Vai trò của nhà nước trong đảm bảo hài hòa các quan hệ lợi ích kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam | Tiểu luận môn kinh tế chính trị Mác – Lênin

Từ trước đến nay , nền kinh tế thị trường thành công đều không thể phát triển một cách tự phát nếu thiếu sự can thiệt và hỗ trợ của Nhà Nước. Nền Kinh tế thị trường tang cường và tang trưởng dưới tác động bên ngoài ngày một phức tạp nên sự can thiệt của nhà nước xuất hiện như một tất yếu cho sự hoạt động có hiệu quả của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

Thông tin:
19 trang 2 tuần trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Vai trò của nhà nước trong đảm bảo hài hòa các quan hệ lợi ích kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam | Tiểu luận môn kinh tế chính trị Mác – Lênin

Từ trước đến nay , nền kinh tế thị trường thành công đều không thể phát triển một cách tự phát nếu thiếu sự can thiệt và hỗ trợ của Nhà Nước. Nền Kinh tế thị trường tang cường và tang trưởng dưới tác động bên ngoài ngày một phức tạp nên sự can thiệt của nhà nước xuất hiện như một tất yếu cho sự hoạt động có hiệu quả của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

37 19 lượt tải Tải xuống
BỘ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
BỘ MÔN KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC_LENIN
---------------------------------
TIỂU LUẬN
ĐỀ TÀI :VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG ĐẢM BẢO
HÀI HÒA CÁC QUAN HỆ LỢI ÍCH KINH TẾ THỊ
TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM
GVHD: Th.S Hồ Ngọc Khương
SVTH MSSV
Nguyễn Công Hữu 19144264
Nguyễn Thành Luân 21145445
Trương Vĩnh Nghi 21145465
Nguyễn Tiến 21145523
Lê Bùi Phương Thảo 19129048
1
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU............................................................................................
1.1 Lý do chọn đề tài................................................................................
1.2 Mục đích nghiên cứu.........................................................................
1.3 Phương pháp nghiên cứu..................................................................
PHẦN NỘI DUNG........................................................................................
CHƯƠNG 1 : CÁC LỢI ÍCH KINH TẾ THỊ TRƯỜNG VIỆT
NAM
1.1 Khái niệm lợi ích kinh tế và quan hệ lợi ích kinh tế...................
1.2 Bản chất và biểu hiện lợi ích kinh tế............................................
1.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến lợi ích kinh tế..................................
1.4 Phương thức thực hiện lợi ích kinh tế........................................10
CHƯƠNG 2 : Vai trò của nhà nước trong việc đảm bảo hài hòa các
quan hệ lợi ích kinh tế.......................................................................................12
2.1. Bảo vệ lợi ích hợp pháp, tạo môi trường thuận lợi cho hoạt
động tìm kiếm lợi ích của các chủ thể kinh tế...............................................12
2.2 Kiểm soát, ngăn ngừa các quan hệ lợi ích ảnh hưởng tiêu cực
đối với sự phát triển xã hội………………………………………………….………..12
2.3 Điều hòa lợi ích giữa cá nhân – doanh nghiệp – xã hội...............13
2.4 Giải quyết những mâu thuẫn trong quan hệ lợi ích kinh tế.........14
KẾT LUẬN..................................................................................................15
2
Tài liệu Tham Khảo.....................................................................................17
PHẦN MỞ ĐẦU
1.1Lý do chọn đề tài
Từ trước đến nay , nền kinh tế thị trường thành công đều không thể phát
triển một cách tự phát nếu thiếu sự can thiệt hỗ trợ của Nhà Nước. Nền Kinh
tế thị trường tang cườngtang trưởng dưới tác động bên ngoài ngày một phức
tạp nên sự can thiệt của nhà nước xuất hiện như một tất yếu cho sự hoạt động có
hiệu quả của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường ddinhhj hướng xã hội chủ nghĩa
Việt Nam nền kinh tế vận hành đầy đủ , đồng bộ theo các quy luật của nền
kinh tế thị trường , đồng thời bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với
từng giai đoạn phát triển của đất nước . Đó nền kinh tế thị trường hiện đại
hộ nhập quốc tế :sự quản lý của Nhà nước pháp quyềnhội chủ nghĩa , do
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo , nhằm mục tiêu” Dân Giàu ,ớc mạnh ,
dân chủ , công bằng , văn minh ”.
Nền kinh tế thị trường định hướng hội chủ nghĩa Việt Nam quan hệ
sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất : có nhiều
hình thức sở hữu , nhiều thành phần kinh tế trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò
chủ đạo , kinh tế nhân một động lực chủ yếu để giải phóng sức sản xuất :
các nguồn lực nhà nước được phân bố theo chiến lực , quy hoạch , kế hoạch phù
hợp với chế thị trường . Nhà nước đóng vai trò định hướng , xây dựng
hoàn thiện thế chế kinh tế , tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng , minh bạch
lành mạnh : sử dụng các nguồn lực của Nhà nước công cụ , chính sách để
định hướng và điều tiết nền kinh tế , thúc đẩy sản xuất kinh doanh và bảo vệ môi
3
trường : thực hiện tiến bộ , công bằng hội trong từng bước , từng chính sách
phát triển.
Sau một thời gian tìm hiểu , nghiên cứu từ những kiến thức thu được trong
quá trình học tập nhóm em đã chọn đề tài :” VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC
TRONG ĐẢM BẢO HÀI HÒA CÁC QUAN HỆ LỢI ÍCH KINH TẾ THỊ
TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM” để tìm hiểu
và làm rõ thực trạng và vai trò của nhà nước trong vấn đề này.
1.2Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu về lợi ích kinh tế các mối quna hệ lợi ích kinh tế nước ta.
Liên hệ với thực trạng của nước ta hiện nay để xác định vai trò của Nhà Nước
trong việc đảm bảo sự tăng trưởng phát triển kinh tế một cách ổn định. Thể
hiện được sự cân bằng và sự hài hòa các quan hệ nhu cầu, lợi ích giữa người với
người. Tạo ra sự thống nhất của xã hội trong hành động phát triển đất nước. Điều
kiện tiên quyết Nhà Nước đảm nhiệm việc hoạch định năng lực tổ chức
thực hiện các chính sách phát triển một cách đúng đắn, hợp lý kịp thời. Nâng
cao hiệu quả tác động của Nhà Nước tới sự phát triển của nền kinh tế thị trường
định hướng Chủ NghĩaHội ở Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước hội nhập quốc tế. Trong bối cảnh kinh tế chính trị
đang diễn biến phức tạp tại một số quốc gia, khu vực và phạm vi toàn cầu thì vai
trò quản lý của nhà nước lại càng quan trọng. Do đó việc nghiên cứu đề tài “Vai
trò của Nhà Nước trong đảm bảo hài hòa các quan hệ lợi ích kinh tế thị trường
định hướngHội Chủ Nghĩa Việt Nam hết sức cần thiết, có ý nghĩa về
mặt lý luận và mang tính thực tiễn cao.
1.3Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu thuyết: quan điểm toàn diện của học thuyết kinh tế Mác
4
Lenin, các khái niệm và tác động đến nền kinh tế thị trường
Nghiên cứu thực tiễn: nghiên cứu về nền kinh tế thị trường Việt Nam,
thông qua việc thu thập thông tin về vấn đề nghiên cứu, xử lý, phân tích số liệu
từ đó đánh giá vai trcủa nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng
hội chủ nghĩa.
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1 : CÁC LỢI ÍCH KINH TẾ THỊ TRƯỜNG VIỆT NAM
1.1 Khái niệm lợi ích kinh tế và quan hệ lợi ích kinh tế
1.1.1 Lợi ích kinh tế
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, các chủ thể kinh tế cùng tồn tại
phát triển.có thểnhân, tổ chức, quốc gia hoặc các tổ chức kinh tế quốc
tế. Tuy nhiên, các chủ thể kinh tế này không tồn tại độc lập với nhau chúng
có mối quan hệ về lợi ích kinh tế.
Mối quan hệ về lợi ích kinh tế có thể thống nhất hoặc mâu thuẫn với nhau,
tùy theo vị trí, đặc trung của chủ thể này đối với chủ thể kia. Để tồn tại phát
triển thì con người cần thỏa mãn các nhu cầu về vật chất cũng như nhu cầu về
tinh thần. Khi các nhu cầu của con người được thỏa mãn, được đáp ứng thì người
ta gọi đó là lợi ích. Như vậy, “lợi ích sự thỏa mãn những nhu cầu của con
người sự thỏa mãn nhu cầu này phải được nhận thức được đặt trong mối
quan hệhội ứng với trình độ phát triển nhất định của nền sản xuất hội đó”
[1, tr189]. Hiểu đơn giản thì lợi ích phải thỏa mãn được 3 điều kiện: thỏa mãn
nhu cầu con người, được nhận thức đặt trong một mối quan hệ hội tương
ứng.
Vì nhu cầu của con người bao gồm nhu cầu về vật chất và nhu cầu về tinh
thần nên lợi ích cũng sẽ hai loại lợi ích vật chất lợi ích tinh thần. Tuy
nhiên tùy theo điều kiện, hoàn cảnh cụ thể lợi ích vật chất hay lợi ích tinh
5
thần sẽ đóng vai trò quyết định đối với hoạt động của con người. Trải qua quá
trình tồn tại của con người và đời sống xã hội thì lợi ích vật chất vẫn đóng vai trò
quyết định trong việc thúc đẩy hoạt động của các cá nhân, các tổ chức xã hội. Từ
đó, ta khái quát được “lợi ích kinh tế là lợi ích vật chất, lợi ích thu được khi thực
hiện các hoạt động kinh tế của con người” [1, tr189][1]
Trong nông nghiệp, lợi ích kinh tế nguồn nông sản người dân thu
hoạch được, nguồn thủy hải sản người dân đánh bắt được, hay nguôn lâm
sản do người dân khai thác được trong tự nhiên. Trong công nghiệp thương
nghiệp, lợi ích kinh tế chính lợi nhuận họ thu được sau hoạt động buôn
bán, kinh doanh.
