Vai trò của nền sản phẩm hàng hóa trong sự tăng trưởngkinh tế và phát triển đồng bộ các loại thị trường | Tiểu luận Kinh tế chính trị | Trường đại học Bách Khoa Hà Nội

Vai trò của nền sản phẩm hàng hóa trong sự tăng trưởngkinh tế và phát triển đồng bộ các loại thị trường | Tiểu luận Kinh tế chính trị | Trường đại học Bách Khoa Hà Nội. Tài liệu được biên soạn giúp các bạn tham khảo, củng cố kiến thức, ôn tập và đạt kết quả cao kết thúc học phần. Mời các bạn đọc đón xem!

TRƯNG ĐI HC BÁCH KHOA HÀ NI
---KHOA LÝ LUN CHÍNH TR---
----- -----
TIỂU LUẬN MÔN KINH TẾ CHÍNH TRỊ
Đề tài: Vai trò của nền sản phẩm hàng hóa trong sự tăng trưởng
kinh tế và phát triển đồng bộ các loại thị trường
Giảng viên hướng dẫn: Trần Thị Lan Hương
Sinh viên thực hiện: 1. Trần Công Dương 20206829
2. Ngô Văn Bách 20206791
3. Lê Quốc Thắng 20206931
4. Trần Công Đoàn 20206812
5. Nguyễn Minh Quang 20203757
Lớp: 123608
Hà Nội, tháng 05 năm 2021
Mục lục
Phần mở đầu
Phần nội dung
Phần 1: Khái quát lý luận về nền sản xuất hàng hóa thị trường
1.1. Nền sản xuất hàng hóa
1.2. Thị Trường
1.3. Cơ chế thị trường và kinh tế thị trường
Phần 2: Vai trò và tác động của tiến trình đổi mới sang nền sản xuất hàng hóa
2.1 Giai đoạn trước đổi mới 1986
2.2 Giai đoạn sau đổi mới sang nền sản xuất hàng hóa, từ 1986 về sau
Phần 3: Một số khuyến nghị nhằm phát huy vai trò của nền sản xuất hàng hóa
3.1 Mục tiêu
3.2 Khuyến nghị
Phần kết luận
ĐỀ TÀI
VAI TRÒ CỦA NỀN SẢN XUẤT HÀNG HÓA
TRONG SỰ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ PHÁT
TRIỂN ĐỒNG BỘ CÁC LOẠI THỊ TRƯỜNG
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của đề tài
Trong thời kỳ đầu của xã hội loài người do sự lạc hậu của lực lượng sản
xuất nên sản xuất xã hội mang tính tự cung tự cấp khiến nhu cầu của con người
bị hẹp trong một phạm vi, giới hạn nhất định. Khi lực lượng sản xuất phát
triển nhiều thành tựu mới, con người dần thoát khỏi nền kinh tế tự nhiên
và chuyển sang nền kinh tế hàng hóa. Nền kinh tế sản xuất càng phát triển mạnh
mẽ đến đỉnh cao của nền kinh tế thị trường. Sản xuất hàng hóa một
bộ phận của kinh tế quốc tế, tổng thể của các quan hệ kinh tế, khoa học, kỹ
thuật, công nghệ được thực hiện dưới nhiều hình thức, hình thành phát triển
trên sở phát triển của lực lượng sản xuất phân công lao động quốc tế.
Trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, sản xuất hàng hóa được
như một mắt xích quan trọng trong guồng máy của nền kinh tế, đóng vai trò
quan trọng, nhất trong xu thế hội nhập phát triển hiện nay, không những
góp phần đắc lực vào quá trình thúc đẩy toàn bộ nền kinh tế phát triển còn
mở rộng quan hệ giao lưu hợp tác quốc tế cả về các lĩnh vực khác. Sản xuất
hàng hóa là một quá trình tạo ra sản phẩm nhằm đáp ứng làm thỏa mãn nhu
cầu nào đó của con người. Trong thời đại nền kinh tế mở và cạnh tranh như hiện
nay, mỗi quốc gia phải nghiên cứu tìm ra hướng đi đúng đắn cho nền kinh tế,
phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh đất nước,phù hợp với khu vực thế giới và thời
đại. Chính vì vậy, việc nghiên cứu về điều kiện ra đời, đặc trưng ưu thế của sản
xuất hàng hóa cùng quan trong trọng , từ đó ta thể liên hệ với nước ta
và làm cho quá trình sản xuất ở nước ta ngày càng phát triển.
2. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là vai trò của nền sản xuất hàng hóa
3. Phạm vi nghiên cứu
Về mặt thời gian: giai đoạn hiện nay
Về mặt không gian: trong cả nước
4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp phân tích đánh giá, tổng hợp hợp thuyết, phương pháp phân
loại, phương pháp lịch sử, …
5. Giới thiệu nội dung nghiên cứu
Phần 1: Khái quát lý luận về nền sản xuất hàng hóa thị trường
Phần 2: Vai trò và tác động của tiến trình đổi mới sang nền sản xuất hàng hóa
Phần 3: Một số khuyến nghị nhằm phát huy vai trò của nền sản xuất hàng hóa
PHẦN NỘI DUNG
1. Khái quát lý luận về nền sản xuất hàng hóa và thị trường.
1.1. Nền sản xuất hàng hoá
Sản xuất hàng hóa một khái niệm dùng để chỉ về kiểu tổ chức kinh tế
trong đó sản phẩm được sản xuất ra không phải để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng
của chính người trực tiếp sản xuất ra nó mà là để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của
người khác, thông qua việc trao đổi mua bán.
Hay nói cách khác, sản xuất hàng hóa kiểu tổ chức kinh tế sản phẩm sản
xuất ra là để bán.
Điều kiện ra đời và tồn tại của sản xuất hàng hóa
Thứ nhất, phân công lao động xã hội:
Phân công lao động hội sự phân chia lao động hội một cách tự phát
thành các ngành, nghề khác nhau.
Phân công lao động hội tạo ra sự chuyên môn hoá lao động, do đó dẫn đến
chuyên môn hoá sản xuất. Do phân công lao động hội nên mỗi người sản
xuất sẽ làm một công việc cụ thể, vì vậy họ chỉ tạo ra một hoặc một vài loại sản
phẩm nhất định. Song cuộc sống của mỗi người lại cần đến rất nhiều loại sản
phẩm khác nhau. Để thoả mãn nhu cầu, đòi hỏi họ phải mối liên hệ phụ
thuộc vào nhau, phải trao đổi sản phẩm cho nhau. Như vậy, phân công lao động
xã hội là cơ sở, là tiền đề của sản xuất hàng hoá.
Tuy nhiên, phân công lao động xã hội mới chỉ điều kiện thứ nhất chưa đủ để
sản xuất hàng hoá ra đời và tồn tại. C. Mác đã chứng minh rằng, trong công
thị tộc Ấn Độ thời cổ đã có sự phân công lao động khá chi tiết, những sản phẩm
của lao động chưa trở thành hàng hoá bởi liệu sản xuất của chung nên
sản phẩm của từng nhóm sản xuất chuyên môn hoá cũng là của chung, công xã
phân phối trực tiếp cho từng thành viên để thoả mãn nhu cầu. Ở đây không hình
thành quan hệ trao đổi, do đó chưa đủ điều kiện để ra đời và tồn tại của sản xuất
hàng hóa.
Vì vậy, phân công lao động xã hội mới chỉ là điều kiện cần, muốn sản xuất hàng
hoá ra đời và tồn tại phải có điều kiện thứ hai.
Thứ hai, sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế của những người sản xuất:
Sự tách biệt này do sự tồn tại các quan hệ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất,
mà khởi thuỷ là chế độ tư hữu nhỏ về tư liệu sản xuất, đã xác định người sở hữu
tư liệu sản xuất là người sở hữu sản phẩm lao động.
Quan hệ sở hữu khác nhau về liệu sản xuất đã làm cho những người sản xuất
độc lập, đối lập với nhau, nhưng tất cả họ lại nằm trong hệ thống phân công lao
động hội nên họ phụ thuộc lẫn nhau về sản xuất tiêu dùng. Trong điều
kiện đó, các chủ thể kinh tế muốn tiêu dùng sản phẩm của nhau họ phải thông
qua trao đổi, mua bán.
Đây là điều kiện đủ cho sự ra đời và tồn tại của sản xuất hàng hóa.
Sản xuất hàng hóa chỉ ra đời khi đồng thời hai điều kiện nói trên, nếu thiếu
một trong hai điều kiện ấy thì không có sản xuất hàng hóa và sản phẩm lao động
không mang hình thái hàng hóa.
