








Preview text:
lOMoAR cPSD| 58702377
Vai trò của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trong việc thành lập Đảng Cộng sản
1. Tìm thấy con đường cứu nước đúng đắn (1911 - 1920)
2. Chuẩn bị mọi điều kiện thành lập Đảng (1921 - 1929)
3. Chủ động triệu tập và trực tiếp chủ trì hội nghị thành lập Đảng (1930)
4. Soạn thảo Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt của Đảng
1. Tìm thấy con đường cứu nước đúng đắn (1911 - 1920)
Bối cảnh: Dân tộc khủng hoảng về đường lối cứu nước; Con đường cứu nước lối cũ không thành công Pháp
5/6/1911: Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước.
Từ bến cảng Nhà Rồng, dừng chân ở cảng Marseille (dừng chân ngắn), và rồi ở cảng Le Havre, Dunkirk và trở lại Marseille 3 tháng sau đó.
Nguyên nhân: Nguyễn Ái Quốc đã chọn Pháp vì đây là nơi có nhiều phong trào cách mạng, tư tưởng cộng sản phát triển mạnh. Mục đích:
“Khi tôi độ mười ba tuổi, lần đầu tiên tôi được nghe ba chữ Pháp: 'Tự do, bình đẳng, bác ái'. Đối với chúng
tôi, người da trắng nào cũng là người Pháp. Người Pháp đã nói thế. Và từ thuở ấy tôi rất muốn làm quen
với nền văn minh Pháp, muốn tìm xem những gì ẩn giấu đằng sau những chữ ấy.” (trả lời phỏng vấn báo Nga năm 1923)
“Nhân dân Việt Nam [...] lúc này thường tự hỏi nhau ai sẽ là người giúp mình thoát khỏi ách thống trị của
Pháp. Người này nghĩ là Anh, có người lại cho là Mỹ. Tôi thấy phải đi ra nước ngoài xem cho rõ. Sau khi xem
xét họ làm ăn ra sao, tôi sẽ trở về giúp đồng bào tôi.” (trả lời phỏng vấn nhà văn Mỹ)
Những ngày đầu tiên trên đất Pháp, được chứng kiến ở Pháp cũng có những người nghèo như ở Việt Nam, anh nhận
thấy có những người Pháp trên đất Pháp tốt và lịch sự hơn những tên thực dân Pháp ở Đông Dương.
Viết lá thư cho Tổng thống Cộng hòa Pháp, xin được tham dự Trường Thuộc địa (Colonial) - trường đào tạo quan chức chính
phủ Đông Dương - với tư cách là một thực tập sinh, song bị từ chối. Châu Phi, Châu Mỹ
1912: Tới cảng Le Havre, làm vườn cho một người chủ tàu và bắt đầu học tiếng Pháp; làm thuê cho tàu, đi khắp các thuộc địa ở châu Phi.
Đến đâu anh cũng thấy cảnh khổ cực của người lao động dưới sự áp bức bóc lột dã man, vô nhân đạo của bọn thống trị.
Anh liên tưởng một cách tự nhiên đến số phận của người dân Việt Nam, đồng bào khốn khổ của anh. Họ cũng là nạn nhân
của sự hung ác, vô nhân đạo của bọn thực dân.
“Người Pháp ở Pháp đều tốt. Nhưng người Pháp ở thuộc địa lại bạo tàn và vô nhân đạo. Ở đâu cũng vậy. Tôi
đã chứng kiến sự đối xử tương tự ở Phan Rang. Người Pháp đã cười phá lên đầy vui vẻ trong khi những
người yêu nước của chúng ta đang bị chết đuối. Đối với thực dân, mạng sống của một người châu Á, châu Phi không là gì.”
