Vận dụng các chuẩn mực “trung với nước, hiếu với dân”, “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư” trong Tư tưởng HCM để xây dựng đạo đức cho sinh viên Đại học Thương Mại hiện nay
Vận dụng các chuẩn mực “trung với nước, hiếu với dân”, “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư” trong Tư tưởng HCM để xây dựng đạo đức cho sinh viên Đại học Thương Mại hiện nay được trình bày khoa học, chi tiết giúp cho các bạn sinh viên chuẩn bị bài một cách nhanh chóng và đầy đủ. Các bạn xem, tải về ở bên dưới.
Môn: Tư tưởng Hồ Chí Minh (HCM01)
Trường: Đại học Thương Mại
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
KHOA KẾ TOÁN – KIỂM TOÁN ~~~~~~*~~~~~~
BÀI THẢO LUẬN
HỌC PHẦN: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Đề tài 2: Vận dụng các chuẩn mực “trung với nước, hiếu với dân”, “cần, kiệm,
liêm, chính, chí công vô tư” trong TTHCM để xây dựng đạo đức cho sinh viên
Đại học Thương Mại hiện nay.
Giáo viên hướng dẫn :
TS Bùi Hồng Vạn
Nhóm thực hiện : 05
Lớp học phần : 2366HCMI0111
Hà Nội, tháng 03 năm 2023
DANH SÁCH NHÓM STT Thành viên Chức vụ 1 Đỗ Kim Ngân Nhóm trưởng 2 Trịnh Hà Ngân Thư ký 3 Lê Hồng Ngọc Thành viên nhóm 4 Nguyễn Thị Hồng Ngọc Thành viên nhóm 5 Lê Ngọc Xuân Nhi Thành viên nhóm 6 Nguyễn Uyển Nhi Thành viên nhóm 7 Lê Minh Phương Thành viên nhóm 8 Vũ Phạm Minh Phương Thành viên nhóm 9 Lê Nhật Quang Thành viên nhóm 10 Nguyễn Thị Quỳnh Thành viên nhóm 11 Đinh Thị Thanh Tâm Thành viên nhóm 12 Nguyễn Thị Tâm Thành viên nhóm 1 MỤC LỤC
MỤC LỤC .............................................................................................................................................. 3
LỜI MỞ ĐẦU ......................................................................................................................................... 3
NỘI DUNG ............................................................................................................................................. 4
Chương I: Cơ sở lý luận tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức ......................................................... 4
1.1. Quan điểm về vai trò và sức mạnh của đạo đức ................................................................... 4
1.2. Quan điểm của Người về những chuẩn mực đạo đức cách mạng ....................................... 4
a. Trung với nước, hiếu với dân .................................................................................................... 4
b. Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư ..................................................................................... 5
Chương II: Thực trạng đạo đức và lối sống của sinh viên hiện nay .............................................. 8
2.1. Thực trạng hiện nay ................................................................................................................ 8
2.1.1. Mặt tích cực của sinh viên ................................................................................................... 8
2.1.2. Mặt tiêu cực của sinh viên ................................................................................................... 9
2.2. Nguyên nhân của thực trạng ...................................................................................................... 9
2.2.1. Nguyên nhân mặt tích cực ................................................................................................... 9
2.2.2. Nguyên nhân mặt tiêu cực ................................................................................................. 10
Chương III: Vận dụng những chuẩn mực “trung với nước, hiếu với dân”, “cần kiệm liêm
chính, chí công vô tư” của Hồ Chí Minh vào xây dựng đạo đức, lối sống cho sinh viên Đại học
Thương Mại ...................................................................................................................................... 12
3. 1. Vận dụng xây dựng đạo đức, lối sống phù hợp cho sinh viên .......................................... 12
3. 2. Giải pháp .............................................................................................................................. 13
a. Góc độ gia đình ......................................................................................................................... 13
b. Về cấp độ giáo dục ................................................................................................................... 13
c. Về xã hội .................................................................................................................................... 14
KẾT LUẬN ........................................................................................................................................... 15
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................................ 16
(Đề cương) Đề tài 1: Nguồn gốc hình thành TTHCM? Trong các nhân tố tạo nên TTHCM, nhân
tố nào đóng vai trò quyết định đối với bản chất khoa học và cách mạng của TTHCM? Tại sao?