Mâu thuẫn cơ bản và ưu thế của nền sản xuất hàng hóa.
chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, người sản xuất sản xuất cái gì, sản xuất
bao nhiêu việc riêng của Tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá
vừa lao động cụ thể vừa lao động trừu tượng quan hệ với tính chất
nhân tính chất hội của lao động sản xuất hàng hoá. Trong mỗi người,
không ai quyền can thiệp vào. Họ người sản xuất độc lập. Lao động sản
xuất của họ, do đó tính chất nhân lao động cụ thể của họ biểu hiện
của lao động nhân của họ. Đồng thời, lao động của người sản xuất hàng hoá
lại là lao động xã hội, là một bộ phận của toàn bộ lao động xã hội trong sự phân
công lao động hội. Sự phân công lao động hội tạo ra mối liên hệ gắn
những người sản xuất hàng hoá với nhau. Người này sản xuất ra để cho người
khác dùng, ngược lại, họ cần sản phẩm của người khác. Những người sản
xuất hàng hoá làm việc cho nhau, thông qua việc trao đổi hàng hoá nên phải quy
lại các loại lao động cụ thể thành lao động trừu tượng. Do đó lao động trừu
tượng biểu hiện của lao động hội.Trong nền sản xuất dựa trên chế độ
hữu, tính chất hội của người lao động, của người sản xuất hàng hoá thể
được xã hội chấp nhận và cũng có thể không được xã hội thừa nhận, không bán
được hàng hoá thì nghĩa không được hội thừa nhận. Tóm lại, một mặt
do có phân công lao động xã hội nên có trao đổi và có lao động xã hội; lao động
xã hội biểu hiện thành lao động trừu tượng và lao động trừu tượng tạo ra giá trị.
Mặt khác, do chế độ hữu nên lao động nhân; lao động tư nhân biểu
hiện thành lao động cụ thể,lao động cụ thể tạo ra giá trị sử dụng.Trong nền
sản xuất hàng hoá, giữa lao động nhân lao động hội mâu thuẫn với
nhau. Mâu thuẫn đó mâu thuẫn bản của nền sản xuất hàng hoá giản đơn.
Mâu thuẫn này biểu hiện ra khi:
Sản xuất của người sản xuất hàng hoá nhỏ và nhu cầu của xã hội không ăn khớp
với nhau
Hoặc sản xuất không đủ cung cấp cho hội, hoặc sản xuất vượt 4 quá
khả năng tiêu thụ của xã hội. Trong trường hợp sản xuất vượt quá khả năng tiêu
thụ của hội thì sẽ một số hàng hóa không bán được, tức không thực
hiện được giá trị. Sở tình hình đó do sản xuất dựa trên chế độ hữu
làm cho người sản xuất không thể biết được hội cần những cần bao
nhiêu.
Mức tiêu hao lao động biệt của người sản xuất hàng hóa không phù hợp với
mức tiêu hao lao động mà xã hội có thể chấp nhận được. Nếu tiêu hao quá mức,
hội không khả năng thanh toán, tất nhiên hàng hoá sẽ không bán được.
Mâu thuẫn giữa lao động nhân lao động hội chứa đựng khả năng sản
xuất "thừa" và là mầm mống của mọi mâu thuẫn của kinh tế hàng hoá trong tiến
trình phát triển của lịch sử.
Ưu thế
Một là, sự phát triển sản xuất hàng hóa làm cho phân công lao động
hội ngày càng sâu sắc, chuyên môn hóa, hợp tác hóa ngày càng tăng, mối liên
hệ giữa các ngành, các vùng ngày càng chặt chẽ. Từ đó, nó xóa tính tự cấp,
tự túc, bảo thủ, trì trệ của nền kinh tế, đẩy mạnh quá trình xã hội hóa sản xuất và
lao động.
Hai là, tính tách biệt về kinh tế đòi hỏi người sản xuất hàng hóa phải năng
động trong sản xuất - kinh doanh để sản xuất tiêu thụ hàng hóa. Muốn vậy,
họ phải ra sức cải tiến kỹ thuật, hợp hóa sản xuất, nâng cao chất lượng, cải
tiến quy trình, mẫu mã hàng hóa, tổ chức tốt quá trình tiêu thụ... Từ đó làm tăng
năng suất lao động xã hội, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.
Ba là, sản xuất hàng hóa quy lớn ưu thế so với sản xuất tự cấp tự
túc về quy mô, trình độ kỹ thuật, Công nghệ, về khả năng thỏa mãn nhu cầu...
vậy, sản xuất hàng hóa quy lớn hình thức tổ chức kinh tế hội hiện
đại phù hợp với xu thế thời đại ngày nay.
Bốn là, sản xuất hàng hóa là mô hình kinh tế mở, thúc đẩy giao lưu kinh
tế, giao lưu văn hóa, tạo điều kiện nâng cao, cải thiện đời sống vật chất và tinh
thần của xã hội.
Tuy nhiên, bên cạnh mặt tích cực như đã nêu trên, sản xuất hàng hóa
cũng có những mặt trái của nó như phân hóa giàu - nghèo giữa những người sản
xuất hàng hóa, tiềm ẩn những khả năng khủng hoảng kinh tế - hội, phá hoại
môi trường sinh thái, v.v..
1.2 Thị trường
Khái niệm:
Thị trường trong kinh tế học và kinh doanh,nơi người mua và người bán tiếp
xúc trực tiếp hoặc gián tiếp với nhau để trao đổi, mua bán hàng hóa và dịch vụ.
Phân loại:
Căn cứ vào quan hệ mua bán giữa các quốc gia, thị trường chia.
thành thị trường quốc nội và thị trường quốc tế: …
Căn cứ vào vai trò và vị thế của người mua và người bán trên thị
trường, thị trường chia thành thị trường người bán và thị trường người mua …
Các chủ thể tham gia thị trường: gồm có người mua, người bán, người môi giới
và chủ thể quản lí nhà nước đối với thị trường.
1.3 Cơ chế thị trường và Kinh tế thị trường
chế thị trường tổng thể các yếu tố cung, cầu, giá cả thị trường
cũng các mối quan hệ bản vận động dưới sự điều tiết của các quy luật thị
trường trong môi trường cạnh tranh nhằm mục tiêu duy nhất là lợi nhuận
Kinh tế thị trường hình kinh tế trong đó người mua người
bán tác động với nhau theo quy luật cung cầu, giá trị để xác định giá cả số
lượng hàng hóa và dịch vụ trên thị trường.
2. Vai trò và tác dụng của tiến trình đổi mới sang nền sản xuất hàng hóa.
2.1.Giai đoạn trước đổi mới 1986
Đặc điểm mô hình tổ chức kinh tế
Nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung:
lẽ chúng ta đều thấy rằng nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung nền
kinh tế trong đó việc giải quyết các vấn đề lớn của một nền kinh tế như sản xuất
cái gì? sản xuất cho ai?, sản xuất như thế nào?, sản xuất đâu? đều được
Nhà nước quyết định điều hành trực tiếp bằng kế hoạch pháp lệnh thông
qua kế hoạch pháp lệnh.
Đặc điểm của nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung:
Về vấn đề sở hữu: tồn tại hai hình thức sở hữu: sở hữu công (sở hữu toàn
dân) và sở hữu tập thể, Nhà nước không công nhận bất kỳ một hình thức sở hữu
nào khác hai hình thức sở hữu trên. Trong nền kinh tế chỉ tồn tại thành phần
kinh tế hợp tác kinh tế quốc doanh. Do nóng vội xây dựng hình thức sản
xuất hội chủ nghĩa. Chúng ta không ngừng thực hiện xây dựng, hình thành,
duy trì và củng cố hai hình thức sở hữu trên trong một thời gian tương đối dài…
Về cơ chế điều hành sản xuất: thực hiện cơ chế tập trung, việc xây dựng,
thực hiện các kế hoạch đều được quyết định một cách trực tiếp từ trên xuống
theo kiểu mệnh lệnh. Như vậy trong vấn đề sản xuất cái g ? không được thực
hiện thông qua việc thoả thuận giữa người mua người bán, người bán
(người sản xuất) trực tiếp quyết định, nghĩa thực hiện bán cái mình chứ
không bán cái người mua cần. (sự lựa chọn đa dạng của người mua không được
đáp ứng, không kích thích được nhu cầu tiêu dùng của con người phát triển),…
Dẫn đến tồn tại một sức ì lớn trong nền kinh tế.
