



















Preview text:
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
KHOA LỊCH SỬ ĐẢNG
------------------------- TIỂU LUẬN
MÔN: LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
VAI TRÒ CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC ĐỐI VỚI SỰ RA ĐỜI
CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM. LIÊN HỆ VỚI VIỆC XÂY
DỰNG VÀ CHỈNH ĐỐN ĐẢNG HIỆN NAY
Sinh viên: VŨ PHƯƠNG QUỲNH
Số điện thoại: 0528531197
Mã số sinh viên: 2056100043
Lớp 4: THÔNG TIN ĐỐI NGOẠI K40
Giảng viên hướng dẫn: T
S Nguyễn Thị Hảo
Hà Nội, tháng 0 n
3 ăm 2022 1 MỤC LỤC
MỞ ĐẦU...............................................................................................................3
1. Lí do chọn đề tài.........................................................................................3
2. Ý nghĩa đề tà inghiên cứu..........................................................................4
NỘI DUNG...........................................................................................................4
CHƯƠNG I: BỐI CẢNH QUỐC TẾ VÀ TRONG NƯỚC TÁC ĐỘNG ĐẾN
VIỆC NGUYỄN ÁI QUỐC THÀNH LẬP ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT
NAM......................................................................................................................4
1.1. Bối cảnh quốc tế.................................................................................4
1.2. Bối cảnh trong nước..........................................................................7
1.2.1. Tình hình chuyển biến của xã hội Việt Nam...............................7
1.2.2. Cuộc khủng hoảng đường lối giải phóng dân tộc Việt Nam cuối
thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX...........................................................9
CHƯƠNG II: VAI TRÒ CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC VỚI SỰ HÌNH
THÀNH ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM.......................................................12
2.1. Nguyễn Ái Quốc đã tìm ra con đường cứu nước đúng đắn cho
dân tộc Việt Nam: Nguyễn Ái Quốc xác định con đường giải
phóng dân tộc theo khuynh hướng vô sản.....................................13
2.2. Nguyễn Ái Quốc đã tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin
vào trong nước và chuẩn bị những điều kiện cho sự thành lập
Đảng qua quá trình tích cực chuẩn bị về tư tưởng, chính trị và tổ
chức...................................................................................................17
2.2.1. Về tư tưởng....................................................................................17
2.2.2. Về chính trị....................................................................................18
2.2.3. Về tổ chức......................................................................................
2.3. Nguyễn Ái Quốc triệu tập Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng
sản......................................................................................................20 2
2.4. Nguyễn Ái Quốc chủ trì thành công Hội nghị hợp nhất các tổ
chức cộng sản...................................................................................25
2.5. Nguyễn Ái Quốc là người trực tiếp soạn thảo những văn kiện
quan trọng có ý nghĩa chiến lược đối với cách mạng Việt Nam..27
CHƯƠNG III: XÂY DỰNG VÀ CHỈNH ĐỐN ĐẢNG HIỆN NAY.............31
3.1. Xây dựng, chỉnh đốn Đảng theo tư tưởng Hồ Chí Minh.................31
3.2. Tình hình công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay.................34
3.2.1. Tầm quan trọng của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng........34
3.2.2. Những thành tựu trong công tác chỉnh đốn, xây dựng Đảng
hiện nay.......................................................................................36
3.2.3. Một số hạn chế trong công tác chỉnh đốn, xây dựng Đảng hiện
nay................................................. ................................................39
3.3. Một số nhiệm vụ, giải pháp nâng cao công chỉnh đốn, xây dựng
Đảng hiện nay.....................................................................................41
KẾT LUẬN.........................................................................................................44
TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................................45 3 MỞ ĐẦU
1 . Lí do chọn đề tài
Từ khi ra đời ngày 3 tháng 2 năm 1930, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân
dân ta đã lập nên những kỳ tích trong thế kỷ 20 mà đỉnh cao là thắng lợi của
Cách mạng tháng Tám năm 1945, thắng lợi của các cuộc kháng chiến chống xâm
lược giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc. Việt Nam từ một đất nước thuộc địa,
nửa phong kiến chưa có tên trên bản đồ thế giới, đã trở thành một quốc gia độc
lập, tự do, phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa.
Đảng thành lập là kết quả của nhiều yếu tố, trong đó đặc biệt quan trọng là
vai trò to lớn của đồng chí Nguyễn Ái Quốc, người thực hiện sứ mệnh lịch sử
sáng lập chính đảng vô sản ở Việt Nam, với những sáng tạo lý luận xuất sắc.
Nguyễn Ái Quốc là người đầu tiên gieo hạt giống Mác – Lênin trên đất nước
Việt Nam, làm cho cách mạng Việt Nam nở hoa kết quả. Mỗi thắng lợi của cách
mạng Việt Nam đều gắn liền với vai trò của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh -
Người tổ chức và lãnh đạo mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Người đã
sáng lập ra Đảng Cộng sản Việt Nam và dày công đào tạo cho Đảng ta một đội
ngũ cán bộ ưu tú, chăm lo xây dựng Đảng ta thành một khối đoàn kết, thống
nhất, vững mạnh. Trước các nhiệm vụ lịch sử, đồng chí đã kịp thời xác định
đúng đắn, sáng tạo đường lối, chiến lược, sách lược đưa cách mạng đi từ thắng
lợi này đến thắng lợi khác. Từ đây, cách mạng Việt Nam có một đảng cách mạng
chân chính dẫn đường cho toàn dân đứng lên đánh đổ ách áp bức, bóc lột của
thực dân, phong kiến đem lại độc lập cho dân tộc, ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân.
