Các thành viên của nhóm 5:
1. Thị Thuỷ Tiên
21023791
2. Vương Như Nguyệt
21026681
3. Nguyễn Thị Mỹ Nhân
21035071
4. Đinh Tuyết Nhi
21027421
5. Nguyễn Thị Huỳnh Nhi
21035041
6. Cao Thị Huỳnh Như
21034921
7. Nguyễn Thị Huỳnh Như
21027831
8. Phạm Nguyễn Yến Như
21036631
9. Lâm Huỳnh Nhật Linh
21081861
10. Thanh Minh
21081611
Chủ đề: Quan điểm của CN. Mác Lênin về Thực tiễn
vai trò của thực tiễn đối với nhận thức ( Liên hệ với nhận
thức của sinh viên trong học tập rèn luyện bản thân).
1. Thực tin
Khái niệm thực tiễn
Thực tiễn toàn bộ hoạt động vật chất mục đích,
mang tính lịch sử - hội của con người nhằm cải
biến tự nhiên hội.
Những hình thức bản của hoạt động thực tiễn
d
- Hoạt động sản xuất vật chất
dụ: Hoạt động gặt lúa của nông dân, lao động
của các công nhân trong các nhà máy nghiệp.
- Hoạt động chính trị- hội.
dụ: Hoạt động bầu cử đại biểu Quốc hội, tiến
hành Đại hội Đoàn thanh niên trường học, Hội nghị
công đoàn
- Hoạt động thực nghiệm khoa học
du: Hoạt động của sinh viên ngày nay nghiên
cứu vác-xin người dịch bệnh mới.
2. Nhận thức
Khái niệm nhận thc
Nhận thức q trình phản ánh tích cực, tự giác
sáng tạo thế giới khách quan vào bộ óc con người
trên sở thực tiễn, nhằm sáng tạo ra những tri thức
về thế giới khách quan
Các giai đoạn của quá trình nhận thức dụ.
Quá trình nhận thức của con người gồm hai giai
đoạn:
- Nhận thức cảm tính: giai đoạn nhận thức được
tạo nên do sự tiếp xúc trực tiếp của các quan
cảm giác với sự vật, hiện tượng, đem lại cho con
người hiểu biết về đặc điểm bên ngoài của chúng.
dụ: Khi muối ăn tác động vào các quan cảm
giác, mắt (th giác) sẽ cho ta biết muối màu
trắng, dạng tinh thể; mũi (khướu giác) cho ta biết
muối không mùi; lưỡi (vị giác) cho ta biết muối
vị mặn.
- Nhận thức tính: giai đoạn nhận thức tiếp theo,
dựa trên các i liệu do nhận thức cảm tính đem lại,
nhờ các thao tác của duy như: phân tích, so sánh,
tổng hợp, khái quát… tìm ra bản chất, quy luật của
sự vật, hiện ợng.
dụ: Nhờ đi sâu phân tích, người ta tìm ra cấu
trúc tinh thể công thức hóa học của muối, điều
chế được muối…
3. Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức.
Đối với nhận thức, thực tiễn đóng vai trò sở,
động lực, mục đích của nhận thức tiêu chuẩn
của chân lý, kiểm tra tính đúng đắn của quá
trình nhận thức chân lý:
- Thực tiễn là nguồn gốc, sở ( điểm xuất phát) của
nhận thức:
Thông qua hoạt động thực tiễn, con người nhận
biết được cấu trúc; tính chất các mối quan
hệ giữa các đối tượng để hình thành tri thức về đối
tượng. Hoạt động thực tiễn bổ sung điều chỉnh
những tri thức đã được khái quát. Thực tiễn đề ra
nhu cầu, nhiệm vụ, cách thức khuynh hướng vận
động phát triển của nhận thức. Chính nhu cầu
giải thích, nhận thức cải tạo thế giới buộc con
người tác động trực tiếp vào đối tượng bằng hoạt
động thực tiễn của mình. Chính sự tác động đó đã
làm cho các đối tượng bộc lộ những thuộc tính,
những mối liên hệ c quan hệ khác nhau giữa
chúng đem lại cho con người những tri thức, giúp
cho con người nhận thức được các quy luật vận
động phát triển của thế giới. Trên sở đó hình
thành các thuyết khoa học.
dụ: Sự xuất hiện học thuyết Macxit vào những
năm 40 của thế kỷ XIX cũng bắt nguồn từ hoạt
động thực tiễn của các phong trào đấu tranh
của giai cấp công nhân chống lại giai cấp
sản lúc bấy giờ.