Nhà nước không công nhận chế thị trường (thực hiện phân phối theo
tem phiếu, cấp phát…), dẫn đến thị trường không phát triển, thông tin thị trường
không chính xác (bị bóp méo)
Nhà nước nắm giữ mọi sở kinh tế, lập kế hoạch chỉ huy các hoạt động kinh
tế
Kết quả hạn chế của kinh tế:
Nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp đã bộc lộ những mặt hạn chế như:
Thủ tiêu cạnh tranh, kìm hãm sự phát triển của khoa học kỹ thuật. Triệt tiêu
động lực lao động, không kích thích tính năng động của các đơn vị sản xuất
kinh doanh. Bên cạnh đó, còn làm cho đội ngũ cán bộ công chức của các
quan hành chính nhà nước trở nên qun liêu, lộng quyền, hách dịch. Khi nền kinh
tế thế giới chuyển sang giai đoạn phát triển theo chiều sâu dựa trên sở ứng
dụng các thành tựu khoa học công nghệ hiện đại thì chế quản tập trung
quan liêu bao cấp càng bộc lộ những khiếm khuyết củalàm cho nền kinh tế
nhước ta lâm vào tình trạng khủng hoảng, trì trệ. Được thể hiện như kinh tế
tăng trưởng thấp và thực chất không có phát triển. Nếu tính chung từ năm 1976
đến 1985 tổng sản phẩm xã hội tăng 50,5%, bình quân hàng năm chỉ tăng ở mức
4,6%; thu nhập quốc dân tăng 38,8% bình quân hàng năm chỉ tăng 3,7%, trong
khi tỷ lệ dân số tăng trung bình hàng năm 2,3%; không tích luỹ từ nội bộ
nền kinh tế làm không đủ ăn, thu nhập quốc dân sản xuất chỉ bằng 80 - 90%
thu nhập quốc dân sử dụng; siêu lạm phát hoành hành. Suốt trong thời kỳ 1976-
1985 chỉ số giá bán lẻ hàng hóa năm sau so năm trước luôn tăng ở mức hai con
số giao động mức 19-92%. Năm 1986 lạm phát đạt đỉnh điểm với tốc độ
tăng giá 774,7% và đời sống nhân dân hết sức khó khăn, thiếu thốn
Mặt khác các loại thị trường lúc này cũng bộc lộ những hạn chế như
phủ định thị trường tự do kìm hãm sự phát triển nền kinh tế nước nhà cùng với
đó là hạn chế tiếp cận khoa học kĩ thuật bên ngoài. Nền kinh tế bao cấp gây ảnh
hưởng đến nền kinh tế, kìm hãm khả năng , động lực lao động sáng tạo , phụ
thuộc vào nền kinh tế nhà nước quá nhiều. Ngoài ra chúng còn vi phạm phạm
quy luật thị trường
2.2 Giai đoạn đổi mới sang nền sản xuất hàng hóa, từ 1986 về sau.
Đặc điểm mô hình tổ chức kinh tế:
hình kinh tế thị trường hội: hình này được thực hiện thành
công ở khá nhiều nước Tây - Bắc Âu, điển hình là Đức (quê hương của mô hình
kinh tế thị trường - hội), Thuỵ Điển, Na Uy Phần Lan. Xét theo tính chất
đặc trưng, mô hình này còn có mặt ở một số nước khác như Đan Mạch, Hà Lan,
Pháp và Bỉ với những mức độ khác nhau.
Về nguyên tắc, mô hình kinh tế thị trường - xã hội thừa nhận các yếu tố cơ bản
phổ biến của kinh tế thị trường. Tuy nhiên, so sánh với hình kinh tế thị
trường tự do, mô hình này có hai đặc trưng nổi bật.
Coi các mục tiêu xã hội và phát triển con người (công bằng xã hội, phúc lợi cho
người nghèocho người lao động, quyền tự do phát triển của mọi người dân,
v.v.) là mục tiêu của chính quá trình phát triển kinh tế thị trường;
Nhà nước dẫn dắt nền kinh tế thị trường phát triển không chỉ nhằm mục tiêu
tăng trưởng và hiệu quả kinh tế mà cả mục tiêu phát triển và hiệu quả xã hội.
Với những đặc trưng trên, tuy mô hình kinh tế thị trường - xã hội một
biến thể của nền kinh tế TBCN, song nó phản ánh một xu thế tất yếu của sự phát
triển. Đó là: đến một trình độ phát triển nhất định, trong những điều kiện cụ thể,
tự kinh tế thị trường không thể giải quyết hiệu quả tất cả các vấn đề phát
triển, nhất là các mục tiêu phát triển xã hội và con người.
Mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN: Loại mô hình kinh tế thị
trường này hiện đang được thực thi chỉ hai nước (Việt Nam - kinh tế thị
trường định hướng XHCN; Trung Quốc - kinh tế thị trường XHCN). Đặc
trưng của nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa
Là nền , vừa vận hành theo cơ chế thị trường, vừa có sự điều tiếtkinh tế hỗn hợp
của nhà nước.
Là nền kinh tế đa dạng các hình thức sở hữu và đa dạng các thành phần kinh tế,
trong đó khu vực kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Đất đai thuộc sở hữu
toàn dân.
Việc phân phối được thực hiện chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế,
đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và phân phối thông
qua hệ thống , .an sinh xã hội phúc lợi xã hội
Là nền kinh tế thị trường do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam quản lý, điều tiết vì mục tiêu “dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế
Từ khi chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa , loại thị
trường mang nhiều điểm tích cực
Thúc đẩy kinh tế tăng trưởng : Trong suốt 30 năm qua, kinh tế Việt Nam
đã đạt tốc độ tăng trưởng khá cao. Giai đoạn đầu Đổi mới (1986-1990), mức
tăng trưởng GDP bình quân hàng năm đạt 4,4%/năm, giai đoạn 1991-1995 GDP
bình quân tăng 8,2%/năm; giai đoạn 1996-2000 GDP bình quân tăng 7,6%/năm;
giai đoạn 2001-2005 GDP tăng bình quân 7,34%/năm; giai đoạn 2006-2010, do
suy giảm kinh tế thế giới, Việt Nam vẫn đạt tốc độ tăng trưởng GDP bình quân
6,32%/năm. Giai đoạn 2011-2015, GDP của Việt Nam tăng chậm lại nhưng vẫn
đạt 5,9%/năm, mức cao của khu vựcthế giới. Về Quy mô nền kinh tế thì
tăng nhanh: GDP bình quân đầu người năm 1991 chỉ là 188 USD/năm. Đến năm
2003, GDP bình quân đầu người đạt 471 USD/năm đến năm 2015, quy
nền kinh tế đạt khoảng 204 tỷ USD, GDP đầu người đạt gần 2.200 USD/năm.
Lực lượng sản xuất nhiều tiến bộ cả về số lượng chất lượng. Từ đó đời
sống hội cũng tốt hơn,tỷ lệ nghèo đói giảm từ 58% năm 1992 xuống còn
7,6% cuối năm 2013
.
Thúc đẩy sự phát triển của thị trường: hội nhập kinh tế mở rộng thị
trường, phát triển đa dạng các ngành hàng, phát triển đồng bộ các thị trường tài
chính - thị trường đầu tư - thị trường hàng hóa dịch vụ. Kim ngạch ngoại thương
năm 1991 5.156,4 triệu USD, trong đó xuất khẩu 2.087,1 triệu USD, đến
năm 2016 các con số tương ứng là 333 tỷ USD và 167,83 tỷ USD, tăng 60,4 lần
và 80,4 lần so với năm 1991.Trong 30 năm, Việt Nam thu hút được 310 tỷ USD
của các nhà đầu tư nước ngoài, nguồn vốn này đã góp phần lớn làm tăng trưởng
nền kinh tế.Việt Nam đã ký kết 11 Hiệp định thương mại tự do khu vực và song
phương; đang tích cực đàm phán ba hiệp định khác. (ASEAN - Hồng Công;
EFTA; RCEP). Hiện nay Việt Nam quan hệ ngoại giao với 176 quốc gia,
quan hệ kinh tế thương mại với trên 200 quốc gia vùng lãnh thổ, trong đó
khoảng 80 quốc gia vùng lãnh thổ đầu trực tiếp vào nước ta... Chưa bao
giờ mối quan hệ ngoại giao và kinh tế của Việt Nam lại phát triển sâu rộng và đa
dạng như ngày nay.
3. Một số khuyến nghị nhằm phát huy vai trò của nền sản xuất hàng hóa.
3.1 Mục tiêu.
Xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN:
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là tên gọi mà Đảng Cộng
sản Việt Nam Đổi Mới đặt ra cho mô. Đây là sản phẩm của thời kỳ , thay thế nền
kinh tế kế hoạch kinh tế hỗn hợp bằng nền hoạt động theo chế thị trường.
Những thay đổi này giúp Việt Nam hội nhập với nền kinh tế toàn cầu. Cụm từ
"định hướng xã hội chủ nghĩa" mang ý hình kinh tế hiện tại của nước Cộng hòa
Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam kinh tế thị trường. Nó được mô tả là một nền nhiều
thành phần, trong đó khu vực tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, với mục tiêu dài
hạn là xây dựng . nghĩa là Việt Nam chưa đạt đến chủ nghĩa xãchủ nghĩa xã hội
hội đang trong giai đoạn xây dựng nền tảng cho một hệ thống hội chủ
nghĩa trong tương lai. Kinh tế thị trường định hướng XHCN kiểu tổ chức
kinh tế đặc biệt, vừa tuân theo những nguyên tắc và quy luật của hệ thống kinh
tế thị trường, vừa bảo đảm tính định hướng XHCN theo những nguyên tắc
quy luật của hệ thống kinh tế thị trường, vừa bảo đảm tính định hướng XHCN.
