

















Preview text:
lOMoAR cPSD| 61549570 MỤC LỤC NỘI DUNG TRANG PHẦN I. MỞ ĐẦU PHẦN II. NỘI DUNG
1. Nguyễn Ái Quốc đã tìm ra con đường đúng đắn cho cách mạng Việt
Nam: con đường cách mạng vô sản – mở tiền đề cho việc thành lập Đảng cộng sản.
1.1.Tiểu sử Nguyễn Ái Quốc
1.2. Hoàn cảnh đất nước ta trước khi Bác ra đi tìm đường cứu nước
1.3.Quá trình tìm đường cứu nước của Nguyên Ái Quốc
2. Sau khi tìm ra con đường cứu nước đúng đắn, Nguyễn Ái Quốc tích
cực chuẩn bị mọi mặt cho sự ra đời của một chính đảng tại Việt Nam
2.1. Chuẩn bị về tư tưởng
2.2.1. Thời kỳ ở Pháp (1919-1923)
2.1.2. Thời kì ở Liên Xô (1923-1924)
2.1.3. Thời kỳ ở Trung Quốc (1924-1927)
2.2. Chuẩn bị về tổ chức
2.2.1. Các tổ chức do người thành lập ra
2.2.2. Cách thức truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên
3. Năm 1930, Nguyễn Ái Quốc trực tiếp chủ trì Hội nghị hợp nhất thành
lập Đảng và soạn thảo cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
3.1. Nguyễn Ái Quốc đứng đầu trong hội nghị thành lập Đảng
3.2. Người đã soạn thảo ra cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
4. Liên hệ thực tiễn vai trò của Hồ Chí Minh đối với Đảng ta hôm nay
PHẦN III. KẾT LUẬN lOMoAR cPSD| 61549570
TÀI LIỆU THAM KHẢO PHẦN I. MỞ ĐẦU
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời ngày 3/2/1930 là sự kiện lịch sử có ý nghĩa trọng
đại, là một bước ngoặt vô cùng quan trọng trong lịch sử cách mạng Việt Nam, là sự
kiện đánh dấu một mốc son chói lọi trên con đường phát triển của dân tộc ta. Đảng
ra đời đã chấm dứt sự khủng hoảng về đường lối chính trị, về con đường cứu nước,
cứu dân, thống nhất đất nước, thoát khỏi ách áp bức của thực dân, phong kiến, thoát
khỏi bần cùng, lạc hậu. Chấm dứt sự khủng hoảng về giai cấp lãnh đạo phong trào
cách mạng Việt Nam, khẳng định giai cấp công nhân Việt Nam từ đây đã nắm quyền
tuyệt đối lãnh đạo cách mạng với đội tiền phong của nó là Đảng Cộng sản Việt Nam.
Đồng thời, sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam đã gắn cách mạng Việt Nam trở
thành một bộ phận khăng khít của phong trào cách mạng thế giới. Vì vậy, Đảng Cộng
sản Việt Nam ra đời chính là sự chuẩn bị tất yếu, quyết định cho những bước phát
triển nhảy vọt về sau của cách mạng và lịch sử dân tộc Việt Nam.
Những thành công mà Đảng ta đã đạt được ngày hôm nay có sự đóng góp rất lớn
của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc. Chính Người đã chuẩn bị các điều kiện về chính trị, tư
tưởng và tổ chức cho việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Người đã tìm ra con
đường cứu nước đúng đắn và truyền bá khuynh hướng vô sản cho tầng lớp thanh
niên yêu nước Việt Nam. Và cũng chính Người đã thống nhất 3 tổ chức cộng sản để
thành lập ra Đảng Cộng sản Việt Nam như hôm nay.
1. Lý do chọn đề tài:
Trong quá trình học tập, nhiên cứu học phần Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam,
việc thành lập Đảng là một trong những nội dung quan trọng nhất, đặt nền móng cho
một Đảng Công sản VN vững mạnh thống nhất về tư tưởng chính trị, lãnh đạo đât
nước ta qua 2 cuộc kháng chiến vĩ đại chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Và cho
mãi về sau Đảng Cộng Sản Việt Nam đã khéo léo, sáng suốt lãnh đạo, chỉ đạo đưa
đất nước ta từ một nước phải chịu hậu quả nặng nề sau chiến tranh thành một nước
vững mạnh và là một trong những quốc gia có tiềm năng phát triển hàng đầu trong
khu vực và trên thế giới. Từ nội dung đó, chúng em đặt ra câu hỏi “Ai hay tổ chức
nào là người tiên phong, thành lập Đảng?” và “Vai trò của cá nhân? Tổ chức đó với
việc thành lập Đảng là như thế nào?” Để trả lời cho hai câu hỏi trên, nhóm em quyết
định chọn đề tài “VAI TRÒ CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC TRONG VIỆC THÀNH
LẬP ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM”. lOMoAR cPSD| 61549570
2. Tổng quan đề tài :
Chứng kiến sự thất bại của phong trào yêu nước cuối 19 đầu 20 , vượt qua tầm
nhìn của người yêu nước đương thời người quyết định ra nước ngoài tìm con đg cứu
nước giải phóng dân tộc qua cuộc soong thưc tiễn ở khắp châu lục và qua nghiên
cứu các cuộc CM điển hình trên thế giời như CM TƯ SẢN MỸ 1776 , CM TƯ SẢN
PHÁP 1789 người đã rút ra kết luận chủ nghĩa đế quốc ở đâu cũng là thù và nhân
dân lao động bị áp bức trên thế giới đều là bạn .( chúng ta ko cô đơn )
Năm 1917, CMT10 Nga thành công đã tác động trực tiếp đến quá trình tìm đường cứu nước của Người.
Năm 1919, thay mặt những người Việt Nam yêu nước tại Pháp, Người đã gửi tới
hội nghị Véc-xây, Bản yêu sách của nhân dân An Nam, tuy ko được chấp thuận
nhưng đây là đòn đầu tiên tấn công vào chủ nghĩa đế quốc và đã gây tiếng vang lớn
ở Pháp cũng như ở trong nước
- Năm 1920, người tham gia sáng lập Đảng cộng sản Pháp và bỏ phiếu tán thành
quốc tế thứ ba của Lê nin.
đánh dấu bước ngoặt trọng đại trong cuộc đời hoạt động CM của người đó là
TỪ CHỦ NGHĨA YÊU NƯỚC LẬP TRƯỜNG CỘNG SẢN ĐI THEO CHỦ NGHĨA MÁC LÊ NIN.
3. Mục đích nguyên cứu đề tài:
Mục đích của nghiên cứu đề tài này là hệ thống hóa các quá trình dẫn đến sự ra
đời của Đảng Cộng sản Việt Nam và nêu rõ vai trò của Nguyễn Ái Quốc trong việc
thành lập Đảng. Cũng từ đó giúp cho chúng ta hiểu rõ được ý nghĩa và công lao mà
Nguyễn Ái Quốc đã mang lại cho đất nước ta. Cũng như một lời nhắc nhở về mốc
son lịch sử, đánh dấu chính thức nước ta có Đảng lãnh đạo và chỉ huy về mọi mặt.
