lOMoARcPSD| 58797173
Trường: Đại học Kinh tế Quốc dân
Giảng viên: Nguyễn Thị Hoàn
Họ và tên sinh viên: Trịnh Thị Minh Ngọc
Nghành học: Kế toán
MSSV: 19221081
Môn học: Lịch sử Đảng Cộng Sản Việt Nam
Bài tập tự luận số 4
Phân tích chứng minh rằng: Nguyễn Ái Quốc vai trò vô cùng to lớn trong việc sáng lập Đảng cộng
sản Việt Nam. Để Đảng cộng sản Việt Nam luôn giữ vai trò tiên phong trong mọi thời kỳ cách mạng theo
anh (chị) cần chú ý đến những vấn đề gì?
Bài làm
I. Vai trò của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh trong việc sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam:
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam (ngày 03/02/1930) là một tất yếu khách quan từ thực tiễn cuộc đấu
tranh của Nhân dân ta chống sự dịch đế quốc; dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin, phù hợp với
quy luật vận động của cách mạng thế giới và sự nghiệp cách mạng nước ta. Đảng ta được thành lập đã đáp
ứng những yêu cầu khách quan và cấp bách của dân tộc là độc lập, tự do và phát triển; là kết quả của nhiều
yếu tố, trong đó có vai trò rất to lớn của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, người thực hiện sứ mệnh
lịch sử sáng lập chính đảng sản Việt Nam, với những sáng tạo luận xuất sắc. Từ đây, cách mạng
Việt Nam một đảng cách mạng chân chính dẫn đường cho toàn dân đứng lên đánh đổ ách áp bức, bóc
lột của thực dân, phong kiến đem lại độc lập cho dân tộc, ấm no, tự do, hạnh phúc cho Nhân dân.
Công lao của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh trong việc tìm kiếm lựa chọn con đường cứu
nước đúng đắn cho dân tộc ta
1. Công lao của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh trong việc tìm kiếm và lựa chọn con đường
cứu nước đúng đắn cho dân tộc ta
Từ cuối thế kỷ XIX, do sự bất lực của triều đình nhà Nguyễn, Việt Nam từ một quốc gia độc lập, thống nhất
có chủ quyền bị thực dân Pháp xâm lược và biến thành thuộc địa. Với truyền thống yêu nước và tinh thần
quật cường dân tộc, nhiều phong trào yêu nước đã diễn ra ngay khi đất nước đối đầu với họa ngoại xâm,
triều Nguyễn dần từ bỏ chủ quyền quốc gia cho thực dân Pháp, tiêu biểu như khởi nghĩa Ba Đình, khởi
nghĩa Bãi Sậy, khởi nghĩa Hương Khê, phong trào Cần Vương, khởi nghĩa Yên Thế, phong trào Đông Du,
Đông Kinh Nghĩa Thục, Duy Tân, phong trào chống thuế Trung Kỳ… Tuy nhiên, các cuộc khởi nghĩa
phong trào yêu nước đó đều đi đến thất bại, và nguyên nhân chính là thiếu lực lượng lãnh đạo, nhất là chưa
có một tổ chức lãnh đạo đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc. Sự thất bại của các
phong trào yêu nước thể hiện sự khủng hoảng, bế tắc của các phương cách cứu nước truyền thống Việt Nam
trước chuyển biến của thời cuộc. Song đó lại động lực thôi thúc ý chí vươn lên sáng tạo của con người
Việt Nam, đồng thời đặt ra yêu cầu cấp bách phải có một ánh sáng mới soi đường, dẫn dắt.
Trong bối cảnh đó, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh với lòng yêu nước, thương dân sâu sắc, với tầm
nhìn chiến lược và phương pháp duy sáng tạo đã sớm nhận thấy những bất cập bế tắc trong con đường
cứu nước của thế hệ cha anh đang tiến hành yêu cầu bức thiết đối với dân tộc phải tìm kiếm con đường
cách mạng mới. Và Người đã đảm đương trọng trách đó.
Trải qua gần 10 năm nghiên cứu, khảo nghiệm, học tập, tìm tòi, hoạt động không ngừng ở nhiều quốc gia,
hầu khắp các châu lục, đến tháng 7/1920, lần đầu tiên Người đọc bản thảo lần thứ nhất những luận
cương về vấn đề dân tộc vấn đề thuộc địa của V.I.Lênin đăng trên báo Nhân Đạo (L’Humanite), số ra
ngày 16 17/7/1920. Luận ơng lập tức thu hút sự chú ý đặc biệt tạo ra bước chuyển biến căn bản
trong nhận thức tưởng, giúp lãnh tNguyễn Ái Quốc đi đến khẳng định: “Chỉ chủ nghĩa cộng sản
lOMoARcPSD| 58797173
mới cứu nhân loại, đem lại cho mọi người không phân biệt chủng tộc nguồn gốc tự do, bình đẳng, bác
ái, đoàn kết, ấm no trên quả đất, việc làm cho mọi người, niềm vui, hòa bình, hạnh phúc”. Người tìm thấy
ở đó con đường đúng đắn để giải phóng đất nước khỏi ách thực dân, cứu dân cứu nước là theo con đường
cách mạng sản, con đường mục đích cao cả giải phóng dân tộc để tiến tới giải phóng con người.
Sau này Người viết: Luận cương của Lênin đã làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết
bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một nh trong buồng tôi nói to lên như đang nói trước
quần chúng đông đảo: “Hỡi đồng bào bị đày đọa và đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con
đường giải phóng cho chúng ta! Từ đó tôi hoàn toàn tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba”. Tại Đại hội
đại biểu Đảng hội Pháp lần thứ XVIII (tháng 12/1920), Nguyễn Ái Quốc bỏ phiếu tán thành Quốc tế
Cộng sản do V.I.Lênin sáng lập tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp, trở thành một trong những
người sáng lập Đảng Cộng sản Pháp, và cũng là người cộng sản đầu tiên của Việt Nam.
Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trở thành người Việt Nam đầu tiên, nghiên cứu, tổng kết, tìm ra bản chất của các
học thuyết, các cuộc cách mạng trên thế giới, chắt lọc, vận dụng phát triển cho phù hợp với dân tộc mình.
Năm 1927, trong tác phẩm Đường Kách mệnh, Người khẳng định: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa
nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất chủ nghĩa Lênin”. Về sự cần
thiết phải có Đảng để lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Người chỉ rõ: “Trước hết phải có Đảng cách mệnh”,
“Đảng vững ch mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái vững thuyền mới chạy. Đảng
muốn vững thì phải chủ nghĩa làm cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy.
Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam”.
Lãnh tNguyễn Ái Quốc đã nhận thức sâu sắc sự gắn bó mật thiết giữa giải phóng dân tộc giải phóng
giai cấp, giải phóng xã hội và giải phóng con người; sớm nhận thức rõ, chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa dân
tộc chân chính là một động lực lớn của cách mạng kết hợp tài tình chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa
Mác - Lênin - học thuyết cách mạng tiên tiến nhất của thời đại. Chỉ có kết hợp chủ nghĩa Mác Lênin với
phong trào công nhân và phong trào yêu nước mới có thể xây dựng được một Đảng cách mạng chân chính,
đảm bảo cho cách mạng phát triển đúng hướng và đi đến thắng lợi.
2. Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào trong nước và chuẩn bị
điều kiện thành lập Đảng
Bằng nhiều hoạt động, trong giai đoạn 1921-1929, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã tích cực truyền bá chủ nghĩa
Mác - Lênin vào Việt Nam, chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và tổ chức cho sự ra đời của Đảng:
- Về chính trị: Người tích cực truyền chủ nghĩa Mác - Lênin vào trong nước; phác thảo những
vấn đề bản về đường lối cứu nước đúng đắn của cách mạng Việt Nam, thể hiện tập trung trong những
bài giảng của Người cho những cán bộ cốt cán của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên tại Quảng Châu
(Trung Quốc). Đầu năm 1927, tập Đề cương bài giảng do Nguyễn Ái Quốc biên soạn làm tài liệu huấn
luyện chính trị ở Quảng Châu (1925-1927) được Bộ Tuyên truyền của Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức
ở Á Đông do Người sáng lập, được xuất bản thành sách với nhan đề Đường Kách mệnh. Tác phẩm Đường
Kách mệnh được bí mật đưa về trong nước sớm trở thành tài liệu căn bản để tuyên truyền giác ngộ chính
trị theo chủ nghĩa Mác - Lênin và hướng dẫn các mặt hoạt động của Hội Thanh niên. Trên thực tế, Đường
Kách mệnh đã có ý nghĩa lịch sử rất to lớn đối với phong trào cách mạng trong cả nước, đặc biệt tại Thành
phố Sài Gòn và ở Nam Kỳ, đã chuẩn bị các nhân tố đảm bảo cho sự ra đời của một Đảng Cộng sản để gánh
vác nhiệm vụ lịch sử trọng đại lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Tác phẩm chỉ ra vấn đề then chốt tác
dụng lớn không chỉ đối với Việt Nam, mà còn đối với cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân các
nước thuộc địa Phương Đông, đó là: cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, chủ yếu là công nông, vì vậy
phải tổ chức quần chúng lại; cách mạng muốn thành công phải một Đảng Cộng sản lãnh đạo; phải
lOMoARcPSD| 58797173
đường lối phương pháp cách mạng đúng; cách mạng giải phóng dân tộc phải liên hệ chặt chẽ với cách
mạng vô sản thế giới…
- Về tư tưởng: lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam
nhằm làm chuyển biến nhận thức của quần chúng, đặc biệt là giai cấp công nhân, làm cho hệ tư tưởng Mác
Lênin từng bước chiếm ưu thế trong đời sống xã hội, làm chuyển biến mạnh mẽ phong trào yêu nước xích
dần đến lập trường của giai cấp công nhân. Nội dung truyền bá là những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa
Mác - Lênin được cụ thể hóa cho phù hợp với trình độ của các giai tầng trong xã hội. Những bài viết, bài
giảng với lời văn giản dị, nội dung thiết thực đã nhanh chóng được truyền thụ đến quần chúng. Đồng thời,
Người đã vạch trần bản chất xấu xa, tội ác của thực dân Pháp đối với nhân dân thuộc địa, Nhân dân Việt
Nam. Trong tác phẩm Đường Kách mệnh, Người tố cáo thực dân Pháp đã bắt dân bản xứ phải đóng “thuế
máu” cho chính quốc... để “phơi thây trên chiến trường châu Âu”; “đày đọa” phụ nữ, trẻ em thuộc địa; các
thống sứ, quan lại thực dân “độc ác như một bầy thú dữ”... Tác phẩm đã “hướng các dân tộc bị áp bức” đi
theo con đường Cách mạng Tháng Mười Nga, tiêu diệt “hai cái vòi của con đỉa đế quốc” - một “vòi” bám
vào giai cấp vô sản ở chính quốc, một “vòi” bám vào nhân dân thuộc địa và đề ra cho Nhân dân Việt Nam
con đường cách mạng vô sản theo chủ nghĩa Mác - Lênin.
- Về tổ chức: lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã dày công chuẩn bị về mặt tổ chức cho sự ra đời của chính
đảng vô sản của giai cấp công nhân Việt Nam. Đó là huấn luyện, đào tạo cán bộ, từ các lớp huấn luyện do
Người tiến hành Quảng Châu (Trung Quốc) để vừa chuẩn bị cán bộ, vừa truyền bá chủ nghĩa Mác Lênin.