Do đó, nếu xa rời thực tiễn, không dựa vào thực
tiễn thì nhận thức sẽ xa rời sở hiện thực nuôi
dưỡng sự phát sinh, tồn tại phát triển của mình.
Cũng thế, chủ thể nhận thức không thể được
những tri thức đúng đắn sâu sắc về thế giới nến
xa rời thực tiễn. Vai trò của thực tiễn đối với
nhận thức, đòi hỏi chúng ta phải luôn luôn quán
triệt quan điểm thực tiễn. Quan điểm này yêu cầu
việc nhận thức phải xuất phát từ thực tiễn, dừa trên
sở thực tiễn, đi sâu vào thực tiễn, phải coi
trọng công tác tổng kết thực tiễn. Việc nghiên
cứu luận phải liên hệ với thực tiễn, học đi đôi
với hành. Nếu xa rời thực tiễn sẽ dẫn đến sai lầm
của bệnh chủ quan, duy ý chí, giáo điều, máy
móc, quan liêu. Ngược lại, nếu tuyệt đối hóa vai trò
của thực tiễn sẽ rơi vào chủ nghĩa thực dụng
kinh nghiệm chủ nghĩa. N vậy, nguyên tắc thống
nhất giữa thực tiễn luận phải nguyên tắc
bản trong hoạt động thực tiễn hoạt động luận;
luận không thực tiễn làm sở tiêu
chuẩn để xác định tính chân của thì đó chỉ
luận suông, ngược lại, thực tiễn không
luận khoa học, cách mạng soi sáng thì nhất định sẽ
biến thành thực tiễn quáng.
- Thực tiễn động lực của nhận thức:
Hoạt động thực tiễn góp phần hoàn thiện các giác
quan, tạo ra kh năng phản ánh nhạy bén, chính
xác, nhanh hơn; tạo ra các công cụ, phương tiện để
tăng năng lực phản ánh của con người đối với tự
nhiên. Những tri thức được áp dụng vào thực tiễn
đem lại động lực kích thích quá trình nhận thức
tiếp theo.
+ Thực tiễn sản xuất vật chất cải biến thế giới
đặt ra yêu cầu buộc con người phải nhận thức về
thế giới.
+ Thực tiễn làm cho các giác quan, duy của con
người phát triển hoàn thiện, từ đó giúp con
người nhận thức ngày càng sâu sắc hơn về thế giới.
dụ: Chẳng hạn, xuất phát từ nhu cầu thực tiễn
con người cần phải đo đạc diện tích đo lường
sức chứa chủa những cái bình, từ sự nh toán thời
gian sự chế tọ toán học đã ra đời
phát triển
- Thực tiễn mục đích của nhận thức:
Mục đích cuối cùng của nhận thức giúp con
người hoạt động thực tiễn nhằm cải biến thế giới.
Nhấn mạnh vai trò này của thực tiễn Lênin đã cho
rằng: “Quan điểm về đời sống, về thực tiễn, phải
quan điểm thứ nhất bản của luận về nhận
thức”.
Nhận thức không chỉ thoả mãn nhu cầu hiểu biết
còn đáp ng nhu cầu nâng cao năng lực hoạt
động để đưa lại hiệu quả cao hơn, đáp ứng nhu cầu
ngày càng tăng của con người. Thực tiễn luôn vận
động, phát triển nhờ đó, thực tiễn thúc đẩy nhận
thức vận động, phát triển theo. Thực tiễn đặt ra
những vấn đ luận cần giải quyết.