Chính tính chất, đặc trưng cơ bản này chi phối và quyết định phương tiện, công
cụ, động lực của nền kinh tế con đường đạt tới mục tiêu sử dụng kinh tế
thị trường, đồng thời với nâng cao hiệu lực hiệu quả điều tiết của Nhà nước
XHCN, gắn với việc phát huy các nguồn lực hội, vai trò của hội, nhằm
thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa phát triển rút ngắn để sớm
đưa Việt Nam trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Nền kinh tế độc lập tự chủ, hội “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh gắn liền với đảm bảo an ninh quốc gia
Tính định hướng XHCN trong phát triển kinh tế - hội quy định phát
triển kinh tế thị trường ở nước ta nhằm “xây dựng là một xã hội: Dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ;nền kinh tế phát
triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu
sản xuất chủ yếu”.Không thể làm cho “dân giàu, nước mạnh” nếu không có tăng
trưởng kinh tế trên cơ sở đẩy mạnh CNH, HĐH. Không thể có tăng trưởng kinh
tế nếu không phát triển và quản lý có hiệu quả nền kinh tế thị trường. Chỉ có sức
mạnh của nền kinh tế thị trường hỗn hợp nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành
phần mới là sở kinh tế của sự phát triển theo định hướng XHCN chứ không
phải chỉ duy nhất kinh tế quốc doanh như thời lầm tưởng. Đi liền với xây
dựng một nền kinh tế độc lập tự chủ là đảm bảo đảm an ninh quốc gia dân tộc.
Giữ vững độc lập chủ quyền, cảnh giác trước âm mưu chống phá của các thế lực
thù địch trong bối cảnh hiện nay.
3.2 .Một số khuyến nghị nhằm phát huy vai trò của nền sản xuất hàng hóa
Đối với nhà nước:
=t là, nhận thức quá trình xây dựng hoàn thiện nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN ở Việt Nam là không đơn giản, đó là quá trình lâu dài và trải
qua nhiều giai đoạn, vừa tìm tòi, phát triển không ngừng trong nhận thức
luận, vừa phải linh hoạt, sáng tạo trong thực tiễn, ứng phó tốt trước khó khăn,
thách thức, đòi hỏi sự quyết tâm đồng lòng của toàn Đảng, toàn dân. Phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN nước ta hiện nay một lựa
chọn tất yếu và không có cách lựa chọn khác để đi lên CNXH.
Hai là, nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam chínhnền kinh
tế thị trường hiện đại, đó sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Điều
này nghĩa những yếu tố thị trường của nền kinh tế thị trường hiện đại thì
đều được phát huy và phát triển ở mức cao như tính tích cực của nền kinh tế thị
trường, năng động và hiệu quả, đồng thời, nền kinh tế thị trường cần có sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam để hạn chế các mặt trái tiêu cực của nền kinh
tế thị trường, cũng như những tác động làm cho các quan hệ kinh tế thay đổi về
cách thức và phương thức mới theo hướng phát triển tốt hơn, hiệu quả hơn.
Ba là, để một nền kinh tế thị trường định hướng XHCN phát triển, đòi hỏi
phải môi trường công khai, minh bạch, bộ máy nhà nước tinh gọn, đủ
năng lực điều hành và quản lý nền kinh tế, đưa nền kinh tế đạt được tốc độ tăng
trưởng cao, chất lượng và hiệu quả, giải quyết tốt những vấn đề xã hội, bảo đảm
nền kinh tế phát triển bền vững một cách thật sự.
Bốn là, để nền kinh tế thị trường định hướng XHCN phát triển, cần tạo lập một
môi trường kinh doanh thông thoáng, hòa nhập với thị trường thế giới. Nền kinh
tế thị trường không có sự phân biệt đối xử đối với các đối tượng và chủ thể trên
thị trường. Và để đạt được điều đó, thì kinh tế nhà nước kinh tế hợp tác cần
được xem như mọi thành phần kinh tế khác, được đối xử bình đẳng, không
sự ưu tiên hay phân biệt. Các khu vực kinh tế đều là bộ phận hợp thành của nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN, hoạt động bình đẳng, đúng pháp luật,
được luật pháp bảo vệ và khuyến khích phát triển như nhau.
Năm là, nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam được định hướng
theo đuổi mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”; huy
động sức mạnh của mọi thành phần kinh tế cũng như của toàn hội cho tăng
trưởng kinh tế, từng bước nâng cao đời sống cho đại bộ phận nhân dân. Tuy
nhiên, việc thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế không phải bằng mọi giá, nóng
vội phải được cân nhắc tính toán cho phù hợp với điều kiện đất nước theo
hướng phát triển nhanh, hiệu quả bền vững; gắn mục tiêu tăng trưởng kinh
tế với bảo đảm độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, bảo vệ môi trường... Tăng
trưởng kinh tế phải gắn với tiến bộ, công bằng hội trong từng bước, từng
chính sách phát triển nhằm đảo bảo công bằng về hội phát triển cho mọi
thành viên trong cộng đồng được thụ hưởng lợi ích chính đáng, công bằng từ
những kết quả lao động và cống hiến xã hội của mình và "không mô Št ai bị bỏ lại
phía sau”…
Đối với doanh nghiệp:
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế , để phát huy được vai trò của nền sản
xuất hàng hóa các doanh nghiệp cần tận dụng mọi tiếp thu các thành tựu khoa
học công nghệ để tăng được năng suất lao động tạo nên sản phẩm chất lượng tốt
để cạnh tranh với thị trường trong ngoài nước. Bên cạnh đó , các doanh
nghiệp nên mở rộng hợp tác đầu nước ngoài để mở rộng thị trường . Hơn
hết , các doanh nghiệp cần phải tuân thủ các quy định của pháp luật trong kinh
doanh, thực hiện những chủ trương chính sách của nhà nước nhằm tạo nên thị
trường kinh doanh lành mạnh, hợp tác cùng phát triển,
Đối với người lao động:
Đối với người lao động cần tuân thủ những đường lối chủ trương chính
sách pháp luật của nhà nước. Cần nâng cao nhận thức, trình độ để hội nhập với
nền kinh tế thị trường . Chất lượng lao động sẽ là nhân tố thúc đẩy một nền kinh
tế . Chính vì vậy mỗi người lao động cần nâng cao tác phong nghề nghiệp trong
thời kỳ mới: tích cực, năng động, sáng tạo để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài.
hơn hết mở rộng nền sản xuất, thị trường nước nhà. Nêu cao tinh thần
cảnh giác trước sự chống phá của các thế lực thù địch trong thời kỳ mới.
PHẦN KẾT THÚC
Sau hơn 30 năm thực hiện quá trình Đổi mới với mục tiêu Công nghiệp
hóa, Hiện đại hóa đất nước. Việt Nam đã đã đạt được những thành tựu nhất định
về tăng trưởng kinh tế. Qua đây , ta thấy được sự đúng đắn trong đường lối lãnh
đạo của Đảng khi chuyển từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền
kinh tế thị trường định hướng hội Chủ nghĩa. Nền kinh tế thị trường vai
trò cùng to lớn như thúc đẩy nền kinh tế phát triển, đẩy trình CNH, HĐH,
mở rộng thị trường kinh tế, bên cạnh đó còn góp phần nâng cao đời sống vật
chất tinh thần của người dân.. Đây một tín hiệu đáng mừng, thôi thúc Đảng
Nhà nước tiếp tục đổi mới và hoàn thiện đường lối , chủ trương chính sách
về xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN sao cho phù hợp với bối
cảnh ngày nay. Khi hội nhập kinh tế quốc tế, nước ta cần tích cực chủ động
mở rộng quan hệ hợp tác, tiếp thu hiệu quả các thành tựu khoa học để tăng năng
suất lao động, tạo ra những sản phẩm cạnh tranh được với thị trường thế giới.
Hơn nữa, mỗi người nâng cao tinh thần cảnh giác trước các thế lực ý định
chống phá Đảng và Nhà nước cùng nhà nước thực hiện các mục tiêu kinh tế
đề ra trong giai đoạn mới.
PHÂN CÔNG NHIỆM VỤ
Phần 1: Khái quát lý luận về nền sản xuất hàng hóa thị trường
Tìm kiếm tài liệu, sắp xếp bố cục: Trần Công Đoàn, Ngô Văn Bách
Phần 2: Vai trò và tác động của tiến trình đổi mới sang nền sản xuất hàng hóa
Tìm kiếm tài liệu, Trình bày bài luận: Lê Quốc Thắng, Trần Công Dương
Phần 3: Một số khuyến nghị nhằm phát huy vai trò của nền sản xuất hàng hóa
Tìm kiếm tài liệu, sắp xếp bố cục, thiết kế bìa: Nguyễn Minh Quang
Trần Công Dương
Tài liệu tham khảo
1.Vận dụng chủ nghĩa Mác Lênin trong phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN ở Việt Nam của Thạc sĩ Nguyễn Thị Phương Dung, Khoa Lý luận
Chính trị, Đại học Bách khoa Hà Nội.