4. Phạm vi nguyên cứu của đề tài
Toàn bộ các hoàn cảnh lịch sử dẫn tới sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam, cụ
thể từng dấu mốc lịch sử từ việc nền phong kiến của nước ta sắp hoàn toàn sụp đổ,
những cuộc nổi dậy trong nước nổ ra ở khắp mọi nơi rồi từ từ bị đàn áp bởi thực dân
Pháp; cho đến khi người con kiệt xuất của dân tộc – Nguyễn Ái Quốc bôn ba hơn 30
năm để tìm đường cứu nước cho dân tộc.
5. Phương pháp nghiên cứu đề tài:
Đề tài kết hợp sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu khoa học cụ thể khác nhau
phương pháp lô-gic kết hợp với lịch sử, phương pháp phân tích và tổng hợp, phương lOMoAR cPSD| 61549570
pháp thống kê đối chiếu, so sánh từ đó làm nổi bật vai trò của Bác trong việc thành
lập Đảng Cộng Sản Việt Nam.
6. Đóng góp của đề tài:
Hệ thống hóa một cách có trình tự các mốc thời gian và các sự kiện lịch sử dẫn
đến sự thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam , đồng thời đề tài làm rõ từng quá trình
và nổi bật vai trò của Hồ Chủ Tịch trong việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Đề tài đi sâu, mà rộng, nên có thể làm tài liệu tham khảo cho các bài nghiên cứu,
tìm hiểu có cùng nội dung.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài ba phần chính của đề tài, phần nội dung chính của đề tài được kết cấu thành 3 phần, 6 tiết:
Phần 1: Nêu rõ ý nghĩa và sự thành công của NGUYỄN ÁI QUỐC TRONG VIỆC
THÀNH LẬP ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM.
Phần 2: Hoàn cảnh lịch sử , và từng bước NGUYỄN ÁI QUỐC về tư tưởng và về
mặt tổ chức rồi từ đó dẫn tới sự thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Phần 3: Liên hệ thực tiễn vai trò của Hồ Chí Minh đối với Đảng ta hôm nay. PHẦN II. NỘI DUNG
1. Nguyễn Ái Quốc đã tìm ra con đường đúng đắn cho cách mạng Việt Nam:
con đường cách mạng vô sản – mở tiền đề cho việc thành lập Đảng cộng sản.
1.1. Tiểu sử Nguyễn Ái Quốc
Nguyễn Ái Quốc (19/5/1890-2/9/1969), tên khai sinh là Nguyễn Sinh Cung, là
một nhà cách mạng, lãnh tụ của Đảng Cộng sản và nhân dân Việt Nam. Ông là người
sáng lập ra Đảng Cộng sản Việt Nam, từng là thủ tướng Biệt Nam dân chủ Cộng hòa
trong những năm 1945-1955, Chủ tịch nước từ năm 1951 đến khi qua đời.1
Nguyễn Sinh Cung, tự Tất Thành, quê nội là làng Kim Liên (tên Nôm là làng
Sen). Nguời được sinh ra lại quê ngoại là làng Hoàng Trù, và sống ở đến đến năm
1895. Hai làng đều thuộc xã Chung Cự, tổng Lâm Thịnh, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ
An. Ông sinh ra trong một làng quê nghèo, phần lớn người dân không có ruộng, phải
cày thuê, cấy rẽ. Nhưng bù lại Người được lớn lên trong gia đình tri thức, và một
miền quê đầy truyền thống cách mạng. Thân phụ Người là phó bảng Nguyễn Sinh
Sắc, thân mẫu là bà Hoàng Thị Loan. Ông có một người chị là Nguyễn Thị Thanh, lOMoAR cPSD| 61549570
một người anh là Nguyễn Sinh Khiêm (tự Tất Đạt) và một người em mất sớm là NGuyễn Sinh Nhuận. 2
Ngay từ thiếu thời, Người được tiếp nhận nhiều tri thức, kết hợp văn hóa Đông
tây và long yêu nước. Chứng kiến cnahr nhân dân lầm than vì bị thực dân Pháp xâm
lược, cũng như thấy sự đàn áp dã man của thực dân Pháp đối với các phong trào cách
mạng. Nguyễn Ái Quốc đã luôn manh mún trong tâm phải giải phóng dân tộc, đưa
dân tộc được tự do, độc lập, người dân được hạnh phúc. Ngày 5/6/1911 Người thanh
niên Nguyễn Ái Quốc chính thức lên tàu đi bôn ba tìm đường cứ nước, mở ra sự hình
thành Đảng Cộng sản Việt Nam sau này.
1.2. Hoàn cảnh đất nước ta trước khi Bác ra đi tìm đường cứu nước
Tại Việt Nam, năm 1858, thực dân Pháp nổ súng tấn công xâm lược và từng bước
thiết lập bộ máy thống trị ở Việt Nam, biến một quốc gia phong kiến thành thuộc địa nửa phong kiến.
Về chính trị, thực dân Pháp áp đặt chính sách cai trị thực dân, tước bỏ quyền lực
đối nội và đối ngoại của chính quyền phong kiến nhà Nguyễn; chia Việt Nam thành
ba xứ: Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ và thực hiện ở mỗi kỳ một chế độ cai trị riêng.
Thực dân Pháp cấu kết với giai cấp địa chủ để bóc lột kinh tế và áp bức chính trị đối với nhân dân Việt Nam.
Về kinh tế, thực dân Pháp thực hiện chính sách bóc lột, cướp đoạt ruộng đất để
lập đồn điền; đầu tư khai thác tài nguyên; xây dựng một số cơ sở công nghiệp, hệ
thống đường giao thông, bến cảng phục vụ chính sách khai thác thuộc địa.
Về văn hoá, thực dân Pháp thi hành triệt để chính sách văn hóa nô dịch, gây tâm
lý tự ti, khuyến khích các hoạt động mê tín dị đoan. Mọi hoạt động yêu nước của
nhân dân ta đều bị cấm đoán. Chúng tìm mọi cách bưng bít và ngăn chặn ảnh hưởng
của nền văn hóa tiến bộ trên thế giới vào Việt Nam và thi hành chính sách “ngu dân” để dễ bề cai trị.
Học giả Trần Trọng Kim cho rằng nền giáo dục Pháp đã biến một xã hội "nghe đến
nước mình thì ngây ngây như người ngoại quốc, sử nước mình không biết, tiếng nói
nước mình thì chỉ biết qua loa"
Dưới tác động của chính sách cai trị và chính sách kinh tế, văn hoá, giáo dục thực
dân, xã hội Việt Nam đã diễn ra quá trình phân hoá sâu sắc. Giai cấp địa chủ cấu kết
với thực dân Pháp tăng cường bóc lột, áp bức nông dân. Tuy nhiên, trong nội bộ địa
chủ Việt Nam lúc này có sự phân hoá. Một bộ phận địa chủ có lòng yêu nước, căm
ghét chế độ thực dân đã tham gia đấu tranh chống Pháp dưới các hình thức và mức độ khác nhau. lOMoAR cPSD| 61549570
Giai cấp nông dân là lực lượng đông đảo nhất trong xã hội Việt Nam, bị thực dân
và phong kiến áp bức, bóc lột nặng nề. Tình cảnh bần cùng khốn khổ của giai cấp
nông dân Việt Nam đã làm tăng thêm lòng căm thù đế quốc và phong kiến tay sai,
tăng thêm ý chí cách mạng của họ trong cuộc đấu tranh giành lại ruộng đất và quyền
sống tự do. Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời từ cuộc khai thác thuộc địa lần thứ
nhất của thực dân Pháp, đa số xuất thân từ giai cấp nông dân, có quan hệ trực tiếp và
chặt chẽ với giai cấp nông dân, bị đế quốc, phong kiến áp bức bóc lột.