Chỉ thông qua hoạt động thực tiễn, thì tri thức
con người mới thể hiện được sức mạnh của nh,
sự hiểu biết của con người mới ý nghĩa. Bằng
thực tiễn kiểm chứng nhận thức đúng hay sai,
khi nhận thức đúng thì phục vụ thực tiễn phát
triển ngược lại
dụ: Ngay cả những thành tựu mới đây nhất
khám phá giải bản đồ gen người ra đời từ
chính thực tiễn, từ mục đích chữ trị những căn
bệnh nan y t mục đích tìm hiểu, khai thác
những tiềm năng ẩn của con người… thể nói,
suy cho cùng, không một lĩnh vực tri thức nào
lại không xuất phát từ một mục đích nào đó của
thực tiễn, không nhằm vào việc phục vụ, hướng
dẫn thực tiễn
- Thực tiễn tiêu chuẩn của chân :
Bằng thực tiễn kiểm chứng nhận thức đúng hay
sai. Khi nhận thức đúng thì phục vụ thực tiễn
phát triển ngược lại. Như vậy, thực tiễn là thước
đo chính xác nhất để kiểm tra tính đúng đắn của tri
thức, xác nhận tri thức đó phải là chân hay
không. Mác đã từng khẳng định: “Vấn đề tìm hiểu
xem duy của con người thể đạt tới chân
khách quan hay không, hoàn toàn không phải là
vấn đ luận một vấn đề thực tiễn. Chính
trong thực tiễn mà con người phải chứng
minh chân lý”.
dụ:
4. Ý nghĩa phương pháp luận.
Từ vai trò của thực tiễn đối với nhận thức đòi hỏi
chúng ta phải luôn quán triệt quan điểm thực tiễn.
Quan điểm này yêu cầu:
Phải quán triệt quan điểm thực tiễn: việc nhận thức
phải xuất phát từ thực tiễn.
Nghiên cứu luận phải đi đôi với thực tiễn; học
phải đi đôi với hành. Xa rời thực tiễn dẫn đến bệnh
chủ quan, giáo điều, máy móc, quan liêu.
Nhưng không được tuyệt đối hóa vai trò của thực
tiễn, tuyệt đối hóa vai trò của thực tiễn sẽ rơi vào chủ
nghĩa thực dụng.
5. Vận dụng thực tiễn vào nhận thức của cuộc sống sinh
viên.
Trong học tập
Học phải đi đôi với hành, học không hành thì
ích. Hành không học thì hành không trôi trảy. Lời
Bác H dạy ý nghĩa rất quan trọng đối với việc
học của sinh viên ngày nay. Đối với sinh viên còn
đang ngồi trên giảng đường đại học, nhận thức, hiểu
cụ thể chính quá trình tiếp thu kiến thức đã được
tích luỹ, tìm hiểu khám phá những tri thức của loài
người nhằm chinh phục thiên nhiên, trụ. Còn vận
dụng vai trò của thực tiễn đối với nhận thức đây
chính hành”, tức làm, là thực hành, ứng
dụng, kiến thức, thuyết cho thực tiễn đời sống
Trước khi vận dụng, phải vững thuyết. Giỏi
thuyết nhưng vẫn chưa đủ. Nếu không ứng dụng vào
cuộc sống thì những chúng ta học được chẳng phải
ích sao? Không phải tự nhiên một chiếc máy
bay thể bay được. Đó kết quả của hàng vạn cuc
thí nghiệm, nghiên cứu của các nhà khoa học suốt
nhiều thế kỷ, thành công có, thất bại có. Nhưng nếu
không thử thì đã không phương tiện hiện đại
nhanh bậc nhất như bây giờ. Muốn đi được trên chặn
đường ấy, ta phải trả giá bằng mồ hôi nước mắt,
khi bằng cả máu. Đôi khi qua thực hành ta
kiểm định lại kiến thức đã học bằng thực nghiệm
người ta tiềm ra lỗ hỏng của những giả thiết tưởng
chúng đúng.
Để vận dụng tốt thực tiễn vào nhận thức sinh viên
trước hết phải những người chủ động trong đón
nhận tri thức vận hành bằng chính bàn tay trí
óc của mình. Nguồn kiến thức vô hạn, cách tiếp
nhận nó cũng muôn hình vạn trạng. Học từ sách vở,
học từ thầy sao không học t bạn ông cha
mẹ bảo chỉ… Muốn nhận thức tốt phải thực hiện đầy
đủ 4 nguyên tắc: nghe, nhận, đọc, viết, nghĩa phải
huy động bốn giác quan, bốn bộ phận thể để học,
học học. Thứ 2 sinh viên nhất thiết phải bổ trợ
thêm kiếm thức hội để phục vụ cho thực tiễn cuộc
sống
Sinh viên năng động vậy nên tích cực tham gia vào
thảo luận hoạt động nhóm câu lạc bộ, các diễn đàn,
các hoạt động đoàn trường i nổi để trau dồi kỹ năng
sống, kỹ năng quản sắp xếp, giúp nhận thức của
bản thân dễ dành hoà nhập biến đổi p hợp trong
thực tiễn đời sống. Nếu vi thuyền nhận thức thì
sinh viên chúng ta những thuyền trưởng kinh
nghiệm, kỹ ng trước biến lớn chính thực tiễn.