(https://bit.ly/3l2MAS5 )
2. Đổi mới
( )https://bit.ly/32hQMGm
3.Kinh tế thị trường định hướng XHCN
( https://bit.ly/3l2y78Z )
4. Vài nét về kinh tế - xã hội Việt Nam trên Cổng thông tin Chính phủ nước CH
( https://bit.ly/2I81Q1O )
| 1/18

Preview text:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ NỘI
---KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ---
----------
TIỂU LUẬN MÔN KINH TẾ CHÍNH TRỊ
Đề tài: Vai trò của nền sản phẩm hàng hóa trong sự tăng trưởng
kinh tế và phát triển đồng bộ các loại thị trường
Giảng viên hướng dẫn: Trần Thị Lan Hương
Sinh viên thực hiện: 1. Trần Công Dương 20206829 2. Ngô Văn Bách 20206791 3. Lê Quốc Thắng 20206931 4. Trần Công Đoàn 20206812 5. Nguyễn Minh Quang 20203757 Lớp: 123608 Hà Nội, tháng 05 năm 2021 Mục lục Phần mở đầu Phần nội dung
Phần 1: Khái quát lý luận về nền sản xuất hàng hóa thị trường
1.1. Nền sản xuất hàng hóa 1.2. Thị Trường
1.3. Cơ chế thị trường và kinh tế thị trường
Phần 2: Vai trò và tác động của tiến trình đổi mới sang nền sản xuất hàng hóa
2.1 Giai đoạn trước đổi mới 1986
2.2 Giai đoạn sau đổi mới sang nền sản xuất hàng hóa, từ 1986 về sau
Phần 3: Một số khuyến nghị nhằm phát huy vai trò của nền sản xuất hàng hóa 3.1 Mục tiêu 3.2 Khuyến nghị Phần kết luận ĐỀ TÀI
VAI TRÒ CỦA NỀN SẢN XUẤT HÀNG HÓA
TRONG SỰ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VÀ PHÁT
TRIỂN ĐỒNG BỘ CÁC LOẠI THỊ TRƯỜNG
PHẦN MỞ ĐẦU 1.
Sự cần thiết của đề tài
Trong thời kỳ đầu của xã hội loài người do sự lạc hậu của lực lượng sản
xuất nên sản xuất xã hội mang tính tự cung tự cấp khiến nhu cầu của con người
bị bó hẹp trong một phạm vi, giới hạn nhất định. Khi lực lượng sản xuất phát
triển và có nhiều thành tựu mới, con người dần thoát khỏi nền kinh tế tự nhiên
và chuyển sang nền kinh tế hàng hóa. Nền kinh tế sản xuất càng phát triển mạnh
mẽ và đến đỉnh cao của nó là nền kinh tế thị trường. Sản xuất hàng hóa là một
bộ phận của kinh tế quốc tế, là tổng thể của các quan hệ kinh tế, khoa học, kỹ
thuật, công nghệ được thực hiện dưới nhiều hình thức, hình thành và phát triển
trên cơ sở phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động quốc tế.
Trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, sản xuất hàng hóa được
ví như một mắt xích quan trọng trong guồng máy của nền kinh tế, đóng vai trò
quan trọng, nhất là trong xu thế hội nhập và phát triển hiện nay, không những
góp phần đắc lực vào quá trình thúc đẩy toàn bộ nền kinh tế phát triển mà còn
mở rộng quan hệ giao lưu hợp tác quốc tế cả về các lĩnh vực khác. Sản xuất
hàng hóa là một quá trình tạo ra sản phẩm nhằm đáp ứng và làm thỏa mãn nhu
cầu nào đó của con người. Trong thời đại nền kinh tế mở và cạnh tranh như hiện
nay, mỗi quốc gia phải nghiên cứu tìm ra hướng đi đúng đắn cho nền kinh tế,
phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh đất nước,phù hợp với khu vực thế giới và thời
đại. Chính vì vậy, việc nghiên cứu về điều kiện ra đời, đặc trưng ưu thế của sản
xuất hàng hóa là vô cùng quan trong trọng , từ đó ta có thể liên hệ với nước ta
và làm cho quá trình sản xuất ở nước ta ngày càng phát triển. 2.
Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là vai trò của nền sản xuất hàng hóa 3. Phạm vi nghiên cứu
Về mặt thời gian: giai đoạn hiện nay
Về mặt không gian: trong cả nước 4.
Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp phân tích đánh giá, tổng hợp hợp lý thuyết, phương pháp phân
loại, phương pháp lịch sử, … 5.
Giới thiệu nội dung nghiên cứu
Phần 1: Khái quát lý luận về nền sản xuất hàng hóa thị trường
Phần 2: Vai trò và tác động của tiến trình đổi mới sang nền sản xuất hàng hóa
Phần 3: Một số khuyến nghị nhằm phát huy vai trò của nền sản xuất hàng hóa PHẦN NỘI DUNG
1. Khái quát lý luận về nền sản xuất hàng hóa và thị trường.
1.1. Nền sản xuất hàng hoá
Sản xuất hàng hóa là một khái niệm dùng để chỉ về kiểu tổ chức kinh tế
trong đó sản phẩm được sản xuất ra không phải để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng
của chính người trực tiếp sản xuất ra nó mà là để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của
người khác, thông qua việc trao đổi mua bán.
Hay nói cách khác, sản xuất hàng hóa là kiểu tổ chức kinh tế mà sản phẩm sản xuất ra là để bán.
Điều kiện ra đời và tồn tại của sản xuất hàng hóa
Thứ nhất, phân công lao động xã hội:
Phân công lao động xã hội là sự phân chia lao động xã hội một cách tự phát
thành các ngành, nghề khác nhau.
Phân công lao động xã hội tạo ra sự chuyên môn hoá lao động, do đó dẫn đến
chuyên môn hoá sản xuất. Do phân công lao động xã hội nên mỗi người sản
xuất sẽ làm một công việc cụ thể, vì vậy họ chỉ tạo ra một hoặc một vài loại sản
phẩm nhất định. Song cuộc sống của mỗi người lại cần đến rất nhiều loại sản
phẩm khác nhau. Để thoả mãn nhu cầu, đòi hỏi họ phải có mối liên hệ phụ
thuộc vào nhau, phải trao đổi sản phẩm cho nhau. Như vậy, phân công lao động
xã hội là cơ sở, là tiền đề của sản xuất hàng hoá.
Tuy nhiên, phân công lao động xã hội mới chỉ là điều kiện thứ nhất chưa đủ để
sản xuất hàng hoá ra đời và tồn tại. C. Mác đã chứng minh rằng, trong công xã
thị tộc Ấn Độ thời cổ đã có sự phân công lao động khá chi tiết, những sản phẩm
của lao động chưa trở thành hàng hoá bởi vì tư liệu sản xuất là của chung nên
sản phẩm của từng nhóm sản xuất chuyên môn hoá cũng là của chung, công xã
phân phối trực tiếp cho từng thành viên để thoả mãn nhu cầu. Ở đây không hình
thành quan hệ trao đổi, do đó chưa đủ điều kiện để ra đời và tồn tại của sản xuất hàng hóa.
Vì vậy, phân công lao động xã hội mới chỉ là điều kiện cần, muốn sản xuất hàng
hoá ra đời và tồn tại phải có điều kiện thứ hai.
Thứ hai, sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế của những người sản xuất:
Sự tách biệt này do sự tồn tại các quan hệ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất,
mà khởi thuỷ là chế độ tư hữu nhỏ về tư liệu sản xuất, đã xác định người sở hữu
tư liệu sản xuất là người sở hữu sản phẩm lao động.
Quan hệ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất đã làm cho những người sản xuất
độc lập, đối lập với nhau, nhưng tất cả họ lại nằm trong hệ thống phân công lao
động xã hội nên họ phụ thuộc lẫn nhau về sản xuất và tiêu dùng. Trong điều
kiện đó, các chủ thể kinh tế muốn tiêu dùng sản phẩm của nhau họ phải thông qua trao đổi, mua bán.
Đây là điều kiện đủ cho sự ra đời và tồn tại của sản xuất hàng hóa.
Sản xuất hàng hóa chỉ ra đời khi có đồng thời hai điều kiện nói trên, nếu thiếu
một trong hai điều kiện ấy thì không có sản xuất hàng hóa và sản phẩm lao động
không mang hình thái hàng hóa.
Mâu thuẫn cơ bản và ưu thế của nền sản xuất hàng hóa.
chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, người sản xuất sản xuất cái gì, sản xuất
bao nhiêu là việc riêng của Tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá
vừa là lao động cụ thể vừa là lao động trừu tượng có quan hệ với tính chất tư
nhân và tính chất xã hội của lao động sản xuất hàng hoá. Trong mỗi người,
không ai có quyền can thiệp vào. Họ là người sản xuất độc lập. Lao động sản
xuất của họ, do đó có tính chất tư nhân và lao động cụ thể của họ là biểu hiện
của lao động tư nhân của họ. Đồng thời, lao động của người sản xuất hàng hoá
lại là lao động xã hội, là một bộ phận của toàn bộ lao động xã hội trong sự phân
công lao động xã hội. Sự phân công lao động xã hội tạo ra mối liên hệ gắn bó
những người sản xuất hàng hoá với nhau. Người này sản xuất ra để cho người
khác dùng, và ngược lại, họ cần sản phẩm của người khác. Những người sản
xuất hàng hoá làm việc cho nhau, thông qua việc trao đổi hàng hoá nên phải quy
lại các loại lao động cụ thể thành lao động trừu tượng. Do đó lao động trừu
tượng là biểu hiện của lao động xã hội.Trong nền sản xuất dựa trên chế độ tư
hữu, tính chất xã hội của người lao động, của người sản xuất hàng hoá có thể
được xã hội chấp nhận và cũng có thể không được xã hội thừa nhận, không bán
được hàng hoá thì có nghĩa là không được xã hội thừa nhận. Tóm lại, một mặt
do có phân công lao động xã hội nên có trao đổi và có lao động xã hội; lao động
xã hội biểu hiện thành lao động trừu tượng và lao động trừu tượng tạo ra giá trị.