Đặc biệt, Đảng ta ngay từ khi mới thành lập đã xác định vị trí, vai trò đặc
biệt quan trọng của công tác chỉnh đốn xây dựng Đảng. Xây dựng Đảng vững
mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức. Đây là vấn đề vừa có tính
nguyên tắc, vừa là nhiệm vụ thường xuyên, lâu dài, là trách nhiệm chính trị của 4
toàn Đảng, toàn dân, toàn quân. Lịch sử cách mạng Việt Nam trong hơn 91 năm
qua là minh chứng sinh động, có tính thuyết phục cao trong xác định nhiệm vụ
xây dựng Đảng. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy “Đảng có vững cách mệnh mới thành công”.
Xuất phát từ việc phân tích vai trò cũng như công tác thành lập Đảng Cộng
sản Việt Nam của Chủ tịch Hồ Chí Minh để từ đó rút ra những kinh nghiệm
trong việc nhìn nhận, đánh giá và nâng cao công tác chỉnh đốn, xây dựng đảng
vững mạnh, trong sạch để tiếp tục lãnh đạo toàn dân xây dựng đất nước giàu
mạnh là cơ sở cho việc triển khai thực hiện đề tài tiểu luận VAI TRÒ CỦA
NGUYỄN ÁI QUỐC ĐỐI VỚI SỰ RA ĐỜI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM.
LIÊN HỆ VỚI VIỆC XÂY DỰNG VÀ CHỈNH ĐỐN ĐẢNG HIỆN NAY .
2 . Ý nghĩa chủ đề nghiên cứu
Tiểu luận dựa vào việc tham khảo và tổng hợp các tài liệu phân tích và làm
rõ vai trò quan trọng tiên quyết của đồng chí Nguyễn Ái Quốc đối với sự hình
thành Đảng Cộng Sản Việt Nam cũng như nêu ra những tư tưởng của Hồ Chủ
tịch về công tác chỉnh đốn, xây dựng Đảng. Từ đó soi chiếu các đường lối, tư
tưởng đó vào thực tiễn công tác chỉnh đốn, xây dựng Đảng hiện nay, phân tích
những thành tựu và hạn chế để rút ra một số nhiệm vụ cần thực hiện để ngày
càng nâng cao công tác chỉnh đốn, xây dựng Đảng vững mạnh toàn diện, tiếp tục
lãnh đạo nhân dân đưa nước ta phát triển bền vững về mọi mạnh, trở thành một
nước dân giàu nước mạnh, nâng cao vị thế nước ta trên trường quốc tế. NỘI DUNG CHƯƠNG I: B I
Ố CẢNH QUỐC TẾ VÀ TRONG NƯỚC TÁC ĐỘNG
ĐẾN VIỆC NGUYỄN ÁI QUỐC THÀNH LẬP ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
1.1. Bối cảnh quốc tế 5
Vào giữa thế kỷ thứ XIX, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đã thống
trị ở Anh, Pháp, Đức và một số nước khác ở Tây Âu. Ở các nước này, giai cấp tư
sản tăng cường áp bức, bóc lột giai cấp công nhân. Và cũng tại đây, phong trào
công nhân phát triển từ "tự phát" đến "tự giác", mâu thuẫn cơ bản giữa giai cấp
công nhân và giai cấp tư sản trở nên gay gắt. Cuộc đấu tranh của giai cấp công
nhân đối với chủ nghĩa tư bản đòi hỏi phải có lý luận tiên phong dẫn đường. Để
đáp ứng đòi hỏi đó, chủ nghĩa Mác ra đời với Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản.
Lý luận của chủ nghĩa Mác khẳng định sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp
công nhân là lật đổ chế độ tư bản chủ nghĩa, xây dựng xã hội mới, xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản trên thế giới chuyển
mạnh sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. Các nước đế quốc phương Tây đẩy
mạnh quá trình xâm chiếm và nô dịch các nước nhỏ, yếu ở châu Á, châu Phi và
khu vực Mỹ Latinh, thực hành chính sách thực dân tàn bạo nhằm vơ vét sức
người, sức của vì lợi nhuận độc quyền của chủ nghĩa tư bản. Điều đó không chỉ
dẫn tới sự phát triển gay gắt mâu thuẫn giữa các nước đế quốc trong việc tranh
giành thuộc địa dẫn tới chiến tranh thế giới 1914-1918, mà còn làm cho mâu
thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa bị áp bức với chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực
dân ngày càng sâu sắc. Phong trào chống đế quốc giành độc lập của các dân tộc
thuộc địa trở thành một nội dung lớn của phong trào cách mạng thế giới, một vấn
đề có tính thời đại.
Phong trào đấu tranh của các dân tộc là thuộc địa của chủ nghĩa thực dân
ngày càng lan rộng và phát triển mạnh mẽ trên thế giới, đặc biệt là ở châu Á đã
tác động mạnh mẽ đến phong trào yêu nước Việt Nam.
Trong bối cảnh đó, thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 đã
làm biến đổi sâu sắc tình hình thế giới. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười
Nga không chỉ có ý nghĩa to lớn đối với cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản đối 6
với các nước tư bản, mà còn có tác động sâu sắc đến phong trào giải phóng dân
tộc ở các thuộc địa, cổ vũ mạnh mẽ các dân tộc bị áp bức đứng lên đấu tranh tự
giải phóng khỏi ách thực dân.