Năm 1925, Nguyễn Ái Quốc thành lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên, ra báo Thanh niên, mở lớp
đào tạo cán bộ cách mạng cho 75 đồng chí. Hội Việt Nam cách mạng thanh niên đã giúp cho những người
Việt Nam yêu nước dễ tiếp thu tư tưởng cách mạng của Người, phản ánh tư duy sáng tạo và là thành công
của Người trong chuẩn bị về mặt tổ chức cho Đảng ra đời.
Trong những năm 1928-1929, phong trào đấu tranh cách mạng của Nhân dân ta tiếp tục phát triển mạnh về
số lượng chất lượng. Chủ nghĩa Mác - Lênin được lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc những chiến sĩ tiên phong
truyền về trong nước, cùng với phong trào “vô sản hóa” làm chuyển biến phong trào công nhân, giác
ngộ tổ chức họ đấu tranh cách mạng một cách tự giác. Thông qua phong trào “vô sản hóa”, lớp lớp thanh
niên yêu nước được rèn luyện trong thực tiễn, giác ngộ lập trường giai cấp công nhân sâu sắc, hiểu
nguyện vọng, lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, thúc đẩy phong trào công nhân và phong
trào yêu nước phát triển mạnh mẽ, tiến tới sự ra đời của các tổ chức cộng sản đầu tiên ở Việt Nam, tạo điều
kiện chín muồi và hợp quy luật cho sự ra đời của Đảng.
3. Công lao của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trong việc chủ trì hợp nhất các tổ chức cộng sản thành
Đảng Cộng sản Việt Nam
Từ giữa năm 1929 đến đầu năm 1930, trong bối cảnh tổ chức Hội Việt nam cách mạng thanh niên sự
phân hóa và mất dần vai trò lãnh đạo cách mạng, ở Việt Nam chỉ trong thời gian ngắn lần lượt xuất hiện ba
tổ chức cộng sản là Đông Dương Cộng sản Đảng (tháng 6/1929), An Nam Cộng sản Đảng (tháng 11/1929)
và Đông Dương Cộng sản Liên đoàn (tháng 01/1930). Điều đó phản ánh xu thế tất yếu của phong trào đấu
tranh cách mạng Việt Nam. Song sự tồn tại của ba tổ chức cộng sản không tránh khỏi phân tán về lực
lượng và thiếu thống nhất về tổ chức. Yêu cầu cấp thiết đặt ra là chấm dứt hiện tượng biệt phái, chia rẽ giữa
các nhóm cộng sản, phải thống nhất các tổ chức cộng sản thành một chính đảng duy nhất Việt Nam.
Nhiệm vụ đó đặt lên vai Nguyễn Ái Quốc, người duy nhất có đủ năng lực và uy tín đáp ứng yêu cầu đó của
lịch sử: thống nhất các tổ chức cộng sản thành Đảng Cộng sản duy nhất ở Việt Nam.
Năm 1929, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đang hoạt động Xiêm (Thái Lan), mặc chưa nhận được chỉ thị
của Quốc tế Cộng sản về yêu cầu thống nhất các tổ chức cộng sản ở Việt Nam. Song với sự nhạy bén về
chính trị, sự chủ động cao, thực hiện trọng trách lịch sử đối với dân tộc, với vai trò, trách nhiệm trong Quốc
lOMoARcPSD| 58797173
tế Cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đã chủ động triệu tập Hội nghị hợp nhất, thực hiện sứ mệnh lịch sử của người
sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Từ ngày 06/01/1930 đến ngày 07/02/1930, tại Cửu Long Hồng Kông
(Trung Quốc), Hội nghị hợp nhất được tiến hành dưới sự chủ trì của Nguyễn Ái Quốc. Tham dự Hội nghị
có các đại biểu của Đông Dương Cộng sản Đảng (02 đại biểu) và An Nam Cộng sản Đảng (02 đại biểu) và
02 đại biểu hải ngoại (Hồ Tùng Mậu và Hồng Sơn). Còn Đông Dương Cộng sản Liên đoàn đã thành lập,
song chưa có liên hệ, nên chưa được triệu tập đại biểu đến dự (đến ngày 24/02/1930, Ban Chấp hành Trung
ương lâm thời đã họp quyết định chấp nhận đơn xin gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam của Đông Dương
Cộng sản Liên đoàn. Từ đây, cả ba tổ chức cộng sản Việt Nam đã thống nhất trọn vẹn vào một Đảng Cộng
sản duy nhất). Trong Hội nghị hợp nhất, đồng chí Nguyễn Ái Quốc đề ra 5 điểm lớn cần thảo luận và thống
nhất, trước hết tự phê bình phê bình: “Bỏ mọi thành kiến xung đột cũ, thành thật hợp tác để thống
nhất các nhóm cộng sản Đông Dương”. Với sự nhất trí cao, Hội nghị đặt tên Đảng là Đảng Cộng sản Việt
Nam và thông qua Chánh cương vắn tắt của Đảng, Sách lược vắn tắt của Đảng, Điều lệ vắn tắt của Đảng,
Chương trình tóm tắt của Đảng do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc soạn thảo. Các văn kiện đã trở thành Cương
lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng.
Chánh cương vắn tắt của Đảng do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc soạn thảo, đã thể hiện rõ con đường giải phóng
và phát triển của dân tộc Việt Nam là “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới
hội cộng sản” (tức cách mạng dân tộc dân chủ), thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và người cày có ruộng.
Nhiệm vụ của cách mạng sản dân quyền và thổ địa cách mạng, tức cách mạng dân tộc, dân chủ, trong đó
giành độc lập dân tộc được đặt ở vị trí trên hết. Ở Việt Nam, trước hết phải làm “dân tộc cách mệnh”, đánh
đổ sự cai trị, nô dịch dân tộc của chủ nghĩa đế quốc, giành lại quyền bình đẳng dân tộc, tự do cho dân nước
mình: “Dân tộc cách mệnh thì chưa phân giai cấp, nghĩa là sĩ, nông, công, thương đều nhất trí chống lại
cường quyền”.
Trong Chánh cương vắn tắt, Người đã thực hiện ba cuộc giải phóng cách mạng sản một nước thuộc
địa như nước ta là: giải phóng dân tộc phải tiến hành trước tiên, tạo tiền đề giải phóng giai cấp, giải phóng
xã hội. Nói một cách khác giải phóng, giành độc lập dân tộc là bước đi đầu tiên của cuộc cách mạng vô sản
ở nước thuộc địa, ở Việt Nam. Đây là một luận điểm cơ bản, chính yếu trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên
của Đảng. Đồng thời, cũng đóng góp đặc sắc, bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin trên phương
diện lý luận về các mô hình vận động, phát triển của cuộc cách mạng vô sản.
Trải qua 93 năm, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh
sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện, sự nghiệp cách mạng nước ta đã giành những thắng lợi vĩ đại, ý nghĩa
lịch sử và thời đại. Nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự dẫn dắt của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đoàn
kết, đồng lòng đánh thắng các thế lực thù địch, những chiến công đã đi vào lịch sử như Cách mạng Tháng
Tám năm 1945, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954), cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ
(1954-1975). Đặc biệt, những thành tựu của công cuộc đổi mới gần 37 năm qua, càng chứng minh cho sự
lựa chọn đúng đắn con đường đi lên chủ nghĩa hội nước ta khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam. Những thắng lợi to lớn đó đã chứng minh một chân lý: “Sự lãnh đạo đúng đắn của
Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam”.
Từ thực tiễn phong phú của công cuộc đổi mới và kết quả nghiên cứu luận, nhận thức về chủ nghĩa
hội, con đường đi lên chủ nghĩa hội nước ta ngày càng sáng tỏ hơn. Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã rút ra 8 đặc trưng của hội
chủ nghĩa Việt Nam, 8 phương hướng bản xây dựng chủ nghĩa hội 8 mối quan hệ lớn (Nghị
quyết Đại hội XIII của Đảng đã bổ sung thành 10 mối quan hệ lớn) cần nắm vững và giải quyết tốt, trong
xây dựng chủ nghĩa hội ở Việt Nam. Công cuộc đổi mới không chỉ làm biến đổi sâu sắc diện mạo đất
nước, cuộc sống của Nhân dân mà còn mang lại nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội.
lOMoARcPSD| 58797173
Ngày nay, những thành tựu to lớn qua những năm đổi mới đã làm cho thế và lực của nước ta được nâng cao
trên trường quốc tế. Đúng như Tổng Bí thư Nguyễn PTrọng đã phát biểu tại Lễ khai mạc Đại hội lần thứ
XIII của Đảng: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay.
Những thành tựu đó là sản phẩm kết tinh sức sáng tạo, là kết quả của cả một quá trình nỗ lực phấn đấu bền
bỉ, liên tục qua nhiều nhiệm kỳ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta; tiếp tục khẳng định con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội của chúng ta là đúng đắn, phù hợp với quy luật khách quan, với thực tiễn Việt Nam và xu
thế phát triển của thời đại”. Từ đó, chúng ta càng thấy công lao to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với
sự nghiệp cách mạng của dân tộc ta; mỗi cán bộ, đảng viên luôn tự hào có Đảng lãnh đạo, càng ra sức học
tập để thấm nhuần đạo đức cách mạng của Người, xây dựng bản lĩnh chính trị vững vàng trên cơ sở kiên
định và không ngừng vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh phù hợp
với thực tiễn Việt Nam trong từng giai đoạn. Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; tích
cực nghiên cứu lý luận, tổng kết kinh nghiệm lãnh đạo của Đảng, học tập tư tưởng, đạo đức và phong cách
của Người để vận dụng vào giải quyết những vấn đề thực tiễn trong công cuộc đổi mới đất nước; đồng thời,
đấu tranh chống c quan điểm sai trái phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng, góp phần ch cực hiện thực
hóa các nghị quyết của Đảng vào trong cuộc sống.
II. Để Đảng luôn xứng đáng với vai trò tiền phong
Bình sinh, Hồ Chí Minh đặc biệt chăm lo công tác xây dựng Đảng, để Đảng Cộng sản Việt Nam “phải
một đảng to lớn, mạnh mẽ, chắc chắn, trong sạch, cách mạng triệt để”. Nửa thế kỷ sau khi Người đi xa,
những trăn trở, tâm huyết chỉ dẫn của Người: “Việc cần phải làm trước tiên chỉnh đốn lại Đảng”
“phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, người đầy tớ thật trung thành
của nhân dân” trong bản Di chúc để lại cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta vẫn vẹn nguyên giá trị thời
sự và ý nghĩa lớn lao.