Mặt khác, do có chế độ tư hữu nên có lao động tư nhân; lao động tư nhân biểu
hiện thành lao động cụ thể, và lao động cụ thể tạo ra giá trị sử dụng.Trong nền
sản xuất hàng hoá, giữa lao động tư nhân và lao động xã hội có mâu thuẫn với
nhau. Mâu thuẫn đó là mâu thuẫn cơ bản của nền sản xuất hàng hoá giản đơn.
Mâu thuẫn này biểu hiện ra khi:
Sản xuất của người sản xuất hàng hoá nhỏ và nhu cầu của xã hội không ăn khớp với nhau
Hoặc sản xuất không đủ cung cấp cho xã hội, hoặc sản xuất vượt 4 quá
khả năng tiêu thụ của xã hội. Trong trường hợp sản xuất vượt quá khả năng tiêu
thụ của xã hội thì sẽ có một số hàng hóa không bán được, tức là không thực
hiện được giá trị. Sở dĩ có tình hình đó là do sản xuất dựa trên chế độ tư hữu
làm cho người sản xuất không thể biết được xã hội cần những gì và cần bao nhiêu.
Mức tiêu hao lao động cá biệt của người sản xuất hàng hóa không phù hợp với
mức tiêu hao lao động mà xã hội có thể chấp nhận được. Nếu tiêu hao quá mức,
xã hội không có khả năng thanh toán, tất nhiên hàng hoá sẽ không bán được.
Mâu thuẫn giữa lao động tư nhân và lao động xã hội chứa đựng khả năng sản
xuất "thừa" và là mầm mống của mọi mâu thuẫn của kinh tế hàng hoá trong tiến
trình phát triển của lịch sử. Ưu thế
Một là, sự phát triển sản xuất hàng hóa làm cho phân công lao động xã
hội ngày càng sâu sắc, chuyên môn hóa, hợp tác hóa ngày càng tăng, mối liên
hệ giữa các ngành, các vùng ngày càng chặt chẽ. Từ đó, nó xóa bó tính tự cấp,
tự túc, bảo thủ, trì trệ của nền kinh tế, đẩy mạnh quá trình xã hội hóa sản xuất và lao động.
Hai là, tính tách biệt về kinh tế đòi hỏi người sản xuất hàng hóa phải năng
động trong sản xuất - kinh doanh để sản xuất và tiêu thụ hàng hóa. Muốn vậy,
họ phải ra sức cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất, nâng cao chất lượng, cải
tiến quy trình, mẫu mã hàng hóa, tổ chức tốt quá trình tiêu thụ... Từ đó làm tăng
năng suất lao động xã hội, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.
Ba là, sản xuất hàng hóa quy mô lớn có ưu thế so với sản xuất tự cấp tự
túc về quy mô, trình độ kỹ thuật, Công nghệ, về khả năng thỏa mãn nhu cầu...
Vì vậy, sản xuất hàng hóa quy mô lớn là hình thức tổ chức kinh tế xã hội hiện
đại phù hợp với xu thế thời đại ngày nay.
Bốn là, sản xuất hàng hóa là mô hình kinh tế mở, thúc đẩy giao lưu kinh
tế, giao lưu văn hóa, tạo điều kiện nâng cao, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của xã hội.
Tuy nhiên, bên cạnh mặt tích cực như đã nêu trên, sản xuất hàng hóa
cũng có những mặt trái của nó như phân hóa giàu - nghèo giữa những người sản
xuất hàng hóa, tiềm ẩn những khả năng khủng hoảng kinh tế - xã hội, phá hoại
môi trường sinh thái, v.v.. 1.2 Thị trường Khái niệm:
Thị trường trong kinh tế học và kinh doanh, là nơi người mua và người bán tiếp
xúc trực tiếp hoặc gián tiếp với nhau để trao đổi, mua bán hàng hóa và dịch vụ. Phân loại:
Căn cứ vào quan hệ mua bán giữa các quốc gia, thị trường chia.
thành thị trường quốc nội và thị trường quốc tế: …
Căn cứ vào vai trò và vị thế của người mua và người bán trên thị
trường, thị trường chia thành thị trường người bán và thị trường người mua …
Các chủ thể tham gia thị trường: gồm có người mua, người bán, người môi giới
và chủ thể quản lí nhà nước đối với thị trường.
1.3 Cơ chế thị trường và Kinh tế thị trường
Cơ chế thị trường là tổng thể các yếu tố cung, cầu, giá cả và thị trường
cũng các mối quan hệ cơ bản vận động dưới sự điều tiết của các quy luật thị
trường trong môi trường cạnh tranh nhằm mục tiêu duy nhất là lợi nhuận
Kinh tế thị trường là mô hình kinh tế mà trong đó người mua và người
bán tác động với nhau theo quy luật cung cầu, giá trị để xác định giá cả và số
lượng hàng hóa và dịch vụ trên thị trường.
2. Vai trò và tác dụng của tiến trình đổi mới sang nền sản xuất hàng hóa.
2.1.Giai đoạn trước đổi mới 1986
Đặc điểm mô hình tổ chức kinh tế
Nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung:
Có lẽ chúng ta đều thấy rằng nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung là nền
kinh tế trong đó việc giải quyết các vấn đề lớn của một nền kinh tế như sản xuất
cái gì? sản xuất cho ai?, sản xuất như thế nào?, và sản xuất ở đâu? đều được
Nhà nước quyết định và điều hành trực tiếp bằng kế hoạch pháp lệnh và thông qua kế hoạch pháp lệnh.
Đặc điểm của nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung:
Về vấn đề sở hữu: tồn tại hai hình thức sở hữu: sở hữu công (sở hữu toàn
dân) và sở hữu tập thể, Nhà nước không công nhận bất kỳ một hình thức sở hữu
nào khác hai hình thức sở hữu trên. Trong nền kinh tế chỉ tồn tại thành phần
kinh tế hợp tác xã và kinh tế quốc doanh. Do nóng vội xây dựng hình thức sản
xuất Xã hội chủ nghĩa. Chúng ta không ngừng thực hiện xây dựng, hình thành,
duy trì và củng cố hai hình thức sở hữu trên trong một thời gian tương đối dài…
Về cơ chế điều hành sản xuất: thực hiện cơ chế tập trung, việc xây dựng,
thực hiện các kế hoạch đều được quyết định một cách trực tiếp từ trên xuống
theo kiểu mệnh lệnh. Như vậy trong vấn đề sản xuất cái g ? không được thực
hiện thông qua việc thoả thuận giữa người mua và người bán, mà người bán
(người sản xuất) trực tiếp quyết định, nghĩa là thực hiện bán cái mình có chứ
không bán cái người mua cần. (sự lựa chọn đa dạng của người mua không được
đáp ứng, không kích thích được nhu cầu tiêu dùng của con người phát triển),…
Dẫn đến tồn tại một sức ì lớn trong nền kinh tế.