Giai cấp tư sản Việt Nam bị tư sản Pháp và tư sản người Hoa cạnh tranh chèn ép,
do đó thế lực kinh tế và địa vị chính trị nhỏ bé và yếu ớt, có tinh thần dân tộc và yêu
nước ở mức độ nhất định. Tầng lớp tiểu tư sản Việt Nam bao gồm học sinh, trí thức,
những người làm nghề tự do… đời sống bấp bênh, dễ bị phá sản trở thành người vô
sản, có lòng yêu nước, căm thù đế quốc, thực dân, có khả năng tiếp thu những tư
tưởng tiến bộ từ bên ngoài truyền vào.
Các giai cấp, tầng lớp trong xã hội Việt Nam lúc này đều mang thân phận người
dân mất nước và ở những mức độ khác nhau, đều bị thực dân áp bức, bóc lột. Vì vậy,
trong xã hội Việt Nam, ngoài mâu thuẫn cơ bản giữa nhân dân, chủ yếu là nông dân
với giai cấp địa chủ và phong kiến, đã nảy sinh mâu thuẫn vừa cơ bản vừa chủ yếu
và ngày càng gay gắt trong đời sống dân tộc, đó là mâu thuẫn giữa toàn thể nhân dân
Việt Nam với thực dân Pháp xâm lược. Tính chất của xã hội Việt Nam là xã hội thuộc
địa nửa phong kiến đang đặt ra hai yêu cầu: Một là, phải đánh đuổi thực dân Pháp
xâm lược, giành độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân; Hai là, xoá bỏ chế độ
phong kiến, giành quyền dân chủ cho nhân dân, chủ yếu là ruộng đất cho nông dân.
Trong đó, chống đế quốc, giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu.
Trước sự xâm lược của thực dân Pháp, các phong trào yêu nước của nhân dân ta
chống thực dân Pháp diễn ra liên tục và sôi nổi nhưng đều không mang lại kết quả.
Phong trào Cần Vương - phong trào yêu nước theo ý thức hệ phong kiến, do giai cấp
phong kiến lãnh đạo đã chấm dứt ở cuối thế kỷ XIX với cuộc khởi nghĩa của Phan
Đình Phùng (năm 1896). Sang đầu thế kỷ XX, khuynh hướng này không còn là
khuynh hướng tiêu biểu nữa. Phong trào nông dân, tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa Yên
Thế của Hoàng Hoa Thám kéo dài mấy chục năm cũng thất bại vào năm 1913. Phong
trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản do các sĩ phu yêu nước như Phan
Bội Châu, Phan Chu Trinh lãnh đạo cũng rơi vào bế tắc. Cuộc khởi nghĩa Yên Bái
do Nguyễn Thái Học lãnh đạo cũng bị thất bại. Các phong trào yêu nước từ cuối thế
kỷ XIX đầu thế kỷ XX là sự tiếp nối truyền thống yêu nước, bất khuất của dân tộc
ta được hun đúc qua hàng ngàn năm lịch sử. Nhưng do thiếu đường lối đúng đắn, lOMoAR cPSD| 61549570
thiếu tổ chức và lực lượng cần thiết nên các phong trào đó đã lần lượt thất bại. Cách
mạng Việt Nam chìm trong cuộc khủng hoảng sâu sắc về đường lối cứu nước.
Ngoài ra trong thời kỳ này ở Việt Nam còn có nhiều phong trào đấu tranh nổ ra,
theo đó các tổ chức đảng phái cũng bắt đầu ra đời. Các đảng phái chính trị tư sản và
tiểu tư sản đã góp phần thúc đẩy phong trào yêu nước chống Pháp , đặc biệt là Tân
Việt cách mạng Đảng và Việt Nam quốc dân Đảng. Trong nội bộ Tân Việt cách mạng
Đảng thì khuynh hướng cách mạng theo quan điểm vô sản đã thắng thế, còn Việt
Nam quốc dân Đảng là một đảng chính trị theo xu hướng dân chủ tư sản. Về sau
cuộc khởi nghĩa của Việt Nam quốc dân Đảng đã bị thực dân Pháp dập tắt, còn số
đảng viên tiên tiến còn lại trong Tân Việt tích cực chuẩn bị để tiến tới thành lập một
chính đảng theo chủ nghĩa Mac-Lênin.
1.3. Quá trình tìm đường cứu nước của Nguyên Ái Quốc
Ngày 5-6-1911, người thanh niên Nguyễn Tất Thành (tức là Nguyễn Ái Quốc, Hồ
Chí Minh sau này) ra đi tìm đường cứu nước theo phương hướng mới. Người đã đi
qua nhiều nước của châu Âu, châu Phi, châu Mỹ và đã phát hiện ra chân lý: Chủ
nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc thực dân là cội nguồn mọi đau khổ của công nhân
và nhân dân lao động ở chính quốc cũng như ở các nước thuộc địa. Năm 1917, Người
trở lại nước Pháp, đến Paris và năm 1919 gia nhập Đảng Xã hội Pháp.
Tháng 6/1919, thay mặt những người yêu nước Việt Nam, với tên gọi mới là
Nguyễn Ái Quốc, Người gửi bản yêu sách 8 điểm tới Hội nghị Vécxây.
Tháng 7/1920, Nguyễn Ái Quốc được đọc “Đề cương về vấn đề dân tộc và thuộc
địa” của Lênin và từ tư tưởng đó, Người đã tìm ra con đường cứu nước đúng đắn
cho dân tộc Việt Nam. Tại Đại hội Đảng Xã hội Pháp (tháng 12/1920), Nguyễn Ái
Quốc bỏ phiếu tán thành Quốc tế III (Quốc tế Cộng sản do Lênin sáng lập) và tham
gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp, trở thành người Cộng sản đầu tiên của Việt Nam.
Đó là một sự kiện lịch sử trọng đại, không những Nguyễn Ái Quốc đi từ chủ nghĩa
yêu nước đến với lý luận cách mạng của thời đại là chủ nghĩa MácLênin, mà còn
đánh dấu bước chuyển quan trọng của con đường giải phóng dân tộc Việt Nam: muốn
cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng
vô sản. Từ đây, cùng với việc thực hiện nhiệm vụ đối với phong trào cộng sản quốc
tế, Nguyễn Ái Quốc xúc tiến truyền bá chủ nghĩa MácLênin, vạch phương hướng
chiến lược cách mạng Việt Nam và chuẩn bị điều kiện để thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Từ năm 1921 đến năm 1930, Nguyễn Ái Quốc ra sức truyền bá chủ nghĩa
MácLênin vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam, chuẩn bị về lOMoAR cPSD| 61549570
lý luận cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam. Người nhấn mạnh: cách mạng
muốn thành công phải có đảng cách mạng chân chính lãnh đạo; Đảng phải có hệ tư
tưởng tiên tiến, cách mạng và khoa học dẫn đường, đó là hệ tư tưởng Mác-Lênin.