1. Đảng phải được xây dựng theo nguyên tắc Mác Xít
Hồ Chí Minh từng nói, Đảng Cộng sản Việt Nam là một tổ chức thống nhất của những người con ưu tú của
giai cấp và dân tộc, luôn vì lợi ích cảu Tổ quốc và nhân dân mà phụng sự, song Đảng cũng là một thực thể
trong xã hội, cũng những con người với tất cả điểm ưu nhược, nên không phải lúc nào bao giờ cũng
giữ đúng và giữ được vai trò tiền phong, gương mẫu. Hơn nữa, trong tiến trình vận động và phát triển, một
dân tộc, một Đảng mỗi con người ngày hôm qua đại, sức hấp dẫn và quy tụ được quần chúng,
song không nhất định hôm nay ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ngợi ca, nếu suy thoái về
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Vì thế, Người luôn chú trọng công tác
xây dựng và chỉnh đốn Đảng, không ngừng nâng cao bản lĩnh, trí tuệ sức chiến đấu của Đảng, của đội
ngũ cán bộ, đảng viên trên sở tuân thủ các nguyên tắc xây dựng một chính Đảng Mácxit chân chính;
đồng thời, coi đó là quy luật tất yếu, sự vận động phát triển của Đảng trong tiến trình nh đạo cách
mạng Việt Nam, để Đảng Cộng sản Việt Nam trở thành giữ vững vị trí Đảng duy nhất lãnh đạo sự
nghiệp cách mạng của nhân dân ta.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh: 1) Đảng chỉ thể một tổ chức chắc chắn, vững mạnh, luôn đội tiên
phong của giai cấp và dân tộc; chỉ giành và giữ vững vai trò độc quyền lãnh đạo cách mạng Việt Nam khi
“chủ nghĩa của Đảng là chủ nghĩa Mác-Lênin, mỗi đảng viên đều phải nghiên cứuTư tưởng của Đảng
tưởng của giai cấp công nhân, đấu tranh cho lợi ích của toàn dân. Vì vậy, trong Đảng không thể
những tưởng, lập trường tác phong trái với tưởng, lập trường tác phong của giai cấp công
nhân…Đảng có kỷ luật rất nghiêm khắc, tất cả đảng viên đều phải tuân theo. Tư tưởng, chính trị và tổ chức
của Đảng đều phải thống nhất. Trong Đảng không thể những phần tử lạc hậu đầu cơ”; đồng thời,
thường xuyên, liên tục tự đổi mới chỉnh đốn. 2) Đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng chỉ thể hoàn
thành trọng trách vừa là người lãnh đạo vừa là người đầy tớ của nhân dân khi “kiên quyết phục tùng sự lãnh
lOMoARcPSD| 58797173
đạo tập trung của Đảng. Trong Đảng không thể những phần tử hèn nhát lung lay”; đồng thời, nỗ lực
“toàn tâm toàn lực phụng sự lợi ích của nhân dân, phải làm gương mẫu trong mọi công tác”. Đó trách
nhiệm kép, vừa vinh dự vừa khó khăn, mà muốn xứng đáng, Đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng
phải tuân thủ nghiêm ngặt các nguyên tắc xây dựng một Đảng Mácxít.
Một là, trong bất cứ thời điểm nào, Đảng cũng phải “tổ chức theo nguyên tắc dân chủ tập trung. Nghĩa là:
có Đảng chương thống nhất, kỷ luật thống nhất, quan lãnh đạo thống nhất. Cá nhân phải phục tùng đoàn
thể, số ít phải phục tùng số nhiều, cấp dưới phải phục tùng cấp trên, địa phương phải phục tùng Trung
ương”. Dân chủ và tập trung phải luôn đi đôi với nhau, có mối quan hệ khăng khít với nhau và đó là hai vế
của một nguyên tắc. Đây là nguyên tắc rường cột, quan trọng nhất để xây dựng Đảng, nhằm phát huy quyền
làm chủ của đảng viên, tạo nên sức mạnh tổng hợp của tổ chức, bảo đảm cho quá trình thực hiện dân chủ
được đúng hướng; đảm bảo cho kỷ luật của Đảng được thực thi nghiêm túc; khi đó, kỷ luật chính
phương tiện để bảo vệ dân chủ, bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi thành viên trong tổ chức. Vì thế, Người
dặn trong Di chúc, “trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi” để không chỉ phát huy quyền làm chủ của đảng
viên trong tất cả các hoạt động của Đảng, để mọi đảng viên được bày tỏ ý kiến của mình mà còn góp phần
phòng, chống các biểu hiện chuyên quyền, độc đoán, hách dịch, chụp mũ, trù dập và những biểu hiện dân
chủ quá trớn, những hiện tượng vì “sợ” mất dân chủ mà theo đuôi quần chúng trong công tác lãnh đạo và
chỉ đạo thực tiễn.
Hai là, Đảng luôn phải thực thi nguyên tắc tập thể lãnh đạo, nhân phụ trách. Theo Hồ Chí Minh, “ý nghĩa
của tập thể lãnh đạo rất giản đơn, chân lý của nó rất rõ rệt. Tục ngữ có câu: “Khôn bầy hơn khôn độc” là ý
nghĩ đó?”, vì một người dù khôn ngoan tài giỏi mấy, dù nhiều kinh nghiệm đến đâu, cũng không thể xem
xét và giải quyết tốt tất cả mọi mặt của một vấn đề. Đồng thời, “nếu không có cá nhân phụ trách thì sẽ sinh
cái tệ người này ủy cho người kia, người kia ủy cho người nọ, kết quả là không ai thi hành. Như thế thì việc
cũng không xong”. Hai vế của nguyên tắc này phải luôn đi đôi với nhau, nhằm khắc phục những biểu
hiện độc đoán, chuyên quyền của người đứng đầu cả những biểu hiện dựa dẫm, lại tập thể, không quyết
đoán, không dám chịu trách nhiệm khi cần quyết định những vấn đề quan trọng của những cán bộ thiếu bản
lĩnh, thiếu năng lực lãnh đạo,v.v..
Ba là, Đảng Cộng sản Việt Nam là một bộ phận trong hệ thống chính trị nhưng lực lượng lãnh đạo,
linh hồn của khối đại đoàn kết toàn dân, cho nên “sự đoàn kết trong Đảng quan trọng hơn bao giờ hết,
nhất là sự đoàn kết chặt chẽ giữa các cán bộ lãnh đạo”. Trên tinh thần tuyệt đối không thỏa hiệp với những
xu hướng bè phái, coi sự chia rẽ là tội ác lớn nhất đối với Đảng, Hồ Chí Minh nhấn mạnh: Đoàn kết
một truyền thống quý báu “đoàn kết một lực lượng địch của chúng ta để khắc phục khó khăn, giành
lấy thắng lợi”. Bởi “đoàn kết một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng của dân ta”, được coi là
nguyên tắc cơ bản trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; là bảo đảm đầu tiên và thường xuyên cho sự
vững mạnh và nâng cao sức chiến đấu của tổ chức Đảng; tạo nên sức mạnh thống nhất trong ý chí và hành
động của Đảng, nên Hồ Chí Minh căn dặn: “Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải gigìn
sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”. Theo đó, mọi cán bộ, đảng viên phải
thường xuyên củng cố khối đoàn kết, thống nhất trong Đảng trên sở đường lối, chủ trương những
nguyên tắc sinh hoạt Đảng; được thể hiện trong nhận thức và hành động, trong mối quan hệ giữa cấp trên
và cấp dưới, nhất quán giữa lời nói và việc làm; coi đó là cơ sở để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Bốn là, một Đảng cách mạng chân chính, muốn xứng đáng với vị thế tiền phong, thì phải “thường xuyên
và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố phát triển sự đoàn kết và thống nhất
của Đảng. Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau”. Tự phê bình và phê bình là cuộc đấu tranh giữa giữa
điều tốt điều xấu, giữa cái đúng và cái sai trong bản thân mỗi cán bộ, đảng viên và tổ chức Đảng, để giúp
lOMoARcPSD| 58797173
nhau sửa chữa khuyết điểm tiến bộ, để sửa đổi cách làm việc cho tốt n, đúng hơn, “cốt đoàn kết
thống nhất nội bộ”, nên khi tiến hành phải kiên quyết, ráo riết, triệt để, thật thà, không nể nang, không thêm
bớt phải được thực hiện trên tình đồng chí thương yêu lẫn nhau. Hồ Chí Minh coi tự phê bình phê
bình thang thuốc hay nhất, cần phải được tiến hành thường xuyên, nghiêm túc trên tinh thần “các
quan, các cán bộ, các đảng viên, mỗi người, mỗi ngày phải thiết thực tự kiểm điểm và kiểm điểm và kiểm
điểm đồng chí mình. Hễ thấy khuyết điểm phải kiên quyết tsửa chữa giúp đồng chí mình sửa chữa.
Phải như thế Đảng mới chóng phát triển, công việc mới chóng thành công”, chứ không chờ khi có việc mới
tiến hành, có khuyết điểm mới phạt... Thực hiện đúng và tốt nguyên tắc quan trọng này một cách dân chủ,
công khai, bình đẳng trong sinh hoạt Đảng theo phương châm: cấp trên và cán bộ lãnh đạo phải tự phê bình
nghiêm túc, phải chân thành tiếp thu ý kiến phê bình của đồng chí mình và cấp dưới; đồng thời, phải động
viên cấp dưới và quần chúng phê bình tổ chức đảng và đảng viên chân thành, triệt để sẽ góp phần phát huy
vai trò, khả năng sáng tạo, trách nhiệm của mỗi cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân trong công tác
xây dựng, chỉnh đốn Đảng.
Năm là, Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Đảng ta đại biểu cho lợi ích chung của giai cấp công nhân, của toàn
thể nhân dân lao động, chứ không mưu cầu lợi ích riêng của một nhóm người nào, của cá nhân nào”. Luôn
đặt lợi ích quốc gia, dân tộc lên trên hết, trước hết, sự thống nhất lợi ích giữa Đảng với nhân dân chính
vị thế: Đảng vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ trung thành của dân. Cho nên, tăng cường mối quan
hệ mật thiết giữa Đảng và nhân dân là một yêu cầu tất yếu, là nhu cầu tự thân của Đảng và một nguyên tắc
để xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, để nhân nguồn sức mạnh nội lực của Đảng. Trong đó, đội ngũ
cán bộ, đảng viên - những người đem chính sách của Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu
thi hành phải luôn xứng đáng “công bộc” của nhân dân trên tinh thần: mỗi người trong mọi mặt
công tác phải luôn đặt lợi ích của nhân dân lên trên hết, phải liên hệ chặt chẽ với nhân dân; việc cũng
bàn với nhân dân, giải thích cho nhân dân hiểu rõ, sẵn sàng học hỏi nhân dân và “sẵn lòng cầu tiến bộ, sẵn
chí phụng sự nhân dân”, để nhân dân tin tưởng, yêu mến và gắn bó.
Sáu là, không chỉ khẳng định vai trò, ý nghĩa quyết định của đạo đức cách mạng, coi đạo đức là cái gốc của
người cách mạng, là cơ sở nền tảng của một đảng cầm quyền, Hồ Chí Minh còn đặc biệt quan tâm đến việc
giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên. Trong tưởng của Người, đạo đức cách
mạng quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng, ra sức làm việc cho Đảng, giữ vững kỷ
luật của Đảng; thực hiện tốt đường lối, chính sách của Đảng, đặt lợi ích của Đảng và của nhân dân lên trên,
lên trước lợi ích cá nhân mình, hết lòng hết sức phục vụ nhân dân,v.v.. Do đó, Người nhấn mạnh: “Đảng ta
là một đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần
kiệm liêm chính, chí công vô tư để Đảng thật trong sạch, xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật
trung thành của nhân dân”, để mỗi người rèn mình, phòng và chống những thói tật xấu trong mình, xứng
đáng với vai trò tiền phong.