Trong quá trình vận dụng, sinh viên chúng ta cũng
cần đặc biệt coi trọng việc vận dụng thực tiễn vào
nhận thức. Chúng ta không thể chỉ nói suông
không làm. Thực tế, sinh viên điều biết xả rác bừa bãi
không tốt cho môi trường, nhận thức thế vậy thì
sao chúng ta không hành động một cách triệt để: thu
gom rác thải gọn gàng, vức rác đúng nơi quy định,
nhắc nhở tuyên truyền mọi người cùng hành động
một môi trường xanh của chúng ta
Đây thực sự chỉ những việc làm bình thường
chúng ta ít nhiều đã được học trong sách vở hay nghe
nói đâu đó, hoàn toàn thể được sinh viên
chúng ta áp dụng vào thực tiễn đời sống, noi gương
tôt thì làm việc tốt. sinh viên chúng ta đã được học,
được nhận thức đúng đắng thì hãy áp dụng ngay vào
đời sống hằng ngày của chúng ta, ngày này qua này
khác, năm này qua năm khác… Như vậy chúng ta
đang trong quá trình tự rèn luyện hoàn thin nhân
cách bản hân qua thực tiễn cuộc sống, điều chúng
ta không thể m được trọn vẹn trên trang giấy.

Preview text:

Các thành viên của nhóm 5: 1. Võ Thị Thuỷ Tiên 21023791
2. Vương Lê Như Nguyệt 21026681 3. Nguyễn Thị Mỹ Nhân 21035071 4. Đinh Tuyết Nhi 21027421
5. Nguyễn Thị Huỳnh Nhi 21035041 6. Cao Thị Huỳnh Như 21034921
7. Nguyễn Thị Huỳnh Như 21027831
8. Phạm Nguyễn Yến Như 21036631 9. Lâm Huỳnh Nhật Linh 21081861 10. Lê Thanh Minh 21081611
Chủ đề: Quan điểm của CN. Mác – Lênin về Thực tiễn và
vai trò của thực tiễn đối với nhận thức ( Liên hệ với nhận
thức của sinh viên trong học tập và rèn luyện bản thân). 1. Thực tiễn Khái niệm thực tiễn
Thực tiễn là toàn bộ hoạt động vật chất có mục đích,
mang tính lịch sử - xã hội của con người nhằm cải
biến tự nhiên và xã hội.
Những hình thức cơ bản của hoạt động thực tiễn và ví dụ
- Hoạt động sản xuất vật chất
Ví dụ: Hoạt động gặt lúa của nông dân, lao động
của các công nhân trong các nhà máy xí nghiệp.
- Hoạt động chính trị- xã hội.
Ví dụ: Hoạt động bầu cử đại biểu Quốc hội, tiến
hành Đại hội Đoàn thanh niên trường học, Hội nghị công đoàn
- Hoạt động thực nghiệm khoa học
Ví du: Hoạt động của sinh viên ngày nay nghiên
cứu vác-xin người dịch bệnh mới. 2. Nhận thức Khái niệm nhận thức
Nhận thức là quá trình phản ánh tích cực, tự giác và
sáng tạo thế giới khách quan vào bộ óc con người
trên cơ sở thực tiễn, nhằm sáng tạo ra những tri thức về thế giới khách quan
Các giai đoạn của quá trình nhận thức và ví dụ.
Quá trình nhận thức của con người gồm hai giai đoạn:
- Nhận thức cảm tính: là giai đoạn nhận thức được
tạo nên do sự tiếp xúc trực tiếp của các cơ quan
cảm giác với sự vật, hiện tượng, đem lại cho con
người hiểu biết về đặc điểm bên ngoài của chúng.