Người đã viết nhiều bài báo, tham gia nhiều tham luận tại các đại hội, hội nghị
quốc tế, viết tác phẩm “Bản án chế độ thực dân Pháp” và tổ chức ra các tờ báo Thanh
niên, Công nông, Lính cách mệnh, Tiền phong, nhằm truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin
vào Việt Nam. Năm 1927, Bộ Tuyên truyền của Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức
xuất bản tác phẩm “Đường Kách mệnh” (tập hợp các bài giảng của Nguyễn Ái Quốc
ở lớp huấn luyện chính trị của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên). Đó là sự chuẩn
bị về đường lối chính trị tiến tới thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Người khẳng
định, muốn thắng lợi thì cách mạng phải có một đảng lãnh đạo, Đảng có vững, cách
mạng mới thành công cũng như người cầm lái có vững thì thuyền mới chạy.
Trong thời gian này, Người cũng tập trung cho việc chuẩn bị về tổ chức và cán bộ.
Người lập ra Hội Việt Nam cách mạng thanh niên (năm 1925), tổ chức nhiều lớp đào
tạo cán bộ tại Quảng Châu (Trung Quốc) và gửi cán bộ đi học tại trường Đại học
Phương Đông (ở Liên Xô trước đây) và trường Lục quân Hoàng Phố (Trung Quốc)
nhằm đào tạo cán bộ cho cách mạng Việt Nam. Nhờ hoạt động không mệt mỏi của
lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và nhiều đồng chí cách mạng tiền bối mà những điều kiện
thành lập Đảng ngày càng chín muồi.
Cuối năm 1929, những người cách mạng Việt Nam trong các tổ chức cộng sản đã
nhận thức được sự cần thiết và cấp bách phải thành lập một Đảng Cộng sản thống
nhất, chấm dứt tình trạng chia rẽ phong trào cộng sản ở Việt Nam. Nguyễn Ái Quốc
đã chủ động tổ chức và chủ trì Hội nghị hợp nhất Đảng tại Hương Cảng, Trung Quốc
từ ngày 6 tháng 1 đến ngày 7/2/1930.
Hội nghị đã quyết định hợp nhất các tổ chức Đảng (Đông Dương Cộng sản
Đảng, An Nam Cộng sản Đảng, Đông Dương Cộng sản Liên đoàn) thành Đảng Cộng
sản Việt Nam. Hội nghị thảo luận và thông qua các văn kiện: Chánh cương vắn tắt,
Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt và Điều lệ vắn tắt của Đảng Cộng sản. Những
văn kiện đó do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo, được Hội nghị hợp nhất Đảng thông qua
là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của cách mạng
Việt Nam. Hội nghị thông qua lời kêu gọi của Nguyễn Ái Quốc thay mặt Quốc tế
Cộng sản và Đảng Cộng sản Việt Nam gửi đến đồng bào, đồng chí trong cả nước
nhân dịp thành lập Đảng. Hội nghị hợp nhất các tổ chức Cộng sản có ý nghĩa như là
một Đại hội thành lập Đảng. Những văn kiện được thông qua tại Hội nghị hợp nhất
do Nguyễn Ái Quốc chủ trì chính là Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng. lOMoAR cPSD| 61549570
Sau này, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng đã quyết nghị lấy ngày
3/2 dương lịch hằng năm làm ngày kỷ niệm thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Sau khi tìm ra con đường cứu nước đúng dắn, Nguyễn Ái Quốc tích cực
chuẩn bị mọi mặt cho sự ra đời của một chính đảng tại Việt Nam
2.1. Chuẩn bị về tư tưởng
2.2.1. Thời kỳ ở Pháp (1919-1923)
Người xác định kẻ thù của ta là chủ nghĩa đế quốc, là tư bản bóc lột. Từ khi trở
thành người cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đã xúc tiến mạnh mẽ việc truyền bá chủ
nghĩa Mác - Lênin vào phong trào giải phóng dân tộc và phong trào vô sản ở các
nước thuộc địa, trong đó có Việt Nam. Ngày 16 và 17 tháng 7-1920, báo Nhân đạo
của Đảng Xã hội Pháp đã đăng Luận cương của V.I. Lênin về vấn đề dân tộc thuộc
địa. Sau này, nhớ lại niềm sung sướng khi đọc bản Luận cương của V.I. Lênin, Hồ
Chí Minh đã viết: “Luận cương của Lênin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng
tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng
mà tôi nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: “Hỡi đồng bào bị đọa
đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng
ta”. Năm 1921 Người cùng với một số nhà yêu nước của các nước thuộc địa khác
như: Angiêri, Tuynidi, Marốc ... thành lập " Hội liên hiệp thuộc địa" để tuyên truyền,
tập hợp lực lượng chống chủ nghĩa đế quốc.
Năm 1922 : Ra báo “ Le Paria” ( Người cùng khổ ) vạch trần chính sách đàn áp,
bóc lột dã man của chủ nghĩa đế quốc, góp phần thức tỉnh các dân tộc bị áp bức đứng
lên tự giải phóng.Nguyễn Ái Quốc là người phụ trách chính của tờ báo. Việc xuất
bản báo “Người cùng khổ” là một vố đánh vào bọn thực dân ở các nước thuộc địa,
nhất là ở Đông Dương, ai đọc báo “Người cùng khổ” đều bị bắt. Mặc dầu khó khăn
nhưng tờ báo vẫn tiếp tục phát triển. Suốt trong thời gian tồn tại, từ tháng 4-1922
đến tháng 6-1926, báo “Người cùng khổ” ra được 38 số với 35 tờ. Nguyễn Ái Quốc
ủng hộ rất đều cho báo mỗi tháng 25 phơ-răng. Anh nói: Chúng ta phải bằng bất cứ
giá nào làm cho tờ báo sống. Nó mất đi sẽ là một thiệt hại to lớn đối với tổ chức và
nhất là đối với công tác tuyên truyền lúc này cần thiết hơn lúc nào hết..”.
Tháng 6-1923, trước khi rời nước Pháp, Nguyễn Ái Quốc đã viết bức thư gửi lại
cho các đồng chí của mình. Anh viết: “Hội Liên hiệp thuộc địa và tờ báo “Người
cùng khổ” đã làm cho nước Pháp, nước Pháp chân chính hiểu rõ những việc đã xảy
ra trong các thuộc địa. Làm cho nước Pháp hiểu rõ bọn cá mập thực dân đã lợi dụng lOMoAR cPSD| 61549570
tên tuổi và danh dự của nước Pháp để gây nên những tội ác không thể tưởng tượng
được. Nó đã thức tỉnh đồng bào chúng ta. Đồng thời nó cũng khiến cho đồng bào
chúng ta nhận rõ nước Pháp tự do bình đẳng và bác ái. Nhưng chúng ta còn phải làm nhiều hơn.”
Theo yêu cầu của Quốc tế Cộng sản đào tạo Nguyễn Ái Quốc trở thành lãnh tụ
tương lai cho cách mạng Đông Dương, Quốc tế Cộng sản cùng với Đảng Cộng sản
Pháp tổ chức cho Nguyễn Ái Quốc đến nước Nga. Tháng 6-1923, Nguyễn Ái Quốc
tạm biệt Pari, tạm biệt nước Pháp, để lại hình ảnh đẹp về một chiến sỹ quốc tế nhiệt
thành đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng con người, thực hiện những lý tưởng
cao đẹp của đại cách mạng Pháp: Lý tưởng Tự do- Bình Đẳng - Bác ái.