Thắng lợi của Cách mang tháng 10 Nga năm 1917 xuất phát từ việc Lênin
đã phân tích tình hình cụ thể, tiếp tục phát triển chủ nghĩa Mác trong giai đoạn
đế quốc chủ nghĩa, đề ra lý luận cách mạng vô sản có thể thành công ở một số
nước, thậm chí trong một nước tư bản phát triển trung bình; đồng thời nêu lên
nguyên lý về cách mạng giải phóng dân tộc thuộc địa, về sự đoàn kết giữa giai
cấp công nhân ở các nước tư bản và các dân tộc ở các nước thuộc địa trong cuộc
đấu tranh chung chống chủ nghĩa đế quốc, thực dân. Thực tiễn chứng minh lý
luận của Lênin là đúng với thắng lợi của cuộc Cách mang Tháng Mười năm
1917 dưới sự lãnh đạo của Đảng Bônsêvích Nga. Thắng lợi đó là nguồn cổ vũ
lớn lao đối với cách mạng thế giới, nhất là cách mạng ở thuộc địa. Năm 1919,
Lênin cùng các nhà cách mạng chân chính ở các nước thành lập Quốc tế Cộng
sản - một tổ chức quốc tế của phong trào cách mạng thế giới. Quốc tế Cộng sản
ra đời đánh dấu bước phát triển mới về chất của phong trào cách mạng vô sản và
phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc trên phạm vi thế giới.
Tháng 3-1919, Quốc tế Cộng sản, do V.I.Lênin đứng đầu, được thành lập,
trở thành bộ tham mưu chiến đấu, tổ chức lãnh đạo phong trào cách mạng vô sản
thế giới. Quốc tế Cộng sản không những vạch đường hướng chiến lược cho cách
mạng vô sản mà cả đối với các vấn đề dân tộc và thuộc địa, giúp đỡ, chỉ đạo
phong trào giải phóng dân tộc. Cùng với việc nghiên cứu và hoàn thiện chiến
lược và sách lược về vấn đề dân tộc và thuộc địa, Quốc tế Cộng sản đã tiến hành
hoạt động truyền bá tư tưởng cách mạng vô sản và thúc đẩy phong trào đấu tranh
ở khu vực này đi theo khuynh hướng vô sản. Đại hội II của Quốc tế Cộng sản
(1920) đã thông qua Luận cương về các vấn đề dân tộc và thuộc địa do V.I.Lênin
khởi xướng. Một yêu cầu khách quan của cách mạng vô sản thế giới là cần phải 7
đoàn kết, ủng hộ cuộc đấu tranh của các dân tộc thuộc địa giành độc lập, đưa các
phong trào dân tộc đó đi vào quỹ đạo của cách mạng vô sản, với khẩu hiệu chiến
lược là: Vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức, đoàn kết lại.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga 1917, sự ra đời và hoạt động
của Quốc tế Cộng sản không chỉ có tác động mạnh mẽ đối với phong trào giải
phóng ở các nước thuộc địa trên thế giới trong những năm 20 của thế kỷ XX,
trong đó có Việt Nam và Đông Dương mà còn là một trong những yếu tố tác
động đến Nguyễn Ái Quốc trong việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, tìm ra
ánh sáng cho cách mạng dân tộc, tìm ra con đường giải phóng dân tộc.
1.2. Bối cảnh trong nước
1.2.1. Tình hình chuyển biến của xã hội Việt Nam
Trong bối cảnh các nước đế quốc đẩy mạnh tìm kiếm thuộc địa, Việt Nam
trở thành đối tượng nằm trong mưu đồ thôn tính của thực dân Pháp trong cuộc
chạy đua với nhiều nước khác. Sau một quá trình điều tra thám sát lâu dài, thâm
nhập kiên trì (của các giáo sĩ và thương nhân Pháp), ngày 1-9-1858, thực dân
Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam tại Đà Nẵng và từ đó từng bước thôn tính Việt
Nam. Đó là thời điểm chế độ phong kiến Việt Nam (dưới triều đại phong kiến
nhà Nguyễn) đã lâm vào giai đoạn khủng khoảng trầm trọng, mâu thuẫn giữa tập
đoàn phong kiến cầm quyền với toàn thể nhân dân vô cùng gay gắt. Trước hành
động xâm lược của Pháp, Triều đình nhà Nguyễn từng bước thỏa hiệp (Hiệp ước
1862, 1874, 1883) và năm 1884 với Hiệp ước Patenotre (Patơnốt) đã đầu hàng
hoàn toàn thực dân Pháp, Việt Nam trở thành “một xứ thuộc địa, dân ta là vong
quốc nô, Tổ quốc ta bị giày xéo dưới gót sắt của kẻ thù hung ác”.
Trước bối cảnh đó, nhân dân Việt Nam vẫn không chịu khuất phục, thực
dân Pháp dùng vũ lực để bình định, đàn áp sự nổi dậy của nhân dân. Đồng thời
với việc dùng vũ lực đàn áp đẫm máu đối với các phong trào yêu nước của nhân 8
dân Việt Nam, thực dân Pháp tiến hành xây dựng hệ thống chính quyền thuộc
địa, bên cạnh đó vẫn duy trì chính quyền phong kiến bản xứ làm tay sai.
Về chính trị, thực dân Pháp thi hành chính sách cai trị thực dân, tước bỏ
quyền lực đối nội, đối ngoại của chính quyền phong kiến nhà Nguyễn, đó là một
chính sách chuyên chế điển hình, chúng đàn áp đẫm máu các phong trào và hành
động yêu nước của người Việt Nam, mọi quyền tự do bị cấm. Chúng chia rẽ ba
nước Đông Dương, chia Việt Nam thành ba kỳ (Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ) và
thực hiện ở mỗi kỳ một chế độ cai trị riêng. Tính chất xã hội Việt Nam thay đổi:
từ xã hội phong kiến sang xã hội thuộc địa nửa phong kiến, đặc trưng là: đế
quốc-phong kiến kết hợp với nhau thống trị, bóc lột nhân dân. Đế quốc dựa vào
phong kiến phản động để duy trì ách thống trị, phong kiến phản động dựa vào
thế lực đế quốc để bóc lột nhân dân.