Nhà nước không công nhận cơ chế thị trường (thực hiện phân phối theo
tem phiếu, cấp phát…), dẫn đến thị trường không phát triển, thông tin thị trường
không chính xác (bị bóp méo)
Nhà nước nắm giữ mọi cơ sở kinh tế, lập kế hoạch chỉ huy các hoạt động kinh tế
Kết quả hạn chế của kinh tế:
Nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp đã bộc lộ những mặt hạn chế như:
Thủ tiêu cạnh tranh, kìm hãm sự phát triển của khoa học kỹ thuật. Triệt tiêu
động lực lao động, không kích thích tính năng động của các đơn vị sản xuất
kinh doanh. Bên cạnh đó, còn làm cho đội ngũ cán bộ công chức của các cơ
quan hành chính nhà nước trở nên qun liêu, lộng quyền, hách dịch. Khi nền kinh
tế thế giới chuyển sang giai đoạn phát triển theo chiều sâu dựa trên cơ sở ứng
dụng các thành tựu khoa học công nghệ hiện đại thì cơ chế quản lý tập trung
quan liêu bao cấp càng bộc lộ những khiếm khuyết của nó làm cho nền kinh tế
nhước ta lâm vào tình trạng khủng hoảng, trì trệ. Được thể hiện rõ như kinh tế
tăng trưởng thấp và thực chất không có phát triển. Nếu tính chung từ năm 1976
đến 1985 tổng sản phẩm xã hội tăng 50,5%, bình quân hàng năm chỉ tăng ở mức
4,6%; thu nhập quốc dân tăng 38,8% bình quân hàng năm chỉ tăng 3,7%, trong
khi tỷ lệ dân số tăng trung bình hàng năm 2,3%; không có tích luỹ từ nội bộ
nền kinh tế vì làm không đủ ăn, thu nhập quốc dân sản xuất chỉ bằng 80 - 90%
thu nhập quốc dân sử dụng; siêu lạm phát hoành hành. Suốt trong thời kỳ 1976-
1985 chỉ số giá bán lẻ hàng hóa năm sau so năm trước luôn tăng ở mức hai con
số và giao động ở mức 19-92%. Năm 1986 lạm phát đạt đỉnh điểm với tốc độ
tăng giá 774,7% và đời sống nhân dân hết sức khó khăn, thiếu thốn
Mặt khác các loại thị trường lúc này cũng bộc lộ những hạn chế như nó
phủ định thị trường tự do kìm hãm sự phát triển nền kinh tế nước nhà cùng với
đó là hạn chế tiếp cận khoa học kĩ thuật bên ngoài. Nền kinh tế bao cấp gây ảnh
hưởng đến nền kinh tế, kìm hãm khả năng , động lực lao động sáng tạo , phụ
thuộc vào nền kinh tế nhà nước quá nhiều. Ngoài ra chúng còn vi phạm phạm quy luật thị trường
2.2 Giai đoạn đổi mới sang nền sản xuất hàng hóa, từ 1986 về sau.
Đặc điểm mô hình tổ chức kinh tế:
Mô hình kinh tế thị trường – xã hội: Mô hình này được thực hiện thành
công ở khá nhiều nước Tây - Bắc Âu, điển hình là Đức (quê hương của mô hình
kinh tế thị trường - xã hội), Thuỵ Điển, Na Uy và Phần Lan. Xét theo tính chất
đặc trưng, mô hình này còn có mặt ở một số nước khác như Đan Mạch, Hà Lan,
Pháp và Bỉ với những mức độ khác nhau.
Về nguyên tắc, mô hình kinh tế thị trường - xã hội thừa nhận các yếu tố cơ bản
phổ biến của kinh tế thị trường. Tuy nhiên, so sánh với mô hình kinh tế thị
trường tự do, mô hình này có hai đặc trưng nổi bật.
Coi các mục tiêu xã hội và phát triển con người (công bằng xã hội, phúc lợi cho
người nghèo và cho người lao động, quyền tự do phát triển của mọi người dân,
v.v.) là mục tiêu của chính quá trình phát triển kinh tế thị trường;
Nhà nước dẫn dắt nền kinh tế thị trường phát triển không chỉ nhằm mục tiêu
tăng trưởng và hiệu quả kinh tế mà cả mục tiêu phát triển và hiệu quả xã hội.
Với những đặc trưng trên, tuy mô hình kinh tế thị trường - xã hội là một
biến thể của nền kinh tế TBCN, song nó phản ánh một xu thế tất yếu của sự phát
triển. Đó là: đến một trình độ phát triển nhất định, trong những điều kiện cụ thể,
tự kinh tế thị trường không thể giải quyết có hiệu quả tất cả các vấn đề phát
triển, nhất là các mục tiêu phát triển xã hội và con người.
Mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN: Loại mô hình kinh tế thị
trường này hiện đang được thực thi chỉ ở hai nước (Việt Nam - kinh tế thị
trường định hướng XHCN; và Trung Quốc - kinh tế thị trường XHCN). Đặc
trưng của nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa
Là nền kinh tế hỗn hợp, vừa vận hành theo cơ chế thị trường, vừa có sự điều tiết của nhà nước.
Là nền kinh tế đa dạng các hình thức sở hữu và đa dạng các thành phần kinh tế,
trong đó khu vực kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Đất đai thuộc sở hữu toàn dân.
Việc phân phối được thực hiện chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế,
đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và phân phối thông
qua hệ thống an sinh xã hội, . phúc lợi xã hội
Là nền kinh tế thị trường do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam quản lý, điều tiết vì mục tiêu “dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế
Từ khi chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa , loại thị
trường mang nhiều điểm tích cực
Thúc đẩy kinh tế tăng trưởng : Trong suốt 30 năm qua, kinh tế Việt Nam
đã đạt tốc độ tăng trưởng khá cao. Giai đoạn đầu Đổi mới (1986-1990), mức
tăng trưởng GDP bình quân hàng năm đạt 4,4%/năm, giai đoạn 1991-1995 GDP
bình quân tăng 8,2%/năm; giai đoạn 1996-2000 GDP bình quân tăng 7,6%/năm;
giai đoạn 2001-2005 GDP tăng bình quân 7,34%/năm; giai đoạn 2006-2010, do
suy giảm kinh tế thế giới, Việt Nam vẫn đạt tốc độ tăng trưởng GDP bình quân
6,32%/năm. Giai đoạn 2011-2015, GDP của Việt Nam tăng chậm lại nhưng vẫn
đạt 5,9%/năm, là mức cao của khu vực và thế giới. Về Quy mô nền kinh tế thì
tăng nhanh: GDP bình quân đầu người năm 1991 chỉ là 188 USD/năm. Đến năm
2003, GDP bình quân đầu người đạt 471 USD/năm và đến năm 2015, quy mô
nền kinh tế đạt khoảng 204 tỷ USD, GDP đầu người đạt gần 2.200 USD/năm.
Lực lượng sản xuất có nhiều tiến bộ cả về số lượng và chất lượng. Từ đó đời
sống xã hội cũng tốt hơn,tỷ lệ nghèo đói giảm từ 58% năm 1992 xuống còn 7,6% cuối năm 2013.
Thúc đẩy sự phát triển của thị trường: hội nhập kinh tế mở rộng thị
trường, phát triển đa dạng các ngành hàng, phát triển đồng bộ các thị trường tài
chính - thị trường đầu tư - thị trường hàng hóa dịch vụ. Kim ngạch ngoại thương
năm 1991 là 5.156,4 triệu USD, trong đó xuất khẩu là 2.087,1 triệu USD, đến
năm 2016 các con số tương ứng là 333 tỷ USD và 167,83 tỷ USD, tăng 60,4 lần
và 80,4 lần so với năm 1991.Trong 30 năm, Việt Nam thu hút được 310 tỷ USD
của các nhà đầu tư nước ngoài, nguồn vốn này đã góp phần lớn làm tăng trưởng
nền kinh tế.Việt Nam đã ký kết 11 Hiệp định thương mại tự do khu vực và song
phương; đang tích cực đàm phán ba hiệp định khác. (ASEAN - Hồng Công;
EFTA; RCEP). Hiện nay Việt Nam có quan hệ ngoại giao với 176 quốc gia,
quan hệ kinh tế thương mại với trên 200 quốc gia và vùng lãnh thổ, trong đó
khoảng 80 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư trực tiếp vào nước ta... Chưa bao
giờ mối quan hệ ngoại giao và kinh tế của Việt Nam lại phát triển sâu rộng và đa dạng như ngày nay.
3. Một số khuyến nghị nhằm phát huy vai trò của nền sản xuất hàng hóa. 3.1 Mục tiêu.
Xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN:
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là tên gọi mà Đảng Cộng
sản Việt Nam đặt ra cho mô. Đây là sản phẩm của thời kỳ Đổi Mới, thay thế nền
kinh tế kế hoạch bằng nền kinh tế hỗn hợp hoạt động theo cơ chế thị trường.
Những thay đổi này giúp Việt Nam hội nhập với nền kinh tế toàn cầu. Cụm từ
"định hướng xã hội chủ nghĩa" mang ý hình kinh tế hiện tại của nước Cộng hòa
Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Nó được mô tả là một nền kinh tế thị trường nhiều
thành phần, trong đó khu vực tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, với mục tiêu dài
hạn là xây dựng chủ nghĩa xã hội. nghĩa là Việt Nam chưa đạt đến chủ nghĩa xã
hội mà đang trong giai đoạn xây dựng nền tảng cho một hệ thống xã hội chủ
nghĩa trong tương lai. Kinh tế thị trường định hướng XHCN là kiểu tổ chức
kinh tế đặc biệt, vừa tuân theo những nguyên tắc và quy luật của hệ thống kinh
tế thị trường, vừa bảo đảm tính định hướng XHCN theo những nguyên tắc và
quy luật của hệ thống kinh tế thị trường, vừa bảo đảm tính định hướng XHCN.