Xét về bản chất, lợi ích kinh tế phản ánh mục đích và động cơ khách quan
của các chủ thể khi tham gia vào các hoạt động kinh tế hội. Những lợi ích
kinh tế xuất hiện khi các chủ thể trong hội xác lập các mối qun hệ về lợi ích
kinh tế với nhau. Lợi ích kinh tế trong mỗi giai đoạn cũng phản ánh bản chất
hội của giai đoạn lịch sử đó. Khi nước ta trong thời kỳ bao cấp, chúng ta xóa bỏ
thành phần kinh tế tư nhân, chỉ có các hợp tác xã đánh bắt cá dựa trên sở hữu tập
thể về liệu sản xuất, thủy hải sản đánh bắt được sẽ được nhà nước thu mua
theo giá quy định và phân phối bao cấp lại cho xã hội. Lợi ích kinh tế tư nhân sẽ
gắn liền với tập thể, không tạo được động lực cho người lao động họ không
được hưởng trực tiếp lợi ích kinh tế do chính họ tạo ra. Khi đất nước chuyển
sang nền kinh tế thị trường, đã xuất hiện nhiều hình thức sản xuất nhân mới,
các chủ thê kinh tể được độc lập, tách biệt với tập thể và họ được hưởng trực tiếp
lợi ích kinh tế do họ tạo ra, không như thời bao cấp.
Xét về biểu hiện, gắn với các chủ thể kinh tế khác nhau những lợi ích
tương ứng. Trong một chủ thể kinh doanh lợi ích kinh tế của công ty mẹ lợi
nhuận thu được từ các đại lý, lợi ích kinh tế của các đạilà lợi nhuận thu được
từ các cửa hàng nhỏ lẻ khác. Như vậy lợi ích kinh tế của các chủ thể kinh tế sẽ
6
do quan hệ sở hữu liệu sản xuất quyết định. Chủ thể nào nhiều liệu sản
xuất hơn thì chủ thể đó sẽ nắm nhiều lợi ích kinh tế hơn.
Trong nền kinh tế thị trường, lợi ích kinh tế đóng vai trò là động lực trực
tiếp của các chủ thể kinh tế hoạt động kinh tế hội. Đồng thời, lợi ích kinh
tế là vai trò thúc đẩy sự phát triển các lợi ích khác. Trong kinh doanh, lợi nhuận
chính động lực trực tiếp để các cửa hàng, các đại lý, các sở sản xuất hay
các doanh nghiệp hoạt động. từ những lợi nhuận thu được, các chủ thể sẽ
dùng nó để thỏa mãn nhu cầu về các khía cạnh khác như nhu cầu về văn hóa, nhu
cầu về giáo dục, nhu cầu về chính trị ….
1.2 Bản chất và biểu hiện lợi ích kinh tế
1.2.1 Khái niệm về quan hệ lợi ích kinh tế
Quan hệ lợi ích kinh tế sự thiết lập những tương tác giữa con người với
con người , giữa các cộng đồng người, giữa các tổ chức kinh tế, giữa các bộ phận
hợp thành nền kinh tế, giữa con người với tổ chức kinh tế giữa quốc gia với
phần còn lại của thế giới nhằm mục tiêu xác lập các lợi ích kinh tế trong mối liên
hệ với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất kiến trúc thượng tầng tương
ứng của một giai đoạn phát triển xã hội nhất định .
Như vậy thể thấy được quan hệ lợi ích kinh tế được biểu hiện hết sức
phong phú, xét theo chiều dọc thì đó là giữa một tổ chức kinh tế với một cá nhân
trong tổ chức kinh tế đó. Cũng thể xét theo chiều ngang giữa các chủ thể,
các cộng đồng người, giữa các tổ chức, các bộ phận hợp thành nền kinh tế khác
nhau. Không những thế, ngày nay khi thế giới đang trong điều kiện hội nhập thì
quan hệ lợi ích kinh tế còn phải xét tới quan hệ giữa quốc gia với phần còn lại
của thế giới.
1.2.2 Sự thống nhất và mâu thuẫn trong các quan hệ lợi ích kinh tế
7
Sự thống nhất của quan hệ lợi ích kinh tế :
Chúng thống nhất với nhau vì một chủ thể có thể trở thành bộ phận cấu thành
của chủ thể khác. Do đó, lợi ích của chủ thể này được thực hiện thì lợi ích của
chủ thể khác cũng trực tiếp hoặc gián tiếp được thực hiện. dụ , mỗi nhân
người lao động có lợi ích riêng của mình, đồng thời các cá nhân đó lại là một bộ
phân trong tập thể doanh nghiệp tham gia vào lợi ích tập thể đó. Doanh
nghiệp hoạt động càng hiệu quả, lợi ích doanh nghiệp càng được đảm bảo thì
lợi ích người lao động càng được thực hiện tốt điển hình như nhu cầu việc làm
được thỏa mãn, thu nhập ổn định và được nâng cao ... Ngược lại thì lợi ích người
lao động càng được thực hiện tốt thì người lao động sẽ càng làm việc tích cực,
trách nhiệm với doanh nghiệp được nâng cao từ đó lợi ích doanh nghiệp sẽ
càng được thực hiện tốt. [4]
Sự mâu thuẫn trong quan hệ kinh tế :
Các quan hệ lợi ích kinh tế mâu thuẫn với nhau các chủ thể kinh tế có thể
hành động theo những cách khác nhau nhằm mục đích thực hiện các lợi ích của
mình. Nếu như sự khác nhau dẫn đến đối lập thì sẽ trở thành mẫu thuẫn. dụ,
lợi ích của mình, các nhân, doanh nghiệp thể làm hàng giả, buôn lậu,
trốn thuế,.. do đó lợi ích nhân, doanh nghiệp lợi ích hội sẽ mâu thuẫn
với nhau. Khi đó, chủ doanh nghiệp càng thu được nhiều lợi nhuận thì lợi ích
kinh tế của người tiêu dung và của xã hội càng bị tổn hại. Lợi ích của những chủ
thể kinh tế có quan hệ trực tiếp trong việc phân phối kết quả hoạt động sản xuất,
kinh doanh cũng thể mâu thuẫn với nhau tại một thời điểm kết quả hoạt
động sản xuất, kinh doanh là xác định. Do đó, thu nhập của chủ thể này tăng lên
thì thu nhập của chủ thể khác giảm xuống. Chẳng hạn như tiền lương của người
lao động bị giảm bớt sẽ làm tăng lợi nhuận của chủ doanh nghiệp; nhà nước
giảm thuế thì lợi nhuận doanh nghiệp tăng lên ... Khi có mâu thuẫn thì việc thực
hiện lợi ích này thể sẽ ngăn cản, ảnh hưởng và thậm chí làm tổn hại đến các
8
lợi ích khác. Mâu thuẫn về lợi ích kinh tế cội nguồn của các xung đột hội.
Do vậy, điều hoà mâu thuẫn giữa các lợi ích kinh tế buộc các chủ thể phải quan
tâm trở thành chức năng quan trọng của nhà nước nhằm ổn định hội, tạo
động lực phát triển kinh tế - xã hội. Trong các hình thức lợi ích kinh tế thì lợi ích
nhân chính sở nền tảng của các lợi ích khác. Bởi các nguyên nhân
chủ yếu, thứ nhất nhu cầu bản, sống còn trước hết thuộc về các nhân,
quyết định hoạt động của các cả nhân ; thứ hai, thực hiện lợi ích cá nhân là sơ sở
để thực hiện các lợi ích khác nhân cấu thành nên tập thể , giai cấp ,
hội ... Dân giàu thì nước mạnh . Do đó , lợi ích nhân chính đáng cần
được pháp luật tôn trong bảo vệ.
1.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến lợi ích kinh tế
Các nhân tố ảnh hưởng đến quan hệ lợi ích kinh tế
Nền kinh tế thị trường chịu tác động của nhiều nhân tố,cụ thể như sau:
Thứ nhất là trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Thứ hai là địa vị của chủ thể trong hệ thống quan hệ sản xuất xã hội.
Thứ ba là chính sách phân phối thu nhập của nhà nước.
Thứ tư là hội nhập kinh tế quốc tế.
Đầu tiên trình độ phát triển của lực lượng sản xuất: phương thức
mức độ thỏa mãn các nhu cầu vật chất của con người, lợi ích kinh tế trước hết
phụ thuộc vào số lượng, chất lượng hàng hóa dịch vụ, mả điều này lại phụ
thuộc vào trình độ phát triển lực lượng sản xuất. Do đó, trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất càng cao, việc đáp ứng lợi ích kinh tế của các chủ thể càng
tốt. Quan hệ lợi ích kinh tế vậy, cảng điều kiện để thống nhất với nhau.
Như vậy, nhân tố đầu tiên ảnh hưởng đến quan hệ lợi ích kinh tế của các chủ thể
lực lượng sản xuất. Chính vậy, phát triển lực lượng sản xuất trở thành
nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của các quốc gia.