2. Tiếp tục làm theo những chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Không chỉ chú trọng công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng, để Đảng và cán bộ, đảng viên của Đảng hoàn
thành nhiệm vụ được Tổ quốc nhân dân giao phó, Hồ Chí Minh còn tấm gương đạo đức của người
cộng sản mẫu mực, luôn thống nhất giữa nói và làm. Luôn tận trung với nước, tận hiếu với dân, “cuộc đời
Hồ Chí Minh thực sự là một tấm gương đạo đức và nhân cách thanh cao của người chiến sĩ cách mạng, hết
lòng tận trung với nước, tận hiếu với dân, “gia đình của Người Nhân dân, là Đảng và Tổ quốc. Bởi
lẽ đó, tất thảy điều gì Hồ Chí Minh dạy và làm, thì mọi người đều ngưỡng mộ và làm theo không chút đắn
đo”. Hồ Chí Minh di sản tưởng, đạo đức, phong cách của Người, ý nghĩ, tầm nhìn chiến lược những
quyết sách, hành động của Người không chỉ thuộc về hiện tại mà còn thuộc về tương lai.
lOMoARcPSD| 58797173
Quán triệt những chỉ dẫn của Hồ Chí Minh về xây dựngchỉnh đốn Đảng trong Di chúc, nhất là thực hiện
và coi xây dựng Đảng là một trong 6 nhiệm vụ trọng tâm của nhiệm kỳ (2016-2020) theo tinh thần Đại hội
XII của Đảng: “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính
trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”, trong gần 90 năm qua, nhất
trong hơn 30 năm đổi mới hội nhập, công tác xây dựng chỉnh đốn Đảng luôn được xác định
nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân; là nhiệm vụ của tất cả các tổ chức của đảng và toàn thể cán
bộ, đảng viên. Đó không chỉ nhiệm vụ trọng yếu ở Trung ương, công việc của đội ngũ cán bộ, đảng
viên lãnh đạo, quản lý, người đứng đầu mà đó là trách nhiệm của tất cả các cấp ủy Đảng, cả hệ thống chính
trị và của toàn thể nhân dân.
Trong mọi thời điểm, nhất là ở vào những thời khắc có tính bước ngoặt, công tác xây dựng Đảng được đẩy
mạnh, được tổng kết qua các kỳ Đại hội Đảng toàn quốc được triển khai sâu rộng theo các Nghị quyết
chuyên đề về công tác xây dựng Đảng: Nghị quyết trung ương 6 (lần 2) khóa VIII “Một số vấn đề bản
và cấp bách về công tác xây dựng Đảng hiện nay”; Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI “Một số vấn đề cấp
bách về xây dựng Đảng hiện nay”, Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về “Tăng cường xây dựng, chỉnh
đốn Đảng; ngăn chặn đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn
biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”,v.v.. Thông qua quá trình tự đổi mới chỉnh đốn đó, Đảng được củng
cố, bảo vệ và phát triển, đáp ứng yêu cầu và tình hình nhiệm vụ cách mạng đặt ra; đồng thời, lãnh đạo nhân
dân thực hiện có hiệu quả những nhiệm vụ chính trị, giữ vững ổn định chính trị quốc gia; phát triển kinh tế
- hội, đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước; hoàn thiện các chính ch chế quản
kinh tế, an sinh hội; kiện toàn các tổ chức trong hệ thống chính trị,v.v.. với những bước đi phương
pháp thích hợp. Trong tiến trình đó, Đảng đã khẳng định được vị thế là lực lượng lãnh đạo Nhà nước,
hội và đó chính là kết quả sự nỗ lực phấn đấu không ngừng của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân; trong đó,
có sự đóng góp quan trọng của đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, “công tác xây dựng Đảng còn không ít hạn chế, khuyết
điểm… Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của không ít tổ chức đảng còn thấp, thậm chí nơi mất sức chiến
đấu… Nhiều cán bộ, đảng viên, trong đó có người đứng đầu chưa thể hiện tính tiên phong, gương mẫu; còn
biểu hiện quan liêu, cửa quyền, chưa thực sự sâu sát thực tế, cơ sở. Công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật
đảng chưa đủ sức răn đe, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái…Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo
đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên chưa bị đẩy lùi, mặt, bộ phận còn diễn
biến tinh vi, phức tạp hơn; tham nhũng, lãng phí, tiêu cực vẫn còn nghiêm trọng, tập trung vào số đảng viên
chức vụ trong bộ máy nhà nước”… Bộ phận “mọt dân” đó đã làm mất uy tín, danh dự của Đảng, làm
ảnh hưởng nghiêm trọng đến vai trò lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng và tính tiền phong, gương mẫu của
người đảng viên; làm mục ruỗng bộ máy Đảng, Nhà nước từ bên trong, làm xói mòn lòng tin của nhân dân
vào Đảng các quan công quyền. Nghiêm trọng là, “những hạn chế, khuyết điểm nêu trên làm giảm
sút vai trò lãnh đạo của Đảng; làm tổn thương tình cảm suy giảm niềm tin của nhân dân đối với Đảng,
là một nguy cơ trực tiếp đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ”…
Vì thế, để tăng cường công tác xây dựng chỉnh đốn Đảng; để những trăn trở, tâm nguyện của Hồ Chí
Minh trong Di chúc được thực hiện sinh động trong thực tiễn, trong thời gian tới, cấp ủy các cấp cần tập
trung thực hiện những nhiệm vụ trọng tâm sau:
Thứ nhất, tiếp tục nâng cao nhận thức của cấp ủy các cấp, các ban, ngành chức năng của mỗi cán bộ,
đảng viên về tầm quan trọng của công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng, tập trung thực hiện mục tiêu: “Xây
dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tưởng, tchức đạo đức”. Trong đó, tăng cường
quyết liệt gắn thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng;
lOMoARcPSD| 58797173
ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự
chuyển hóa" trong nội bộ” với Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XII về “Đẩy mạnh học tập và làm
theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”, với các quy định: về những điều đảng viên không được
làm, về nêu gương của đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là Quy định 08-QĐi/TW của Ban Chấp hành Trung
ương về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Uỷ viên Bộ Chính trị, Uỷ viên Ban
thư, Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương. Coi đó là giải pháp đột phá, là điều kiện tiên quyết để làm trong
sạch Đảng, nâng cao sức chiến đấu của Đảng, phòng chống nguy "tự diễn biến", "tự chuyển hóa"
trong nội bộ.
Thứ hai, tăng cường giáo dục chính trị tưởng, đấu tranh bảo vệ, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa
Mác-Lênin, tưởng Hồ Chí Minh; kiên định kiên định mục tiêu độc lập dân tộc chủ nghĩa hội, đường
lối đổi mới cho cán bộ, đảng viên, những cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp, các ngành. Kiên định thực hiện
các nguyên tắc xây dựng Đảng, nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng có
hiệu lực, hiệu quả; đồng thời, giữ vững trận địa tư tưởng của Đảng, giữ vững bản lĩnh chính trị của Đảng,
của tổ chức đảng đội ngũ cán bộ, đảng viên gắn với đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham ô, tham
nhũng, lãng phí, quan liêu, xây dựng cơ chế phòng ngừa sự tha hóa quyền lực, ngăn chặn quan hệ “lợi ích
nhóm”. Thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ, Điều lệ Đảng gắn với phát huy vai trò tiền phong
gương mẫu của cán bộ lãnh đạo, quản lý, người đứng đầu, gắn với khắc phục tình trạng dân chủ, tự phê
bình và phê bình, kiểm tra và giám sát hình thức, nể nang, ngại va chạm,v.v.. để kịp thời phát hiện và ngăn
chặn những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên, củng cố
tăng cường đoàn kết nội bộ.
Thứ ba, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, đổi mới làm phong phú các chuyên trang, chuyên mục, các giải
thưởng báo chí, các tác phẩm văn học nghệ thuật liên quan đến công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng, đến
thực hiện Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XII về “Đẩy mạnh học tập làm theo tưởng, đạo
đức, phong cách Hồ Chí Minh” từ Trung ương xuống đến địa bàn cơ sở. Lựa chọn, xây dựng và nhân rộng
các gương điển hình trong cán bộ, đảng viên, trong nhân dân về học tập làm theo tấm gương đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh; nhân những hạt giống đỏ trong vườn hoa người tốt, việc tốt để tạo sức lan tỏa,
lôi cuốn từ những tấm gương người thực việc thực giản dị trong cuộc sống đời thường mà ý nghĩa nhân văn
lớn lao. Đồng thời, chủ động, kiên quyết linh hoạt đấu tranh với những luận điệu tuyên truyền xuyên
tạc, phản động, góp phần làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của c thế lực thù địch,
thiết thực xây dựng và chỉnh đốn Đảng.
Thứ tư, mỗi cán bộ, đảng viên phải nâng cao đạo đức cách mạng, phòng, chống đấu tranh trừ bỏ chủ
nghĩa cá nhân; khắc phục biểu hiện suy thoái “không chấp hành nghiêm các nguyên tắc tổ chức của Đảng;
sa sút ý chí phấn đấu, không gương mẫu trong công tác; né tránh trách nhiệm, thiếu trách nhiệm, trung bình
chủ nghĩa, làm việc qua loa, đại khái, kém hiệu quả; không còn ý thức hết lòng vì nước, vì dân, không làm
tròn chức trách, nhiệm vụ được giao”. Đặc biệt, phát huy sự gương mẫu, thống nhất giữa nói làm của
đội ngũ n bộ lãnh đạo, quản lý, người đứng đầu trên mọi lĩnh vực, nhất là trong đấu tranh phòng chống
tham ô, tham nhũng, lợi ích nhóm, tư duy nhiệm kỳ, không chấp hành nghiêm các nguyên tắc tổ chức của
Đảng; sa sút ý chí phấn đấu, không gương mẫu trong công tác; không còn ý thức hết lòng vì nước, vì dân,
không làm tròn chức trách, nhiệm vụ được giao… Đồng thời, kiên quyết đưa ra khỏi Đảng những con sâu
mọt tham ô, tham nhũng, v.v.. gây thất thoát tiền bạc và tài sản của nhân dân.
Thứ năm, phát huy hơn nữa vai trò của nhân dân trong giám sát cán bộ, đảng viên, trong xây dựng và chỉnh
đốn Đảng, để “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” và “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân
kiểm tra, giám sát” không chỉ là nằm trong nghị quyết, là khẩu hiệu mà trở thành hiện thực sinh động trong
thực tiễn. Theo đó, mỗi tổ chức sở đảng cán bộ, đảng viên tăng cường hướng về sở, khắc phục
tình trạng quan liêu, không sâu sát cơ sở, thờ ơ, vô cảm, thiếu trách nhiệm trước những khó khăn, bức xúc
lOMoARcPSD| 58797173
đòi hỏi chính đáng của quần chúng nhân dân. Cấp ủy, tổ chức đảng các cấp không những phải tăng
cường kiểm tra, đôn đốc, nắm chắc tình hình địa phương, cơ quan, đơn vị, địa bàn cơ sở, lắng nghe ý kiến
đóng góp của quần chúng để không ngừng nâng cao chất lượng, hiệu quả lãnh đạo, chỉ đạo, thực hiện nhiệm
vụ còn cần phát huy tốt vai trò của các tchức quần chúng, tạo điều kiện để nhân dân các tổ chức
quần chúng thực hiện tốt hơn quyền dân chủ của mình trong cuộc sống, tích cực tham gia xây dựng các t
chức cơ sở Đảng trong sạch, vững mạnh.