Bài học: Tại đây, Nguyễn Ái Quốc đã học hỏi về chế độ chính trị, xã hội, và tìm hiểu về các cuộc cách mạng. Anh nhận thấy
rằng ở đâu đế quốc, thực dân cũng tàn bạo, độc ác; và người lao động bị bóc lột. Bài học quan trọng từ Pháp là sự đoàn kết
của nhân dân lao động để đấu tranh chống kẻ thù chung là giai cấp thống trị. lOMoAR cPSD| 58702377 Mỹ
Theo con tàu lênh đênh qua nhiều nơi, và rồi dừng lại ở Mỹ cuối năm 1912.
Tìm hiểu cuộc đấu tranh giành độc lập của nhân dân Mỹ với bản Tuyên ngôn độc lập nổi tiếng trong lịch sử. Thăm khu ổ
chuột Harlem (Upper Manhattan, NYC) để tìm hiểu đời sống và cuộc đấu tranh phân biệt chủng tộc của những người da đen.
Dừng chân ở nước Mỹ không lâu nhưng Nguyễn Tất Thành đã sớm nhận ra bộ mặt thật của đế quốc Hoa Kỳ. Đằng sau
khẩu hiệu "cộng hòa dân chủ" của giai cấp tư sản Mỹ là những thủ đoạn bóc lột nhân dân lao động rất tàn bạo. Anh cảm
thông sâu sắc với đời sống của người dân lao động da đen và rất căm giận bọn phân biệt chủng tộc, hành hình người da đen
một cách man rợ, mà sau này anh đã viết lại trong bài báo Hành hình kiểu Linsơ.
Bài học: Nguyễn Tất Thành nhận thấy rằng dù màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống người: người bóc lột và người bị bóc lột. Anh
1913: Theo tàu rời Mỹ trở về La Havre, sau đó sang London. Nguyễn Ái Quốc đã làm nhiều công việc khác nhau để kiếm sống,
như cào tuyết, đốt lò than, phụ bếp, rửa bát, làm bánh, v.v. Công việc hết sức nặng nhọc, nhưng sau mỗi ngày anh đều tranh
thủ thời gian học tiếng Anh.
Hăng hái tham dự những cuộc diễn thuyết ngoài trời của nhiều nhà chính trị và triết học, tham gia Hiệp hội công nhân nước
ngoài; ủng hộ cuộc đấu tranh yêu nước của nhân dân Ireland.
“Can đảm biết bao! Dũng cảm biết bao! Một dân tộc có những người như ông Cork sẽ không bao giờ đầu hàng.” - ca
tụng ông Terence MacSwiney, thị trưởng thành phố Cork đã tuyệt thực trong nhà tù để đấu tranh chống đế quốc Anh. Pháp (lần 2)
Cuối 1917 (height of WWI): Từ Anh trở lại Pháp để có điều kiện trực tiếp hoạt động trong phong trào Việt kiều và phong
trào công nhân Pháp. Nguyễn Tất Thành bắt đầu tham dự các cuộc họp của Đảng Xã hội Pháp.
"Tổ chức duy nhất theo đuổi lý tưởng cao quý của Đại cách mạng Pháp: 'Tự do, bình đẳng, bác ái'" - NTT described
Nguyễn Tất Thành định thành lập cơ quan liên lạc với các nhóm công nhân giữa Anh và Pháp. Các hoạt động công
đoàn của Nguyễn Tất Thành nhanh chóng đưa ông liên hệ với các chính trị gia cánh tả (leftists).
Đầu 1919: Gia nhập Đảng Xã hội Pháp
T6/1919: Nguyễn Tất Thành biết được tin về Hội nghị Versailles. Thay mặt Hội những người yêu nước Việt Nam tại Pháp,
Nguyễn Tất Thành cùng Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường thảo ra bản Yêu sách của nhân dân An Nam gửi tới Hội nghị
Versailles - là một đơn kiến nghị gửi đến Tổng thống Mỹ (Woodrow Wilson) với hi vọng có sự can thiệp để giải phóng Việt Nam
khỏi chế độ thuộc địa. Đây chính là lúc ông lấy tên là Nguyễn Ái Quốc trong bản kiến nghị.