9
dụ: Hãng điện thoại Apple chất lượng ,dịch vụ trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất ngày càng tiến bộ và nâng cao, apple sử dụng các công
nghệ ưu việt như là màn hình cảm ứng đa điểm, cảm biến vân tay, True Tone
Night Shift ( cho phép thiết bị tự nhận diện điều kiện môi trường xung quanh để
điều chỉnh trải nghiệm hình ảnh tự nhiên)… và kỹ thuật cao,tiên tiến cho nên
ngày càng thõa mãn được các nhu cầu của người tiêu dùng. Thiết bị điện thoại
của apple ảnh hưởng rất lớn đến thị trường thế giới công ty giá trị
thị trường lớn nhất thế giới.[2]
Tiếp theo địa vị của chủ thể trong hệ thống quan hệ sản xuất hội:
Như chúng ta đã biết quan hệ sản xuất, mà trước hết là quan hệ sở hữu về tư liệu
sản xuất, quyết định vị trí, vai trò của mỗi con người, mỗi chủ thể trong quá trình
tham gia các hoạt động kinh tế - hội. Do đó, không lợi ích kinh tế nằm
ngoài những quan hệ sản xuất và trao đổi, mà nó là sản phẩm của những quan hệ
sản xuất và trao đổi, là hình thức tồn tại và biểu hiện của tien hệ sản xuất và trao
đổi trong nền kinh tế thị trường.
Tiếp theonằm ở chính sách phân phối thu nhập của nhà nước. Sự can
thiệp của nhà nước vào nền kinh tế thị trường tất yếu khách quan, bằng nhiều
loại công cụ, trong đó các chính sách kinh tế - hội. Chính sách phân phối
thu nhập của nhà nước làm thay đổi mức thu nhập tương quan thu nhập của
các chủ thể kinh tế. Khi mức thu nhậptương quan thu nhập thay đổi, phương
thức mức độ thỏa mãn các nhu cầu vật chất cũng thay đổi, tức lợi ích kinh
tế và quan hệ lợi ích kinh tế giữa các chủ thể cũng thay đổi.
Cuối cùng là sự hội nhập kinh tế quốc tế: bản chất của kinh tế thị trường là
mở cửa hội nhập. Khi mở cửa hội nhập, các quốc gia có thể gia tăng lợi ích kinh
tế từ thương mại quốc tế, đầu tư quốc tế. Tuy nhiên, lợi ích kinh tế của các doanh
nghiệp, hộ gia đình sản xuất hàng hóa tiêu thụ trên thị trường nội địa thể bị
10
ảnh hưởng bởi cạnh tranh của hàng hóa nước ngoài. Đất nước thể phát triển
nhanh hơn nhưng cũng phải đối mặt với các nguy cạn kiệt tài nguyên, ô
nhiễm môi trường... Điều đó nghĩa hội nhập kinh tế quốc tế sẽ tác động
mạnh mẽ và nhiều chiều đến lợi ích kinh tế của các chủ thể.
1.4 Phương thức thực hiện lợi ích kinh tế
1.4.1 Phương thức thực hiện lợi ích kinh tế các quan hệ lợi ích chủ
yếu:
Mặc dù các lợi ích đan xen nhau nhưng trong điều kiện kinh tế thị trường
hội chủ nghĩa, có hai cách cơ bản để đạt được lợi ích kinh tế, bao gồm:
Thứ nhất, Thực hiện lợi ích kinh tế theo nguyên tắc thị trường:
Nguyên tắc chiều dài cánh tay (ALP) điều kiện hoặc thực tế các bên
tham gia giao dịch độc lập quan điểm bình đẳng. Các giao dịch như vậy
được gọi là "giao dịch theo giá thị trường".
Mặc dù lợi ích và chủ thể của lợi ích kinh tế rất đa dạng, nhưng để thực hiện
lợi ích của mình phải dựa trên nguyên tắc thị trường trong điều kiện kinh tế thị
trường. Cách tiếp cận này phổ biến ở tất cả các nền kinh tế thị trường, kể cả nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam.
dụ: Một dụ đơn giản về việc không tuân theo giá thị trường cha mẹ
bán tài sản cho con. Cha mẹthể muốn bán tài sản cho con cái của họ với giá
thấp hơn giá trị thị trường, nhưng một giao dịch như vậy có thể được tòa án phân
loại một "món quà" chứ không phải một giao dịch bán thực sự. Rủi ro về
thuế và các hậu quả pháp lý khác có thể phát sinh. Để tránh sự phân loại này, các
bên nên chứng minh rằng giao dịch được thực hiện theo cách không khác với bất
kỳ bên thứ ba nào. Điều này thể được thực hiện bằng cách mời một bên thứ
ba độc lập, chẳng hạn như một nhà thẩm định hoặc nhà môi giới, những người có
11
thể đưa ra lời khuyên chuyên nghiệp rằng giá bán phù hợpphản ánh giá cả
cũng như giá trị thực tế của bất động sản.[3]
Thứ hai, thực hiện lợi ích kinh tế theo chính sách của nhà nước và vai trò của
các tổ chức xã hội:
Trong việc thực hiện lợi ích kinh tế, nếu chỉ dựa trên nguyên tắc thị trường thì tất
yếu sẽ dẫn đến những hạn chế về mặt hội. vậy, để khắc phục những hạn
chế của việc thực hiện theo định hướng thị trường, cần quan tâm đến việc thực
hiện lợi ích trên sở chính sách quốc gia và vai trò của các tổ chức hội, tạo
bình đẳng và thúc đẩy tiến bộ xã hội.
dụ, các chính sách bản quốc gia cần xây dựngtổ chức để đạt được
mục tiêu phát triển kinh tế bền vững rất đa dạng, bao gồm: chính sách phát triển
nguồn nhân lực; chính sách phát triển khoa học công nghệ; chính sách xây
dựng cơ cấu kinh tế cân đối và hợp lý …
12
CHƯƠNG 2 : Vai trò của nhà nước trong việc đảm bảo hài
hòa các quan hệ lợi ích kinh tế
Hài hòa các lợi ích kinh tế là sự thống nhất biện chứng giữa lợi ích kinh tế
của các chủ thể mâu thuẫn được hạn chế , trong đó mặt , tránh được va chạm,
xung đột; mặt thống nhất được khuyến khích, tạo điều kiện phát triển cả chiều
rộng và chiều sâu, từ đó , góp phầntạo động lực thúc đẩy các hoạt động kinh tế
thực hiện tốt hơn các lợi ích kinh tế, đặc biệt là lợi ích xã hội.
Các lợi ích kinh tế luôn vừa , vừa có sự với nhau, vàthống nhất mâu thuẫn
nhà nước sẽ phải giải quyết mâu thuẫn đó. Vai trò của nhà nước làm sao để
trong nền kinh tế thị trường định hướng hội chủ nghĩa phải đảm bảo hài hòa
các lợi ích kinh tế , tức là điều hòa được lợi ích cá nhân, lợi ích doanh nghiệp
lợi ích hội; khi phát sinh những hiện tượng tiêu cựckiểm soát, ngăn ngừa
trong mối quan hệ về lợi ích kinh tế.
2.1. Bảo vệ lợi ích hợp pháp, tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động tìm kiếm
lợi ích của các chủ thể kinh tế
Các hoạt động kinh tế bao giờ cũng diễn ra trong một môi trường nhất
định. Môi trường càng thuận lợi, các hoạt động kinh tế càng hiệu quả không
ngừng mở rộng. Tuy nhiên, môi trường vĩ mô thuận lợi không tự hình thành,
phải được nhà nước tạo lập. Trong những năm vừa qua, Việt Nam đã thực hiện
rất tốt việc tạo lập môi trường thuận lợi cho các hoạt động kinh tế, trước hết
giữ vững ổn định về chính trị. Nhờ đó, các nhà đầu trong ngoài nước rất
13
yên tam khi tiến hành đầu tư. vậy, tiếp tục giữ vững ổn định về chính trị
góp phần bảo đảm hài hòa các lợi ích kinh tế ở Việt Nam.
Tạo lập môi trường thuận lợi cho các hoạt động kinh tế đòi hỏi phải xây
dựng được môi trường pháp luật thông thoáng , bảo vệ được lợi ích chính đáng
của các chủ thể trong ngoài nước (doanh nghiệp, các nhân...), đặc biệt
lợi ích của đất nước. Trong những năm vừa qua, khi đất nước hội nhập quốc tế
ngày càng sâu rộng, hệ thống pháp luật của nước ta đã và đang thay đổi tích cực
để phù hợp, tuân thủ theo các chuẩn mực và thông lệ quốc tế.
Tiếp đó, tạo lập môi trường thuận lợi cho các hoạt động kinh tế tất yếu
phải . Trong những năm vừađầu xây dựng kết cấu hạ tầng của nền kinh tế
qua, kết cấu hạ tầng của nền kinh tế nước ta đã được cải thiện rất đáng kể, đáp
ứng nhu cầu của các hoạt động kinh tế. Môi trường vĩ mô về kinh tế đòi hỏi Nhà
nước phải đưa ra các chính sách phù hợp với nhu cầu của nền kinh tế trong từng
giai đoạn. Thực tế cho thấy, các chính sách kinh tế của Việt Nam đang từng
bước đáp ứng yêu cầu này.