Thực tế, đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn: Xây dựng chỉnh đốn lại Đảng yêu cầu khách
quan, tất yếu, công việc nội tại, thường xuyên của Đảng cầm quyền, để “làm cho mỗi đảng viên, mỗi
đoàn viên, mỗi chi bộ đều ra sức làm tròn nhiệm vụ Đảng giao phó cho mình, toàn tâm, toàn ý phục vụ
nhân dân. Làm được như vậy, thì công việc to lớn mấy, khó khăn mấy chúng ta cũng nhất định thắng
lợi”.

Preview text:

lOMoAR cPSD| 58797173
Trường: Đại học Kinh tế Quốc dân
Giảng viên: Nguyễn Thị Hoàn
Họ và tên sinh viên: Trịnh Thị Minh Ngọc Nghành học: Kế toán MSSV: 19221081
Môn học: Lịch sử Đảng Cộng Sản Việt Nam
Bài tập tự luận số 4
Phân tích và chứng minh rằng: Nguyễn Ái Quốc có vai trò vô cùng to lớn trong việc sáng lập Đảng cộng
sản Việt Nam. Để Đảng cộng sản Việt Nam luôn giữ vai trò tiên phong trong mọi thời kỳ cách mạng theo
anh (chị) cần chú ý đến những vấn đề gì? Bài làm
I. Vai trò của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh trong việc sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam:
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam (ngày 03/02/1930) là một tất yếu khách quan từ thực tiễn cuộc đấu
tranh của Nhân dân ta chống sự nô dịch đế quốc; dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin, phù hợp với
quy luật vận động của cách mạng thế giới và sự nghiệp cách mạng nước ta. Đảng ta được thành lập đã đáp
ứng những yêu cầu khách quan và cấp bách của dân tộc là độc lập, tự do và phát triển; là kết quả của nhiều
yếu tố, trong đó có vai trò rất to lớn của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, người thực hiện sứ mệnh
lịch sử sáng lập chính đảng vô sản ở Việt Nam, với những sáng tạo lý luận xuất sắc. Từ đây, cách mạng
Việt Nam có một đảng cách mạng chân chính dẫn đường cho toàn dân đứng lên đánh đổ ách áp bức, bóc
lột của thực dân, phong kiến đem lại độc lập cho dân tộc, ấm no, tự do, hạnh phúc cho Nhân dân.
Công lao của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh trong việc tìm kiếm và lựa chọn con đường cứu
nước đúng đắn cho dân tộc ta
1. Công lao của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh trong việc tìm kiếm và lựa chọn con đường
cứu nước đúng đắn cho dân tộc ta
Từ cuối thế kỷ XIX, do sự bất lực của triều đình nhà Nguyễn, Việt Nam từ một quốc gia độc lập, thống nhất
có chủ quyền bị thực dân Pháp xâm lược và biến thành thuộc địa. Với truyền thống yêu nước và tinh thần
quật cường dân tộc, nhiều phong trào yêu nước đã diễn ra ngay khi đất nước đối đầu với họa ngoại xâm,
triều Nguyễn dần từ bỏ chủ quyền quốc gia cho thực dân Pháp, tiêu biểu như khởi nghĩa Ba Đình, khởi
nghĩa Bãi Sậy, khởi nghĩa Hương Khê, phong trào Cần Vương, khởi nghĩa Yên Thế, phong trào Đông Du,
Đông Kinh Nghĩa Thục, Duy Tân, phong trào chống thuế ở Trung Kỳ… Tuy nhiên, các cuộc khởi nghĩa và
phong trào yêu nước đó đều đi đến thất bại, và nguyên nhân chính là thiếu lực lượng lãnh đạo, nhất là chưa
có một tổ chức lãnh đạo đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc. Sự thất bại của các
phong trào yêu nước thể hiện sự khủng hoảng, bế tắc của các phương cách cứu nước truyền thống Việt Nam
trước chuyển biến của thời cuộc. Song đó lại là động lực thôi thúc ý chí vươn lên sáng tạo của con người
Việt Nam, đồng thời đặt ra yêu cầu cấp bách phải có một ánh sáng mới soi đường, dẫn dắt.
Trong bối cảnh đó, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh với lòng yêu nước, thương dân sâu sắc, với tầm
nhìn chiến lược và phương pháp tư duy sáng tạo đã sớm nhận thấy những bất cập và bế tắc trong con đường
cứu nước của thế hệ cha anh đang tiến hành và yêu cầu bức thiết đối với dân tộc là phải tìm kiếm con đường
cách mạng mới. Và Người đã đảm đương trọng trách đó.
Trải qua gần 10 năm nghiên cứu, khảo nghiệm, học tập, tìm tòi, hoạt động không ngừng ở nhiều quốc gia,
ở hầu khắp các châu lục, đến tháng 7/1920, lần đầu tiên Người đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận
cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I.Lênin đăng trên báo Nhân Đạo (L’Humanite), số ra
ngày 16 và 17/7/1920. Luận cương lập tức thu hút sự chú ý đặc biệt và tạo ra bước chuyển biến căn bản
trong nhận thức tư tưởng, giúp lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đi đến khẳng định: “Chỉ có chủ nghĩa cộng sản lOMoAR cPSD| 58797173
mới cứu nhân loại, đem lại cho mọi người không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc tự do, bình đẳng, bác
ái, đoàn kết, ấm no trên quả đất, việc làm cho mọi người, niềm vui, hòa bình, hạnh phúc”. Người tìm thấy
ở đó con đường đúng đắn để giải phóng đất nước khỏi ách thực dân, cứu dân cứu nước là theo con đường
cách mạng vô sản, con đường có mục đích cao cả là giải phóng dân tộc để tiến tới giải phóng con người.
Sau này Người viết: Luận cương của Lênin đã làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết
bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to lên như đang nói trước
quần chúng đông đảo: “Hỡi đồng bào bị đày đọa và đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con
đường giải phóng cho chúng ta! Từ đó tôi hoàn toàn tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba”. Tại Đại hội
đại biểu Đảng Xã hội Pháp lần thứ XVIII (tháng 12/1920), Nguyễn Ái Quốc bỏ phiếu tán thành Quốc tế
Cộng sản do V.I.Lênin sáng lập và tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp, trở thành một trong những
người sáng lập Đảng Cộng sản Pháp, và cũng là người cộng sản đầu tiên của Việt Nam.
Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trở thành người Việt Nam đầu tiên, nghiên cứu, tổng kết, tìm ra bản chất của các
học thuyết, các cuộc cách mạng trên thế giới, chắt lọc, vận dụng và phát triển cho phù hợp với dân tộc mình.
Năm 1927, trong tác phẩm Đường Kách mệnh, Người khẳng định: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa
nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”. Về sự cần
thiết phải có Đảng để lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Người chỉ rõ: “Trước hết phải có Đảng cách mệnh”,
và “Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy. Đảng
muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy.
Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam”.
Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã nhận thức sâu sắc sự gắn bó mật thiết giữa giải phóng dân tộc và giải phóng
giai cấp, giải phóng xã hội và giải phóng con người; sớm nhận thức rõ, chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa dân
tộc chân chính là một động lực lớn của cách mạng và kết hợp tài tình chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa
Mác - Lênin - học thuyết cách mạng tiên tiến nhất của thời đại. Chỉ có kết hợp chủ nghĩa Mác Lênin với
phong trào công nhân và phong trào yêu nước mới có thể xây dựng được một Đảng cách mạng chân chính,
đảm bảo cho cách mạng phát triển đúng hướng và đi đến thắng lợi.
2. Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào trong nước và chuẩn bị
điều kiện thành lập Đảng
Bằng nhiều hoạt động, trong giai đoạn 1921-1929, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã tích cực truyền bá chủ nghĩa
Mác - Lênin vào Việt Nam, chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và tổ chức cho sự ra đời của Đảng: -
Về chính trị: Người tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào trong nước; phác thảo những
vấn đề cơ bản về đường lối cứu nước đúng đắn của cách mạng Việt Nam, thể hiện tập trung trong những
bài giảng của Người cho những cán bộ cốt cán của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên tại Quảng Châu
(Trung Quốc). Đầu năm 1927, tập Đề cương bài giảng do Nguyễn Ái Quốc biên soạn làm tài liệu huấn
luyện chính trị ở Quảng Châu (1925-1927) được Bộ Tuyên truyền của Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức
ở Á Đông do Người sáng lập, được xuất bản thành sách với nhan đề Đường Kách mệnh. Tác phẩm Đường
Kách mệnh được bí mật đưa về trong nước và sớm trở thành tài liệu căn bản để tuyên truyền giác ngộ chính
trị theo chủ nghĩa Mác - Lênin và hướng dẫn các mặt hoạt động của Hội Thanh niên. Trên thực tế, Đường
Kách mệnh đã có ý nghĩa lịch sử rất to lớn đối với phong trào cách mạng trong cả nước, đặc biệt tại Thành
phố Sài Gòn và ở Nam Kỳ, đã chuẩn bị các nhân tố đảm bảo cho sự ra đời của một Đảng Cộng sản để gánh
vác nhiệm vụ lịch sử trọng đại là lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Tác phẩm chỉ ra vấn đề then chốt có tác
dụng lớn không chỉ đối với Việt Nam, mà còn đối với cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân các
nước thuộc địa Phương Đông, đó là: cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, chủ yếu là công nông, vì vậy
phải tổ chức quần chúng lại; cách mạng muốn thành công phải có một Đảng Cộng sản lãnh đạo; phải có lOMoAR cPSD| 58797173
đường lối và phương pháp cách mạng đúng; cách mạng giải phóng dân tộc phải liên hệ chặt chẽ với cách
mạng vô sản thế giới… -
Về tư tưởng: lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam
nhằm làm chuyển biến nhận thức của quần chúng, đặc biệt là giai cấp công nhân, làm cho hệ tư tưởng Mác
Lênin từng bước chiếm ưu thế trong đời sống xã hội, làm chuyển biến mạnh mẽ phong trào yêu nước xích
dần đến lập trường của giai cấp công nhân. Nội dung truyền bá là những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa
Mác - Lênin được cụ thể hóa cho phù hợp với trình độ của các giai tầng trong xã hội. Những bài viết, bài
giảng với lời văn giản dị, nội dung thiết thực đã nhanh chóng được truyền thụ đến quần chúng. Đồng thời,
Người đã vạch trần bản chất xấu xa, tội ác của thực dân Pháp đối với nhân dân thuộc địa, Nhân dân Việt
Nam. Trong tác phẩm Đường Kách mệnh, Người tố cáo thực dân Pháp đã bắt dân bản xứ phải đóng “thuế
máu” cho chính quốc... để “phơi thây trên chiến trường châu Âu”; “đày đọa” phụ nữ, trẻ em thuộc địa; các
thống sứ, quan lại thực dân “độc ác như một bầy thú dữ”... Tác phẩm đã “hướng các dân tộc bị áp bức” đi
theo con đường Cách mạng Tháng Mười Nga, tiêu diệt “hai cái vòi của con đỉa đế quốc” - một “vòi” bám
vào giai cấp vô sản ở chính quốc, một “vòi” bám vào nhân dân thuộc địa và đề ra cho Nhân dân Việt Nam
con đường cách mạng vô sản theo chủ nghĩa Mác - Lênin. -
Về tổ chức: lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã dày công chuẩn bị về mặt tổ chức cho sự ra đời của chính
đảng vô sản của giai cấp công nhân Việt Nam. Đó là huấn luyện, đào tạo cán bộ, từ các lớp huấn luyện do
Người tiến hành ở Quảng Châu (Trung Quốc) để vừa chuẩn bị cán bộ, vừa truyền bá chủ nghĩa Mác Lênin.