Context: Hội nghị Hòa bình Quốc tế (Versailles) là Hội nghị của các nước thắng trận trong WWI. Tổng thống Mỹ tuyên
bố bảo đảm về quyền dân tộc tự quyết cho các nước thuộc địa.
Bản yêu sách không được chấp nhận nhưng đã tạo tiếng vang trong dư luận quốc tế, làm NAQ càng hiểu rõ hơn
bản chất của đế quốc, thực dân: “Muốn được giải phóng, các dân tộc chỉ có thể trông cậy vào mình, trông cậy
vào lực lượng của bản thân mình.”
T7/1920: Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin được Quốc
tế II thông qua, vạch ra đường lối cơ bản cho phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa, giành độc lập cho dân tộc và tự do cho đồng bào.
“Luận cương của Lênin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng
đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to lên như đang nói trước quần chúng đông
đảo: 'Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng
chúng ta!' Từ đó, tôi hoàn toàn tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba.” lOMoAR cPSD| 58702377
Quốc tế Cộng sản đã kiên quyết ủng hộ phong trào giải phóng dân tộc ở các nước phương Đông. Từ bản Luận
cương của Lênin, Nguyễn Ái Quốc đã tìm thấy phương hướng và đường lối cơ bản của phong trào cách mạng giải
phóng dân tộc, trong đó có cách mạng Việt Nam. Niềm tin ấy là cơ sở tư tưởng để Nguyễn Ái Quốc vững bước đi
theo con đường cách mạng triệt để của Chủ nghĩa Mác-Lênin.
25-30/12/1920: NAQ tham dự Đại hội XVIII Đảng Xã hội Pháp với tư cách là đại biểu chính thức.
Tố cáo những sự tàn bạo mà bọn thực dân Pháp đã gây ra ở Đông Dương, và cho rằng: “Đảng Xã hội cần phải hoạt
động một cách thiết thực để ủng hộ những người bản xứ bị áp bức”, rằng “Đảng phải tuyên truyền chủ nghĩa
xã hội trong tất cả các nước thuộc địa… đánh giá đúng tầm quan trọng của vấn đề thuộc địa…”. Nguyễn Ái
Quốc kết thúc bài phát biểu bằng lời kêu gọi thống thiết: “Nhân danh toàn thể loài người, nhân danh tất cả các
đảng viên xã hội, cả phái hữu lẫn phái tả, chúng tôi kêu gọi: Các đồng chí, hãy cứu chúng tôi!”
Bỏ phiếu tán thành tham gia Quốc tế Cộng sản, trở thành một trong những người thành lập Phân bộ Pháp
của Quốc tế Cộng Sản - tức Đảng Cộng sản Pháp, đồng thời trở thành người cộng sản Việt Nam đầu tiên.
Bài học: Đây là một sự kiện chính trị vô cùng quan trọng trong đời hoạt động cách mạng của Nguyễn Ái
Quốc và trong lịch sử cách mạng nước ta. Nếu như cuộc đấu tranh của Nguyễn Ái Quốc tại Hội nghị Versailles năm
1919 mới là phát pháo hiệu thức tỉnh nhân dân ta trong sự nghiệp đấu tranh chống thực dân Pháp, thì việc Người
tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp năm 1920 đã đánh dấu một bước chuyển biến quyết định, bước nhảy vọt, thay
đổi về chất trong nhận thức tư tưởng và lập trường chính trị của Người: từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa Mác - Lênin.
Việc Nguyễn Ái Quốc tiếp thu Chủ nghĩa Mác – Lênin đi từ chủ nghĩa yêu nước đến với Chủ nghĩa Mác – Lênin và
sau đó ra sức truyền bá Chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam đã thúc đẩy các phong trào công nhân và phong trào
yêu nước Việt Nam, cách mạng Việt Nam phát triển đúng hướng. Nga (1923)
Nguyên nhân: Cách mạng Tháng Mười Nga thành công (7/11/1917), phong trào cộng sản và công nhân quốc tế phát
triển mạnh mẽ; Nguyễn Ái Quốc nhận thấy mình “có mối tình đoàn kết với cách mạng Nga và người lãnh đạo cuộc cách mạng ấy”.
