo trình đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Lịch sử Đảng của Trần Ngọc Song.
Trang web bảo tàng Hồ Chí Minh: http://www.baotanghochiminh.vn/
Trang chủ báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam: http://www.cpv.org.vn/cpv/