2.1.2. Thời kì ở Liên Xô (1923-1924)
Người tham gia hoạt động quốc tế và học tập kinh nghiệm từ Cách mạng Tháng
Mười Nga. Tháng 6-1923, Nguyễn Ái Quốc bí mật từ Pari sang Liên Xô dự Hội nghị
Quốc tế Nông dân lần thứ nhất (10-1923 ), và Đại hội Quốc tế Cộng sản lần thứ V (
71924 ) ... Ở Liên Xô, Nguyễn Ái Quốc tích cực nghiên cứu các vấn đề về dân tộc
và thuộc địa. Người đã có các tham luận quan trọng tại các đại hội quốc tế, viết nhiều
bài cho các báo " Sự Thật" - cơ quan ngôn luận của Đảng Cộng Sản Liên Xô, tạp chí
" Thư tín Quốc tế" của Quốc tế Cộng Sản. Nguyễn Ái Quốc tiếp tục phát triển và
hoàn thiện thêm tư tưởng về cách mạng giải phóng dân tộc, thông qua hoạt động
thực tiễn và nghiên cứu sách báo mácxít. Nguyễn Ái Quốc đã nêu rõ mối quan hệ
giữa cách mạng thuộc địa với cách mạng chính quốc, về vai trò của giai cấp nông
dân trong sự nghiệp giải phóng dân tộc. Đây là bước chuẩn bị quan trọng về chính
trị, tư tưởng cho sự thành lập Đảng Cộng Sản ở Việt Nam.
2.1.3. Thời kỳ ở Trung Quốc (1924-1927)
Tháng 11 năm 1924, với tư cách là uỷ viên Bộ phương Đông của Quốc tế cộng
sản, trực tiếp phụ trách Cục phương Nam, Nguyễn Ái Quốc đã từ Liên Xô đến Quảng
Châu (Trung Quốc) để hoạt động, xây dựng phong trào và đào tạo cán bộ cách mạng
cho một số nước ở Đông Nam Á. Tại đây, đồng chí đã cùng với các nhà lãnh đạo
cách mạng Trung Quốc, Triều Tiên, Ấn Độ, Thái Lan, Inđônêxia, Malaixia, v.v..sáng
lập ra Hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á - Đông.
Tháng 6 năm 1925, Người thành lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên. Chương
trình và Điều lệ của Hội nêu rõ mục đích là : làm cách mạng dân tộc và cách mạng
thế giới. Sau khi cách mạng thành công, Hội chủ trương thành lập Chính phủ nhân
dân, mưu cầu hạnh phúc cho nhân dân, tiến lên xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa,
thực hiện đoàn kết với giai cấp vô sản các nước, với phong trào cách mạng thế giới. lOMoAR cPSD| 61549570
Từ năm 1925 đến năm 1927, Hội Việt Nam cách mạng thanh niên đã mở các lớp
huấn luyện chính trị cho cán bộ cách mạng Việt Nam. Hội đã xây dựng được nhiều
cơ sở ở các trung tâm kinh tế, chính trị trong nước. Năm 1928, Hội thực hiện chủ
trương “ vô sản hóa ”, đưa hội viên vào nhà máy, hầm mỏ, đồn điền để rèn luyện lạp
trường, quan điểm giai cấp công nhân, để truyền bá chủ nghĩa Mac-Lênin và lý luận
giải phóng dân tộc nhằm thúc đẩy sự phát triển của phong trào cách mạng Việt Nam.
Đầu nǎm 1927, cuốn “ Đường cách mệnh” gồm những bài giảng của Người trong
các lớp đào tạo cán bộ ở Quảng Châu, được Bộ tuyên truyền của Hội liên hiệp các
dân tộc bị áp bức ở Á – Đông xuất bản. Trong tác phẩm quan trọng này, đồng chí
Nguyễn Ái Quốc nêu ra những tư tưởng cơ bản về chiến lược và sách lược của cách
mangViệt Nam. Đường cách mệnh chỉ rõ đối tượng đấu tranh của cách mạng Việt
Nam là tư bản đế quốc chủ nghĩa, phong kiến địa chủ; đồng thời, chỉ rõ động lực và
lực lượng cách mạng. Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng là việc chung của cả
dân chúng chứ không phải việc của một hai người, do đó phải đoàn kết toàn dân.
Nhưng cái cốt của nó là công – nông và phải luôn ghi nhớ rằng công – nông là người
chủ cách mệnh, công – nông là gốc của cách mệnh. Nguyễn Ái Quốc khẳng định :
“Muốn thắng lợi thì cách mạng phải có một đảng lãnh đạo, Đảng có vững, cách mạng
mới thành công cũng như người cầm lái có vững thì thuyền mới chạy. Đảng muốn
vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách
mệnh nhất là phải có chủ nghĩa Lenin. Về phương pháp cách mạng, Người nhấn
mạnh đến việc giác ngộ và tổ chức quần chúng cách mạng, phải làm cho quần chúng
hiểu rõ mục đích cách mạng, biết đồng tâm hiệp lực để đánh đổ giai cấp áp bức mình,
làm cho cách mạng biết cách làm, phải có “mưu chước” , có như thế mới đảm bảo
thành công cho cuộc khởi nghĩa với sự nổi dậy của toàn dân. Tác phẩm Đường
cách mệnh đã đề cập những vấn đề cơ bản của một cương lĩnh chính trị, chuẩn bị về
tư tưởng chính trị cho việc thành lập Đảng Cộng sản
Việt Nam. Đường cách mệnh có giá trị lý luận và thực tiễn to lớn đối với cách mạng
Việt Nam. Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội và tác phẩm Đường cách
mệnh đã trực tiếp chuẩn bị về tư tưởng, lý luận chính trị và tổ chức cho việc thành
lập Đảng vô sản kiểu mới ở Việt Nam.
2.2. Chuẩn bị về tổ chức
2.2.1. Các tổ chức do người thành lập ra
Năm 1921, nhờ sự giúp đỡ của Đảng cộng sản Pháp, Nguyễn Ái Quốc cùng
với một số chiến sĩ cách mạng ở nhiều nước thuộc địa của Pháp lập ra Hội liên Hiệp
Thuộc địa nhằm tập hợp tất cả những người ở thuộc địa sống trên đất Pháp đấu tranh lOMoAR cPSD| 61549570
chống chủ nghĩa thực dân. Hội quyết định xuất bản tờ báo Người cùng khổ, do Bác
làm chủ nhiệm kế bút. Cuối năm 1921, tại đại hội lần thứ nhất của Đảng Cộng sản
Pháp họp ở Macxay, Người đã trình bày dự thảo nghị quyết về vấn đề “ chủ nghĩa
cộng sản và thuộc địa” và ý kiến nghị thành lập Ban Nghiên Cứu thuộc địa trực thuộc
ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Pháp. Kiến nghị đó được Đại hội chấp nhận .