T6/1923: Nguyễn Ái Quốc đến Liên Xô và làm việc tại Quốc tế Cộng sản ở Moscow, trực tiếp nghiên cứu về cuộc Cách mạng
Tháng Mười Nga, chế độ xã hội chủ nghĩa và Nhà nước Xô viết.
“Trong thế giới bây giờ chỉ có cách mệnh Nga là đã thành công và thành công đến nơi, nghĩa là dân chúng
được hưởng cái hạnh phúc, tự do, bình đẳng thật, không phải tự do và bình đẳng giả dối như đế quốc chủ nghĩa
Pháp khoe khoang bên An Nam. Cách mệnh Nga đã đuổi được vua, tư bản, địa chủ rồi, lại ra sức cho công, nông
các nước và dân tộc bị áp bức các thuộc địa làm cách mạng để đập đổ tất cả đế quốc chủ nghĩa và tư bản trong
thế giới.” 17/6 - 8/7/1924: Dự và đọc tham luận tại Đại hội V QTCS.
Bài học: Những kiến thức trong những năm tháng ở nước Nga đã giúp Nguyễn Ái Quốc nhận thức sâu sắc hơn về V. I.
Lê-nin và học thuyết cách mạng của Người; về Cách mạng Tháng Mười Nga và những bài học kinh nghiệm quý báu của
Nhà nước Nga Xô viết, để từ đó tìm đường trở về Tổ quốc, hoạch định một lộ trình cho công cuộc giải phóng dân tộc ở Việt Nam.
Bài học kinh nghiệm
Như vậy, từ năm 1911 - 1920 là thời kỳ Nguyễn Ái Quốc khảo sát, nghiên cứu để lựa chọn con đường giải phóng dân tộc
Việt Nam khỏi ách nô lệ của bọn thực dân, phong kiến. Người đã vượt qua ba đại dương, bốn châu lục Á, Âu, Phi, Mỹ.
Trải qua những tháng năm lao động kiếm sống, thâm nhập đời sống thực tế của những người lao động nhiều nước trên thế
giới, Nguyễn Ái Quốc thấy rõ cảnh bất công, tàn bạo của xã hội tư bản, anh vô cùng xúc động trước đời sống khổ cực của
giai cấp công nhân và nhân dân lao động các nước. lOMoAR cPSD| 58702377
Trải nghiệm thực tế giúp người nhận ra trên đời chỉ có 2 loại người - người bóc lột và người bị bóc lột - từ đó xác định
rõ kẻ thù và lực lượng đồng minh của nhân dân các dân tộc bị áp bức
Đến một số nước thuộc địa châu Phi, Người thấy rõ ở đâu người dân mất nước cũng khổ cực như nhau.
Bước đầu anh rút ra kết luận quan trọng là: ở đâu CNTB cũng tàn ác và vô nhân đạo, ở đâu nhân dân lao động cũng bị áp
bức, bóc lột rất dã man; các dân tộc thuộc địa đều có một kẻ thù chung là bọn đế quốc thực dân.
Anh nhận rõ giai cấp công nhân và nhân dân lao động các nước đều là bạn, chủ nghĩa đế quốc ở đâu cũng là kẻ thù. Sau
này anh đã khái quát thành một chân lý: *"Dù màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống người: giống người bóc
lột và giống người bị bóc lột. Mà cũng chỉ có một tình hữu ái là thật mà thôi: tình hữu ái vô sản".
NAQ từ thực tế lao động, thâm nhập đời sống những người lao động; học tập, tìm hiểu cách mạng Tư sản Mỹ (1776), Cách
mạng Tư sản Pháp (1789), nghiên cứu hệ thống thuộc địa của CNTB, tìm hiểu chủ nghĩa Wilson, phân tích tình hình chính
trị thế giới… và rút ra kết luận về con đường cách mạng tư sản: mang tiếng là cộng hoà dân chủ nhưng kỳ thực trong nó
tước đoạt công nông, ngoài nó áp bức thuộc địa; do đó Người đã kiên quyết không đi theo con đường này.
