











Preview text:
lOMoAR cPSD| 58562220
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN BÀI TẬP LỚN
HỌC PHẦN: LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
ĐỀ TÀI: PHÂN TÍCH VAI TRÒ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG
TRONG CMT8 (1945). NHẬN THỨC CỦA BẢN THÂN VỀ VAI
TRÒ LÃNH ĐẠO CỦA ĐCS VIỆT NAM ĐỐI VỚI CÁCH
MẠNG VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY.
GIẢNG VIÊN: NGUYỄN HỮU CÔNG
TÊN SINH VIÊN: LÝ THU HÒA
MÃ SINH VIÊN: 11201549 LỚP: KDTM62C lOMoAR cPSD| 58562220 I/ LỜI MỞ ĐẦU
Từ xưa đến nay dân tộc Việt Nam ta đã đắm mình qua hàng ngàn cuộc chiến
tranh để bảo vệ vững chắc nền độc lập. Để có thắng lợi to lớn đó là nhờ tinh thần
yêu nước bất khuất và sự tài tình, khôn khéo của các nhà lãnh đạo. Trong quan
điểm của Mác- Lê Nin về quần chúng và vận động quần chúng thì quần chúng
nhân dân chính là chủ thể sáng tạo nên lịch sử - động lực của cách mạng. Tuy
nhiên là chủ thể lịch sử nhưng quần chúng nhân dân chỉ có thể phát huy tối đa
sức mạnh và vai trò sáng tạo một khi có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Chính
vì lẽ đó mà trong tác phẩm "Đường Cách mệnh" Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu
rất rõ vai trò lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp cách mạng ở Việt Nam ta:
"Trước hết phải có Đảng Cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng,
ngoài thì liên lạc với các dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp ở mọi nơi. Đảng có
vững, cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thì thuyền mới chạy".
Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, trong đó quần chúng bao gồm Đảng
vô sản. Nếu ví con đường cách mạng như một chuyến tàu thì Đảng chính là “đầu
con tàu” ấy,Đảng soi đường, chỉ lối cho khối đại đoàn kết toàn dân được giác ngộ
và có tổ chức nhờ vậy mà chuyến tàu “cách mạng” mới đến được hy vọng, đến
được tự do dân chủ một cách dễ dàng . Đảng Cộng Sản có trách nhiệm như “người
cầm lái” người dẫn đường: Đảng hoạch định ra đường lối đúng đắn, đưa đường
lối đó vào quần chúng để giác ngộ, tập hợp và tổ chức, vận động nhân dân đứng
lên đấu tranh thực hiện giải phóng dân tộc, xây dựng xã hội mới.
Như vậy, vai trò lãnh đạo của Đảng đối với thắng lợi của cách mạng là rất
quan trong. Là nhân tố quyết định nhất đảm bảo thắng lợi cách mạng.
Một trong những cuộc cách mạng to lớn để cho thấy rõ vai trò lãnh đạo của
Đảng là cách mạng tháng Tám (1945). Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945
của nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đã mở ra
một kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc, kỷ nguyên độc lập, tự do và CNXH.
Sau đây em xin phân tích sâu hơn vai trò lãnh đạo của Đảng trong cách mạng tháng Tám năm 1945. II/ NỘI DUNG :
1.Sự lãnh đạo của Đảng trong cách mạng tháng Tám – 1945.
• Bối cảnh lịch sử. lOMoAR cPSD| 58562220
Đối với thế giới, ngày 1/9/1939, phát xít Đức tấn công Ba Lan, hai ngày sau
Anh và Pháp tuyên chiến với Đức, chiến tranh thế giới thứ hai chính thức bùng
nổ. Phát xít Đức lần lượt chiếm các nước châu Âu. Sau khi mặt trận nhân dân
Pháp tan vỡ. Đảng cộng sản Pháp bị đặt ra ngoài vòng pháp luật. Tháng 6/1940,
Đức tấn công pháp. Chính phủ Pháp đầu hàng Đức. ngày 22/6/1941, quân phát
xít Đức tấn công Liên Xô. Từ khi phát xít Đức xâm lược Liên Xô, tính chất chiến
tranh đế quốc chuyển thành chiến tranh giữa các lực lượng dân chủ do Liên Xô
làm trụ cột với các lực lượng phát xít do Đức làm đầu.