Năm 1925, Nguyễn Ái Quốc thành lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên, ra báo Thanh niên, mở lớp
đào tạo cán bộ cách mạng cho 75 đồng chí. Hội Việt Nam cách mạng thanh niên đã giúp cho những người
Việt Nam yêu nước dễ tiếp thu tư tưởng cách mạng của Người, phản ánh tư duy sáng tạo và là thành công
của Người trong chuẩn bị về mặt tổ chức cho Đảng ra đời.
Trong những năm 1928-1929, phong trào đấu tranh cách mạng của Nhân dân ta tiếp tục phát triển mạnh về
số lượng và chất lượng. Chủ nghĩa Mác - Lênin được lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và những chiến sĩ tiên phong
truyền bá về trong nước, cùng với phong trào “vô sản hóa” làm chuyển biến phong trào công nhân, giác
ngộ và tổ chức họ đấu tranh cách mạng một cách tự giác. Thông qua phong trào “vô sản hóa”, lớp lớp thanh
niên yêu nước được rèn luyện trong thực tiễn, giác ngộ lập trường giai cấp công nhân sâu sắc, hiểu rõ
nguyện vọng, lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, thúc đẩy phong trào công nhân và phong
trào yêu nước phát triển mạnh mẽ, tiến tới sự ra đời của các tổ chức cộng sản đầu tiên ở Việt Nam, tạo điều
kiện chín muồi và hợp quy luật cho sự ra đời của Đảng.
3. Công lao của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trong việc chủ trì hợp nhất các tổ chức cộng sản thành
Đảng Cộng sản Việt Nam
Từ giữa năm 1929 đến đầu năm 1930, trong bối cảnh tổ chức Hội Việt nam cách mạng thanh niên có sự
phân hóa và mất dần vai trò lãnh đạo cách mạng, ở Việt Nam chỉ trong thời gian ngắn lần lượt xuất hiện ba
tổ chức cộng sản là Đông Dương Cộng sản Đảng (tháng 6/1929), An Nam Cộng sản Đảng (tháng 11/1929)
và Đông Dương Cộng sản Liên đoàn (tháng 01/1930). Điều đó phản ánh xu thế tất yếu của phong trào đấu
tranh cách mạng ở Việt Nam. Song sự tồn tại của ba tổ chức cộng sản không tránh khỏi phân tán về lực
lượng và thiếu thống nhất về tổ chức. Yêu cầu cấp thiết đặt ra là chấm dứt hiện tượng biệt phái, chia rẽ giữa
các nhóm cộng sản, phải thống nhất các tổ chức cộng sản thành một chính đảng duy nhất ở Việt Nam.
Nhiệm vụ đó đặt lên vai Nguyễn Ái Quốc, người duy nhất có đủ năng lực và uy tín đáp ứng yêu cầu đó của
lịch sử: thống nhất các tổ chức cộng sản thành Đảng Cộng sản duy nhất ở Việt Nam.
Năm 1929, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đang hoạt động ở Xiêm (Thái Lan), mặc dù chưa nhận được chỉ thị
của Quốc tế Cộng sản về yêu cầu thống nhất các tổ chức cộng sản ở Việt Nam. Song với sự nhạy bén về
chính trị, sự chủ động cao, thực hiện trọng trách lịch sử đối với dân tộc, với vai trò, trách nhiệm trong Quốc lOMoAR cPSD| 58797173
tế Cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đã chủ động triệu tập Hội nghị hợp nhất, thực hiện sứ mệnh lịch sử của người
sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Từ ngày 06/01/1930 đến ngày 07/02/1930, tại Cửu Long Hồng Kông
(Trung Quốc), Hội nghị hợp nhất được tiến hành dưới sự chủ trì của Nguyễn Ái Quốc. Tham dự Hội nghị
có các đại biểu của Đông Dương Cộng sản Đảng (02 đại biểu) và An Nam Cộng sản Đảng (02 đại biểu) và
02 đại biểu hải ngoại (Hồ Tùng Mậu và Lê Hồng Sơn). Còn Đông Dương Cộng sản Liên đoàn đã thành lập,
song chưa có liên hệ, nên chưa được triệu tập đại biểu đến dự (đến ngày 24/02/1930, Ban Chấp hành Trung
ương lâm thời đã họp quyết định chấp nhận đơn xin gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam của Đông Dương
Cộng sản Liên đoàn. Từ đây, cả ba tổ chức cộng sản Việt Nam đã thống nhất trọn vẹn vào một Đảng Cộng
sản duy nhất). Trong Hội nghị hợp nhất, đồng chí Nguyễn Ái Quốc đề ra 5 điểm lớn cần thảo luận và thống
nhất, trước hết là tự phê bình và phê bình: “Bỏ mọi thành kiến xung đột cũ, thành thật hợp tác để thống
nhất các nhóm cộng sản Đông Dương”. Với sự nhất trí cao, Hội nghị đặt tên Đảng là Đảng Cộng sản Việt
Nam và thông qua Chánh cương vắn tắt của Đảng, Sách lược vắn tắt của Đảng, Điều lệ vắn tắt của Đảng,
Chương trình tóm tắt của Đảng do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc soạn thảo. Các văn kiện đã trở thành Cương
lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng.
Chánh cương vắn tắt của Đảng do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc soạn thảo, đã thể hiện rõ con đường giải phóng
và phát triển của dân tộc Việt Nam là “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã
hội cộng sản” (tức cách mạng dân tộc dân chủ), thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và người cày có ruộng.
Nhiệm vụ của cách mạng tư sản dân quyền và thổ địa cách mạng, tức cách mạng dân tộc, dân chủ, trong đó
giành độc lập dân tộc được đặt ở vị trí trên hết. Ở Việt Nam, trước hết phải làm “dân tộc cách mệnh”, đánh
đổ sự cai trị, nô dịch dân tộc của chủ nghĩa đế quốc, giành lại quyền bình đẳng dân tộc, tự do cho dân nước
mình: “Dân tộc cách mệnh thì chưa phân giai cấp, nghĩa là sĩ, nông, công, thương đều nhất trí chống lại cường quyền”.
Trong Chánh cương vắn tắt, Người đã thực hiện ba cuộc giải phóng cách mạng vô sản ở một nước thuộc
địa như nước ta là: giải phóng dân tộc phải tiến hành trước tiên, tạo tiền đề giải phóng giai cấp, giải phóng
xã hội. Nói một cách khác giải phóng, giành độc lập dân tộc là bước đi đầu tiên của cuộc cách mạng vô sản
ở nước thuộc địa, ở Việt Nam. Đây là một luận điểm cơ bản, chính yếu trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên
của Đảng. Đồng thời, cũng là đóng góp đặc sắc, bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin trên phương
diện lý luận về các mô hình vận động, phát triển của cuộc cách mạng vô sản.
Trải qua 93 năm, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh
sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện, sự nghiệp cách mạng nước ta đã giành những thắng lợi vĩ đại, có ý nghĩa
lịch sử và thời đại. Nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự dẫn dắt của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đoàn
kết, đồng lòng đánh thắng các thế lực thù địch, những chiến công đã đi vào lịch sử như Cách mạng Tháng
Tám năm 1945, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954), cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ
(1954-1975). Đặc biệt, những thành tựu của công cuộc đổi mới gần 37 năm qua, càng chứng minh cho sự
lựa chọn đúng đắn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta và khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam. Những thắng lợi to lớn đó đã chứng minh một chân lý: “Sự lãnh đạo đúng đắn của
Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam”.
Từ thực tiễn phong phú của công cuộc đổi mới và kết quả nghiên cứu lý luận, nhận thức về chủ nghĩa xã
hội, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng sáng tỏ hơn. Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã rút ra 8 đặc trưng của xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam, 8 phương hướng cơ bản xây dựng chủ nghĩa xã hội và 8 mối quan hệ lớn (Nghị
quyết Đại hội XIII của Đảng đã bổ sung thành 10 mối quan hệ lớn) cần nắm vững và giải quyết tốt, trong
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Công cuộc đổi mới không chỉ làm biến đổi sâu sắc diện mạo đất
nước, cuộc sống của Nhân dân mà còn mang lại nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội. lOMoAR cPSD| 58797173
Ngày nay, những thành tựu to lớn qua những năm đổi mới đã làm cho thế và lực của nước ta được nâng cao
trên trường quốc tế. Đúng như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã phát biểu tại Lễ khai mạc Đại hội lần thứ
XIII của Đảng: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay.
Những thành tựu đó là sản phẩm kết tinh sức sáng tạo, là kết quả của cả một quá trình nỗ lực phấn đấu bền
bỉ, liên tục qua nhiều nhiệm kỳ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta; tiếp tục khẳng định con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội của chúng ta là đúng đắn, phù hợp với quy luật khách quan, với thực tiễn Việt Nam và xu
thế phát triển của thời đại”. Từ đó, chúng ta càng thấy công lao to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với
sự nghiệp cách mạng của dân tộc ta; mỗi cán bộ, đảng viên luôn tự hào có Đảng lãnh đạo, càng ra sức học
tập để thấm nhuần đạo đức cách mạng của Người, xây dựng bản lĩnh chính trị vững vàng trên cơ sở kiên
định và không ngừng vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh phù hợp
với thực tiễn Việt Nam trong từng giai đoạn. Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; tích
cực nghiên cứu lý luận, tổng kết kinh nghiệm lãnh đạo của Đảng, học tập tư tưởng, đạo đức và phong cách
của Người để vận dụng vào giải quyết những vấn đề thực tiễn trong công cuộc đổi mới đất nước; đồng thời,
đấu tranh chống các quan điểm sai trái phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng, góp phần tích cực hiện thực
hóa các nghị quyết của Đảng vào trong cuộc sống.
II. Để Đảng luôn xứng đáng với vai trò tiền phong
Bình sinh, Hồ Chí Minh đặc biệt chăm lo công tác xây dựng Đảng, để Đảng Cộng sản Việt Nam “phải là
một đảng to lớn, mạnh mẽ, chắc chắn, trong sạch, cách mạng triệt để”. Nửa thế kỷ sau khi Người đi xa,
những trăn trở, tâm huyết và chỉ dẫn của Người: “Việc cần phải làm trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng” và
“phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành
của nhân dân” trong bản Di chúc để lại cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta vẫn vẹn nguyên giá trị thời sự và ý nghĩa lớn lao.