NAQ tiếp cận với chủ nghĩa Mác - Lênin (trực tiếp là Đề cương về dân tộc và thuộc địa của Lênin), tìm hiểu phong trào cách
mạng thế giới và CMT10 Nga, Nguyễn Ái Quốc đã lựa chọn con đường cứu nước đúng đắn, đó là con đường cách mạng vô
sản mà sau này Người đã đúc kết: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường
cách mạng vô sản”.
2. Chuẩn bị mọi điều kiện thành lập Đảng (1921 - 1929)
1921-1930: NAQ ra sức truyền bá CNML, lý tưởng của CMT10 Nga, tư tưởng vô sản vào phong trào công nhân và phong
trào yêu nước Việt Nam. Người tích cực chuẩn bị về đường lối chính trị, tư tưởng, tổ chức cho sự ra đời của một chính
đảng vô sản ở Việt Nam. Về tư tưởng
1921: Người tham gia thành lập Hội Liên hiệp Thuộc địa. Người sáng lập tờ báo Người cùng khổ - tờ báo của Hội
Liên hiệp Thuộc địa. Người viết nhiều bài trên các báo: Nhân đạo, Đời sống công nhân, Tạp chí Cộng sản, Tập san Thư tín quốc tế,...
1922: Người làm Trưởng Tiểu ban Nghiên cứu về Đông Dương trong Ban Nghiên cứu thuộc địa của Đảng Cộng sản Pháp.
Tích cực viết các sách báo tố cáo tội ác man rợ của bọn đế quốc thực dân, qua đó thức tỉnh các tầng lớp nhân dân đứng lên đấu tranh.
1927: Các bài giảng của Nguyễn Ái Quốc trong các lớp đào tạo, bồi dưỡng cho những người Việt Nam yêu nưóc tại Quảng
Châu, được Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á Đông xuất bản thành cuốn Đường cách mệnh.
“Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa
ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng giống như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam.”
Xác định rõ con đường, mục tiêu, lực lượng và phương pháp đấu tranh của cách mạng.
Truyền bá hết sức phong phú và đa dạng, dễ gần, dễ hiểu về tư tưởng vô sản, lý luận Mác - Lênin vào phong trào
công nhân và phong trào yêu nưốc Viẹt Nam.
Thể hiện tư tưởng nổi bật của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc dựa trên cơ sở vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin
vào đặc điểm của Việt Nam. Về chính trị Mục tiêu chiến lược Nhiệm vụ trước mắt Lực lượng cách mạng lOMoAR cPSD| 58702377 Người lãnh đạo Phương pháp cách mạng Quan hệ quốc tế Thực hiện phong trào Mục tiêu
Con đường cách mạng của các dân tộc bị áp bức là giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, cả hai cuộc
Nhiệm vụ trước mắt
Cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa là một bộ phận của cách mạng vô sản thế giới, phải thành công
trước để thúc đẩy cách mạng vô sản.
Phải thu phục và lôi cuốn được nông dân, phải xây dựng khối liên minh công - nông làm động lực cách mạng. Bởi
ở nước nông nghiệp lạc hậu, nông dân là lực lượng đông đảo nhất, bị đế quốc, phong kiến áp bức, bóc lột nặng nể.
Lực lượng cách mạng:
“Công nông là gốc cách mệnh; còn học trò, nhà buôn nhỏ, điền chủ nhỏ... là bầu bạn cách mệnh, của công nông.”
Cách mạng “là việc chung của cả dân chúng chứ không phải là việc của một hai người.” Người lãnh
đạo - Đảng Cộng sản:
“Trước hết phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân
tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững
thuyền mới chạy.” (Đường cách mệnh)
Từ 29/9/1928: Phong trào Vô sản hóa do Kỳ bộ Bắc Kỳ Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên phát động đã góp phần truyền
bá tư tưởng vô sản, rèn luyện cán bộ về xây dựng, phát triển tổ chức của công nhân. Về tổ chức
T11/1924: Người đến Quảng Châu (Trung Quốc), nơi có đông người Việt Nam yêu nước hoạt động, để xúc tiến các công
việc tổ chức thành lập Đảng Cộng sản.