Ngoài ra, tạo lập môi trường thuận lợi cho các hoạt động kinh tế còn là tạo
lập môi trường văn hóa phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế thị trường , trong
đó con người năng động, sáng tạo; tôn trọng kỷ cương, pháp luật, giữ chữ tín…
2.2 Kiểm soát, ngăn ngừa các quan hệ lợi ích ảnh hưởng tiêu cực
đối với sự phát triển xã hội
Lợi ích kinh tế kết quả trực tiếp của phân phối thu nhập, do đó phân
phối công bằng, hợp lý góp phần quan trọng đảm bảo hài hòa các lợi ích kinh tế.
vậy, Nhà nước phải tích cực, chủ động thực hiện công bằng trong phân phối
thu nhập.Hiện nay, công bằng trong phân phối hai quan niệm chính: công
14
bằng theo mứcđộ công bằng theo chức năng. Hai quan niệm này đều ưu
điểm nhược điểm, dođó cần được sử dụng kết hợp như sau: Trước hết, Nhà
nước phải chăm lo đời sống vậtchất cho mọi người dân. mỗi giai đoạn phát
triển, để người dân ít nhất đạt được mứcsống tối thiểu, Nhà nước cần thực hiện
hiệu quả các chính sách xóa đói, giảm nghèo,tạo điều kiện hội tiếp cận
bình đẳng các nguồn lực phát triển, hưởng thụ các dịch vụxã hội bản, vươn
lên thoát đói nghèo vững chắc các vùng nghèo các bộ phận dâncư nghèo,
khắc phục tưởng bao cấp, lại. Chú trọng các chính sách ưu đãi hội,
vậnđộng toàn dân tham gia các hoạt động đền ơn đáp nghĩa, uống nước nhớ
nguồn. Đẩymạnh các hoạt động nhân đạo, từ thiện, giúp đỡ người nghèo, đồng
bào các vùng gặpthiên tai... Nhà nước cần có các chính sách khuyến khích người
dân làm giàu hợp pháp,tạo điều kiện giúp đỡ họ bằng mọi biện pháp.Để lợi
ích kinh tế thật sự là động lực của các hoạt động kinh tế, người lao động vàngười
sử dụng lao động phải hiểu được các nguyên tắc phân phối của kinh tế thị
trườngđể sự phân chia hợp giữa tiền lương lợi nhuận. Không chỉ vậy,
chủ doanh nghiệpcòn phải hiểu tự thực hiện nghĩa vụ nộp thuế... Do vậy,
tuyên truyền, giáo dục để nângcao nhận thức, hiểu biết về phân phối thu nhập
cho các chủ thể kinh tế - hội nhữnggiải pháp rất cần thiết để loại bỏ những
đòi hỏi không hợpvề thu nhập. Trong trườnghợp người lao động người sử
dụng lao động không tự nhận thức và thực hiện được,Nhà nước cần có sự tư vấn,
điều tiết hợp lý.Bên cạnh đó, trong cơ chế thị trường, các hoạt động bất hợp pháp
như buôn lậu,làm hàng giả, hàng nhái; lừa đảo; tham nhũng... tồn tại khá phổ
biến và nếu càng gia tăngsẽ càng làm tổn hại lợi ích kinh tế của các chủ thể làm
ăn chân chính. Để chống lại các hình thức thu nhập bất hợp pháp, bảo đảm hài
hòa các lợi ích kinh tế, trước hết, phải cóbộ máy nhà nước liêm chính, hiệu
lực nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động thanhtra, kiểm tra xử vi phạm.
Nhà nước phải kiểm soát được thu nhập của công dân,trước hết là thu nhập của
15
cán bộ, công chức nhà nước. Trước pháp luật, mọi người dân vàcán bộ, công
chức nhà nước phải thực sự bình đẳng; mọi vi phạm phải được xét xử theoquy
định của pháp luật. Theo đó, việc thực hiện công khai, minh bạch mọi chế,
chínhsách và quy định của Nhà nước sẽ giúp người dân, doanh nghiệp và cán bộ,
công chứcnhà nước hiểu được quyền lợi, trách nhiệm của mình, tránh được
tình trạng lạm quyền,thiếu trách nhiệm, tham nhũng
2.3 Điều hòa lợi ích giữa cá nhân – doanh nghiệp – xã hội
Do mâu thuẫn về lợi ích kinh tế giữa các chủ thể tác động của các quy
luật thị trường, sự phân hóa về thu nhập giữa các tầng lớp dân cư làm cho lợi ích
kinh tế của một bộ phận dân được thực hiện rất khó khăn, hạn chế. vậy,
nhà nước cần các chính sách, trước hết chính sách phân phối thu nhập
nhằm bảo đảm hài hòa các lợi ích kinh tế, phải tính đến một số vấn đề sau:
Trong điều kiện kinh tế thị trường, một mặt, phải thừa nhận sự chênh lệch về
mức thu nhập giữa các tập thể, các nhân là khách quan; nhưng mặt khác phải
ngăn chặn sự chênh lệch thu nhập quá đáng. Bởi sự phân hóa hội thái quá
thể dẫn đến căng thẳng, thậm chí xung đột hội. Thêm nữa, phân phối không
chỉ phụ thuộc vào quan hệ sở hữu, mà còn phụ thuộc vào sản xuất. Trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất càng cao, hàng hóa, dịch vụ càng dồi dào, chất
lượng càng tốt, thì thu nhập của các chủ thể càng lớn. Do đó, phát triển mạnh mẽ
lực lượng sản xuất, phát triển khoa học công nghệ sẽ góp phần nâng cao thu
nhập cho các chủ thể kinh tế.
Hình thức thu nhập bất hợp pháp, bảo đảm hài hòa các lợi ích kinh tế,
trước hết, phải bộ máy nhà nước liêm chính, có hiệu lực nhằm nâng cao hiệu
quả của hoạt động thanh tra, kiểm tra xử vi phạm. Nhà nước phải kiểm
soát được thu nhập của công dân, trước hết thu nhập của cán bộ, công chức
nhà nước. Trước pháp luật, mọi người dân cán bộ, công chức nhà nước phải
16
thực sự bình đẳng; mọi vi phạm phải được xét xử theo quy định của pháp luật.
Theo đó, việc thực hiện công khai, minh bạch mọi chế, chính sách quy
định của Nhà nước sẽ giúp người dân, doanh nghiệp cán bộ, công chức nhà
nước hiểu được quyền lợi, trách nhiệm của mình, tránh được tình trạng lạm
quyền, thiếu trách nhiệm, tham nhũng...
2.4. Giải quyết những mâu thuẫn trong quan hệ lợi ích kinh tế
Mâu thuẫn giữa các lợi ích kinh tế khách quan, nếu không được giải
quyết sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến động lực của các hoạt động kinh tế. Do đó, để
giải quyết kịp thời khi mâu thuẫn phát sinh, các quan chức năng của nhà
nước phải thường xuyên quan tâm phát hiện mâu thuẫn và chuẩn bị chu đáo các
giải pháp đối phó. Nguyên tắc giải quyết mâu thuẫn giữa các lợi ích kinh tế
phải sự tham gia của các bên liên quan, nhân nhượng phải đặt lợi
ích đất nước lên trên hết.
Tuy ngăn ngừachính, nhưng khi mâu thuẫn xảy ra giữa các lợi ích kinh
tế bùng phát thể dẫn đến xung đột (đình công, bãi công...). Khi đó, cần sự
tham gia hòa giải của các tổ chức xã hội có liên quan, đặc biệt là nhà nước.[5]
KẾT LUẬN
Như vậy, bài thảo luận trên đã làm quan điểm của triết học Mác-
Lênin về lợi ích, lợi ích cá nhân, lợi ích xã hội và mối quan hệ của chúng. Từ đó
hiểu rõ động lực của sự phát triển xã hội suy cho cùngkết quả hoạt độngý
thức của con người nhằm theo đuổi những lợi ích nhất định. Chính vậy, quan
tâm thực hiện nhu cầu, lợi ích của nhân hội, giải quyết các quan hệ lợi
ích trong hội đó chính tạo ra động lực phát triển hội nhằm đạt được
những mục tiêu cao hơn. Động lực lợi ích luôn được Đảng, nhà nước ta quan tâm
giải quyết (đặc biệt từ khi đổi mới đến nay). Qua đó nghiên cứu việc giải quyết
17
quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường ở
nước ta hiện nay, chủ thể giải quyết quan hệ lợi ích này là Đảng, nhà nước thông
qua việc phân tích thực trạng mối quan hệ giữa lợi ích nhân và lợi ích hội
trong điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng XHCN Việt Nam hiện nay,
chỉ ra những ưu điểm và bất cập của mối quan hệ này và nguyên nhân những bất
cập, tồn tại. Để giải quyết các mâu thuẫn này một cách hài hòa cần xác định các
quan điểm rõ ràng, có tính định hướng cho sự phát triển, đặc biệt cần kết hợp các
lợi ích nhân - tập thể - hội “phải đặt lợi ích quốc gia - dân tộc lên trên
hết”, phù hợp với lợi ích của nhân loại tiến bộ. Trên cơ sở đó thực hiện đồng bộ
các giải pháp thông qua các chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng, nhà
nước nhằm duy trì mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh”
Tóm lại, nhà nước vai trò to lớn trong việc bảo đảm, hài hòa các
quan hệ nhu cầu, lợi ích giữa người người, tạo ra sự đồng thuận hội trong
hành động vì mục tiêu phát triển của đất nước.
18
Tài liệu Tham Khảo
[1] Bộ giáo dục và đào tạo. . Hà Nội: Nxb. Chính trị quốcKinh tế chính trị Mác – Lênin
gia sự thật, 2021
[2] ( Nguồn của ví dụ chính sách phân phối thu nhập của nhà nước ) ebh.vn ,2022,
<https://ebh.vn/tin-tuc/muc-luong-toi-thieu-vung-nam-2022>, 3:25pm
[3] Các quan hệ lợi ích kinh tế ở Việt Nam, <https://www.elib.vn/huong-dan/bai-3-cac-
quan-he-loi-ich-kinh-te-o-viet-nam-32293.html>, 12:21Pm.