Ví dụ: Khi muối ăn tác động vào các cơ quan cảm
giác, mắt (thị giác) sẽ cho ta biết muối có màu
trắng, dạng tinh thể; mũi (khướu giác) cho ta biết
muối không có mùi; lưỡi (vị giác) cho ta biết muối có vị mặn.
- Nhận thức lý tính: là giai đoạn nhận thức tiếp theo,
dựa trên các tài liệu do nhận thức cảm tính đem lại,
nhờ các thao tác của tư duy như: phân tích, so sánh,
tổng hợp, khái quát… tìm ra bản chất, quy luật của sự vật, hiện tượng.
Ví dụ: Nhờ đi sâu phân tích, người ta tìm ra cấu
trúc tinh thể và công thức hóa học của muối, điều
chế được muối…
3. Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức.
Đối với nhận thức, thực tiễn đóng vai trò là cơ sở,
động lực, mục đích của nhận thức và là tiêu chuẩn
của chân lý, kiểm tra tính đúng đắn của quá
trình nhận thức chân lý:
- Thực tiễn là nguồn gốc, cơ sở ( điểm xuất phát) của nhận thức:
Thông qua hoạt động thực tiễn, con người nhận
biết được cấu trúc; tính chất và các mối quan
hệ giữa các đối tượng để hình thành tri thức về đối
tượng. Hoạt động thực tiễn bổ sung và điều chỉnh
những tri thức đã được khái quát. Thực tiễn đề ra
nhu cầu, nhiệm vụ, cách thức và khuynh hướng vận
động và phát triển của nhận thức. Chính nhu cầu
giải thích, nhận thức và cải tạo thế giới buộc con
người tác động trực tiếp vào đối tượng bằng hoạt
động thực tiễn của mình. Chính sự tác động đó đã
làm cho các đối tượng bộc lộ những thuộc tính,
những mối liên hệ và các quan hệ khác nhau giữa
chúng đem lại cho con người những tri thức, giúp
cho con người nhận thức được các quy luật vận
động và phát triển của thế giới. Trên cơ sở đó hình
thành các lý thuyết khoa học.
Ví dụ: Sự xuất hiện học thuyết Macxit vào những
năm 40 của thế kỷ XIX cũng bắt nguồn từ hoạt
động thực tiễn của các phong trào đấu tranh
của giai cấp công nhân chống lại giai cấp tư sản lúc bấy giờ.
Do đó, nếu xa rời thực tiễn, không dựa vào thực
tiễn thì nhận thức sẽ xa rời cơ sở hiện thực nuôi
dưỡng sự phát sinh, tồn tại và phát triển của mình.
Cũng vì thế, chủ thể nhận thức không thể có được
những tri thức đúng đắn và sâu sắc về thế giới nến
nó xa rời thực tiễn. Vai trò của thực tiễn đối với
nhận thức, đòi hỏi chúng ta phải luôn luôn quán
triệt quan điểm thực tiễn. Quan điểm này yêu cầu
việc nhận thức phải xuất phát từ thực tiễn, dừa trên
cơ sở thực tiễn, đi sâu vào thực tiễn, phải coi
trọng công tác tổng kết thực tiễn. Việc nghiên
cứu lý luận phải liên hệ với thực tiễn, học đi đôi
với hành. Nếu xa rời thực tiễn sẽ dẫn đến sai lầm
của bệnh chủ quan, duy ý chí, giáo điều, máy
móc, quan liêu. Ngược lại, nếu tuyệt đối hóa vai trò
của thực tiễn sẽ rơi vào chủ nghĩa thực dụng và
kinh nghiệm chủ nghĩa. Như vậy, nguyên tắc thống
nhất giữa thực tiễn và lý luận phải là nguyên tắc cơ
bản trong hoạt động thực tiễn và hoạt động lý luận;
lý luận mà không có thực tiễn làm cơ sở và tiêu
chuẩn để xác định tính chân lý của nó thì đó chỉ là
lý luận suông, ngược lại, thực tiễn mà không có lý
luận khoa học, cách mạng soi sáng thì nhất định sẽ
biến thành thực tiễn mù quáng.
- Thực tiễn là động lực của nhận thức:
Hoạt động thực tiễn góp phần hoàn thiện các giác
quan, tạo ra khả năng phản ánh nhạy bén, chính
xác, nhanh hơn; tạo ra các công cụ, phương tiện để
tăng năng lực phản ánh của con người đối với tự
nhiên. Những tri thức được áp dụng vào thực tiễn
đem lại động lực kích thích quá trình nhận thức tiếp theo.