T2/1925: Lập nhóm Cộng sản đoàn từ một số thanh niên tích cực trong Tâm tâm xã.
T6/1925: Thành lập tổ chức Hội Việt Nam cách mạng thanh niên để tập hợp các chiến sĩ yêu nước Việt Nam tại
Quảng Châu (Trung Quốc), nòng cốt là Cộng sản Đoàn.
Xuất bản tờ báo Thanh niên do NAQ sáng lập và trực tiếp chỉ đạo, tuyên truyền tôn chỉ, mục đích của Hội; tuyên
truyền CNML và phương hướng phát triển cuộc vận động giải phóng dân tộc Việt Nam. Một số lượng lớn báo được
bí mật đưa về nước và tới các trung tâm phong trào yêu nước của người Việt Nam ở nước ngoài.
21/6/1925: Thanh niên ra số báo đầu tiên, đánh dấu sự ra đời của báo chí cách mạng Việt Nam.
Tổ chức huấn luyện, đào tạo hàng trăm chiến sĩ cách mạng. Đây là những "hạt giống đỏ", là nguồn nhân lực đầu tiên
vô cùng quý báu cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Giữa 1925 - T4/1927: Hội đã tổ chức được trên 10 lởp huấn luyện tại nhà số 13A và 13B đường Văn Minh, Quảng Châu.
Sau khi được đào tạo, các hội viên được cử về nưốc xây dựng và phát triển phong trào cách mạng theo khuynh
hướng vô sản; có nhiều đồng chí được cử đi học trường Đại học Phương Đông (Liên Xô) và trường Quân sự Hoàng Phô (Trung Quốc).
1926-1927: Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên bắt đầu phát triển cơ sở, thành lập các kỳ bộ. Đây là tổ chức tiền thân của
Đảng Cộng sản Việt Nam. lOMoAR cPSD| 58702377
Hội là tổ chức trực tiếp truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam, là sự chuẩn bị quan trọng về tổ chức để tiến tới
thành lập chính đảng của giai cấp công nhân ở Việt Nam.
Những hoạt động của Hội có ảnh hưởng và thúc đẩy mạnh mẽ sự chuyển biến của phong trào công nhân, phong
trào yêu nước Việt Nam những năm 1928 - 1929 theo xu hướng cách mạng vô sản.
3. Chủ động triệu tập và trực tiếp chủ trì hội nghị thành lập Đảng (1930) Hoàn cảnh
Các tổ chức cộng sản lần lượt ra đời:
17/6/1929: Đông Dương Cộng sản Đảng ra đời (Kỳ bộ Bắc Kỳ của Hội VNCMTN).
T9/1929: Đông Dương Cộng sản Liên đoàn ra đời (Trung Kỳ) từ một tổ chức thanh niên yêu nước có tên Tân
Việt Cách mạng Đảng.
T8/1929: An Nam Cộng sản Đảng ra đời (Kỳ bộ Nam Kỳ của Hội VNCMTN).
Cuối 1929: Những người cách mạng Việt Nam trong các tổ chức cộng sản đã nhận thức được sự cần thiết và cấp
bách - cần phải nhanh chóng thành lập một Đảng Cộng sản thống nhất, từ đó chấm dứt tình trạng mâu thuẫn, chia rẽ
phong trào cộng sản ở Việt Nam.
6/1 - 7/2/1930: Nguyễn Ái Quốc đã chủ động tổ chức và chủ trì (với tư cách là phái viên của Quốc tế Cộng sản) Hội nghị hợp
nhất Đảng tại Cửu Long (Hồng Kông).
Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
Quyết định hợp nhất các tổ chức Đảng (Đông Dương Cộng sản Đảng, An Nam Cộng sản Đảng, Đông Dương Cộng
sản Liên đoàn) thành Đảng Cộng sản Việt Nam.