[4] Giáo trình Kinh tế chính trị Mác – Lê Nin, Hà Nội (2019).
[5]Vai trò của nhà nước < http://giasuglory.edu.vn/ly-luan-chinh-tri/kinh-te-chinh-tri-
mac-lenin/vai-tro-nha-nuoc-trong-bao-dam-hai-hoa-cac-quan-he-loi-ich-nhu-the-nao-
102.html> , 2:21Pm , 2022
19
| 1/19

Preview text:

BỘ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
BỘ MÔN KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC_LENIN
--------------------------------- TIỂU LUẬN
ĐỀ TÀI :VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG ĐẢM BẢO
HÀI HÒA CÁC QUAN HỆ LỢI ÍCH KINH TẾ THỊ
TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM
GVHD: Th.S Hồ Ngọc Khương SVTH MSSV Nguyễn Công Hữu 19144264 Nguyễn Thành Luân 21145445 Trương Vĩnh Nghi 21145465 Nguyễn Tiến 21145523
Lê Bùi Phương Thảo 19129048 1 MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU............................................................................................
1.1 Lý do chọn đề tài................................................................................
1.2 Mục đích nghiên cứu.........................................................................
1.3 Phương pháp nghiên cứu..................................................................
PHẦN NỘI DUNG........................................................................................
CHƯƠNG 1 : CÁC LỢI ÍCH KINH TẾ THỊ TRƯỜNG VIỆT NAM
1.1 Khái niệm lợi ích kinh tế và quan hệ lợi ích kinh tế...................
1.2 Bản chất và biểu hiện lợi ích kinh tế............................................
1.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến lợi ích kinh tế..................................
1.4 Phương thức thực hiện lợi ích kinh tế........................................10
CHƯƠNG 2 : Vai trò của nhà nước trong việc đảm bảo hài hòa các
quan hệ lợi ích kinh tế.......................................................................................12
2.1. Bảo vệ lợi ích hợp pháp, tạo môi trường thuận lợi cho hoạt
động tìm kiếm lợi ích của các chủ thể kinh tế...............................................12
2.2 Kiểm soát, ngăn ngừa các quan hệ lợi ích có ảnh hưởng tiêu cực
đối với sự phát triển xã hội………………………………………………….………..12
2.3 Điều hòa lợi ích giữa cá nhân – doanh nghiệp – xã hội...............13
2.4 Giải quyết những mâu thuẫn trong quan hệ lợi ích kinh tế.........14
KẾT LUẬN..................................................................................................15 2
Tài liệu Tham Khảo.....................................................................................17 PHẦN MỞ ĐẦU
1.1 Lý do chọn đề tài
Từ trước đến nay , nền kinh tế thị trường thành công đều không thể phát
triển một cách tự phát nếu thiếu sự can thiệt và hỗ trợ của Nhà Nước. Nền Kinh
tế thị trường tang cường và tang trưởng dưới tác động bên ngoài ngày một phức
tạp nên sự can thiệt của nhà nước xuất hiện như một tất yếu cho sự hoạt động có
hiệu quả của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường ddinhhj hướng xã hội chủ nghĩa
Việt Nam là nền kinh tế vận hành đầy đủ , đồng bộ theo các quy luật của nền
kinh tế thị trường , đồng thời bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với
từng giai đoạn phát triển của đất nước . Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại và
hộ nhập quốc tế : có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa , do
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo , nhằm mục tiêu” Dân Giàu , nước mạnh ,
dân chủ , công bằng , văn minh ”.
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam có quan hệ
sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất : có nhiều
hình thức sở hữu , nhiều thành phần kinh tế trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò
chủ đạo , kinh tế tư nhân là một động lực chủ yếu để giải phóng sức sản xuất :
các nguồn lực nhà nước được phân bố theo chiến lực , quy hoạch , kế hoạch phù
hợp với cơ chế thị trường . Nhà nước đóng vai trò định hướng , xây dựng và
hoàn thiện thế chế kinh tế , tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng , minh bạch và
và lành mạnh : sử dụng các nguồn lực của Nhà nước và công cụ , chính sách để
định hướng và điều tiết nền kinh tế , thúc đẩy sản xuất kinh doanh và bảo vệ môi 3
trường : thực hiện tiến bộ , công bằng xã hội trong từng bước , từng chính sách phát triển.
Sau một thời gian tìm hiểu , nghiên cứu và từ những kiến thức thu được trong
quá trình học tập nhóm em đã chọn đề tài :” VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC
TRONG ĐẢM BẢO HÀI HÒA CÁC QUAN HỆ LỢI ÍCH KINH TẾ THỊ
TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM” để tìm hiểu
và làm rõ thực trạng và vai trò của nhà nước trong vấn đề này.
1.2 Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu về lợi ích kinh tế và các mối quna hệ lợi ích kinh tế ở nước ta.
Liên hệ với thực trạng của nước ta hiện nay để xác định vai trò của Nhà Nước
trong việc đảm bảo sự tăng trưởng và phát triển kinh tế một cách ổn định. Thể
hiện được sự cân bằng và sự hài hòa các quan hệ nhu cầu, lợi ích giữa người với
người. Tạo ra sự thống nhất của xã hội trong hành động phát triển đất nước. Điều
kiện tiên quyết là Nhà Nước đảm nhiệm việc hoạch định và năng lực tổ chức
thực hiện các chính sách phát triển một cách đúng đắn, hợp lý và kịp thời. Nâng
cao hiệu quả tác động của Nhà Nước tới sự phát triển của nền kinh tế thị trường
định hướng Chủ Nghĩa Xã Hội ở Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế. Trong bối cảnh kinh tế chính trị
đang diễn biến phức tạp tại một số quốc gia, khu vực và phạm vi toàn cầu thì vai
trò quản lý của nhà nước lại càng quan trọng. Do đó việc nghiên cứu đề tài “Vai
trò của Nhà Nước trong đảm bảo hài hòa các quan hệ lợi ích kinh tế thị trường
định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa ở Việt Nam ” là hết sức cần thiết, có ý nghĩa về
mặt lý luận và mang tính thực tiễn cao.
1.3 Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu lý thuyết: quan điểm toàn diện của học thuyết kinh tế Mác – 4
Lenin, các khái niệm và tác động đến nền kinh tế thị trường
Nghiên cứu thực tiễn: nghiên cứu về nền kinh tế thị trường ở Việt Nam,
thông qua việc thu thập thông tin về vấn đề nghiên cứu, xử lý, phân tích số liệu
từ đó đánh giá vai trọ của nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1 : CÁC LỢI ÍCH KINH TẾ THỊ TRƯỜNG VIỆT NAM
1.1 Khái niệm lợi ích kinh tế và quan hệ lợi ích kinh tế
1.1.1 Lợi ích kinh tế
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, các chủ thể kinh tế cùng tồn tại và
phát triển. Nó có thể là cá nhân, tổ chức, quốc gia hoặc các tổ chức kinh tế quốc
tế. Tuy nhiên, các chủ thể kinh tế này không tồn tại độc lập với nhau mà chúng
có mối quan hệ về lợi ích kinh tế.
Mối quan hệ về lợi ích kinh tế có thể thống nhất hoặc mâu thuẫn với nhau,
tùy theo vị trí, đặc trung của chủ thể này đối với chủ thể kia. Để tồn tại và phát
triển thì con người cần thỏa mãn các nhu cầu về vật chất cũng như nhu cầu về
tinh thần. Khi các nhu cầu của con người được thỏa mãn, được đáp ứng thì người
ta gọi đó là lợi ích. Như vậy, “lợi ích là sự thỏa mãn những nhu cầu của con
người mà sự thỏa mãn nhu cầu này phải được nhận thức và được đặt trong mối
quan hệ xã hội ứng với trình độ phát triển nhất định của nền sản xuất xã hội đó”
[1, tr189]. Hiểu đơn giản thì lợi ích phải thỏa mãn được 3 điều kiện: thỏa mãn
nhu cầu con người, được nhận thức và đặt trong một mối quan hệ xã hội tương ứng.
Vì nhu cầu của con người bao gồm nhu cầu về vật chất và nhu cầu về tinh
thần nên lợi ích cũng sẽ có hai loại là lợi ích vật chất và lợi ích tinh thần. Tuy
nhiên tùy theo điều kiện, hoàn cảnh cụ thể mà lợi ích vật chất hay lợi ích tinh 5
thần sẽ đóng vai trò quyết định đối với hoạt động của con người. Trải qua quá
trình tồn tại của con người và đời sống xã hội thì lợi ích vật chất vẫn đóng vai trò
quyết định trong việc thúc đẩy hoạt động của các cá nhân, các tổ chức xã hội. Từ
đó, ta khái quát được “lợi ích kinh tế là lợi ích vật chất, lợi ích thu được khi thực
hiện các hoạt động kinh tế của con người” [1, tr189][1]
Trong nông nghiệp, lợi ích kinh tế là nguồn nông sản mà người dân thu
hoạch được, nguồn thủy hải sản mà người dân đánh bắt được, hay là nguôn lâm
sản do người dân khai thác được trong tự nhiên. Trong công nghiệp và thương
nghiệp, lợi ích kinh tế chính là lợi nhuận mà họ thu được sau hoạt động buôn bán, kinh doanh.