Còn đối với Việt Nam chiến tranh thể giới thứ hai đã ảnh hưởng mạnh mẽ và
trực tiếp đến Đông Dương và Việt Nam. Toàn quyền Đông Dương ra nghị định
cấm tuyên truyền cộng sản. Trên thực tế, ở Việt Nam và Đông Dương, thực dân
Pháp đã thi hành chính sách thời chiến rất trắng trợn. Chúng phátxít hóa bộ máy
thống trị, thẳng tay đàn áp phong trào cách mạng của nhân dân, tập trung lực
lượng đánh vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Hàng nghìn cuộc khám xét bất ngờ
đã diễn ra khắp nơi. Một số quyền tự do, dân chủ đã giành được trong thời kỳ
1936-1939 bị thủ tiêu. Chúng ban bố lệnh tổng động viện, thực hiện chính sách
"kinh tế chỉ huy" nhằm tăng cường vơ vét sức người, sức của để phục vụ chiến
tranh của đế quốc. Hơn bảy vạn thanh niên bị bắt sang Pháp để làm bia đỡ đạn.
Khi Pháp phải chịu trận trước Đức, lợi dụng cơ hội đó ngày 22-9-1940 phátxít
Nhật đã tiến vào Lạng sơn và đổ bộ vào Hải Phòng. Ngày 23-9-1940, tại Hà Nội,
Pháp ký hiệp định đầu hàng Nhật. Từ dó, nhân dân ta chịu cảnh vừa bị áp bức
Pháp, vừa bóc lột của Nhật khiến. Dưới sự thống trị tàn ác đó mâu thuẫn giữa dân
tộc ta và đế quốc, phátxít Pháp — Nhật trở nên gay gắt hơn bao giờ hết.
• Chủ trương, chỉ đạo, đường lối lãnh đạo của Đảng
Lý luận về mối quan hệ giữa chiến tranh và cách mạng của CN Mác- Lê nin
chỉ rõ : “Chiến tranh đế quốc với nhau sẽ làm suy yếu kẻ thù của cách mạng và
thúc đẩy nhân dân đứng lên đấu tranh đánh đổ bọn thống trị và áp bức ; tình thế
và thời cơ cách mạng sẽ xuất hiện”. Sau khi chiến tranh thế giới thứ 2 nổ ra ( 19-
1939), với tầm nhìn chiến lược đúng đắn, Đảng đã nhận đinh rằng: Nếu như chiến
tranh thế giới lần thứ nhất đẻ ra một Liên xô thì chiến tranh lần này đẻ ra nhiều
Liên xô, ta cần tích cực chuẩn bị về mọi mặt, đón đợi thời cơ khởi nghĩa giành
chính quyền. Trên cơ sở nhận định khả năng diễn biến của Chiến tranh thế giới
thứ hai và căn cứ vào tình hình cụ thể trong nước,Đảng đã sáng suất quyết định
chuyển hướng chỉ đạo chiến lược. Thông qua Hội nghị lần thứ sáu (tháng 11-
1939), Hội nghị lần thứ bảy (tháng 11-1940) và Hội nghị lần thứ tám (tháng 5-
1941) chủ chương này được thể hiện rõ hơn. lOMoAR cPSD| 58562220
Quan trọng nhất Đảng đã chuyển hướng chỉ đạo chiến lược đưa nhiệm vụ
chống đế quốc, giải phóng dân tộc lên hàng đầu. Các hội nghị đã cụ thể những
vấn đề cơ bản sau: thứ nhất, Ban chấp hành Trung ương nêu rõ máu thuẫn chủ
yếu ở nước ta đòi hỏi phải được giải quyết cấp bách là mâu thuẫn giữa dân tộc ta
với bọn đế quốc, phátxít Pháp - Nhật. Bởi “Trong lúc này nếu không giải quyết
được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân
tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa
trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”.