Về kinh tế, từ năm 1897, thực dân Pháp thiết lập bộ máy cai trị và tiến hành
khai thác thuộc địa. Cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất (1897-1914) do Toàn
quyền Đông Dương Paul Doumer (Pôn du me) thực hiện và khai thác thuộc địa
lần thứ hai (1919-1929). Mưu đồ biến Việt Nam nói riêng và Đông Dương nói
chung thành thị trường tiêu thụ hàng hóa ế thừa của “chính quốc”, đồng thời ra
sức vơ vét tài nguyên, bóc lột sức lao động rẻ mạt của người bản xứ, cùng nhiều
hình thức thuế khoá nặng nề. Chế độ cai trị, bóc lột hà khắc của thực dân Pháp
đối với nhân dân Việt Nam là “chế độ độc tài chuyên chế nhất, nó vô cùng khả ố
và khủng khiếp hơn cả chế độ chuyên chế của nhà nước quân chủ châu Á đời
xưa”. Năm 1862, Pháp đã lập nhà tù Côn Đảo để giam cầm những người Việt
Nam yêu nước chống Pháp.
Về văn hoá -xã hội, thực dân Pháp thực hiện chính sách “ngu dân” để dễ cai
trị, lập nhà tù nhiều hơn trường học, đồng thời du nhập những giá trị phản văn
hoá, duy trì tệ nạn xã hội vốn có của chế độ phong kiến và tạo nên nhiều tệ nạn 9
xã hội mới, dùng rượu cồn và thuốc phiện để đầu độc thanh niên Việt Nam, ra
sức tuyên truyền tư tưởng “khai hoá văn minh” của nước “Đại Pháp”...
Chính sách cai trị của thực dân Pháp không chỉ làm phân hóa các giai cấp
cũ, mà còn làm xuất hiện các giai cấp, tầng lớp xã hội mới trong xã hội Việt
Nam. Các giai cấp, tầng lớp này có địa vị kinh tế khác nhau và do đó cũng có
thái độ chính trị khác nhau đối với vận mệnh của dân tộc.
Với chính sách cai trị thâm độc và tàn bạo của thực dân Pháp, nhân dân ta
lâm vào tình cảnh khốn cùng, bị áp bức bóc lột, xã hội Việt Nam trở nên rối ren,
bất ổn. Hai mâu thuẫn cơ bản trong xã hội Việt Nam là: mâu thuẫn giữa dân tộc
Việt Nam với đế quốc Pháp xâm lược; mâu thuẫn giữa nhân dân Việt Nam – chủ
yếu là nông dân – với giai cấp địa chủ phong kiến. Đối tượng cần phải đánh đổ
của cách mạng Việt Nam là đế quốc Pháp và giai cấp địa chủ phong kiến. Trong
bối cảnh của tình hình quốc tế và trong nước như vậy, giải phóng dân tộc là yêu
cầu căn bản của xã hội Việt Nam, là nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam, là
nguyện vọng thiết tha của cả dân tộc Việt Nam.
1.2.2. Cuộc khủng hoảng đường lối giải phóng dân tộc Việt Nam cuối
thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
Mẫu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp ngày càng trở nên sâu sắc, ph n
o g trào yêu nước của nhân dân ta chống thực dân Pháp diễn ra
liên tục và sôi nổi trên khắp cả nước.
Trong bối cảnh đó, những tư tưởng mới ở bên ngoài: tư tưởng cách mạng tư
sản Pháp 1789, phong trào Duy tân Nhật Bản năm1868, cuộc vận động Duy tân
tại Trung Quốc năm 1898, cách mạng Tân Hợi của Trung Quốc 1911…, đặc biệt
là Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 đã tác động mạnh mẽ, làm chuyển
biến phong trào yêu nước Việt Nam những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX.
Do các trào lưu tư tưởng dân chủ tư sản trên thế giới dồn dập dội vào nước
ta, cùng với tư tưởng phong kiến vẫn còn tồn tại ở một bộ phận giai cấp trong xã 10
hội Việt Nam, nên giai đoạn này, các phong trào đấu tranh chủ yếu diễn ra theo 2
khuynh hướng: Lập trường phong kiến và Khuynh hướng dân chủ tư sản.
Nổi bật trong Lập trường phong kiến có thể kể đến Phong trào Cần
Vương do Tôn Thất Thuyết đứng đầu (1885-1896), Cuộc khởi nghĩa của Phan
Đình Phùng năm 1896, Cuộc khởi nghĩa của Vua Duy Tân tháng năm 1916,
Phong trào nông dân Yên Thế (Bắc Giang) dưới sự lãnh đạo của vị thủ lĩnh nông dân Hoàng Hoa Thám.
Tuy nhiên, do bạc nhược và sớm đầu hành của Triền đình Nhà Nguyễn,
ngọn cờ phong kiến lúc đó không còn là ngọn cờ tiêu biểu để tập hợp một cách
rộng rãi, toàn thể các tầng lớp nhân dân, không có khả năng liên kết các trung
tâm kháng Pháp trên toàn quốc nữa.
Những năm đầu thế kỷ XX, khuynh hướng dân chủ tư sản đã có ảnh hưởng
tác động đến phong trào yêu nước Việt Nam, tiêu biểu là xu hướng bạo động của
Phan Bội Châu, xu hướng cải cách của Phan Châu Trinh và sau đó là phong trào
của tổ chức Việt Nam Quốc dân đảng. Có thể nói, vào những năm cuối thế kỷ
XIX đầu thế kỷ XX, các phong trào chống thực dân Pháp của nhân dân Việt
Nam Việt Nam đã diễn ra quyết liệt, liên tục và rộng khắp.