1. Đảng phải được xây dựng theo nguyên tắc Mác Xít
Hồ Chí Minh từng nói, Đảng Cộng sản Việt Nam là một tổ chức thống nhất của những người con ưu tú của
giai cấp và dân tộc, luôn vì lợi ích cảu Tổ quốc và nhân dân mà phụng sự, song Đảng cũng là một thực thể
trong xã hội, cũng là những con người với tất cả điểm ưu và nhược, nên không phải lúc nào và bao giờ cũng
giữ đúng và giữ được vai trò tiền phong, gương mẫu. Hơn nữa, trong tiến trình vận động và phát triển, một
dân tộc, một Đảng và mỗi con người ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn và quy tụ được quần chúng,
song không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ngợi ca, nếu suy thoái về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Vì thế, Người luôn chú trọng công tác
xây dựng và chỉnh đốn Đảng, không ngừng nâng cao bản lĩnh, trí tuệ và sức chiến đấu của Đảng, của đội
ngũ cán bộ, đảng viên trên cơ sở tuân thủ các nguyên tắc xây dựng một chính Đảng Mácxit chân chính;
đồng thời, coi đó là quy luật tất yếu, là sự vận động và phát triển của Đảng trong tiến trình lãnh đạo cách
mạng Việt Nam, để Đảng Cộng sản Việt Nam trở thành và giữ vững vị trí là Đảng duy nhất lãnh đạo sự
nghiệp cách mạng của nhân dân ta.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh: 1) Đảng chỉ có thể là một tổ chức chắc chắn, vững mạnh, luôn là đội tiên
phong của giai cấp và dân tộc; chỉ giành và giữ vững vai trò độc quyền lãnh đạo cách mạng Việt Nam khi
“chủ nghĩa của Đảng là chủ nghĩa Mác-Lênin, mỗi đảng viên đều phải nghiên cứu… Tư tưởng của Đảng là
tư tưởng của giai cấp công nhân, nó đấu tranh cho lợi ích của toàn dân. Vì vậy, trong Đảng không thể có
những tư tưởng, lập trường và tác phong trái với tư tưởng, lập trường và tác phong của giai cấp công
nhân…Đảng có kỷ luật rất nghiêm khắc, tất cả đảng viên đều phải tuân theo. Tư tưởng, chính trị và tổ chức
của Đảng đều phải thống nhất. Trong Đảng không thể có những phần tử lạc hậu và đầu cơ”; đồng thời,
thường xuyên, liên tục tự đổi mới và chỉnh đốn. 2) Đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng chỉ có thể hoàn
thành trọng trách vừa là người lãnh đạo vừa là người đầy tớ của nhân dân khi “kiên quyết phục tùng sự lãnh lOMoAR cPSD| 58797173
đạo tập trung của Đảng. Trong Đảng không thể có những phần tử hèn nhát lung lay”; đồng thời, nỗ lực
“toàn tâm toàn lực phụng sự lợi ích của nhân dân, phải làm gương mẫu trong mọi công tác”. Đó là trách
nhiệm kép, vừa vinh dự vừa khó khăn, mà muốn xứng đáng, Đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng
phải tuân thủ nghiêm ngặt các nguyên tắc xây dựng một Đảng Mácxít.
Một là, trong bất cứ thời điểm nào, Đảng cũng phải “tổ chức theo nguyên tắc dân chủ tập trung. Nghĩa là:
có Đảng chương thống nhất, kỷ luật thống nhất, cơ quan lãnh đạo thống nhất. Cá nhân phải phục tùng đoàn
thể, số ít phải phục tùng số nhiều, cấp dưới phải phục tùng cấp trên, địa phương phải phục tùng Trung
ương”. Dân chủ và tập trung phải luôn đi đôi với nhau, có mối quan hệ khăng khít với nhau và đó là hai vế
của một nguyên tắc. Đây là nguyên tắc rường cột, quan trọng nhất để xây dựng Đảng, nhằm phát huy quyền
làm chủ của đảng viên, tạo nên sức mạnh tổng hợp của tổ chức, bảo đảm cho quá trình thực hiện dân chủ
được đúng hướng; đảm bảo cho kỷ luật của Đảng được thực thi nghiêm túc; và khi đó, kỷ luật chính là
phương tiện để bảo vệ dân chủ, bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi thành viên trong tổ chức. Vì thế, Người
dặn trong Di chúc, “trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi” để không chỉ phát huy quyền làm chủ của đảng
viên trong tất cả các hoạt động của Đảng, để mọi đảng viên được bày tỏ ý kiến của mình mà còn góp phần
phòng, chống các biểu hiện chuyên quyền, độc đoán, hách dịch, chụp mũ, trù dập và những biểu hiện dân
chủ quá trớn, những hiện tượng vì “sợ” mất dân chủ mà theo đuôi quần chúng trong công tác lãnh đạo và chỉ đạo thực tiễn.
Hai là, Đảng luôn phải thực thi nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Theo Hồ Chí Minh, “ý nghĩa
của tập thể lãnh đạo rất giản đơn, chân lý của nó rất rõ rệt. Tục ngữ có câu: “Khôn bầy hơn khôn độc” là ý
nghĩ đó?”, vì một người dù khôn ngoan tài giỏi mấy, dù nhiều kinh nghiệm đến đâu, cũng không thể xem
xét và giải quyết tốt tất cả mọi mặt của một vấn đề. Đồng thời, “nếu không có cá nhân phụ trách thì sẽ sinh
cái tệ người này ủy cho người kia, người kia ủy cho người nọ, kết quả là không ai thi hành. Như thế thì việc
gì cũng không xong”. Hai vế của nguyên tắc này phải luôn đi đôi với nhau, nhằm khắc phục những biểu
hiện độc đoán, chuyên quyền của người đứng đầu và cả những biểu hiện dựa dẫm, ỷ lại tập thể, không quyết
đoán, không dám chịu trách nhiệm khi cần quyết định những vấn đề quan trọng của những cán bộ thiếu bản
lĩnh, thiếu năng lực lãnh đạo,v.v..
Ba là, Đảng Cộng sản Việt Nam là một bộ phận trong hệ thống chính trị nhưng là lực lượng lãnh đạo, là
linh hồn của khối đại đoàn kết toàn dân, cho nên “sự đoàn kết trong Đảng là quan trọng hơn bao giờ hết,
nhất là sự đoàn kết chặt chẽ giữa các cán bộ lãnh đạo”. Trên tinh thần tuyệt đối không thỏa hiệp với những
xu hướng bè phái, coi sự chia rẽ là tội ác lớn nhất đối với Đảng, Hồ Chí Minh nhấn mạnh: Đoàn kết là là
một truyền thống quý báu và “đoàn kết là một lực lượng vô địch của chúng ta để khắc phục khó khăn, giành
lấy thắng lợi”. Bởi “đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta”, được coi là
nguyên tắc cơ bản trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; là bảo đảm đầu tiên và thường xuyên cho sự
vững mạnh và nâng cao sức chiến đấu của tổ chức Đảng; tạo nên sức mạnh thống nhất trong ý chí và hành
động của Đảng, nên Hồ Chí Minh căn dặn: “Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn
sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”. Theo đó, mọi cán bộ, đảng viên phải
thường xuyên củng cố khối đoàn kết, thống nhất trong Đảng trên cơ sở đường lối, chủ trương và những
nguyên tắc sinh hoạt Đảng; được thể hiện trong nhận thức và hành động, trong mối quan hệ giữa cấp trên
và cấp dưới, nhất quán giữa lời nói và việc làm; coi đó là cơ sở để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Bốn là, một Đảng cách mạng chân chính, muốn xứng đáng với vị thế tiền phong, thì phải “thường xuyên
và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất
của Đảng. Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau”. Tự phê bình và phê bình là cuộc đấu tranh giữa giữa
điều tốt và điều xấu, giữa cái đúng và cái sai trong bản thân mỗi cán bộ, đảng viên và tổ chức Đảng, để giúp lOMoAR cPSD| 58797173
nhau sửa chữa khuyết điểm và tiến bộ, để sửa đổi cách làm việc cho tốt hơn, đúng hơn, “cốt đoàn kết và
thống nhất nội bộ”, nên khi tiến hành phải kiên quyết, ráo riết, triệt để, thật thà, không nể nang, không thêm
bớt và phải được thực hiện trên tình đồng chí thương yêu lẫn nhau. Hồ Chí Minh coi tự phê bình và phê
bình là thang thuốc hay nhất, cần phải được tiến hành thường xuyên, nghiêm túc trên tinh thần “các cơ
quan, các cán bộ, các đảng viên, mỗi người, mỗi ngày phải thiết thực tự kiểm điểm và kiểm điểm và kiểm
điểm đồng chí mình. Hễ thấy khuyết điểm phải kiên quyết tự sửa chữa và giúp đồng chí mình sửa chữa.
Phải như thế Đảng mới chóng phát triển, công việc mới chóng thành công”, chứ không chờ khi có việc mới
tiến hành, có khuyết điểm mới phạt... Thực hiện đúng và tốt nguyên tắc quan trọng này một cách dân chủ,
công khai, bình đẳng trong sinh hoạt Đảng theo phương châm: cấp trên và cán bộ lãnh đạo phải tự phê bình
nghiêm túc, phải chân thành tiếp thu ý kiến phê bình của đồng chí mình và cấp dưới; đồng thời, phải động
viên cấp dưới và quần chúng phê bình tổ chức đảng và đảng viên chân thành, triệt để sẽ góp phần phát huy
vai trò, khả năng sáng tạo, trách nhiệm của mỗi cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân trong công tác
xây dựng, chỉnh đốn Đảng.
Năm là, Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Đảng ta đại biểu cho lợi ích chung của giai cấp công nhân, của toàn
thể nhân dân lao động, chứ không mưu cầu lợi ích riêng của một nhóm người nào, của cá nhân nào”. Luôn
đặt lợi ích quốc gia, dân tộc lên trên hết, trước hết, sự thống nhất lợi ích giữa Đảng với nhân dân chính là ở
vị thế: Đảng vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ trung thành của dân. Cho nên, tăng cường mối quan
hệ mật thiết giữa Đảng và nhân dân là một yêu cầu tất yếu, là nhu cầu tự thân của Đảng và một nguyên tắc
để xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, để nhân nguồn sức mạnh nội lực của Đảng. Trong đó, đội ngũ
cán bộ, đảng viên - những người đem chính sách của Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu
rõ và thi hành phải luôn xứng đáng là “công bộc” của nhân dân trên tinh thần: mỗi người trong mọi mặt
công tác phải luôn đặt lợi ích của nhân dân lên trên hết, phải liên hệ chặt chẽ với nhân dân; việc gì cũng
bàn với nhân dân, giải thích cho nhân dân hiểu rõ, sẵn sàng học hỏi nhân dân và “sẵn lòng cầu tiến bộ, sẵn
chí phụng sự nhân dân”, để nhân dân tin tưởng, yêu mến và gắn bó.
Sáu là, không chỉ khẳng định vai trò, ý nghĩa quyết định của đạo đức cách mạng, coi đạo đức là cái gốc của
người cách mạng, là cơ sở nền tảng của một đảng cầm quyền, Hồ Chí Minh còn đặc biệt quan tâm đến việc
giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên. Trong tư tưởng của Người, đạo đức cách
mạng là quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng, ra sức làm việc cho Đảng, giữ vững kỷ
luật của Đảng; thực hiện tốt đường lối, chính sách của Đảng, đặt lợi ích của Đảng và của nhân dân lên trên,
lên trước lợi ích cá nhân mình, hết lòng hết sức phục vụ nhân dân,v.v.. Do đó, Người nhấn mạnh: “Đảng ta
là một đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần
kiệm liêm chính, chí công vô tư để Đảng thật trong sạch, xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật
trung thành của nhân dân”, để mỗi người rèn mình, phòng và chống những thói hư tật xấu trong mình, xứng
đáng với vai trò tiền phong.