Xét về bản chất, lợi ích kinh tế phản ánh mục đích và động cơ khách quan
của các chủ thể khi tham gia vào các hoạt động kinh tế xã hội. Những lợi ích
kinh tế xuất hiện khi các chủ thể trong xã hội xác lập các mối qun hệ về lợi ích
kinh tế với nhau. Lợi ích kinh tế trong mỗi giai đoạn cũng phản ánh bản chất xã
hội của giai đoạn lịch sử đó. Khi nước ta trong thời kỳ bao cấp, chúng ta xóa bỏ
thành phần kinh tế tư nhân, chỉ có các hợp tác xã đánh bắt cá dựa trên sở hữu tập
thể về tư liệu sản xuất, thủy hải sản đánh bắt được sẽ được nhà nước thu mua
theo giá quy định và phân phối bao cấp lại cho xã hội. Lợi ích kinh tế tư nhân sẽ
gắn liền với tập thể, không tạo được động lực cho người lao động vì họ không
được hưởng trực tiếp lợi ích kinh tế do chính họ tạo ra. Khi đất nước chuyển
sang nền kinh tế thị trường, đã xuất hiện nhiều hình thức sản xuất tư nhân mới,
các chủ thê kinh tể được độc lập, tách biệt với tập thể và họ được hưởng trực tiếp
lợi ích kinh tế do họ tạo ra, không như thời bao cấp.
Xét về biểu hiện, gắn với các chủ thể kinh tế khác nhau là những lợi ích
tương ứng. Trong một chủ thể kinh doanh lợi ích kinh tế của công ty mẹ là lợi
nhuận thu được từ các đại lý, lợi ích kinh tế của các đại lý là lợi nhuận thu được
từ các cửa hàng nhỏ lẻ khác. Như vậy lợi ích kinh tế của các chủ thể kinh tế sẽ 6
do quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất quyết định. Chủ thể nào có nhiều tư liệu sản
xuất hơn thì chủ thể đó sẽ nắm nhiều lợi ích kinh tế hơn.
Trong nền kinh tế thị trường, lợi ích kinh tế đóng vai trò là động lực trực
tiếp của các chủ thể kinh tế và hoạt động kinh tế xã hội. Đồng thời, lợi ích kinh
tế là vai trò thúc đẩy sự phát triển các lợi ích khác. Trong kinh doanh, lợi nhuận
chính là động lực trực tiếp để các cửa hàng, các đại lý, các cơ sở sản xuất hay
các doanh nghiệp hoạt động. Và từ những lợi nhuận thu được, các chủ thể sẽ
dùng nó để thỏa mãn nhu cầu về các khía cạnh khác như nhu cầu về văn hóa, nhu
cầu về giáo dục, nhu cầu về chính trị ….
1.2 Bản chất và biểu hiện lợi ích kinh tế
1.2.1 Khái niệm về quan hệ lợi ích kinh tế
Quan hệ lợi ích kinh tế là sự thiết lập những tương tác giữa con người với
con người , giữa các cộng đồng người, giữa các tổ chức kinh tế, giữa các bộ phận
hợp thành nền kinh tế, giữa con người với tổ chức kinh tế và giữa quốc gia với
phần còn lại của thế giới nhằm mục tiêu xác lập các lợi ích kinh tế trong mối liên
hệ với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và kiến trúc thượng tầng tương
ứng của một giai đoạn phát triển xã hội nhất định .
Như vậy có thể thấy được quan hệ lợi ích kinh tế được biểu hiện hết sức
phong phú, xét theo chiều dọc thì đó là giữa một tổ chức kinh tế với một cá nhân
trong tổ chức kinh tế đó. Cũng có thể xét theo chiều ngang là giữa các chủ thể,
các cộng đồng người, giữa các tổ chức, các bộ phận hợp thành nền kinh tế khác
nhau. Không những thế, ngày nay khi thế giới đang trong điều kiện hội nhập thì
quan hệ lợi ích kinh tế còn phải xét tới quan hệ giữa quốc gia với phần còn lại của thế giới.
1.2.2 Sự thống nhất và mâu thuẫn trong các quan hệ lợi ích kinh tế 7
Sự thống nhất của quan hệ lợi ích kinh tế :
Chúng thống nhất với nhau vì một chủ thể có thể trở thành bộ phận cấu thành
của chủ thể khác. Do đó, lợi ích của chủ thể này được thực hiện thì lợi ích của
chủ thể khác cũng trực tiếp hoặc gián tiếp được thực hiện. Ví dụ , mỗi cá nhân
người lao động có lợi ích riêng của mình, đồng thời các cá nhân đó lại là một bộ
phân trong tập thể doanh nghiệp và tham gia vào lợi ích tập thể đó. Doanh
nghiệp hoạt động càng có hiệu quả, lợi ích doanh nghiệp càng được đảm bảo thì
lợi ích người lao động càng được thực hiện tốt điển hình như nhu cầu việc làm
được thỏa mãn, thu nhập ổn định và được nâng cao ... Ngược lại thì lợi ích người
lao động càng được thực hiện tốt thì người lao động sẽ càng làm việc tích cực,
trách nhiệm với doanh nghiệp được nâng cao và từ đó lợi ích doanh nghiệp sẽ
càng được thực hiện tốt. [4]
Sự mâu thuẫn trong quan hệ kinh tế :
Các quan hệ lợi ích kinh tế mâu thuẫn với nhau vì các chủ thể kinh tế có thể
hành động theo những cách khác nhau nhằm mục đích thực hiện các lợi ích của
mình. Nếu như sự khác nhau dẫn đến đối lập thì sẽ trở thành mẫu thuẫn. Ví dụ,
vì lợi ích của mình, các cá nhân, doanh nghiệp có thể làm hàng giả, buôn lậu,
trốn thuế,.. do đó lợi ích cá nhân, doanh nghiệp và lợi ích xã hội sẽ mâu thuẫn
với nhau. Khi đó, chủ doanh nghiệp càng thu được nhiều lợi nhuận thì lợi ích
kinh tế của người tiêu dung và của xã hội càng bị tổn hại. Lợi ích của những chủ
thể kinh tế có quan hệ trực tiếp trong việc phân phối kết quả hoạt động sản xuất,
kinh doanh cũng có thể mâu thuẫn với nhau vì tại một thời điểm kết quả hoạt
động sản xuất, kinh doanh là xác định. Do đó, thu nhập của chủ thể này tăng lên
thì thu nhập của chủ thể khác giảm xuống. Chẳng hạn như tiền lương của người
lao động bị giảm bớt sẽ làm tăng lợi nhuận của chủ doanh nghiệp; nhà nước
giảm thuế thì lợi nhuận doanh nghiệp tăng lên ... Khi có mâu thuẫn thì việc thực
hiện lợi ích này có thể sẽ ngăn cản, ảnh hưởng và thậm chí làm tổn hại đến các 8
lợi ích khác. Mâu thuẫn về lợi ích kinh tế là cội nguồn của các xung đột xã hội.
Do vậy, điều hoà mâu thuẫn giữa các lợi ích kinh tế buộc các chủ thể phải quan
tâm và trở thành chức năng quan trọng của nhà nước nhằm ổn định xã hội, tạo
động lực phát triển kinh tế - xã hội. Trong các hình thức lợi ích kinh tế thì lợi ích
cá nhân chính là cơ sở và là nền tảng của các lợi ích khác. Bởi các nguyên nhân
chủ yếu, thứ nhất là nhu cầu cơ bản, sống còn trước hết thuộc về các cá nhân,
quyết định hoạt động của các cả nhân ; thứ hai, thực hiện lợi ích cá nhân là sơ sở
để thực hiện các lợi ích khác vì cá nhân cấu thành nên tập thể , giai cấp , xã
hội ... “ Dân giàu ” thì “ nước mạnh ” . Do đó , lợi ích cá nhân chính đáng cần
được pháp luật tôn trong bảo vệ.
1.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến lợi ích kinh tế
 Các nhân tố ảnh hưởng đến quan hệ lợi ích kinh tế
 Nền kinh tế thị trường chịu tác động của nhiều nhân tố,cụ thể như sau:
 Thứ nhất là trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
 Thứ hai là địa vị của chủ thể trong hệ thống quan hệ sản xuất xã hội.
 Thứ ba là chính sách phân phối thu nhập của nhà nước.
 Thứ tư là hội nhập kinh tế quốc tế.
Đầu tiên là trình độ phát triển của lực lượng sản xuất: là phương thức và
mức độ thỏa mãn các nhu cầu vật chất của con người, lợi ích kinh tế trước hết
phụ thuộc vào số lượng, chất lượng hàng hóa và dịch vụ, mả điều này lại phụ
thuộc vào trình độ phát triển lực lượng sản xuất. Do đó, trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất càng cao, việc đáp ứng lợi ích kinh tế của các chủ thể càng
tốt. Quan hệ lợi ích kinh tế vì vậy, cảng có điều kiện để thống nhất với nhau.
Như vậy, nhân tố đầu tiên ảnh hưởng đến quan hệ lợi ích kinh tế của các chủ thể
là lực lượng sản xuất. Chính vì vậy, phát triển lực lượng sản xuất trở thành
nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của các quốc gia. 9
Ví dụ: Hãng điện thoại Apple có chất lượng ,dịch vụ và trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất ngày càng tiến bộ và nâng cao, apple sử dụng các công
nghệ ưu việt như là màn hình cảm ứng đa điểm, cảm biến vân tay, True Tone và
Night Shift ( cho phép thiết bị tự nhận diện điều kiện môi trường xung quanh để
điều chỉnh trải nghiệm hình ảnh tự nhiên)… và kỹ thuật cao,tiên tiến cho nên là
ngày càng thõa mãn được các nhu cầu của người tiêu dùng. Thiết bị điện thoại
của apple có ảnh hưởng rất lớn đến thị trường thế giới và là công ty có giá trị
thị trường lớn nhất thế giới.[2]
Tiếp theo là địa vị của chủ thể trong hệ thống quan hệ sản xuất xã hội:
Như chúng ta đã biết quan hệ sản xuất, mà trước hết là quan hệ sở hữu về tư liệu
sản xuất, quyết định vị trí, vai trò của mỗi con người, mỗi chủ thể trong quá trình
tham gia các hoạt động kinh tế - xã hội. Do đó, không có lợi ích kinh tế nằm
ngoài những quan hệ sản xuất và trao đổi, mà nó là sản phẩm của những quan hệ
sản xuất và trao đổi, là hình thức tồn tại và biểu hiện của tien hệ sản xuất và trao
đổi trong nền kinh tế thị trường.