Sau một thời gian phát triển rầm rộ, các phong trào trên cũng nối tiếp nhau
tan rã trước sự đàn áp man rợ của đế quốc Pháp. Mặc dù còn thụ động, ấu trĩ,
chưa tin vào sức mạnh của chính dân tộc mình, mà nặng về cầu viện, cải cách,
nhưng giải pháp mới theo khuynh hướng dân chủ tư sản chí ít cũng đặt vấn đề
của dân tộc Việt Nam trong mối quan hệ quốc tế và thời đại nhất định.
Như vậy, các phong trào yêu nước trong giai đoạn này dù đều đạt được
những ảnh hưởng nhất định nhưng đều bị thực dân Pháp đàn áp dã man và thất
bại. Phong trào yêu nước Việt Nam lâm vào khủng hoảng, bế tắc về đường lối cứu nước. 11
Có thể thấy, vào những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, tiếp tục truyền
thống yêu nước, bất khuất kiên cường chống ngoại xâm, các phong trào chống
thực dân Pháp theo ngọn cờ phong kiến, ngọn cờ dân chủ tư sản của nhân dân
Việt Nam Việt Nam đã diễn ra quyết liệt, liên tục và rộng khắp. Dù với nhiều
cách thức tiến hành khác nhau, song đều hướng tới mục tiêu đánh đổ chế độ
thuộc địa, giành độc lập cho dân tộc. Tuy nhiên, “các phong trào cứu nước từ lập
trường Cần Vương đến lập trường tư sản, tiểu tư sản qua khảo nghiệm lịch sử
đều lần lượt thất bại”. Phong trào yêu nước Việt Nam lâm vào khủng hoảng, bế
tắc về đường lối cứu nước.
Các nhà yêu nước tiến bộ đương thời vẫn bế tắc trước thời điểm bản lề của
lịch sử: giai cấp phong kiến với hệ tư tưởng phong kiến đã hết vai trò và đã quá
lỗi thời, còn giai cấp tư sản với hệ tư tưởng tư sản cũng đang tỏ ra sự yếu ớt, bất
lực, không đủ năng lực để tập hợp toàn thể dân tộc trong cuộc đấu tranh chống
ách áp bức nô dịch của chủ nghĩa thực dân, không biết gắn phong trào yêu nước
của dân tộc mình với cuộc đấu tranh của các dân tộc khác có cùng chung kẻ thù
xâm lược. Sự bất lực của hệ tư tưởng phong kiến và hệ tư tưởng tư sản trước
nhiệm vụ chống Pháp, giành lại độc lập dân tộc, cho thấy sự khủng hoảng sâu
sắc về đường lối cũng như giai cấp lãnh đạo cách mạng Việt Nam đầu thế kỷ XX.
Rõ ràng, đến đầu thế kỷ XX, cách mạng Việt Nam diễn ra cuộc khủng
hoảng về đường lối cứu nước, về giai cấp lãnh đạo sự nghiệp giải phóng dân tộc.
Cách mạng Việt Nam ở trong "tình hình đen tối như không có đường ra".
Nguyên nhân thất bại của các phong trào đó là do thiếu đường lối chính trị đúng
đắn để giải quyết triệt để những mâu thuẫn cơ bản, chủ yếu của xã hội, chưa có
một tổ chức vững mạnh để tập hợp, giác ngộ và lãnh đạo toàn dân tộc, chưa xác
định được phương pháp đấu tranh thích hợp để đánh đổ kẻ thù... Các phong trào
yêu nước ở Việt Nam cho đến những năm 20 của thế kỷ XX đều thất bại do 12
nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan, nhưng đã góp phần cổ vũ mạnh mẽ
tinh thần yêu nước của nhân dân, bồi đắp thêm cho chủ nghĩa yêu nước Việt
Nam, đặc biệt góp phần thúc đẩy những nhà yêu nước, nhất là lớp thanh niên trí
thức tiên tiến chọn lựa một con đường mới, một giải pháp cứu nước, giải phóng
dân tộc theo xu thế của thời đại. Nhiệm vụ lịch sử cấp thiết đặt ra cho thế hệ yêu
nước đương thời là cần phải có một tổ chức cách mạng tiên phong, có đường lối
cứu nước đúng đắn để giải phóng dân tộc.
CHƯƠNG II: VAI TRÒ CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC VỚI SỰ HÌNH
THÀNH ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
Xuất thân trong một gia đình nho học, có truyền thống yêu nước trọng
nghĩa, Nguyễn Tất Thành – Nguyễn Ái Quốc sớm mang trong mình lòng yêu
nước, thương dân. Cùng cha, Người đã có điều kiện đến cả ba miền đất nước,
biết được cuộc sống khó khăn, khổ nhục của người dân dù họ ở xứ Nam Kỳ "bảo
hộ" hay Trung Kỳ "thuộc địa", dân tộc điêu đứng trong cảnh nước mất, nhà tan,
bị áp bức về chính trị, bị bóc lột về kinh tế, bị đầu độc về văn hóa, bị tha hóa về
con người, bị đọa đày trong đói rách về bệnh tật. Giai cấp cần lao lâm vào số
phận nô lệ bi thảm, quyền sống của con người bị chà đạp thảm hại. Xã hội Việt
Nam từ nước phong kiến độc lập trở thành thuộc địa nửa phong kiến. Thực dân
Pháp dùng mọi thủ đoạn khai thác tài nguyên và bóc lột dã man của cải và sức
lao động của nhân dân ta để làm giàu cho chính quốc.