.Để tập trung cho nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng lúc này, Ban Chấp hành
Trung ương quyết định tạm gác lại khẩu hiệu "Đánh đổ địa chủ, chia ruộng đất
cho dân cày", thay bằng khẩu hiệu "Tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc và Việt
Nan cho dân cày nghèo", "Chia lại ruộng đất công cho công bằng và giảm tô,
giảm tức"... Đây là vấn đề đặc biệt quan trọng liên quan đến sự thành bại của
cách mạng. Vấn đề này nếu được giải quyết đúng đắn, khoa học thì sẽ tạo ra động
lực mạnh mẽ thúc đẩy cách mạng tiến lên không ngừng, còn giải quyết không
đúng sẽ gây tác hại to lớn cho phong trào cách mạng nước nhà. Thứ hai, trong
quan hệ dân tộc - quốc tế . Đảng chỉ rõ: chiến tranh lần này sẽ tạo điều kiện để
cách mạng nhiều nước thành công, Đảng và nhân dân ta cần phải tranh thủ mọi
sự giúp đỡ quốc tế (với Mỹ) và tích cực, chuẩn bị mọi mặt để khi tình hình quốc
tế thuận lợi kịp thời khởi nghĩa giành chính quyền với tinh thần: muốn người giúp
cho trước hết mình phải tự giúp mình. Phân tích tình hình lúc này lãnh tụ Hồ Chí
Minh dự báo năm ‘‘bốn lăm cách mạng thành công’’ Đảng chủ trương giải quyết
vấn đề dân tộc trong từng nước Đông Dương, thi hành chính sách ‘‘dân tộc tự
quyết ’’ của Lê nin và thành lập ở mỗi nước Đông dương một Mặt trận riêng trực
tiếp lãnh đạo cách mạng mỗi nước. Thứ ba, chủ trương ra sức xây dựng lực lượng
để chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền, coi khởi nghĩa giành chính quyền là
nhiệm vụ trung tâm. Chủ trương xây dựng, củng cố, phát triển mặt trận dân tộc
thống nhất để tập hợp lực lượng chống đế quốc và tay sai (thành lập Mặt trận dân
tộc thống nhất phản đế , Mặt trận Việt minh...) Nêu lên phương pháp giành chính
quyền: khởi nghĩa từng phần, giành chính quyền từng địa phương, tiến lên tổng
khởi nghĩa giành chính quyền trên toàn quốc, bằng lực lượng chính trị của quần
chúng là chủ yếu trên tinh thần: đem sức ta mà giải phóng cho ta; dù phải hy sinh
đến đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường sơn cũng phải kiên quyết giành cho được
độc lập. Thứ tư,chủ trương sau khi cách mạng thành công sẽ thành lập nước Việt
Nam dân chủ cộng hòa theo tinh thần tân dân chủ, một hình thức nhà nước “của
chung cả toàn thể dân tộc” ; ‘‘chính phủ dân chủ cộng hòa”. Như vậy, từ Cương
lĩnh chính trị đầu tiên (3- 2- 1930) đến Luận cương chính trị tháng 10 -1930 và lOMoAR cPSD| 58562220
các Hội nghị Trung ương trong các giai đoạn 1930 – 1935; 1936 – 1939; 1939 –
1945 nhất là Hội nghị Trung ương 8 ( tháng 5 - 1941) do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc
chủ trì, đường lối đấu tranh của Đảng được xây dựng, bổ sung, hoàn chỉnh, góp
phần quyết định vào thắng lợi của công cuộc giành chính quyền, làm nên thành
công vĩ đại của cách mạng tháng 8 – 1945.
Tổ chức, thực hiện đường lối cách mạng -
Tổ chức xây dựng lực lượng chính trị.
Nhận thấy sự chuyển biến của tình hình thế giới và trong nước có lợi cho
cách mạng Việt Nam.Chính vì thế sau hơn 30 năm bôn ba hoạt động ở nước ngoài
,ngày 28-1-1941 Nguyễn Ái Quốc về nước.ngay sau đó , người triệu tập Hội nghị
Trung ương lần thứ VIII (khóa I) của Đảng ở Cao Bằng, quyết định sự chuyển
hướng chỉ đạo chiến lược của Đảng,khẳng định giải phóng dân tộc là nhiệm vụ
hàng đầu của cách mạng Việt Nam. Hội nghị khẳng định rằng: “Trong lúc này,
quyền lợi của bộ phận, của giai cấp phải đặt dưới sự sinh tử, tồn vong của quốc
gia, của dân tộc. Trong lúc này, nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải
phóng, không đòi lại được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những
toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận,
của giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”. Để hoàn thành nhiệm vụ giải
phóng dân tộc, phải vận dụng phương pháp hiệu triệu hết sức thống thiết, làm sao
đánh thức được tinh thần dân tộc cho nhân dân, nên Mặt trận không thể gọi như
trước mà phải dùng tên khác phù hợp hơn với nhiệm vụ cách mạng giai đoạn hiện
tại.Bởi vậy, theo đề nghị của đồng chí Nguyễn Ái Quốc, Hội nghị quyết định
thành lập Mặt trận Việt Nam Độc lập Đồng minh, gọi tắt là Mặt trận Việt Minh
nhằm tập hợp và đoàn kết rộng rãi các giai cấp, các dân tộc, tôn giáo, các
giới…vào thực hiện thắng lợi nhiệm vụ cách mạng.