+ Thực tiễn sản xuất vật chất và cải biến thế giới
đặt ra yêu cầu buộc con người phải nhận thức về thế giới.
+ Thực tiễn làm cho các giác quan, tư duy của con
người phát triển và hoàn thiện, từ đó giúp con
người nhận thức ngày càng sâu sắc hơn về thế giới.
Ví dụ: Chẳng hạn, xuất phát từ nhu cầu thực tiễn
con người cần phải đo đạc diện tích và đo lường
sức chứa chủa những cái bình, từ sự tính toán thời
gian và sự chế tọ cơ kí mà toán học đã ra đời và phát triển
- Thực tiễn là mục đích của nhận thức:
Mục đích cuối cùng của nhận thức là giúp con
người hoạt động thực tiễn nhằm cải biến thế giới.
Nhấn mạnh vai trò này của thực tiễn Lênin đã cho
rằng: “Quan điểm về đời sống, về thực tiễn, phải là
quan điểm thứ nhất và cơ bản của lý luận về nhận thức”.
Nhận thức không chỉ thoả mãn nhu cầu hiểu biết
mà còn đáp ứng nhu cầu nâng cao năng lực hoạt
động để đưa lại hiệu quả cao hơn, đáp ứng nhu cầu
ngày càng tăng của con người. Thực tiễn luôn vận
động, phát triển nhờ đó, thực tiễn thúc đẩy nhận
thức vận động, phát triển theo. Thực tiễn đặt ra
những vấn đề mà lý luận cần giải quyết.
Chỉ có thông qua hoạt động thực tiễn, thì tri thức
con người mới thể hiện được sức mạnh của mình,
sự hiểu biết của con người mới có ý nghĩa. Bằng
thực tiễn mà kiểm chứng nhận thức đúng hay sai,
khi nhận thức đúng thì nó phục vụ thực tiễn phát triển và ngược lại
Ví dụ: Ngay cả những thành tựu mới đây nhất là
khám phá và giải mã bản đồ gen người ra đời từ
chính thực tiễn, từ mục đích chữ trị những căn
bệnh nan y và từ mục đích tìm hiểu, khai thác
những tiềm năng bí ẩn của con người… có thể nói,
suy cho cùng, không có một lĩnh vực tri thức nào
mà lại không xuất phát từ một mục đích nào đó của
thực tiễn, không nhằm vào việc phục vụ, hướng dẫn thực tiễn
- Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý:
Bằng thực tiễn mà kiểm chứng nhận thức đúng hay
sai. Khi nhận thức đúng thì nó phục vụ thực tiễn
phát triển và ngược lại. Như vậy, thực tiễn là thước
đo chính xác nhất để kiểm tra tính đúng đắn của tri
thức, xác nhận tri thức đó có phải là chân lý hay
không. Mác đã từng khẳng định: “Vấn đề tìm hiểu
xem tư duy của con người có thể đạt tới chân lý
khách quan hay không, hoàn toàn không phải là
vấn đề lý luận mà là một vấn đề thực tiễn. Chính
trong thực tiễn mà con người phải chứng minh chân lý”. Ví dụ:
4. Ý nghĩa phương pháp luận.
Từ vai trò của thực tiễn đối với nhận thức đòi hỏi
chúng ta phải luôn quán triệt quan điểm thực tiễn. Quan điểm này yêu cầu:
– Phải quán triệt quan điểm thực tiễn: việc nhận thức
phải xuất phát từ thực tiễn.
– Nghiên cứu lý luận phải đi đôi với thực tiễn; học
phải đi đôi với hành. Xa rời thực tiễn dẫn đến bệnh
chủ quan, giáo điều, máy móc, quan liêu.
– Nhưng không được tuyệt đối hóa vai trò của thực
tiễn, tuyệt đối hóa vai trò của thực tiễn sẽ rơi vào chủ nghĩa thực dụng.