Chính tính chất, đặc trưng cơ bản này chi phối và quyết định phương tiện, công
cụ, động lực của nền kinh tế và con đường đạt tới mục tiêu là sử dụng kinh tế
thị trường, đồng thời với nâng cao hiệu lực và hiệu quả điều tiết của Nhà nước
XHCN, gắn với việc phát huy các nguồn lực xã hội, vai trò của xã hội, nhằm
thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển rút ngắn để sớm
đưa Việt Nam trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Nền kinh tế độc lập tự chủ, xã hội “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh gắn liền với đảm bảo an ninh quốc gia
Tính định hướng XHCN trong phát triển kinh tế - xã hội quy định phát
triển kinh tế thị trường ở nước ta nhằm “xây dựng là một xã hội: Dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát
triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu
sản xuất chủ yếu”.Không thể làm cho “dân giàu, nước mạnh” nếu không có tăng
trưởng kinh tế trên cơ sở đẩy mạnh CNH, HĐH. Không thể có tăng trưởng kinh
tế nếu không phát triển và quản lý có hiệu quả nền kinh tế thị trường. Chỉ có sức
mạnh của nền kinh tế thị trường hỗn hợp nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành
phần mới là cơ sở kinh tế của sự phát triển theo định hướng XHCN chứ không
phải chỉ duy nhất kinh tế quốc doanh như có thời lầm tưởng. Đi liền với xây
dựng một nền kinh tế độc lập tự chủ là đảm bảo đảm an ninh quốc gia dân tộc.
Giữ vững độc lập chủ quyền, cảnh giác trước âm mưu chống phá của các thế lực
thù địch trong bối cảnh hiện nay.
3.2 .Một số khuyến nghị nhằm phát huy vai trò của nền sản xuất hàng hóa
Đối với nhà nước:
Mô =t là, nhận thức rõ quá trình xây dựng và hoàn thiện nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN ở Việt Nam là không đơn giản, đó là quá trình lâu dài và trải
qua nhiều giai đoạn, vừa tìm tòi, phát triển không ngừng trong nhận thức lý
luận, vừa phải linh hoạt, sáng tạo trong thực tiễn, ứng phó tốt trước khó khăn,
thách thức, đòi hỏi sự quyết tâm và đồng lòng của toàn Đảng, toàn dân. Phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay là một lựa
chọn tất yếu và không có cách lựa chọn khác để đi lên CNXH.
Hai là, nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam chính là nền kinh
tế thị trường hiện đại, ở đó có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Điều
này có nghĩa là những yếu tố thị trường của nền kinh tế thị trường hiện đại thì
đều được phát huy và phát triển ở mức cao như tính tích cực của nền kinh tế thị
trường, năng động và hiệu quả, đồng thời, nền kinh tế thị trường cần có sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam để hạn chế các mặt trái tiêu cực của nền kinh
tế thị trường, cũng như những tác động làm cho các quan hệ kinh tế thay đổi về
cách thức và phương thức mới theo hướng phát triển tốt hơn, hiệu quả hơn.
Ba là, để có một nền kinh tế thị trường định hướng XHCN phát triển, đòi hỏi
phải có môi trường công khai, minh bạch, có bộ máy nhà nước tinh gọn, đủ
năng lực điều hành và quản lý nền kinh tế, đưa nền kinh tế đạt được tốc độ tăng
trưởng cao, chất lượng và hiệu quả, giải quyết tốt những vấn đề xã hội, bảo đảm
nền kinh tế phát triển bền vững một cách thật sự.
Bốn là, để nền kinh tế thị trường định hướng XHCN phát triển, cần tạo lập một
môi trường kinh doanh thông thoáng, hòa nhập với thị trường thế giới. Nền kinh
tế thị trường không có sự phân biệt đối xử đối với các đối tượng và chủ thể trên
thị trường. Và để đạt được điều đó, thì kinh tế nhà nước và kinh tế hợp tác cần
được xem như mọi thành phần kinh tế khác, được đối xử bình đẳng, không có
sự ưu tiên hay phân biệt. Các khu vực kinh tế đều là bộ phận hợp thành của nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN, hoạt động bình đẳng, đúng pháp luật,
được luật pháp bảo vệ và khuyến khích phát triển như nhau.
Năm là, nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam được định hướng
theo đuổi mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”; huy
động sức mạnh của mọi thành phần kinh tế cũng như của toàn xã hội cho tăng
trưởng kinh tế, từng bước nâng cao đời sống cho đại bộ phận nhân dân. Tuy
nhiên, việc thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế không phải bằng mọi giá, nóng
vội mà phải được cân nhắc tính toán cho phù hợp với điều kiện đất nước theo
hướng phát triển nhanh, hiệu quả mà bền vững; gắn mục tiêu tăng trưởng kinh
tế với bảo đảm độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, bảo vệ môi trường... Tăng
trưởng kinh tế phải gắn với tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước, từng
chính sách phát triển nhằm đảo bảo công bằng về cơ hội phát triển cho mọi
thành viên trong cộng đồng được thụ hưởng lợi ích chính đáng, công bằng từ
những kết quả lao động và cống hiến xã hội của mình và "không mô Št ai bị bỏ lại phía sau”…
Đối với doanh nghiệp:
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế , để phát huy được vai trò của nền sản
xuất hàng hóa các doanh nghiệp cần tận dụng mọi tiếp thu các thành tựu khoa
học công nghệ để tăng được năng suất lao động tạo nên sản phẩm chất lượng tốt
để cạnh tranh với thị trường trong và ngoài nước. Bên cạnh đó , các doanh
nghiệp nên mở rộng hợp tác đầu tư nước ngoài để mở rộng thị trường . Hơn
hết , các doanh nghiệp cần phải tuân thủ các quy định của pháp luật trong kinh
doanh, thực hiện những chủ trương chính sách của nhà nước nhằm tạo nên thị
trường kinh doanh lành mạnh, hợp tác cùng phát triển,
Đối với người lao động:
Đối với người lao động cần tuân thủ những đường lối chủ trương chính
sách pháp luật của nhà nước. Cần nâng cao nhận thức, trình độ để hội nhập với
nền kinh tế thị trường . Chất lượng lao động sẽ là nhân tố thúc đẩy một nền kinh
tế . Chính vì vậy mỗi người lao động cần nâng cao tác phong nghề nghiệp trong
thời kỳ mới: tích cực, năng động, sáng tạo để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài.
Và hơn hết là mở rộng nền sản xuất, thị trường nước nhà. Nêu cao tinh thần
cảnh giác trước sự chống phá của các thế lực thù địch trong thời kỳ mới. PHẦN KẾT THÚC
Sau hơn 30 năm thực hiện quá trình Đổi mới với mục tiêu Công nghiệp
hóa, Hiện đại hóa đất nước. Việt Nam đã đã đạt được những thành tựu nhất định
về tăng trưởng kinh tế. Qua đây , ta thấy được sự đúng đắn trong đường lối lãnh
đạo của Đảng khi chuyển từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền
kinh tế thị trường định hướng Xã hội Chủ nghĩa. Nền kinh tế thị trường có vai
trò vô cùng to lớn như thúc đẩy nền kinh tế phát triển, đẩy trình CNH, HĐH,
mở rộng thị trường kinh tế, bên cạnh đó còn góp phần nâng cao đời sống vật
chất tinh thần của người dân.. Đây là một tín hiệu đáng mừng, thôi thúc Đảng
và Nhà nước tiếp tục đổi mới và hoàn thiện đường lối , chủ trương chính sách
về xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN sao cho phù hợp với bối
cảnh ngày nay. Khi mà hội nhập kinh tế quốc tế, nước ta cần tích cực chủ động
mở rộng quan hệ hợp tác, tiếp thu hiệu quả các thành tựu khoa học để tăng năng
suất lao động, tạo ra những sản phẩm cạnh tranh được với thị trường thế giới.
Hơn nữa, mỗi người nâng cao tinh thần cảnh giác trước các thế lực có ý định
chống phá Đảng và Nhà nước và cùng nhà nước thực hiện các mục tiêu kinh tế
đề ra trong giai đoạn mới.
PHÂN CÔNG NHIỆM VỤ
Phần 1: Khái quát lý luận về nền sản xuất hàng hóa thị trường
Tìm kiếm tài liệu, sắp xếp bố cục: Trần Công Đoàn, Ngô Văn Bách
Phần 2: Vai trò và tác động của tiến trình đổi mới sang nền sản xuất hàng hóa
Tìm kiếm tài liệu, Trình bày bài luận: Lê Quốc Thắng, Trần Công Dương
Phần 3: Một số khuyến nghị nhằm phát huy vai trò của nền sản xuất hàng hóa
Tìm kiếm tài liệu, sắp xếp bố cục, thiết kế bìa: Nguyễn Minh Quang Trần Công Dương
Tài liệu tham khảo
1.Vận dụng chủ nghĩa Mác Lênin trong phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN ở Việt Nam của Thạc sĩ Nguyễn Thị Phương Dung, Khoa Lý luận
Chính trị, Đại học Bách khoa Hà Nội. (https://bit.ly/3l2MAS5 ) 2. Đổi mới (https://bit.ly/32hQMGm )
3.Kinh tế thị trường định hướng XHCN ( https://bit.ly/3l2y78Z )
4. Vài nét về kinh tế - xã hội Việt Nam trên Cổng thông tin Chính phủ nước CH ( https://bit.ly/2I81Q1O )