Chính vì thế ngày 19-5-1941, Mặt trận Việt Minh ra đời thay cho Mặt trận Dân
tộc thống nhất phản đế Đông Dương.
Việt Minh đã công bố 10 chính sách vừa ích nước vừa lợi dân. Từ đầu nguồn
cách mạng Pác Pó, Việt Minh đã lan tỏa ra khắp nông thôn, thành thị có hệ thống
từ trung ương đến cơ sở. Một số tổ chức chính trị yêu nước ra đời, và tham gia
làm thành viên mặt trận Việt Minh. Lực lượng chính trị quần chúng ngày càng
đông đảo và được rèn luyện trong đấu tranh chống Pháp Nhật theo đúng khẩu
hiệu của mặt trận Việt Minh: “ Đoàn kết toàn dân, chống Nhật, chống Pháp, tranh
lại độc lập; hoãn cách mạng ruộng đất” .
- Xây dựng lực lượng vũ trang. lOMoAR cPSD| 58562220
Để giành chính quyền cách mạng, Đảng chủ trương xây dựng lực lượng vũ
trang và xác định đây là lực lượng nòng cốt, trực tiếp tham gia chiến đấu, có vị
trí vô cùng quan trọng, quyết định sự thành công của cách mạng. Từ thực tiễn
tình hình đầu những năm 1930, lực lượng vũ trang phát triển còn nhỏ lẻ, chưa có
tổ chức, Đảng ta đã từng bước thành lập các đội du kích. Hội nghị Trung ương 8
(tháng 5/1941) đã ra nghị quyết thành lập các đội tự vệ cứu quốc, tự vệ chiến đấu
làm cơ sở cho đấu tranh ở địa phương cũng như Tổng khởi nghĩa trên phạm vi cả
nước. Tháng 12 năm 1941, lãnh tụ Hồ Chí Minh quyết định thành lập Đội vũ
trang Cao Bằng. Đây là quá trình thúc đẩy việc xây dựng lực lượng quân sự, bước
đầu xác định những nguyên tắc cơ bản để tiến tới thành lập lực lượng vũ trang
tập trung, làm nòng cốt cho toàn dân khởi nghĩa. Khi phong trào cách mạng phát
triển, với chủ trương xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân, nhằm đẩy mạnh
hình thức đấu tranh quân sự, tháng 12 năm 1944, Hồ Chí Minh ra Chỉ thị thành
lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, lực lượng nòng cốt cho các tổ
chức vũ trang đánh giặc. Đây là sự kiện lịch sử quan trọng đánh dấu bước khởi
đầu công cuộc xây dựng và phát triển quân đội cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng.
- Xây dựng căn cứ địa
Tương quan lực lượng giữa ta và địch, từ kinh nghiệm truyền thống của ông
cha ta trong lịch sử giữ nước, Đảng ta đã tổ chức xây dựng các căn cứ địa cách
mạng để tập hợp, xây dựng các tổ chức, lực lượng cách mạng và huấn luyện lực
lượng này để chuẩn bị cho khởi nghĩa. Trên thực tế, các căn cứ địa cách mạng của
ta đã phát huy tốt vai trò là nơi tổ chức, giữ gìn, phát triển lực lượng cách mạng
và đảm bảo yếu tố thông tin liên lạc dễ dàng với cách mạng thế giới, đặc biệt là
với Liên Xô và Trung Quốc. Từ năm 1940 đến năm 1945, Đảng ta đã tích cực chỉ
đạo xây dựng và củng cố các căn cứ địa cách mạng. Hội nghị Trung ương 7 của
Đảng (tháng 11/1940) chủ trương thành lập các căn cứ du kích, lấy Bắc Sơn – Võ
Nhai làm trung tâm. Cuối năm 1940, Trung ương Đảng và lãnh tụ Hồ Chí Minh
lựa chọn Cao Bằng để xây dựng căn cứ địa cách mạng. Đến Hội nghị Trung ương
8 (tháng 5/1941) quyết định duy trì và phát triển các căn cứ du kích Bắc Sơn, Võ
Nhai, đồng thời mở rộng căn cứ địa Cao Bằng. Chỉ trong một thời gian ngắn,
chúng ta đã xây dựng được một vùng căn cứ địa Việt Bắc rộng lớn cùng nhiều
chiến khu và căn cứ vũ trang khác. Đây thực sự là những nơi trọng yếu chỉ đạo
quá trình xây dựng, phát triển lực lượng cách mạng, là những trung tâm đầu não
lãnh đạo lực lượng khởi nghĩa trên phạm vi toàn quốc.