Trước cảnh đất nước lâm nguy, Nguyễn Ái Quốc nhận thức rõ yêu cầu
khách quan đòi hỏi phải nhanh chóng có một con đường cách mạng dân tộc đúng
đắn, phù hợp, nhưng lịch sử phong trào chống Pháp từ những năm đầu thế kỷ
XX trở về trước chưa có lời giải thỏa đáng. Trước nhiệm vụ cấp thiết của lịch sử
cần phải có một con đường cách mạng đúng đắn giải phóng dân tộc, Nguyễn Ái
Quốc – Hồ Chí Minh với lòng yêu nước, thương dân sâu sắc, lại sớm được tiếp
thu những tư tưởng tiến bộ của nhân loại về “tự do, bình đẳng, bắc ái” được 13
truyền đến Việt Nam, với tầm nhìn chiến lược, sáng suốt và phương pháp tư duy
sáng tạo đã sớm hình thành ý chí cứu nước, cứu đồng bào ở Người. Bằng dự cảm
chính trị thiên tài, suy nghĩa táo bạo, trí tuệ minh mẫn Người nhận thấy những
bất cập và bế tắc về mục tiêu, phương pháp cách mạng của các nhà yêu nước
đương thời; bằng những bài học lịch sử và khảo nghiệm trong thực tiễn, Nguyễn
Tất Thành quyết định phải tìm con đường khác, con đường mới; phải đi ra nước
ngoài theo một hướng khác - hướng ngay trong lòng xã hội nước Pháp - và yêu
cầu bức bách đối với dân tộc là phải tìm kiếm con đường cách mạng mới và
Người đã đảm đương trọng trách đó. Đây là quyết định quan trọng mở ra chặng
đường 30 năm bôn ba tìm đường cứu nước của Người.
2.1. Nguyễn Ái Quốc đã tìm ra con đường cứu nước đúng đắn cho
dân tộc Việt Nam: Nguyễn Ái Quốc xác định con đường giải
phóng dân tộc theo khuynh hướng vô sản
Trước cảnh nước mất, đồng bào bị đọa đày đau khổ bởi chính sách thuộc
địa của thực dân Pháp và chế độ phong kiến tay sai, người thanh niên Nguyễn
Tất Thành mang trong mình tinh thần yêu nước, thương dân sâu sắc. Người cho
rằng, trong lịch sử dân tộc, các bậc tiền bối đã lãnh đạo nhân dân nổi dậy đấu
tranh giành được độc lập cho đất nước, nhưng chưa giải phóng được nhân dân
lao động khỏi vòng nô lệ. Với mong muốn đi tìm chọn con đường đấu tranh vừa
đạt được mục tiêu giải phóng dân tộc, vừa đáp ứng chí hướng giải phóng nhân
dân, ngày 5- 6-1911, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành đã vượt qua
hạn chế của những sĩ phu yêu nước đương thời, quyết chí đi sang phương Tây
tìm con đường cứu nước, cứu dân theo tư duy mới. Sau khi đến nhiều nước trên
thế giới (Pháp, Mỹ, Anh…) và trải qua nhiều nghề lao động khác nhau, Người đã
rút ra một kết luận quan trọng: ở đâu bọn đế quốc thực dân cũng tàn bạo độc ác,
ở đâu người lao động cũng bị bóc lột dã man. 14
Khi Cách mạng Tháng Mười Nga 1917 thành công, Người từ nước Anh trở
lại nước Pháp và tham gia các hoạt động chính trị. Đầu năm 1919, Người tham
gia Đảng Xã hội Pháp, một chính đảng tiến bộ nhất lúc đó ở Pháp. Tháng 6-
1919, tại Hội nghị của các nước thắng trận trong Chiến tranh thế giới thứ nhất
họp ở Versailles (Vécxây, Pháp), Tổng thống Mỹ Woodrow Wilson (Uynxơn)
tuyên bố bảo đảm về quyền dân tộc tự quyết cho các nước thuộc địa. Ngày 18-6-
1919, nhóm người Việt Nam yêu nước có mặt ở Pháp, gồm: Phan Chu Trinh,
Phan Văn Trường, Nguyễn An Ninh, Nguyễn Thế Truyền và Nguyễn Ái Quốc.
Thay mặt Hội những người An Nam yêu nước ở Pháp Nguyễn Ái Quốc gửi tới
Hội nghị bản Yêu sách của nhân dân An Nam (gồm tám điểm đòi quyền tự do
cho nhân dân Việt Nam). Những yêu sách đó dù không được Hội nghị đáp ứng,
nhưng sự kiện này đã tạo nên tiếng vang lớn trong dư luận quốc tế và Nguyễn Ái
Quốc càng hiểu rõ hơn bản chất của đế quốc, thực dân: “chủ nghĩa Uynxơn chỉ là
một trò bịp bợm lớn”.
Tháng 7-1920, Người đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về
vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I.Lênin đăng trên báo L'Humanité
(Nhân đạo), số ra ngày 16 và 17-7-1920. Sơ thảo chỉ rõ, phong trào giải phóng
dân tộc ở các nước phương Đông có kẻ thù là chủ nghĩa tư bản phương Tây, do
đó, về khách quan, nó là một bộ phận của cách mạng vô sản thế giới. Đã thuộc
phạm trù cách mạng vô sản thì đương nhiên, độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội. Những luận điểm của V.I.Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa đã
giải đáp những vấn đề cơ bản và chỉ dẫn hướng phát triển của sự nghiệp cứu
nước, giải phóng dân tộc, phù hợp với tư tưởng yêu nước, thương dân của
Nguyễn Ái Quốc. Lý luận của V.I.Lênin và lập trường đúng đắn của Quốc tế
Cộng sản về cách mạng giải phóng các dân tộc thuộc địa là cơ sở để Nguyễn Ái
Quốc xác định thái độ ủng hộ việc gia nhập Quốc tế Cộng sản tại Đại hội lần thứ
XVIII của Đảng Xã hội Pháp (12-1920) họp tại thành phố Tour (Tua). Tại Đại 15
hội này, Nguyễn Ái Quốc đã bỏ phiếu tán thành Quốc tế III (Quốc tế Cộng sản do V.I.Lênin thành lập).