Năm 1922, Ban nghiên cứu thuộc địa được cử làm trưởng tiểu ban nghiên
cứu về vấn đề Đông Dương. Tháng 6-1925, Người sáng lập Hội Việt Nam cách mạng
Thanh niên, hạt nhân là Cộng sản đoàn. Cơ quan tuyên truyền của Hội là tuần báo
báo Thanh niên. Đây là một bước chuẩn bị có ý nghĩa quyết định về mặt tổ chức cho
sự ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam. Từ năm 1925-1927, người mở nhiều lớp huấn
luyện chính trị tại Quảng Châu, đào tạo một đội ngũ cán bộ cho cách mạng Việt
Nam. Sau các khóa học một số được chọn đi học ỏ trường Đại học Phương Đông
của Quốc tế Cộng sản, một số được cử đi học trường quân sự Hoàng Phố, còn phần
lớn trở về nước để “ truyền bá lí luận giải phóng dân tộc, và tổ chức nhân dân”
2.2.2. Cách thức truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên
Sự truyền bá chủ nghĩa Mac-Lenin và tư tưởng cách mạng Hồ Chí Minh vào trong
phong trào công nhân và phong trào yêu nước gắn liền với xây dựng các tổ chức cơ
sở của Hội ở nhiều trung tâm kinh tế, chính trị quan trọng. Số hội viên của Hội tăng
mạnh. Năm 1928, có 300 hội viên, năm 1929 có 1700 hội viên. Tổ chức cũng được
xây dựng trong nhiều nhà máy, hầm mỏ. Một số đảng viên tiên tiến trong Tân Việt
cũng ngả theo Hội, nhiều người đã trở thành hội viên của Hội. Việc truyền bá lí luận
giải phóng dân tộc và tổ chức vận động nhân dân dấy lên một phong trào dân tộc chủ
ở Việt Nam ngày càng mạnh mẽ, đặc biệt là phong trào công nhân. Trong những năm
1926-1929, phong trào công nhân đã có sự lãnh đạo của các tổ chức như Hội Việt
Nam cách mạng thanh niên, Công hội đỏ và các tổ chức cộng sản ra đời trong năm
1929. Ở giai đoạn này nhiều cuộc bãi công diễn ra. Từ năm 1928 đến năm 1929, có
khoảng 40 cuộc đấu tranh của công nhân diễn ra trong toàn quốc. Các cuộc đấu tranh
của công nhân Việt Nam trong những năm 1926-1929 mang tính chất chính trị rõ
rệt. Mỗi cuộc đấu tranh đã có sự liên kết giữa các nhà máy, các nghành và các địa
phương. Phong trào công nhân có sức lôi cuốn phong trào dân tộc theo con đường cách mạng vô sản.
3. Năm 1930, Nguyễn Ái Quốc trực tiếp chủ trì Hội nghị hợp nhất thành lập lOMoAR cPSD| 61549570
Đảng và soạn thảo cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
3.1. Nguyễn Ái Quốc đứng đầu trong hội nghị thành lập Đảng
Tại đại hội lần thứ nhất của hội Việt Nam cách mạng thanh niên (5-1929) đã xảy
ra sự bất đồng giữa các đại biểu về việc thành lập Đảng cộng sản, thực chất là sự
khác nhau giữa các đại biểu muốn thành lập ngay một Đảng cộng sản và giải thể tổ
chức hội Việt Nam cách mạng thanh niên, với những đại biểu cũng muốn thành lập
Đảng cộng sản nhưng không muốn tổ chức đảng ở giữa đại hội thanh niên và không
muốn giải tán Hội Việt Nam cách mạng thanh niên. Trong bối cảnh đó các tổ chức
cộng sản ở Việt Nam ra đời.
Đông Dương cộng sản Đảng ra đời ngày 17-6-1929, tại Hà Nội, do đại biểu các tổ
chức cộng sản ở miền bắc thành lập. An Nam cộng sản Đảng thành lập vào mùa thu
năm 1929, do các đại biểu trong hội Việt Nam cách mạng thanh niên ở Trung Quốc
và Nam Kỳ thành lập. Sự ra đời của hai tổ chức cộng sản trên làm cho nội bộ Đảng
Tân Việt phân hoá, những đảng viên tiên tiến của Tân Việt đứng ra thành lập Đông
Dương cộng sản liên đoàn.
Mặc dù đều giương cao ngọn cờ chống đế quốc, phong kiến, xây dựng chủ nghĩa
cộng sản ở Việt Nam, nhưng ba tổ chức cộng sản trên hoạt động phân tán, chia rẽ đã
ảnh hưởng xấu đến phong trào cách mạng ở Việt Nam lúc này. Vì vậy, việc khắc
phục sự chia rẽ, phân tán giữa các tổ chức cộng sản là yêu cầu cấp thiết của cách
mạng nước ta, là nhiệm vụ cấp bách trước mắt của tất cả những người cộng sản Việt Nam.
Ngày 27-10-1929, Quốc tế Cộng sản gửi những người Cộng sản Đông Dương tài
liệu “Về việc thành lập một Đảng Cộng sản ở Đông Dương”, yêu cầu những người
cộng sản Đông Dương phải khắc phục ngay sự chia rẽ giữa các nhóm cộng sản và
thành lập một đảng của giai cấp vô sản. Nhận được tin về sự chia rẽ của những người
cộng sản ở Đông Dương, Nguyễn Ái Quốc rời Xiêm đến Trung Quốc. Người chủ trì
Hội nghị hợp nhất Đảng, tại Hương Cảng, Trung Quốc. “ Với tư cách là Phái viên
của Quốc tế Cộng sản có đầy đủ quyền quyết định mọi vấn đề liên quan đến phong
trào cách mạng ở Đông Dương”, Người chủ động triệu tập “ đại biểu của hai nhóm
(Đông Dương và An Nam)” và chủ trì Hội Nghị hợp nhất đảng tại Cửu Long (Hương
Cảng, Trung Quốc). Hội nghị bắt đầu họp từ ngày 6-11930.
Thành phần Hội nghị hợp nhất gồm: 1 đại biểu của Quốc tế Cộng sản, 2 đại biểu
của Đông Dương Cộng sản Đảng, 2 đại biểu An Nam Cộng sản Đảng. Hội nghị thảo
luận đề nghị của Nguyễn Ái Quốc gồm 5 điểm lớn, với nội dung: lOMoAR cPSD| 61549570
1. Bỏ mọi thành kiến xung đột cũ, thành thật hợp tác để thống nhất
cácnhóm cộng sản Đông Dương.
2. Định tên Đảng là Đảng Cộng sản Việt Nam 3. Thảo Chính
cương và Điều lệ sơ lược của Đảng.
4. Định kế hoạch thực hiện việc thống nhất trong nước
5. Cử một Ban Trung ương lâm thời gồm chín người, trong đó có hai đạibiểu chi
bộ cộng sản Trung Quốc ở Đông Dương.
Hội nghị nhất trí với Năm điểm lớn theo đề nghị của Nguyễn Ái Quốc và quyết
định hợp nhất các tổ chức cộng sản, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội nghị
thảo luận và thông qua các văn kiện: Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương
trình tóm tắt và Điều lệ vắn tắt của Đảng do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo ra. Ngày 24-
2-1930, theo yêu cầu của Đông Dương Cộng sản Liên đoàn, Ban Chấp hành Trung
ương lâm thời họp và ra Nghị quyết chấp nhận Đông Dương Cộng sản Liên đoàn gia
nhập Đảng Cộng sản Việt Nam. Như vậy Đảng Cộng sản Việt Nam đã hoàn tất việc
hợp nhất ba tổ chức công sản ở Việt Nam
3.2. Người đã soạn thảo ra cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
Các văn kiện được thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam như:
Chánh cương vắn tắt của Đảng, Sách lược vắn tắt của Đảng, Chương trình tóm tắt
của Đảng hợp thành Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Cương lĩnh xác định các vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam:
- Phương hướng chiến lược của cách mạng Việt Nam là : “tư sản dân quyền
cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”.