- Nắm bắt chính xác thời cơ, dung cảm kiên quyết lãnh đạo nhân dân khởi nghĩa dành chính quyền. lOMoAR cPSD| 58562220
Một trong những yếu tố quan trọng khiến cách mạng tháng Tám 1945 thắng lợi
vẻ vang là do sự nhận thức sáng suất và nắm bắt đúng thời cơ của Trung ương
Đảng và Hồ Chủ tịch. Tất cả sự chuẩn bị của Đảng từ những năm đầu là rất chu
đáo, chỉ chờ cơ hội chín mùa là tiến hành khởi nghĩa. Đảng ta rất công phu, bền
bỉ kiên trì trong việc chuẩn bị lực lượng cách mạng và đặc biệt chú ý đến sự biến
đổi của tình hình thế giới. Năm 1942 Đảng nhận định phe đồng minh sẽ chiến
thắng trong cuộc CTTG lần 2. Đó là điều kiện thuận lợi cho cách mạng Việt Nam.
Chính vì thế Đảng đã gấp rút tập hợp lực lượng, sẵn sàng lật đổ bọn thực dân để giành chính quyền.
Nhằm độc chiếm Đông Dương Nhật đã thẳng tay hất cẳng Pháp ra khỏi vòng
lao chiến, khiến cho mâu thuẫn giữa Nhật và Pháp ngày càng trở nên gay gắt hơn
bao giờ hết (9-1944).Bên cạnh đó, phe phát xít cũng đã trở nên yếu thế hơn trên
chiến trường thế giới. Vì thế, ngay trong đêm Nhật đảo chính Pháp (93-1945),
Tổng Bí thư Trường Chinh ngay Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của
chúng ta” Bản Chỉ thị nhận định, cuộc đảo chính của Nhật ở Đông Dương tuy gây
ra khủng hoảng chính trị, nhưng điều kiện khởi nghĩa chưa thực sự chín muồi.
Trung ương xác định kẻ thù mới là phát xít Nhật, đề ra khẩu hiệu đấu tranh mới
và dự báo hai khả năng làm xuất hiện thời cơ cho nhân dân ta vùng dậy giành
chính quyền trên cả nước. Một là, quân Đồng minh vào Đông Dương đánh Nhật,
hai là, Nhật đầu hàng Đồng minh. Dưới ánh sáng của bản Chỉ thị lịch sử đó, các
cấp bộ đảng từ trung ương đến địa phương đã theo dõi sát sao diễn biến mặt trận
Thái Bình Dương. Đúng giữa trưa ngày 15-81945, Nhật hoàng tuyên bố đầu hàng
các lực lượng Đồng minh. Như vậy, thời cơ xuất hiện như khả năng thứ hai mà
Đảng ta đã dự báo. Trung ương Đảng và Tổng bộ Việt Minh thành lập Ủy ban
khởi nghĩa toàn quốc. Ủy ban ra Quân lệnh số 1: “Giờ tổng khởi nghĩa đã đến!
Cơ hội có một cho quân, dân Việt Nam cùng giành lấy quyền độc lập của nước
nhà. Chúng ta phải hành động cho nhanh, với một tinh thần vô cùng quả cảm, vô
cùng thận trọng! Cuộc thắng lợi hoàn toàn nhất định sẽ về ta!”. Tiếp đó, Hội nghị
Đảng toàn quốc và Quốc dân Đại hội nhóm họp tại Tân Trào quyết định phát động
cuộc tổng khởi nghĩa giành chính quyền trên cả nước.
- Kết quả, kết thúc quá trình đấu tranh giành chính quyền.