Ngay sau đó, Nguyễn Ái Quốc cùng với những người vừa bỏ phiếu tán
thành Quốc tế Cộng sản đã tuyên bố thành lập Phân bộ Pháp của Quốc tế Cộng
sản- tức là Đảng Cộng sản Pháp. Với sự kiện này Nguyễn Ái Quốc trở thành một
trong những sáng lập viên của Đảng Cộng sản Pháp và là người cộng sản đầu
tiên của Việt Nam, đánh dấu bước chuyển biến quyết định trong tư tưởng và lập
trường chính trị của Nguyễn Ái Quốc “muốn cứu nước và giải phóng dân tộc,
không có con đường nào khác ng à
o i con đường cách mạng vô sản”. Trong
những năm 1919-1921, Bộ trưởng thuộc địa Pháp Arlbert Sarraut (An be xa rô)
nhiều lần gặp Nguyễn Ái Quốc mua chuộc, đe dọa.
Ngày 30-6-1923, Nguyễn Ái Quốc tới Liên Xô và làm việc tại Quốc tế
Cộng sản ở Mátxcơva, tham gia nhiều hoạt động, đặc biệt là dự và đọc tham luận
tại Đại hội V Quốc tế Cộng sản (17-6 - 8-7-1924), làm việc trực tiếp ở Ban
Phương Đông của Quốc tế Cộng sản.
Đây cũng là sự kiện mở ra cho cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam một
giai đoạn phát triển mới “giai đoạn gắn phong trào cách mạng Việt Nam với
phong trào công nhân quốc tế, đưa nhân dân Việt Nam đi theo con đường mà
chính Người đã trải qua, từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa Mác-
Lênin”17. Từ đây, phong trào cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam có khả
năng bước sang một giai đoạn mới-giai đoạn phát triển theo sự chỉ dẫn của lý
luận Mác-Lênin, gắn với phong trào công nhân quốc tế, đưa dân tộc Việt Nam
hướng theo mục tiêu của thời đại mới, thời đại mở đầu từ thắng lợi của cuộc
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917.
Sau này, Người nhớ lại: “Lúc đầu chính là chủ nghĩa yêu nước, chứ không
phải là chủ nghĩa cộng sản đã làm tôi tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ III.
Từng bước một trong cuộc đấu tranh, vừa nghiên cứu lý luận Mác-Lênin, vừa 16
làm công tác thực tế, dần dần tôi hiểu rằng chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa
cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động
trên thế giới khỏi ách nô lệ”.
Như vậy, qua quá trình thâm nhập thực tiễn rộng lớn đã giúp người thanh
niên yêu nước nhận thức rõ hơn, khái quát hơn những vấn đề mang tính chất
bước ngoặt quan trọng, đó là nhận ra diện mạo, bản chất của chủ nghĩa đế quốc,
chủ nghĩa thực dân: Ở đâu bọn đế quốc, thực dân cũng tàn bạo, độc ác; ở đâu
những người lao động cũng bị bóc lột, áp bức nặng nề và “dù màu da có khác
nhau, trên đời này chỉ có hai giống người: giống người bóc lột và giống người bị
bóc lột”. Nhận ra bản chất của các cuộc cách mạng qua nghiên cứu các cuộc
cách mạng của các nước tư bản chủ nghĩa: “Cách mệnh Pháp cũng như cách
mệnh Mỹ, nghĩa là cách mệnh tư bản. Cách mệnh không đến nơi, không triệt để,
tiếng nói là cộng hòa là dân chủ. Kỳ thực bên trong thì nó bóc lột công nông
trong nước, ở ngoài thì áp bức thuộc địa”. Bắt gặp lý tưởng của Chủ nghĩa Mác -
Lênin: Người đã tìm thấy con đường cứu nước giải phóng cho dân tộc - con
đường cách mạng vô sản. Sau này Người có kể lại: “Luận cương của Lênin đã
làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng
đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to lên như đang nói
trước quần chúng đông đảo: Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ! Đây là cái cần
thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng cho chúng ta”. Có thể khẳng
định, chính chủ nghĩa yêu nước đã đưa Nguyễn Ái Quốc tìm đến lý tưởng cao
quý của chủ nghĩa Mác - Lênin, với khát vọng mang lại hòa bình cho dân tộc,
Người đưa ra những thông điệp mang giá trị vĩnh hằng, đó là những thông điệp
về hòa bình, độc lập, tự do, hạnh phúc, dân chủ, đó chính là: độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội - con đường Người lựa chọn suốt 100 năm qua, nay vẫn
là sợi chỉ đỏ, là kim chỉ nam cho hoạt động cách mạng Việt Nam. 17
2.2. Nguyễn Ái Quốc đã tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin
vào trong nước và chuẩn bị những điều kiện cho sự thành lập
Đảng qua quá trình tích cực chuẩn bị về tư tưởng, chính trị và tổ chức
Sau khi xác định được con đường cách mạng đúng đắn, trở thành người
cộng sản, Nguyễn Ái Quốc tiếp tục khảo sát, tìm hiểu để hoàn thiện nhận thức về
đường lối cách mạng vô sản, đồng thời tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin
về Việt Nam nhằm chuẩn bị các tiền đề về tư tưởng, chính trị và tổ chức cho sự
ra đời của chính đảng cộng sản ở Việt Nam.
2.2.1. Về tư tưởng
Nguyễn Ái Quốc đã dùng ngòi bút của mình tích cực tố cáo, lên án bản chất
bóc lột của chủ nghĩa thực dân đối với nhân dân các nước thuộc địa và kêu gọi,
thức tỉnh nhân dân bị áp bức đấu tranh giải phóng. Người đã góp phần quan
trọng vào việc tố cáo tội ác của chủ nghĩa thực dân Pháp ở các thuộc địa. Chỉ rõ
bản chất của chủ nghĩa thực dân, xác định chủ nghĩa thực dân là kẻ thù chung
của các dân tộc thuộc địa, của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên thế
giới. Đồng thời tiến hành tuyên truyền tư tưởng Mác - Lênin, xây dựng mối quan
hệ gắn bó giữa những người cộng sản và nhân dân lao động Pháp với các nước
thuộc địa và phục thuộc.