- Nhiệm vụ của cách mạng tư sản dân quyền và thổ địa cách mạng là đánh đổđế
quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến làm cho Việt Nam hoàn toàn độc lập. Sau
đó lập chính phủ công nông binh, tổ chức quân đội công nông. Về kinh tế thì thủ tiêu
hết các thứ quốc trái, tịch thu toàn bộ sản nghiệp của tư bản đế quốc Pháp để giao
cho Chính phủ công nông binh quản lý. Tịch thu toàn bộ ruộng đất của bọn đế quốc
chủ nghĩa chia cho dân nghèo, bãi bỏ các sưu thuế. Về văn hóa thì phổ thông giáo
dục theo công nông hóa, nam nữ bình đẳng,…
- Về lực lượng cách mạng : Lực lượng cách mạng là giai cấp công nhân và nông
dân nhưng bên cạnh đó cũng phải liên minh đoàn kết với tiểu tư sản, lợi dụng hoặc
trung lập phú nông, trung nông, tiểu địa chủ và tư bản Việt Nam chưa rõ mặt phản cách mạng.
- Về lãnh đạo cách mạng: Giai cấp vô sản là lực lượng lãnh đạo cách mạngViệt
Nam. Đảng là đội tiên phong cho giai cấp vô sản. lOMoAR cPSD| 61549570
- Về quan hệ của cách mạng Việt Nam với phong trào cách mạng thế giới: Cách
mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới, phải thực hành liên lạc với
các dân tộc bị áp bức và giai cấp vô sản thế giới, nhất là giai cấp vô sản Pháp.
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng đã xác định được những nội dung cơ bản
nhất của cách mạng Việt Nam. Sự đúng đắn của Cương lĩnhđược khẳng định qua
thực tiễn đấu tranh cách mạng và xây dựng đất nước trong suốt 85 năm qua:
- Một là, Cương lĩnh xác định rõ nhiệm vụ, mục tiêu cơ bản của cách mạng tư
sản dân quyền (sau này gọi là cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân) là chống đế
quốc, chống phong kiến, thực hiện độc lập dân tộc và người cày có ruộng. Xuất phát
từ chế độ thuộc địa nửa phong kiến, Cương lĩnh đã phân tích mối quan hệ gắn bó
giữa hai nhiệm vụ cơ bản là chống đế quốc và chống phong kiến gắn bó chặt chẽ với
nhau nhưng trước hết phải đánh đổ đế quốc, “làm cho nước Việt Nam hoàn toàn độc
lập”. Đây là cơ sở để giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội và giải phóng con người.
Chỉ có độc lập tự do của đất nước mới đủ điều kiện để thực hiện quyền con người, quyền công dân.
- Hai là, chiến lược đại đoàn kết toàn dân tộc được xây dựng từ Cương lĩnh
chính trị đầu tiên là tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt cách mạng Việt Nam trong cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến xây dựng đất nước theo định hướng XHCN hiện
nay. Tư tưởng này thể hiện rõ trong Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt của Đảng
về các lực lượng cách mạng. Những lực lượng như tiểu tư sản, trí thức, trung, tiểu
địa chủ đều được Đảng chủ trương tập hợp, đoàn kết lại trong lực lượng cách mạng
do công nông làm nòng cốt
- Chủ nghĩa yêu nước là nền tảng cơ sở cho sự thống nhất trong khác biệt nhằm
tập hợp lực lượng, tạo ra sức mạnh tổng hợp của một đất nước tiềm lực kinh tế, quân
sự không lớn, người không đông, lại phải đối mặt với các thế lực đế quốc đầu sỏ.
Hiện nay, khi tình hình Biển Đông không bình yên, chủ quyền biển, đảo đang bị đe
dọa, hơn bao giờ hết việc phát huy sức mạnh toàn dân tộc, tranh thủ sức mạnh quốc
tế là yếu tố quyết định để bảo vệ vững chắc chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ.
- Ba là, xác định rõ sứ mệnh lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Cùng với
Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt của Đảng, Hội nghị thông qua Điều lệ vắn
tắtvà Lời kêu gọinhân dịp thành lập Đảng. Các văn kiện này chỉ rõ: Đảng Cộng sản
Việt Nam là Đảng của giai cấp vô sản; Đảng được tổ chức ra để dìu dắt giai cấp vô
sản lãnh đạo quần chúng lao khổ đấu tranh giải phóng toàn thể anh chị em bị áp bức,
bóc lột “để tiêu trừ tư bản đế quốc chủ nghĩa, làm cho thực hiện xã hội cộng sản”. lOMoAR cPSD| 61549570
Với cương lĩnh chính trị đúng đắn, ngay từ khi ra đời Đảng đã trở thành lực lượng
lãnh đạo, tập hợp xung quanh mình toàn thể dân tộc làm cách mạng. Chủ tịch Hồ
Chí Minh khẳng định: “Cương lĩnh ấy rất phù hợp với nguyện vọng thiết tha của đại
đa số nhân dân ta là nông dân. Vì vậy, Đảng đã đoàn kết được những lực lượng cách
mạng to lớn chung quanh giai cấp mình. Còn các đảng phái của các giai cấp khác thì
hoặc bị phá sản, hoặc bị cô lập. Do đó, quyền lãnh đạo của Đảng ta - Đảng của giai
cấp công nhân - không ngừng củng cố và tăng cường”. Dưới ánh sáng soi đường của
Cương lĩnh Đảng ta đã dẫn dắt toàn dân tộc vượt qua mọi khó khăn, thử thách, thực
hiện thắng lợi mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội và đang trên đường
xây dựng nước Việt Nam giàu, mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
4. Liên hệ thực tiễn vai trò của Hồ Chí Minh đối với Đảng ta hôm nay
Dù Bác đã cách xa chúng ta 50 năm nhưng vai trò của Người đối với Đảng và
cuộc sống chúng ta hôm nay vẫn là rất lớn. Tư tưởng của Người không chỉ là kim
chỉ nam cho định hướng, chính sách của Đảng mà còn đóng góp giáo dục thế hệ
thanh thiếu niên hôm nay luôn kiên định với con đường xã hội chủ nghĩa mà Người
đã dày công vun đắp. Qua những gì đã chứng minh ở trên ta thấy được rằng Người
đóng vai trò rất lớn đối với việc thành lập Đảng. Trong những năm tháng chiến tranh
cũng chính là Người đã dìu dắt Đảng ta, nhân dân ta vượt qua những khó khăn để
dành được thắng lợi cuối cùng. Trong công cuộc đổi mới hôm nay, chúng ta đã tiến
hành nhiều cải cách nhiều thay đổi để phù hợp với yêu cầu khách quan của thực tiễn.
Thế nhưng vẫn luôn tuyệt đối trung thành theo con đường vô sản mà Người đã chọn.
Bác là người đã đặt nền móng cho chủ nghĩa vô sản ở đất nước ta, và từ những tư
tưởng của Người đã được Đảng và nhân dân áp dụng sáng tạo trong công cuộc công
nghiệp hóa , hiện đại hóa đất nước hôm nay. Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng
ta đẩy mạnh công tác xây dựng Đảng trên tất cả các mặt : tư tưởng-lí luận, chính trị
tổ chức và cán bộ đạo đức.. làm cho Đảng trong sạch vững mạnh,đạt tầm cao về đạo
đức, trí tuệ bản lĩnh chính trị vững vàng trước mọi thử thách của lịch sử.