2. Tiếp tục làm theo những chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Không chỉ chú trọng công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng, để Đảng và cán bộ, đảng viên của Đảng hoàn
thành nhiệm vụ được Tổ quốc và nhân dân giao phó, Hồ Chí Minh còn là tấm gương đạo đức của người
cộng sản mẫu mực, luôn thống nhất giữa nói và làm. Luôn tận trung với nước, tận hiếu với dân, “cuộc đời
Hồ Chí Minh thực sự là một tấm gương đạo đức và nhân cách thanh cao của người chiến sĩ cách mạng, hết
lòng tận trung với nước, tận hiếu với dân, mà “gia đình của Người là Nhân dân, là Đảng và Tổ quốc. Bởi
lẽ đó, tất thảy điều gì Hồ Chí Minh dạy và làm, thì mọi người đều ngưỡng mộ và làm theo không chút đắn
đo”. Hồ Chí Minh và di sản tư tưởng, đạo đức, phong cách của Người, ý nghĩ, tầm nhìn chiến lược và những
quyết sách, hành động của Người không chỉ thuộc về hiện tại mà còn thuộc về tương lai. lOMoAR cPSD| 58797173
Quán triệt những chỉ dẫn của Hồ Chí Minh về xây dựng và chỉnh đốn Đảng trong Di chúc, nhất là thực hiện
và coi xây dựng Đảng là một trong 6 nhiệm vụ trọng tâm của nhiệm kỳ (2016-2020) theo tinh thần Đại hội
XII của Đảng: “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính
trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”, trong gần 90 năm qua, nhất
là trong hơn 30 năm đổi mới và hội nhập, công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng luôn được xác định là
nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân; là nhiệm vụ của tất cả các tổ chức của đảng và toàn thể cán
bộ, đảng viên. Đó không chỉ là nhiệm vụ trọng yếu ở Trung ương, là công việc của đội ngũ cán bộ, đảng
viên lãnh đạo, quản lý, người đứng đầu mà đó là trách nhiệm của tất cả các cấp ủy Đảng, cả hệ thống chính
trị và của toàn thể nhân dân.
Trong mọi thời điểm, nhất là ở vào những thời khắc có tính bước ngoặt, công tác xây dựng Đảng được đẩy
mạnh, được tổng kết qua các kỳ Đại hội Đảng toàn quốc và được triển khai sâu rộng theo các Nghị quyết
chuyên đề về công tác xây dựng Đảng: Nghị quyết trung ương 6 (lần 2) khóa VIII “Một số vấn đề cơ bản
và cấp bách về công tác xây dựng Đảng hiện nay”; Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI “Một số vấn đề cấp
bách về xây dựng Đảng hiện nay”, Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về “Tăng cường xây dựng, chỉnh
đốn Đảng; ngăn chặn đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn
biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”,v.v.. Thông qua quá trình tự đổi mới và chỉnh đốn đó, Đảng được củng
cố, bảo vệ và phát triển, đáp ứng yêu cầu và tình hình nhiệm vụ cách mạng đặt ra; đồng thời, lãnh đạo nhân
dân thực hiện có hiệu quả những nhiệm vụ chính trị, giữ vững ổn định chính trị quốc gia; phát triển kinh tế
- xã hội, đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước; hoàn thiện các chính sách và cơ chế quản lý
kinh tế, an sinh xã hội; kiện toàn các tổ chức trong hệ thống chính trị,v.v.. với những bước đi và phương
pháp thích hợp. Trong tiến trình đó, Đảng đã khẳng định được vị thế là lực lượng lãnh đạo Nhà nước, xã
hội và đó chính là kết quả sự nỗ lực phấn đấu không ngừng của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân; trong đó,
có sự đóng góp quan trọng của đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, “công tác xây dựng Đảng còn không ít hạn chế, khuyết
điểm… Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của không ít tổ chức đảng còn thấp, thậm chí có nơi mất sức chiến
đấu… Nhiều cán bộ, đảng viên, trong đó có người đứng đầu chưa thể hiện tính tiên phong, gương mẫu; còn
biểu hiện quan liêu, cửa quyền, chưa thực sự sâu sát thực tế, cơ sở. Công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật
đảng chưa đủ sức răn đe, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái…Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo
đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên chưa bị đẩy lùi, có mặt, có bộ phận còn diễn
biến tinh vi, phức tạp hơn; tham nhũng, lãng phí, tiêu cực vẫn còn nghiêm trọng, tập trung vào số đảng viên
có chức vụ trong bộ máy nhà nước”… Bộ phận “mọt dân” đó đã làm mất uy tín, danh dự của Đảng, làm
ảnh hưởng nghiêm trọng đến vai trò lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng và tính tiền phong, gương mẫu của
người đảng viên; làm mục ruỗng bộ máy Đảng, Nhà nước từ bên trong, làm xói mòn lòng tin của nhân dân
vào Đảng và các cơ quan công quyền. Nghiêm trọng là, “những hạn chế, khuyết điểm nêu trên làm giảm
sút vai trò lãnh đạo của Đảng; làm tổn thương tình cảm và suy giảm niềm tin của nhân dân đối với Đảng,
là một nguy cơ trực tiếp đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ”…
Vì thế, để tăng cường công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng; để những trăn trở, tâm nguyện của Hồ Chí
Minh trong Di chúc được thực hiện sinh động trong thực tiễn, trong thời gian tới, cấp ủy các cấp cần tập
trung thực hiện những nhiệm vụ trọng tâm sau:
Thứ nhất, tiếp tục nâng cao nhận thức của cấp ủy các cấp, các ban, ngành chức năng và của mỗi cán bộ,
đảng viên về tầm quan trọng của công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng, tập trung thực hiện mục tiêu: “Xây
dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức”. Trong đó, tăng cường và
quyết liệt gắn thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; lOMoAR cPSD| 58797173
ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự
chuyển hóa" trong nội bộ” với Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XII về “Đẩy mạnh học tập và làm
theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”, với các quy định: về những điều đảng viên không được
làm, về nêu gương của đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là Quy định 08-QĐi/TW của Ban Chấp hành Trung
ương về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Uỷ viên Bộ Chính trị, Uỷ viên Ban Bí
thư, Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương. Coi đó là giải pháp đột phá, là điều kiện tiên quyết để làm trong
sạch Đảng, nâng cao sức chiến đấu của Đảng, phòng và chống nguy cơ "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ.
Thứ hai, tăng cường giáo dục chính trị tư tưởng, đấu tranh bảo vệ, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, đường
lối đổi mới cho cán bộ, đảng viên, những cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp, các ngành. Kiên định thực hiện
các nguyên tắc xây dựng Đảng, nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng có
hiệu lực, hiệu quả; đồng thời, giữ vững trận địa tư tưởng của Đảng, giữ vững bản lĩnh chính trị của Đảng,
của tổ chức đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên gắn với đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham ô, tham
nhũng, lãng phí, quan liêu, xây dựng cơ chế phòng ngừa sự tha hóa quyền lực, ngăn chặn quan hệ “lợi ích
nhóm”. Thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ, Điều lệ Đảng gắn với phát huy vai trò tiền phong
gương mẫu của cán bộ lãnh đạo, quản lý, người đứng đầu, gắn với khắc phục tình trạng dân chủ, tự phê
bình và phê bình, kiểm tra và giám sát hình thức, nể nang, ngại va chạm,v.v.. để kịp thời phát hiện và ngăn
chặn những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên, củng cố và
tăng cường đoàn kết nội bộ.
Thứ ba, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, đổi mới và làm phong phú các chuyên trang, chuyên mục, các giải
thưởng báo chí, các tác phẩm văn học nghệ thuật liên quan đến công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng, đến
thực hiện Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XII về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo
đức, phong cách Hồ Chí Minh” từ Trung ương xuống đến địa bàn cơ sở. Lựa chọn, xây dựng và nhân rộng
các gương điển hình trong cán bộ, đảng viên, trong nhân dân về học tập và làm theo tấm gương đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh; nhân những hạt giống đỏ trong vườn hoa người tốt, việc tốt để tạo sức lan tỏa,
lôi cuốn từ những tấm gương người thực việc thực giản dị trong cuộc sống đời thường mà ý nghĩa nhân văn
lớn lao. Đồng thời, chủ động, kiên quyết và linh hoạt đấu tranh với những luận điệu tuyên truyền xuyên
tạc, phản động, góp phần làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch,
thiết thực xây dựng và chỉnh đốn Đảng.
Thứ tư, mỗi cán bộ, đảng viên phải nâng cao đạo đức cách mạng, phòng, chống và đấu tranh trừ bỏ chủ
nghĩa cá nhân; khắc phục biểu hiện suy thoái “không chấp hành nghiêm các nguyên tắc tổ chức của Đảng;
sa sút ý chí phấn đấu, không gương mẫu trong công tác; né tránh trách nhiệm, thiếu trách nhiệm, trung bình
chủ nghĩa, làm việc qua loa, đại khái, kém hiệu quả; không còn ý thức hết lòng vì nước, vì dân, không làm
tròn chức trách, nhiệm vụ được giao”. Đặc biệt, phát huy sự gương mẫu, thống nhất giữa nói và làm của
đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, người đứng đầu trên mọi lĩnh vực, nhất là trong đấu tranh phòng và chống
tham ô, tham nhũng, lợi ích nhóm, tư duy nhiệm kỳ, không chấp hành nghiêm các nguyên tắc tổ chức của
Đảng; sa sút ý chí phấn đấu, không gương mẫu trong công tác; không còn ý thức hết lòng vì nước, vì dân,
không làm tròn chức trách, nhiệm vụ được giao… Đồng thời, kiên quyết đưa ra khỏi Đảng những con sâu
mọt tham ô, tham nhũng, v.v.. gây thất thoát tiền bạc và tài sản của nhân dân.
Thứ năm, phát huy hơn nữa vai trò của nhân dân trong giám sát cán bộ, đảng viên, trong xây dựng và chỉnh
đốn Đảng, để “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” và “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân
kiểm tra, giám sát” không chỉ là nằm trong nghị quyết, là khẩu hiệu mà trở thành hiện thực sinh động trong
thực tiễn. Theo đó, mỗi tổ chức cơ sở đảng và cán bộ, đảng viên tăng cường hướng về cơ sở, khắc phục
tình trạng quan liêu, không sâu sát cơ sở, thờ ơ, vô cảm, thiếu trách nhiệm trước những khó khăn, bức xúc lOMoAR cPSD| 58797173
và đòi hỏi chính đáng của quần chúng nhân dân. Cấp ủy, tổ chức đảng các cấp không những phải tăng
cường kiểm tra, đôn đốc, nắm chắc tình hình địa phương, cơ quan, đơn vị, địa bàn cơ sở, lắng nghe ý kiến
đóng góp của quần chúng để không ngừng nâng cao chất lượng, hiệu quả lãnh đạo, chỉ đạo, thực hiện nhiệm
vụ mà còn cần phát huy tốt vai trò của các tổ chức quần chúng, tạo điều kiện để nhân dân và các tổ chức
quần chúng thực hiện tốt hơn quyền dân chủ của mình trong cuộc sống, tích cực tham gia xây dựng các tổ
chức cơ sở Đảng trong sạch, vững mạnh.
Thực tế, đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn: Xây dựng và chỉnh đốn lại Đảng là yêu cầu khách
quan, tất yếu, là công việc nội tại, thường xuyên của Đảng cầm quyền, để “làm cho mỗi đảng viên, mỗi
đoàn viên, mỗi chi bộ đều ra sức làm tròn nhiệm vụ Đảng giao phó cho mình, toàn tâm, toàn ý phục vụ
nhân dân. Làm được như vậy, thì dù công việc to lớn mấy, khó khăn mấy chúng ta cũng nhất định thắng lợi”.