Tiếp theo là nằm ở chính sách phân phối thu nhập của nhà nước. Sự can
thiệp của nhà nước vào nền kinh tế thị trường là tất yếu khách quan, bằng nhiều
loại công cụ, trong đó có các chính sách kinh tế - xã hội. Chính sách phân phối
thu nhập của nhà nước làm thay đổi mức thu nhập và tương quan thu nhập của
các chủ thể kinh tế. Khi mức thu nhập và tương quan thu nhập thay đổi, phương
thức và mức độ thỏa mãn các nhu cầu vật chất cũng thay đổi, tức là lợi ích kinh
tế và quan hệ lợi ích kinh tế giữa các chủ thể cũng thay đổi.
Cuối cùng là sự hội nhập kinh tế quốc tế: bản chất của kinh tế thị trường là
mở cửa hội nhập. Khi mở cửa hội nhập, các quốc gia có thể gia tăng lợi ích kinh
tế từ thương mại quốc tế, đầu tư quốc tế. Tuy nhiên, lợi ích kinh tế của các doanh
nghiệp, hộ gia đình sản xuất hàng hóa tiêu thụ trên thị trường nội địa có thể bị 10
ảnh hưởng bởi cạnh tranh của hàng hóa nước ngoài. Đất nước có thể phát triển
nhanh hơn nhưng cũng phải đối mặt với các nguy cơ cạn kiệt tài nguyên, ô
nhiễm môi trường... Điều đó có nghĩa là hội nhập kinh tế quốc tế sẽ tác động
mạnh mẽ và nhiều chiều đến lợi ích kinh tế của các chủ thể.
1.4 Phương thức thực hiện lợi ích kinh tế
1.4.1 Phương thức thực hiện lợi ích kinh tế các quan hệ lợi ích chủ yếu:
Mặc dù các lợi ích đan xen nhau nhưng trong điều kiện kinh tế thị trường xã
hội chủ nghĩa, có hai cách cơ bản để đạt được lợi ích kinh tế, bao gồm:
Thứ nhất, Thực hiện lợi ích kinh tế theo nguyên tắc thị trường:
Nguyên tắc chiều dài cánh tay (ALP) là điều kiện hoặc thực tế là các bên
tham gia giao dịch độc lập và có quan điểm bình đẳng. Các giao dịch như vậy
được gọi là "giao dịch theo giá thị trường".
Mặc dù lợi ích và chủ thể của lợi ích kinh tế rất đa dạng, nhưng để thực hiện
lợi ích của mình phải dựa trên nguyên tắc thị trường trong điều kiện kinh tế thị
trường. Cách tiếp cận này phổ biến ở tất cả các nền kinh tế thị trường, kể cả nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam.
Ví dụ: Một ví dụ đơn giản về việc không tuân theo giá thị trường là cha mẹ
bán tài sản cho con. Cha mẹ có thể muốn bán tài sản cho con cái của họ với giá
thấp hơn giá trị thị trường, nhưng một giao dịch như vậy có thể được tòa án phân
loại là một "món quà" chứ không phải là một giao dịch bán thực sự. Rủi ro về
thuế và các hậu quả pháp lý khác có thể phát sinh. Để tránh sự phân loại này, các
bên nên chứng minh rằng giao dịch được thực hiện theo cách không khác với bất
kỳ bên thứ ba nào. Điều này có thể được thực hiện bằng cách mời một bên thứ
ba độc lập, chẳng hạn như một nhà thẩm định hoặc nhà môi giới, những người có 11
thể đưa ra lời khuyên chuyên nghiệp rằng giá bán là phù hợp và phản ánh giá cả
cũng như giá trị thực tế của bất động sản.[3]
Thứ hai, thực hiện lợi ích kinh tế theo chính sách của nhà nước và vai trò của các tổ chức xã hội:
Trong việc thực hiện lợi ích kinh tế, nếu chỉ dựa trên nguyên tắc thị trường thì tất
yếu sẽ dẫn đến những hạn chế về mặt xã hội. Vì vậy, để khắc phục những hạn
chế của việc thực hiện theo định hướng thị trường, cần quan tâm đến việc thực
hiện lợi ích trên cơ sở chính sách quốc gia và vai trò của các tổ chức xã hội, tạo
bình đẳng và thúc đẩy tiến bộ xã hội.
Ví dụ, các chính sách cơ bản mà quốc gia cần xây dựng và tổ chức để đạt được
mục tiêu phát triển kinh tế bền vững rất đa dạng, bao gồm: chính sách phát triển
nguồn nhân lực; chính sách phát triển khoa học và công nghệ; chính sách xây
dựng cơ cấu kinh tế cân đối và hợp lý … 12
CHƯƠNG 2 : Vai trò của nhà nước trong việc đảm bảo hài
hòa các quan hệ lợi ích kinh tế
Hài hòa các lợi ích kinh tế là sự thống nhất biện chứng giữa lợi ích kinh tế
của các chủ thể , trong đó mặt mâu thuẫn được hạn chế , tránh được va chạm,
xung đột; mặt thống nhất được khuyến khích, tạo điều kiện phát triển cả chiều
rộng và chiều sâu, từ đó tạo động lực thúc đẩy các hoạt động kinh tế , góp phần
thực hiện tốt hơn các lợi ích kinh tế, đặc biệt là lợi ích xã hội.
Các lợi ích kinh tế luôn vừa thống nhất , vừa có sự mâu thuẫn với nhau, và
nhà nước sẽ phải giải quyết mâu thuẫn đó. Vai trò của nhà nước là làm sao để
trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phải đảm bảo hài hòa
các lợi ích kinh tế , tức là điều hòa được lợi ích cá nhân, lợi ích doanh nghiệp và
lợi ích xã hội; kiểm soát, ngăn ngừa khi phát sinh những hiện tượng tiêu cực
trong mối quan hệ về lợi ích kinh tế.
2.1. Bảo vệ lợi ích hợp pháp, tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động tìm kiếm
lợi ích của các chủ thể kinh tế
Các hoạt động kinh tế bao giờ cũng diễn ra trong một môi trường nhất
định. Môi trường càng thuận lợi, các hoạt động kinh tế càng hiệu quả và không
ngừng mở rộng. Tuy nhiên, môi trường vĩ mô thuận lợi không tự hình thành, mà
phải được nhà nước tạo lập. Trong những năm vừa qua, Việt Nam đã thực hiện
rất tốt việc tạo lập môi trường thuận lợi cho các hoạt động kinh tế, trước hết là
giữ vững ổn định về chính trị. Nhờ đó, các nhà đầu tư trong và ngoài nước rất 13
yên tam khi tiến hành đầu tư. Vì vậy, tiếp tục giữ vững ổn định về chính trị
góp phần bảo đảm hài hòa các lợi ích kinh tế ở Việt Nam.
Tạo lập môi trường thuận lợi cho các hoạt động kinh tế đòi hỏi phải xây
dựng được môi trường pháp luật thông thoáng , bảo vệ được lợi ích chính đáng
của các chủ thể trong và ngoài nước (doanh nghiệp, các cá nhân...), đặc biệt là
lợi ích của đất nước. Trong những năm vừa qua, khi đất nước hội nhập quốc tế
ngày càng sâu rộng, hệ thống pháp luật của nước ta đã và đang thay đổi tích cực
để phù hợp, tuân thủ theo các chuẩn mực và thông lệ quốc tế.
Tiếp đó, tạo lập môi trường thuận lợi cho các hoạt động kinh tế tất yếu
phải đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng của nền kinh tế. Trong những năm vừa
qua, kết cấu hạ tầng của nền kinh tế nước ta đã được cải thiện rất đáng kể, đáp
ứng nhu cầu của các hoạt động kinh tế. Môi trường vĩ mô về kinh tế đòi hỏi Nhà
nước phải đưa ra các chính sách phù hợp với nhu cầu của nền kinh tế trong từng
giai đoạn. Thực tế cho thấy, các chính sách kinh tế của Việt Nam đang từng
bước đáp ứng yêu cầu này.
Ngoài ra, tạo lập môi trường thuận lợi cho các hoạt động kinh tế còn là tạo
lập môi trường văn hóa phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế thị trường , trong
đó con người năng động, sáng tạo; tôn trọng kỷ cương, pháp luật, giữ chữ tín…
2.2 Kiểm soát, ngăn ngừa các quan hệ lợi ích có ảnh hưởng tiêu cực
đối với sự phát triển xã hội
Lợi ích kinh tế là kết quả trực tiếp của phân phối thu nhập, do đó phân
phối công bằng, hợp lý góp phần quan trọng đảm bảo hài hòa các lợi ích kinh tế.