Vừa nghiên cứu lý luận, vừa tham gia hoạt động thực tiễn trong phong trào
cộng sản và công nhân quốc tế, dưới nhiều phương thức phong phú, Nguyễn Ái
Quốc đã tích cực tố cáo tội ác của chủ nghĩa thực dân đối với nhân dân các
thuộc địa, đồng thời tiến hành tuyên truyền tư tưởng Mác-Lênin, xây dựng mối
quan hệ gắn bó giữa những người cộng sản và nhân dân lao động Pháp với các
nước thuộc địa và phụ thuộc.
Người đã viết nhiều bài đăng trên báo Le Paria (Người cùng khổ),
L’Humanite (Nhân đạo), La Vie Ouvriere (Đời sống công nhân), La Revue 18
Communiste (Tạp chí Cộng sản), Báo Pravđa của Liên Xô.... Năm 1922, Ban
nghiên cứu thuộc địa của Đảng Cộng sản Pháp được thành lập, Nguyễn Ái Quốc
được cử làm Trưởng Tiểu ban Nghiên cứu về Đông Dương.
Khi Người sang hoạt động ở Liên Xô tham dự và trình bày các tham luận
tại đại hội của các tổ chức mang tính quốc tế: Đại hội Quốc tế nông dân, Quốc tế
thanh niên, Quốc tế phụ nữ, Quốc tế cứu tế đỏ,… Các bài tham luận của Người
đã chỉ rõ sự cần thiết phải thủ tiêu hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc,
đồng thời tuyên truyền tư tưởng của V.I.Lênin soi sáng con đường cách mạng
con đường phát triển của cách mạng thuộc địa.
Đặc biệt, tại Đại hội lần thứ V của Quốc tế Cộng sản (họp từ ngày 17-6 đến
18-7-1924) , Người đã trình bày bản báo cáo rất quan trọng về vấn đề dân tộc và
thuộc địa. Bằng nhiều số liệu và tư liệu cụ thể, bản báo cáo đã làm sáng rõ và
phát triển một số luận điểm của V.I.Lênin về bản chất của chủ nghĩa thực dân, về
nhiệm vụ của các đảng cộng sản trên thế giới trong cuộc đấu tranh chống áp bức
bóc lột và giải phóng đấu tranh ở các thuộc địa. Năm 1925, cuốn sách Bản án
chế độ thực dân Pháp được xuất bản lần đầu tiên ở Pari, đã tố cáo, kết tội chế độ
bóc lột, cai trị của thực dân Pháp đối với các nước thuộc địa, thức tỉnh nhân dân
các dân tộc bị áp bức nói chung, nhân dân Việt Nam nói riêng.
Đây là sự chuẩn bị quan trọng về tư tưởng, lý luận cho quá trình thành lập
Đảng, như Nguyễn Ái Quốc đã xác định: “Đảng muốn vững phải có chủ nghĩa
làm cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà
không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ
nam. Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, những chủ nghĩa chân chính
nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”.
2.2.2. Về chính trị:
Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã hình thành một hệ thống luận điểm chính trị:
Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc khẳng định con đường cách mạng của các dân tộc bị áp 19
bức; xác định cách mạng giải phóng dân tộc là một bộ phận của cách mạng vô
sản thế giới; xác định lực lượng cách mạng; xác định vai trò lãnh đạo của Đảng;
cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân. Những luận điểm ấy sau này
phát triển thành những nội dung cơ bản trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng.
Xuất phát từ thực tiễn cách mạng thế giới và đặc điểm của phong trào giải
phóng dân tộc ở các nước thuộc địa, kế thừa và phát triển quan điểm của
V.I.Lênin về cách mạng giải phóng dân tộc, Nguyễn Ái Quốc đưa ra những luận
điểm quan trọng về cách mạng giải phóng dân tộc. Đường lối cách mạng được
phác thảo rõ nét nhất là ở nội dung các bài giảng của Nguyễn Ái Quốc cho Hội
Việt Nam Cách mạng thanh niên từ năm 1925 đến năm 1927, được Hội Liên
hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á Đông tập hợp, in trong cuốn Đường Cách mệnh.
Trong đó, trước hết, Người khẳng định rằng, con đường cách mạng của các dân
tộc bị áp bức là giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc; cả hai cuộc giải phóng
này chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản. Đường lối chính trị của Đảng
cách mạng phải hướng tới độc lập cho dân tộc tự do, hạnh phúc cho đồng bào,
hướng tới xây dựng Nhà nước mang lại quyền và lợi ích cho nhân dân.
Người xác định cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa là một
bộ phận của cách mạng vô sản thế giới; giữa cách mạng giải phóng dân tộc ở các
nước thuộc địa với cách mạng vô sản ở “chính quốc” có mối quan hệ chặt chẽ
với nhau, hỗ trợ cho nhau, nhưng cách mạng giải phóng dân tộc ở nước thuộc địa
không phụ thuộc vào cách mạng vô sản ở “chính quốc” mà có thể thành công
trước cách mạng vô sản ở “chính quốc”, góp phần tích cực thúc đẩy cách mạng
vô sản ở “chính quốc”.
Đối với các dân tộc thuộc địa, Người chỉ rõ: trong nước nông nghiệp lạc
hậu, nông dân là lực lượng đông đảo nhất, bị đế quốc, phong kiến áp bức, bóc lột
nặng nề, vì vậy phải thu phục và lôi cuốn được nông dân, phải xây dựng khối