Đông Dương Cộng sản Liên đoàn được chấp nhận gia nhập Đảng vào ngày 24/2/1930
Thảo luận và thông qua các văn kiện do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo:
Chánh cương vắn tắt của Đảng, Sách lược vắn tắt của Đảng. Phản ánh về đường hưởng phát triển và
những vấn đề cơ bản về chiến lược và sách lược của cách mạng Việt Nam. Hai văn kiện là Cương lĩnh chính trị đầu tiên của ĐCSVN.
Chương trình tóm tắt của Đảng về cách tổ chức các đoàn thể quần chúng.
Điều lệ vắn tắt của Đảng về công hội, nông hội, hội thanh niên, hội phụ nữ, hội phản đế đồng minh (tức là mặt
trận dân tộc thống nhất chống đế quốc).
Đại hội III (1960) lấy ngày 3/2/1930 - ngày mà Đảng Cộng sản Việt Nam chính thức công bố Cương lĩnh chính trị đầu
tiên của mình - là ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Thành lập Ban chấp hành Trung ương lâm thời.
Nguyễn Ái Quốc ra Lời kêu gọi nhân dịp thành lập Đảng.
Ý nghĩa lịch sử của việc thành lập ĐCSVN
Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản ở Việt Nam mang tầm vóc một Đại hội thành lập Đảng. Hội nghị đã quy tụ toàn bộ
phong trào công nhân và phong trào yêu nước dưới sự lãnh đạo của một đội tiên phong duy nhất của cách mạng, với
đường lối cách mạng đúng đắn, dẫn tới sự thống nhất về tư tưởng, chính trị và hành động của phong trào cách mạng cả
nước, hướng tới mục tiêu chung là độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội.
“Việc thành lập Đảng là bước ngoặt vô cùng quan trọng trong lịch sử cách mạng Việt Nam. Nó chứng tỏ rằng
giai cấp vô sản ta đã trưởng thành và đủ sức lãnh đạo cách mạng.” (NAQ) lOMoAR cPSD| 58702377
Quyết định hợp nhất Đảng là bước ngoặt căn bản trong lịch sử cách mạng nước ta, chấm dứt thời kỳ bế tắc,
khủng hoảng về đường lối cứu nước, là sự kiện đặt nền móng cho toàn bộ quá trình phát triển của cách mạng ở
Việt Nam từ đó về sau, dưới sự lãnh đạo của Đảng. lOMoAR cPSD| 58702377
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời cũng chính là kết quả tất yếu của cuộc đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp, là một
sự xác lập về vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân Việt Nam và hệ tư tưởng Mác- Lênin đối với cách mạng ở Việt
Nam; khẳng định quá trình từ đấu tranh tự phát đến đấu tranh tự giác.
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam cũng chính là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công
nhân và phong trào yêu nước của nhân dân Việt Nam, là sự kiện gắn liền với tên tuổi của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc.
Đảng Cộng sản Việt Nam cũng chính là một bộ phận của phong trào cách mạng thế giới; việc thành lập Đảng cũng đã tranh
thủ được sự ủng hộ to lớn của cách mạng thế giới, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại làm nên những thắng lợi vẻ vang.
4. Cương lĩnh tóm tắt
Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt được thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng tuy còn sơ lược, nhưng đã vạch ra đường lối
cơ bản, đúng đắn cho cách mạng tư sản dân quyền ở Việt Nam. Nội dung
Mục tiêu / Đường lối / Phương hướng chiến lược: “Chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ
địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản.”
Nhiệm vụ chủ yếu: “Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến, làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập.”