Như vậy nhờ vào sự chỉ đạo tài tình của Đảng mà ciỉ trong vòng 15 từ 14 đến
28 tháng Tám , cuộc tổng khởi nghĩa đã giành thắng lợi hoàn toàn, chính quyền
trong cả nước về tay Nhân dân. Ngày 02/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình (Hà
Nội) lịch sử, trước cuộc mít tinh của gần một triệu đồng bào, Chủ tịch Hồ Chí
Minh thay mặt Chính phủ Lâm thời trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, lOMoAR cPSD| 58562220
tuyên bố trước quốc dân và thế giới: Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời,
nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Từ đó, ngày 02/9 là Ngày Quốc khánh của nước ta.
Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công là thắng lợi vĩ đại đầu tiên của
Nhân dân ta từ khi có Đảng lãnh đạo, mở ra bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân
tộc Việt Nam. Chính quyền về tay Nhân dân, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
ra đời - Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á, chấm dứt chế độ quân chủ
phong kiến ở Việt Nam, kết thúc hơn 80 năm, Nhân dân ta dưới ách đô hộ của
thực dân, phát xít. Nhân dân Việt Nam từ thân phận nô lệ trở thành người dân một
nước độc lập, làm chủ vận mệnh của mình. Nước Việt Nam từ một nước thuộc
địa nửa phong kiến trở thành một nước độc lập, tự do và dân chủ. Đảng Cộng sản
Việt Nam trở thành một Đảng cầm quyền. Từ đây, đất nước, xã hội, dân tộc và
con người Việt Nam bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Với thắng lợi của cách mạng tháng 8/1945 Đảng và nhân dân ta đã góp phần
làm phong phú thêm kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, cung cấp thêm
nhiều kinh nghiệm quý báu cho phong trào đẩu tranh giải phóng dân tộc và giành
quyền dân chủ. Thắng lợi to lớn này đã có tác động cổ vũ sâu sắc phong trào đấu
tranh giải phóng dân tộc ở các nước bị chủ nghĩa đế quốc thực dân áp bức, thống
trị. Nó khẳng định rằng, trong điều kiện trào lưu của cách mạng vô sản, cuộc cách
mạng do một đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo không chỉ có thể thành công
ở một nước tư bản kém phát triển, nơi mắt xích yếu nhất của chủ nghĩa đế quốc
mà còn có thể thành công ở ngay một nước thuộc địa nửa phong kiến lạc hậu để
đưa cả dân tộc đó đi lên theo con đường của chủ nghĩa xã hội.
2. Nhận thức của bản thân về vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản
đối với cách mạng Việt Nam hiện nay.
Bối cảnh lịch sử của Việt Nam hiện nay
- Những thắng lợi của cách mạng Việt Nam sau 35 năm đổi mới.
Nhân dân là Đảng và Đảng cũng chính là nhân dân. Đảng chính là lớp người
đi đầu soi lối chỉ đường trên con đường cách mạng của khối đại đoàn kết dân tộc
Việt Nam. Thực tế có thể khẳng định rằng nếu không có Đảng Cộng sản Việt Nam
thì không có công cuộc đổi mới. Nhìn lại 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới,
với 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ lOMoAR cPSD| 58562220
nghĩa xã hội (Cương lĩnh năm 1991), lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa
xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng hoàn thiện và
từng bước được hiện thực hoá., đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn,
có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện. Quy mô, trình độ nền kinh tế
được nâng lên, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện rõ rệt.
Đất nước chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín như ngày nay. Và
để có những thắng lợi đó là nhờ một phần công lao to lớn của Đảng, không có sự
lãnh đạo sáng suốt của Đảng thì sẽ không có công cuộc đổi mới theo định hướng đúng đắn.
Bước đầu tiên thành công trong công cuộc đổi mới do Đảng lãnh đạo là Việt
Nam ta đã đạt được sự tăng trưởng khá ấn tượng về kinh tế. Nếu như trong giai
đoạn đầu đổi mới (1986 - 1990), mức tăng trưởng GDP bình quân hằng năm chỉ
đạt 4,4% thì giai đoạn 1991 - 1995, GDP bình quân đã tăng gấp đôi, đạt
8,2%/năm, các giai đoạn sau đó đều có mức tăng trưởng khá cao, giai đoạn 2016
- 2019 đạt mức bình quân 6,8%. Mặc dù năm 2020, kinh tế chịu ảnh hưởng nặng
nề của dịch bệnh Covid-19 nhưng tốc độ tăng GDP của Việt Nam vẫn thuộc nhóm
các nước tăng trưởng cao nhất khu vực, thế giới. Ngoài ra chúng ta còn thu hút
được rất nhiều doanh nghiệp FDI đầu tư vào trong nước, thu nhập bình quân đầu
tang rõ rệt, trở thành một trong những nước xuất khẩu nông sản lớn nhất thế
giới,… Nhìn chung, các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế đều có bước phát triển mạnh mẽ.