Vì vậy, Nhà nước phải tích cực, chủ động thực hiện công bằng trong phân phối
thu nhập.Hiện nay, công bằng trong phân phối có hai quan niệm chính: công 14
bằng theo mứcđộ và công bằng theo chức năng. Hai quan niệm này đều có ưu
điểm và nhược điểm, dođó cần được sử dụng kết hợp như sau: Trước hết, Nhà
nước phải chăm lo đời sống vậtchất cho mọi người dân. Ở mỗi giai đoạn phát
triển, để người dân ít nhất đạt được mứcsống tối thiểu, Nhà nước cần thực hiện
có hiệu quả các chính sách xóa đói, giảm nghèo,tạo điều kiện và cơ hội tiếp cận
bình đẳng các nguồn lực phát triển, hưởng thụ các dịch vụxã hội cơ bản, vươn
lên thoát đói nghèo vững chắc ở các vùng nghèo và các bộ phận dâncư nghèo,
khắc phục tư tưởng bao cấp, ỷ lại. Chú trọng các chính sách ưu đãi xã hội,
vậnđộng toàn dân tham gia các hoạt động đền ơn đáp nghĩa, uống nước nhớ
nguồn. Đẩymạnh các hoạt động nhân đạo, từ thiện, giúp đỡ người nghèo, đồng
bào các vùng gặpthiên tai... Nhà nước cần có các chính sách khuyến khích người
dân làm giàu hợp pháp,tạo điều kiện và giúp đỡ họ bằng mọi biện pháp.Để lợi
ích kinh tế thật sự là động lực của các hoạt động kinh tế, người lao động vàngười
sử dụng lao động phải hiểu được các nguyên tắc phân phối của kinh tế thị
trườngđể có sự phân chia hợp lý giữa tiền lương và lợi nhuận. Không chỉ vậy,
chủ doanh nghiệpcòn phải hiểu và tự thực hiện nghĩa vụ nộp thuế... Do vậy,
tuyên truyền, giáo dục để nângcao nhận thức, hiểu biết về phân phối thu nhập
cho các chủ thể kinh tế - xã hội là nhữnggiải pháp rất cần thiết để loại bỏ những
đòi hỏi không hợp lý về thu nhập. Trong trườnghợp người lao động và người sử
dụng lao động không tự nhận thức và thực hiện được,Nhà nước cần có sự tư vấn,
điều tiết hợp lý.Bên cạnh đó, trong cơ chế thị trường, các hoạt động bất hợp pháp
như buôn lậu,làm hàng giả, hàng nhái; lừa đảo; tham nhũng... tồn tại khá phổ
biến và nếu càng gia tăngsẽ càng làm tổn hại lợi ích kinh tế của các chủ thể làm
ăn chân chính. Để chống lại các hình thức thu nhập bất hợp pháp, bảo đảm hài
hòa các lợi ích kinh tế, trước hết, phải cóbộ máy nhà nước liêm chính, có hiệu
lực nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động thanhtra, kiểm tra và xử lý vi phạm.
Nhà nước phải kiểm soát được thu nhập của công dân,trước hết là thu nhập của 15
cán bộ, công chức nhà nước. Trước pháp luật, mọi người dân vàcán bộ, công
chức nhà nước phải thực sự bình đẳng; mọi vi phạm phải được xét xử theoquy
định của pháp luật. Theo đó, việc thực hiện công khai, minh bạch mọi cơ chế,
chínhsách và quy định của Nhà nước sẽ giúp người dân, doanh nghiệp và cán bộ,
công chứcnhà nước hiểu rõ được quyền lợi, trách nhiệm của mình, tránh được
tình trạng lạm quyền,thiếu trách nhiệm, tham nhũng
2.3 Điều hòa lợi ích giữa cá nhân – doanh nghiệp – xã hội
Do mâu thuẫn về lợi ích kinh tế giữa các chủ thể và tác động của các quy
luật thị trường, sự phân hóa về thu nhập giữa các tầng lớp dân cư làm cho lợi ích
kinh tế của một bộ phận dân cư được thực hiện rất khó khăn, hạn chế. Vì vậy,
nhà nước cần có các chính sách, trước hết là chính sách phân phối thu nhập
nhằm bảo đảm hài hòa các lợi ích kinh tế, và phải tính đến một số vấn đề sau:
Trong điều kiện kinh tế thị trường, một mặt, phải thừa nhận sự chênh lệch về
mức thu nhập giữa các tập thể, các cá nhân là khách quan; nhưng mặt khác phải
ngăn chặn sự chênh lệch thu nhập quá đáng. Bởi sự phân hóa xã hội thái quá có
thể dẫn đến căng thẳng, thậm chí xung đột xã hội. Thêm nữa, phân phối không
chỉ phụ thuộc vào quan hệ sở hữu, mà còn phụ thuộc vào sản xuất. Trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất càng cao, hàng hóa, dịch vụ càng dồi dào, chất
lượng càng tốt, thì thu nhập của các chủ thể càng lớn. Do đó, phát triển mạnh mẽ
lực lượng sản xuất, phát triển khoa học – công nghệ sẽ góp phần nâng cao thu
nhập cho các chủ thể kinh tế.
Hình thức thu nhập bất hợp pháp, bảo đảm hài hòa các lợi ích kinh tế,
trước hết, phải có bộ máy nhà nước liêm chính, có hiệu lực nhằm nâng cao hiệu
quả của hoạt động thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm. Nhà nước phải kiểm
soát được thu nhập của công dân, trước hết là thu nhập của cán bộ, công chức
nhà nước. Trước pháp luật, mọi người dân và cán bộ, công chức nhà nước phải 16
thực sự bình đẳng; mọi vi phạm phải được xét xử theo quy định của pháp luật.
Theo đó, việc thực hiện công khai, minh bạch mọi cơ chế, chính sách và quy
định của Nhà nước sẽ giúp người dân, doanh nghiệp và cán bộ, công chức nhà
nước hiểu rõ được quyền lợi, trách nhiệm của mình, tránh được tình trạng lạm
quyền, thiếu trách nhiệm, tham nhũng...
2.4. Giải quyết những mâu thuẫn trong quan hệ lợi ích kinh tế
Mâu thuẫn giữa các lợi ích kinh tế là khách quan, nếu không được giải
quyết sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến động lực của các hoạt động kinh tế. Do đó, để
giải quyết kịp thời khi có mâu thuẫn phát sinh, các cơ quan chức năng của nhà
nước phải thường xuyên quan tâm phát hiện mâu thuẫn và chuẩn bị chu đáo các
giải pháp đối phó. Nguyên tắc giải quyết mâu thuẫn giữa các lợi ích kinh tế
phải có sự tham gia của các bên liên quan, có nhân nhượng và phải đặt lợi
ích đất nước lên trên hết.
Tuy ngăn ngừa là chính, nhưng khi mâu thuẫn xảy ra giữa các lợi ích kinh
tế bùng phát có thể dẫn đến xung đột (đình công, bãi công...). Khi đó, cần có sự
tham gia hòa giải của các tổ chức xã hội có liên quan, đặc biệt là nhà nước.[5] KẾT LUẬN
Như vậy, bài thảo luận trên đã làm rõ quan điểm của triết học Mác-
Lênin về lợi ích, lợi ích cá nhân, lợi ích xã hội và mối quan hệ của chúng. Từ đó
hiểu rõ động lực của sự phát triển xã hội suy cho cùng là kết quả hoạt động có ý
thức của con người nhằm theo đuổi những lợi ích nhất định. Chính vì vậy, quan
tâm thực hiện nhu cầu, lợi ích của cá nhân và xã hội, giải quyết các quan hệ lợi
ích trong xã hội đó chính là tạo ra động lực phát triển xã hội nhằm đạt được
những mục tiêu cao hơn. Động lực lợi ích luôn được Đảng, nhà nước ta quan tâm
giải quyết (đặc biệt từ khi đổi mới đến nay). Qua đó nghiên cứu việc giải quyết 17
quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường ở
nước ta hiện nay, chủ thể giải quyết quan hệ lợi ích này là Đảng, nhà nước thông
qua việc phân tích thực trạng mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội
trong điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay,
chỉ ra những ưu điểm và bất cập của mối quan hệ này và nguyên nhân những bất
cập, tồn tại. Để giải quyết các mâu thuẫn này một cách hài hòa cần xác định các
quan điểm rõ ràng, có tính định hướng cho sự phát triển, đặc biệt cần kết hợp các
lợi ích cá nhân - tập thể - xã hội và “phải đặt lợi ích quốc gia - dân tộc lên trên
hết”, phù hợp với lợi ích của nhân loại tiến bộ. Trên cơ sở đó thực hiện đồng bộ
các giải pháp thông qua các chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng, nhà
nước nhằm duy trì mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”
Tóm lại, nhà nước có vai trò to lớn trong việc bảo đảm, hài hòa các
quan hệ nhu cầu, lợi ích giữa người và người, tạo ra sự đồng thuận xã hội trong
hành động vì mục tiêu phát triển của đất nước. 18
Tài liệu Tham Khảo
[1] Bộ giáo dục và đào tạo. Kinh tế chính trị Mác – Lênin. Hà Nội: Nxb. Chính trị quốc gia sự thật, 2021
[2] ( Nguồn của ví dụ chính sách phân phối thu nhập của nhà nước ) ebh.vn ,2022, , 3:25pm
[3] Các quan hệ lợi ích kinh tế ở Việt Nam, quan-he-loi-ich-kinh-te-o-viet-nam-32293.html>, 12:21Pm.
[4] Giáo trình Kinh tế chính trị Mác – Lê Nin, Hà Nội (2019).
[5]Vai trò của nhà nước < http://giasuglory.edu.vn/ly-luan-chinh-tri/kinh-te-chinh-tri-
mac-lenin/vai-tro-nha-nuoc-trong-bao-dam-hai-hoa-cac-quan-he-loi-ich-nhu-the-nao- 102.html> , 2:21Pm , 2022 19