Chống đế quốc và chống phong kiến là nhiệm vụ cơ bản để giành độc lập cho dân tộc và ruộng đất cho dân cày, trong
đó chống đế quốc, giành độc lập cho dân tộc được đặt ở vị trí hàng đầu. Xã hội:
“a) Dân chúng được tự do tổ chức; b)
Nam nữ bình quyền, v.v.;
c) Phổ thông giáo dục theo công nông hoá” Kinh tế:
Tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc, phong kiến để làm của công và chia cho dân nghèo; bỏ sưu thuế cho dân cày nghèo;
Thành lập Chính phủ công nông binh quản lý các sản nghiệp lớn của đế quốc, và tổ chức quân đội công nông;
Chuẩn bị và lãnh đạo nông dân nghèo làm cách mạng ruộng đất, mở mang công nghiệp và nông nghiệp; thi hành
luật ngày làm tám giờ...
Lực lượng cách mạng: đoàn kết công nhân, nông dân - đây là lực lượng cơ bản, trong đó giai cấp công nhân lãnh
đạo; đồng thời chủ trương đoàn kết tất cả các giai cấp, các lực lượng tiến bộ, yêu nước để tập trung chống đê quốc và tay sai.
Đảng phải thu phục cho được công nông và làm cho giai cấp công nhân lãnh đạo được đông đảo quần chúng; đồng
thời “phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông… để kéo họ về phía vô sản giai cấp”.
Đối với phú nông, trung tiểu địa chủ và tư sản Việt Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng hoặc trung
lập. Bộ phận nào đã rõ mặt phản cách mạng thì phải đánh đổ.
Đây là cơ sở của tư tưởng chiến lược đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng khối đại đoàn kết rộng rãi các giai cấp, các
tầng lớp nhân dân yêu nưốc và các tô chức yêu nước, cách mạng, trên cơ sở đánh giá đúng đắn thái độ các giai cấp phù
hợp với đặc điểm xã hội Việt Nam.
Phương pháp tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc: phải bằng con đường bạo lực cách mạng của quần chúng,
không thỏa hiệp dưới bất kì hoàn cảnh nào.
Tinh thần đoàn kết quốc tế: Cách mạng Việt Nam liên hệ mật thiết và là một bộ phận của cách mạng vô sản thế giới,
Đảng nêu cao chủ nghĩa quốc tế và mang bản chất quốc tế của giai cấp công nhân.
“Trong khi tuyên truyền cái khẩu hiệu nước An Nam độc lập, phải đồng tuyên truyền và thực hành liên lạc
với bị áp bức dân tộc và vô sản giai cấp thế giới.” Vai trò lãnh đạo của Đảng:
“Đảng là đội tiên phong của vô sản giai cấp phải thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình, phải làm
cho giai cấp mình lãnh đạo dược dân chúng.” lOMoAR cPSD| 58702377
“Đảng là đội tiên phong của đạo quân vô sản gồm một số lớn của giai cấp công nhân và làm cho họ có
đủ năng lực lãnh đạo quần chúng.”
Nhận xét về Cương lĩnh
Dù "vắn tắt", nhưng Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng đã phản ánh một cách súc tích những vấn đề cơ bản trưốc mắt
và lâu dài cho cách mạng Việt Nam, đưa cách mạng Việt Nam sang một trang sử mới.
Nội dung cơ bản của Cương lĩnh đã giải đáp đúng yêu cầu khách quan của xã hội Việt Nam dưới chế độ thuộc địa nửa
phong kiến trong những năm 1920s, giải quyết đúng hai mâu thuẫn cơ bản trong xã hội (mâu thuẫn giai cấp và mâu thuẫn dân tộc).
Cương lĩnh đã có những nhận thức đúng đắn về những vấn đề chiến lược, liên quan đến sự thành bại của cách mạng mà các
nhà yêu nước trước đây chưa thể nào đạt tới.
Đánh giá đúng đắn, sát thực thái độ các giai cấp xã hội đối với nhiệm vụ giải phóng dân tộc.
Vạch rõ mục tiêu cách mạng, chỉ đúng kẻ thù; vạch ra đường lối chiến lược và sách lược, đồng thời xác định phương
pháp cách mạng, nhiệm vụ cách mạng, lực lượng cách mạng và lực lượng lãnh đạo cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc
và giai cấp theo đường lối đề ra.