Bên cạnh kinh tế thì văn hóa- xã hội cũng có sự cải thiện mạnh. Việc tang
trưởng kinh tế đã cơ bản gắn kết với phát triển văn hóa, xây dựng con người tiến
bộ và cân bằng xã hội. Ngay từ từng bước phát triển mở đầu cho công cuộc đổi
mới, bằng cách thay đổi cơ chế nhà nước bao cấp toàn bộ trong việc giải quyết
việc làm đã dần chuyển trọng tâm sang thiết lập cơ chế, chính sách để các thành
phần kinh tế và người lao động đều tham gia tạo việc làm, từ chỗ không chấp
nhận có sự phân hóa giàu - nghèo đã đi đến khuyến khích mọi người làm giàu
hợp pháp đi đôi với tích cực xóa đói giảm nghèo. Công tác giảm nghèo của Việt
Nam đã đạt được những thành tựu ấn tượng. Tỷ lệ hộ nghèo trên cả nước đã giảm
từ 58% năm 1993 xuống 22% năm 2005; 9,45% năm 2010, 7% năm 2015 và còn
dưới 3% năm 2020. Ngoài ra quy mô giáo dục tiếp tục được phát triển, cơ sở vật
chất được nâng cao, chất lượng đào tạo từng bước đáp ứng yêu cầu về nguồn nhân
lực, năng lực của các hệ thống y tế cũng được hoàn thiện dần dần,…
Hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, vị thế của Việt Nam ta trên thế giới cũng
ngày càng được nâng cao,… lOMoAR cPSD| 58562220
- Những hạn chế khó khăn thách thức hiện nay.
Những thành công đạt được trong công cuộc đổi mới của Đảng và nhân dân
ta kể từ năm 1986 là rất đáng nể. Chúng ta có sự phát triển nhất định trên mọi
ngành, mọi lĩnh vực. Việt Nam đã nhanh chóng vươn lên từ một trong những
nước nghèo nhất thế giới trở thành một trong những nền kinh tế năng động nhất
khu vực Đông Á. Mặc dù đã đạt được những bước tiến ngoạn mục, bên cạnh đó
chúng ta vẫn có những hạn chế, khó khăn nhất định. Trong văn kiện đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ 13 có nêu ra một số hạn chê, khó khăn, thách thức sau: hoàn
thiện thể chế, đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, công nghiệp
hoá, hiện đại hoá còn chậm, chưa tạo được chuyển biến căn bản; năng suất, chất
lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế chưa cao. Giáo dục và đào tạo,
khoa học và công nghệ chưa trở thành động lực then chốt thúc đẩy phát triển kinh
tế - xã hội. Lĩnh vực văn hoá, xã hội chưa có nhiều đột phá, hiệu quả chưa cao;
đời sống của một bộ phận nhân dân còn khó khăn. Quản lý tài nguyên, bảo vệ
môi trường và khả năng thích ứng với biến đổi khí hậu còn bất cập. Các lĩnh vực
quốc phòng, an ninh, đối ngoại còn một số mặt hạn chế. Sức mạnh đại đoàn kết
toàn dân tộc và dân chủ xã hội chủ nghĩa có lúc, có nơi chưa được quan tâm phát
huy đầy đủ. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam có mặt
chưa đáp ứng tốt yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và quản lý đất nước trong tình
hình mới. Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng còn một số hạn chế.
Trách nhiệm của bản thân
Là con dân Việt Nam- người đang sống trong một thời kì độc lập tự do, em luôn
tự hào vì có một Đảng lãnh đạo sáng suất, một Đảng đã giúp đất nước thoát ra
khỏi sự nô lệ, đem lại hạnh phúc ấm no cho mọi người. Sự nghiệp cách mạng là
một thời gian không lâu cũng không nhanh của Đảng nhưng 91năm lãnh đạo sự
nghiệp ấy, công lao của Đảng là không thể phủ nhận được. Dẫu vậy, các thế lực
phản động, thù địch vẫn không ngừng mọi thủ đoạn xuyên tạc, bôi nhọ lãnh tụ,
hạ thấp uy tín lãnh đạo của Đảng. Việc đấu tranh chống lại tư tưởng, luận điệu sai
trái đó là rất quan trọng, thường xuyên. Vì như vậy không chỉ bảo vệ Đảng, bảo
vệ chế độ mà còn bảo vệ chính nhân dân nói rõ hơn là chính bản thân mình. Điển
hình trong thời kì phức tạp của dịch bênh COVID-19 những lực lượng phản động
đã tung những tin tức sai sự thật, nhằm lung lay lòng tin của nhân dân với Đảng.