- Về chính trị: có đường lối chính trị đúng đắn, bản lĩnh chính trị vững vàng
trong mọi tình huống phức tạp, một đường lối cứng rắn về chiến lược,mềm dẻo về
sách lược,linh hoạt về biện pháp đấu tranh.Đặc biệt trong tình hình chính trị thế giới
hiện nay, với những cuộc xung đột liên quan tới vũ khí hạt nhân thì Đảng ta cần phải
có một bản lĩnh vững vàng để bảo vệ đất nước. Hiện nay, Việt Nam đã quyết định
không cho nước ngoài thuê cảng Cam Ranh nữa, mà đã quyết định tự mình xây dựng
cảng Cam Ranh bằng nguồn lực của chính mình và sẽ sẵn sàng cung cấp dịch vụ cho
tàu hải quân tất cả các quốc gia. Đây là một đường lối đúng đắn, chúng ta không lOMoAR cPSD| 61549570
nghiêng về phía cường quốc kinh tế nào nữa, mà sẽ tự dựa vào sức mình để xây dựng
cảng có vị trí tự nhiên tốt cũng như quân sự quan trong này. Hơn nữa trong các cuộc
tranh chấp của các nước, chủ trương của Đảng ta là trung lập không theo phe phái
nào. Tình hình thế giới hiện nay đang ngày càng phức tạp, tranh chấp trên Biển Đông
cũng đang xấu đi. Nhưng vẫn theo những đường lối mềm dẻo mà Bác đã áp dụng
khi nước ta vừa dành được độc lập năm 1945, chủ trương của Đảng vẫn là giải quyết
các cuộc tranh chấp trên cơ sở các cuộc đàm phán ngoại giao, thỏa hiệp. Tuy nhiên
như thế cũng không phải là chúng ta nhín nhường, chúng ta vẫn luôn cứng rắn bảo
vệ chủ quyền đất nước ta, chuẩn bị các vũ khí tối tân nhằm trường hợp xấu nhất có
thể xảy ra. Tuân theo di nguyện của Người, Đảng và nhân dân ta quyết tâm bảo vệ
độc lập chủ quyền cho đất nước, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa trường tồn.
- Về tư tưởng: Sự đúng đắn của tư tưởng Hồ Chí Minh đã được chứng minhqua
những thắng lợi trong chiến tranh. Và giờ đây khi đất nước đang trong quá trình hội
nhập với thế giới, cuộc chiến về diễn biến hòa bình cũng thầm lặng và cam go hơn
hết. Trách nhiệm của Đảng không chỉ là duy trì những tinh hoa từ tư tưởng của Người
mà còn phải phát huy sáng tạo trước những điều kiện hoàn cảnh mới. Bác đã thành
lập và đặt nền móng cho chủ nghĩa xã hội ở đất nước ta, con đường của Người đã
giải phóng ách nô lệ cho đồng bào ta. Vì thế mỗi người dân hôm nay phải phát huy
tích cực hơn nữa xây dựng đất nước ngày càng giàu đẹp phồn vinh và kiên định theo
con đường chủ nghĩa xã hội mà bác đã chọn.
- Về đạo đức, lối sống: Khi còn sống Bác vẫn thường căn dặn mỗi cán bộ, đảng
viên phải coi trọng tu dưỡng đạo đức, cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Thế
nhưng hiện nay những đức tính này dần dần đã bị suy thoái, và những hạn chế này
đã là giảm sút nghiêm trọng niềm tin của nhân dân đối với Đảng. Bởi vẫn có những
người tham ô,lãng phí. Một số vụ gần đây như Vụ án Đinh La Thăng và đồng phạm
phạm tội “Cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả
nghiêm trọng” và “Tham ô tài sản” xảy ra tại Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN)
năm 2018. Hay như vụ việc Vinashin đã làm thất thoát hơn 86.000 tỉ đồng được xét
xử năm 2014 được coi là vụ án kinh tế lớn nhất Việt Nam đến nay, hay vụ án PMU
18 mặc dù xảy ra đã lâu nhưng vẫn để lại hâu quả nghiêm trọng. Những người đứng
trong hàng ngũ của Đảng, giữ những chức vụ cao nhưng không nêu gương đạo đức
tốt mà còn tha hóa suy đồi là những điều cần được xem lại để có những biện pháp
ngăn chặn và đẩy lùi. Tuy nhiên,chúng ta cũng đã đạt được nhiều thành tựu trong
công tác xây dựng Đảng cầm quyền. Được chiếu rọi bởi ánh sáng tư tưởng Hồ Chí
Minh, Đảng quyết tâm xây dựng và chỉnh đốn về mọi mặt một cách thiết thực,đáp lOMoAR cPSD| 61549570
ứng nhu cầu phát triển của giai cấp và dân tộc là quy luật tồn tại sống còn của
Đảng.Chính trên ý nghĩa quan trong đó,việc tiếp tục đẩy mạnh nghiên cứu,tuyên
truyền,giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng và xây dựng Đảng trong sạch vững
mạnh phải được quán triệt đến từng tổ chức cơ sở Đảng, từng cán bộ, đảng viên
PHẦN III. KẾT LUẬN
Qua những gì đã tìm hiểu ở trên ta thấy được rằng:
- Sau gần 10 năm tìm đường cứu nước, Nguyễn Ái Quốc đã đến với chủ nghĩa
Mác- Lênin, tìm thấy con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc đồng thời đó là cơ
sở lý luận của Đảng.
- Nguyễn Ái Quốc đã chuẩn bị về tư tưởng chính trị và tổ chức cho sự thành
lập Đảng Cộng sản Việt Nam:
+ Tuyên truyền chủ nghĩa Mác- Lênin vào nước ta thông qua các sách báo: Nhân
đạo, Đời sống công nhân, Bản án chế độ thực dân Pháp, Đường cách mạng v.v...
+ Thành lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên truyền bá chủ nghĩa MácLênin
chuẩn bị thành lập Đảng.
- Đến 1929, ba tổ chức cộng sản ra đời nhưng lại công kích lẫn nhau. Yêu cầu
của lịch sử cần phải có một Đảng Cộng sản thống nhất trong cả nước. Với tài năng
và uy tín, Nguyễn Ái Quốc đã thống nhất 3 tổ chức cộng sản thành 1 đảng duy nhất
Đảng Cộng sản Việt Nam.
- Người đã vạch ra cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, đặt nền tảng cho
đường lối cách mạng của Đảng ta. Tóm lại Hồ Chí Minh có vai trò rất lớn đối với sự
thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Có thể nói Bác là người đã sáng lập ra Cộng sản Việt Nam.
TÀI LIỆU THAM KHẢO 1.
Wikipedia – Hồ Chí Minh – Tiểu sử 2.
Sơn Tùng – Búp sen xanh – NXB Kim Đồng – 1981 3.
Hồ Chí Minh toàn tập – NXB Chính trị quốc gia – Sự thật – 2011 4.
Nguyễn Ái Quốc - Chính cương vắn tắt, sách lược vắn tắt - 1930 5.
Giáo trình lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam - 2019 lOMoAR cPSD| 61549570 6.
Nhóm tác giả - Tìm hiểu Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam 1930-2016 (qua
các kì đại hội) – NXB Hồng Đức – 10/2016 7.
Trang web Bảo tàng Hồ Chí Minh: https://baotanghochiminh.vn/ 8.
Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam: http://dangcongsan.vn/