5. Vận dụng thực tiễn vào nhận thức của cuộc sống sinh viên. Trong học tập
Học phải đi đôi với hành, học mà không hành thì vô
ích. Hành mà không học thì hành không trôi trảy. Lời
Bác Hồ dạy có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc
học của sinh viên ngày nay. Đối với sinh viên còn
đang ngồi trên giảng đường đại học, nhận thức, hiểu
cụ thể chính là quá trình tiếp thu kiến thức đã được
tích luỹ, là tìm hiểu khám phá những tri thức của loài
người nhằm chinh phục thiên nhiên, vũ trụ. Còn vận
dụng vai trò của thực tiễn đối với nhận thức ở đây
chính là “ hành”, tức là làm, là thực hành, là ứng
dụng, kiến thức, lý thuyết cho thực tiễn là đời sống
Trước khi vận dụng, phải vững lý thuyết. Giỏi lý
thuyết nhưng vẫn chưa đủ. Nếu không ứng dụng vào
cuộc sống thì những gì chúng ta học được chẳng phải
vô ích sao? Không phải tự nhiên mà một chiếc máy
bay có thể bay được. Đó là kết quả của hàng vạn cuộc
thí nghiệm, nghiên cứu của các nhà khoa học suốt
nhiều thế kỷ, thành công có, thất bại có. Nhưng nếu
không thử thì đã không có phương tiện hiện đại
nhanh bậc nhất như bây giờ. Muốn đi được trên chặn
đường ấy, ta phải trả giá bằng mồ hôi và nước mắt,
có khi bằng cả máu. Đôi khi qua thực hành mà ta
kiểm định lại kiến thức đã học bằng thực nghiệm mà
người ta tiềm ra lỗ hỏng của những giả thiết tưởng chúng là đúng.
Để vận dụng tốt thực tiễn vào nhận thức sinh viên
trước hết phải là những người chủ động trong đón
nhận tri thức và vận hành nó bằng chính bàn tay và trí
óc của mình. Nguồn kiến thức là vô hạn, và cách tiếp
nhận nó cũng muôn hình vạn trạng. Học từ sách vở,
học từ thầy cô sao không học từ bạn bè ông bà cha
mẹ bảo chỉ… Muốn nhận thức tốt phải thực hiện đầy
đủ 4 nguyên tắc: nghe, nhận, đọc, viết, nghĩa là phải
huy động bốn giác quan, bốn bộ phận cơ thể để học,
học và học. Thứ 2 sinh viên nhất thiết phải bổ trợ
thêm kiếm thức xã hội để phục vụ cho thực tiễn cuộc sống
Sinh viên năng động vì vậy nên tích cực tham gia vào
thảo luận hoạt động nhóm câu lạc bộ, các diễn đàn,
các hoạt động đoàn trường sôi nổi để trau dồi kỹ năng
sống, kỹ năng quản lý sắp xếp, giúp nhận thức của
bản thân dễ dành hoà nhập và biến đổi phù hợp trong
thực tiễn đời sống. Nếu vi thuyền là nhận thức thì
sinh viên chúng ta là những thuyền trưởng có kinh
nghiệm, kỹ năng trước biến lớn chính là thực tiễn.
Trong quá trình vận dụng, sinh viên chúng ta cũng
cần đặc biệt coi trọng việc vận dụng thực tiễn vào
nhận thức. Chúng ta không thể chỉ nói suông mà
không làm. Thực tế, sinh viên điều biết xả rác bừa bãi
là không tốt cho môi trường, nhận thức là thế vậy thì
sao chúng ta không hành động một cách triệt để: thu
gom rác thải gọn gàng, vức rác đúng nơi quy định,
nhắc nhở tuyên truyền mọi người cùng hành động vì
một môi trường xanh của chúng ta
Đây thực sự chỉ là những việc làm bình thường mà
chúng ta ít nhiều đã được học trong sách vở hay nghe
nói ở đâu đó, nó hoàn toàn có thể được sinh viên
chúng ta áp dụng vào thực tiễn đời sống, noi gương
tôt thì làm việc tốt. là sinh viên chúng ta đã được học,
được nhận thức đúng đắng thì hãy áp dụng ngay vào
đời sống hằng ngày của chúng ta, ngày này qua này
khác, năm này qua năm khác… Như vậy chúng ta
đang trong quá trình tự rèn luyện hoàn thiện nhân
cách bản hân qua thực tiễn cuộc sống, điều mà chúng
ta không thể làm được trọn vẹn trên trang giấy.