Hành động đó là xấu xa cần lên án và loại bỏ ngay. Thực chất những luận điệu
sai lệch ấy không chỉ nhằm hạ thấp uy danh, uy tín của Lãnh tụ và Đảng ta mà
qua đó, âm mưu sâu xa, nham hiểm của chúng là từ chỗ làm xói mòn niềm tin của
nhân dân đối với các lãnh tụ để dẫn đến nghi ngờ, dao động rồi mất niềm tin vào lOMoAR cPSD| 58562220
Đảng, Nhà nước và chế độ. Chính vì thế mà chúng ta nên rèn luyện cho mình
bản lĩnh, và sự tỉnh táo trong việc đọc thông tin, không thể để cho bọn thù địch,
phản động “dắt mũi”. Và gương mẫu thực hiện và có ý thức tuyên truyền, vận
động gia đình và nhân dân thực hiện theo đường lối, nghị quyết của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước.
Đảng Cộng sản Việt nam tồn tại và hoạt động vì mục tiêu duy nhất đó chính là
đôc lậ p dân tộ c, cḥ ủ nghĩa xã hôi, làm tất cả chỉ vì hạnh phúc, quyền sống,̣
quyền tự do và làm chủ của nhân dân. Trải qua hơn 90 năm dưới sự dẫn dắt, lãnh
đạo của Đảng, Việt Nam ta từng bước từng bước thành công trong đấu tranh giành
lại chủ quyền rồi đến thành công trong phát triển kinh tế- xã hội. Dẫu biết đất
nước vẫn còn những khó khăn, hạn chế nhất định nhưng chúng ta hãy tin một
Đảng cách mạng chân chính, đạo đức, văn minh…sẽ chỉ đạo, định hướng đúng
đắn khiến cho Việt Nam ta sẽ ngày càng phát triển tốt hơn. Hiện nay, nước ta vẫn
đang trong sự nghiệp đổi mới toàn diện, vì thế sự lãnh đạo của Đảng là hết sức
quan trọng. Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta hãy nên ra sức phấn đấu xây dựng,
phát triển đất nước, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn
lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân và chế độ xã hội chủ
nghĩa; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, phát huy có hiệu quả mọi nguồn
lực, động lực để phát triển đất nước nhanh, bền vững,..
Là một sinh viên trường Đại học Kinh tế Quốc dân, đã từng là đội viên, đoàn
viên và sau này cũng có thể sẽ là một Đảng viên, em luôn cố gắng từ những bước
đầu là công dân tốt, noi theo tấm gương của Đảng để góp phần giúp cho đất nước
Việt Nam phát triển giàu đẹp. III/ KẾT LUẬN
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam, đã đánh dấu bước ngoặt trọng đại của
cách mạng Việt Nam, chấm dứt sự khủng hoảng về đường lối cách cách mạng
cứu nước kéo dài mấy thập kỷ. Đảng ra đời có ý nghĩa lịch sử to lớn với đất nước,
với nhân dân. Trong thời kì cách mạng giải phóng dân tộc Đảng lãnh đạo giúp đất lOMoAR cPSD| 58562220
nước chiến thắng trong mọi mặt trận giành độc lập, còn trong thời kì hòa bình
dưới ánh sáng chỉ đạo đấy Đảng lại giúp ta chiến thắng trong việc cải thiệt kinh
tế - xã hội. Qua từng giai đoạn, từng thời kì sự có mặt của Đảng luôn là nhân tố
giúp đất nước Việt Nam ta độc lập, vững mạnh. Và điển hình trong chiến thắng
cách mạng tháng Tám (1945)- chiến thắng lịch sử to lớn ấy là dấu ấn tượng trưng
cho vai trò lãnh đạo của Đảng trong những năm mới thành lập. Mở ra một kỷ
nguyên mới cho dân tộc – kỷ nguyên , kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội. #các nguồn thông tin tham khảo Đường Kách Mệnh
Văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 13
Tạp chí ban tuyên giáo Trung ương…
Các nguồn thông tin khác,…