. .............................................................................................................................................................. 17 2
LỜI MỞ ĐẦU
Chủ tịch Hồ Chí Minh là một anh vị anh hùng dân tộc, là một danh nhân văn
hóa kiệt xuất của thế giới, là niềm tự hào và là biểu tượng cao đẹp, trong sáng nhất của
con người Việt Nam. Người không chỉ tạo ra một kỷ nguyên mới, một nền văn hóa
mới ở Việt Nam mà còn có những đóng góp to lớn về lý luận và sự phát triển chung
của văn hóa nhân loại. Người là kết tinh những phẩm chất, giá trị tinh thần cao đẹp
nhất của giai cấp công nhân và của cả dân tộc, là hiện thân của đạo đức cách mạng
Việt Nam, ngọn hải đăng soi đường cách mạng giải phóng dân tộc đồng thời là tấm
gương soi sáng con đường đi tới tương lai tươi sáng của dân tộc ta.
Nhóm chúng em được giao nhiệm thảo luận đề tài: “Vận dụng những chuẩn
mực “trung với nước, hiếu với dân”, “cần kiệm liêm chính, chí công vô tư” của Hồ Chí
Minh vào xây dựng đạo đức lối sống cho sinh viên trường Đại học Thương Mại hiện
nay”. Đây là một đề tài rất hay giúp chúng em củng cố và nắm vững phần lý thuyết
trên lớp, đồng thời có cái nhìn nhận thực tế về đạo đức lối sống của các bạn sinh viên
hiện nay cũng như bản thân mình, từ đó có thể sửa đổi hoàn thiện và nâng cao mình
hơn. Qua đây, chúng em xin chân thành cảm ơn thầy Bùi Hồng Vạn đã giảng dạy rất
nhiệt tình đồng thời cung cấp những kiến thức bổ ích cho chúng em trong bộ môn tư
tưởng Hồ Chí Minh. Trong quá trình làm bài thảo luận chúng em còn nhiều thiếu sót,
mong thầy bỏ qua cho chúng em! 3 NỘI DUNG
Chương I: Cơ sở lý luận tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức
1.1. Quan điểm về vai trò và sức mạnh của đạo đức
Đạo đức là cái gốc, là nền tảng tinh thần của xã hội, của người cách mạng
Hồ Chí Minh là một trong những nhà tư tưởng, một lãnh tụ cách mạng thế giới
đã bàn nhiều về vấn đề đạo đức và giáo dục đạo đức. Tư tưởng Hồ Chí Minh rất sâu
sắc, phong phú, cả về lý luận và thực tiễn, đã trở thành một bộ phận giàu giá trị của
văn hóa dân tộc và nhân loại, một sức mạnh vĩ đại làm nên mọi thắng lợi của cách
mạng Việt Nam. Khi đánh giá vai trò của đạo đức trong cuộc sống, từ rất sớm, Hồ Chí
Minh đã khẳng định đạo đức là nguồn nuôi dưỡng và phát triển con người, như gốc
của cây, ngọn nguồn của sông suối. Người nói: “Cũng như sông thì phải có nguồn mới
có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo.
Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không
lãnh đạo được nhân dân”. Người nói rằng, làm cách mạng để cải tạo xã hội cũ thành xã
hội mới là một sự nghiệp rất Hồ Chí Minh: vẻ vang, nhưng cũng là nhiệm vụ rất nặng
nề, “Sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa. Người cách mạng phải có đạo
đức cách mạng làm nền tảng mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang ”
Người nói, cán bộ, đảng viên muốn cho dân tin, dân phục thì không phải cứ
“viết lên trán chữ “cộng sản” mà ta được họ yêu mến. Quần chúng chỉ quý mến những
người có tư cách, đạo đức”. “Vì muốn giải phóng cho dân tộc, giải phóng cho loài
người là một công việc to tát, mà tự mình không có đạo đức, không có căn bản, tự
mình đã hủ hóa, xấu xa thì còn làm nổi việc gì?” Hồ Chí Minh yêu cầu Đảng phải “là
đạo đức, là văn minh”. Trong di chúc Người căn dặn: “Mỗi Đảng viên và cán bộ phải
thật sự thấm nhuần “đạo đức cách mạng” thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư.
Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch; phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy
tớ thật trung thành của nhân dân”.
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là đạo đức trong hành động, lấy hiệu quả thực
tế làm thước đo. Chính vì vậy, Hồ Chí Minh luôn đặt đạo đức bên cạnh tài năng, gắn
đức với tài, lời nói đi đôi với hành động và hiệu quả trên thực tế. Người nói: “phải lấy
kết quả thiết thực đã góp sức bao nhiêu cho sản xuất và lãnh đạo sản xuất mà do ý chí
cách mạng của mình. Hãy kiên quyết chống bệnh nói suông, thói phô trương hình
thức, lối làm việc không nhằm mục đích nâng cao sản xuất”
Như vậy trong tư tưởng đạo đức của Hồ Chí Minh, đức và tài, hồng và chuyên,
phẩm chất và năng lực thống nhất làm một. Trong đó: đức là gốc của tài; hồng là gốc
của chuyên; phẩm chất là gốc của năng lực.
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr. 292-293
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.11, tr. 601
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6, tr. 16
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.15, tr. 622 4
1.2. Quan điểm của Người về những chuẩn mực đạo đức cách mạng
a. Trung với nước, hiếu với dân
Trung với nước, hiếu với dân là phẩm chất đạo đức quan trọng nhất, bao
trùm nhất và chi phối các phẩm chất khác. Từ khái niệm cũ "trung với vua, hiếu với
cha mẹ" trong đạo đức truyền thống của xã hội phong kiến phương Đông, Hồ Chí
Minh đưa vào đó một nội dung mới, phản ánh đạo đức ngày nay cao rộng hơn là
“Trung với nước, hiếu với dân”. Đó là một cuộc cách mạng trong quan niệm đạo đức.
Tư tưởng “trung với nước, hiếu với dân” của Hồ Chí Minh không những kế thừa
giá trị yêu nước truyền thống dân tộc, mà còn vượt qua những hạn chế của truyền
thống đó. Người cho rằng, “trung với nước” phải gắn liền “hiếu với dân”. Vì “dân là
dân của nước, nước là nước của dân”. Nghĩa là nhân dân là chủ của đất nước, bao
nhiêu quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân, bao nhiêu lợi ích đều vì dân, cán bộ là
“đầy tớ nhân dân”, chứ không phải là “quan nhân dân để đè đầu cưỡi cổ nhân dân”.
Trung với nước là tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, suốt đời phấn đấu cho
Đảng, cho cách mạng, phải làm sao cho “dân giàu, nước mạnh”. Theo Hồ Chí Minh,
trung là trung với nước, là trung thành với lợi ích của quốc gia, dân tộc, với sự nghiệp
đấu tranh cách mạng của Ðảng, với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa... Nước ở đây với ý nghĩa "Dân là con nước, nước là mẹ
chung", là nước của dân, của toàn dân tộc chứ không phải của riêng ai, và chính mỗi
người dân là những "chủ nhân ông" của đất nước. Mối quan hệ nước - dân, dân - nước
mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc, hòa quyện với nhau trong một thể thống nhất về trách
nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi công dân với cộng đồng, quốc gia, dân tộc.
Còn “hiếu với dân” theo Chủ tịch Hồ Chí Minh đó chính là phải tôn trọng, yêu
kính Nhân dân, gắn bó máu thịt với nhân dân, khẳng định sức mạnh to lớn của nhân
dân và phải coi dân là gốc, nền tảng của sự nghiệp cách mạng. Đồng thời, “hiếu với
dân” cũng được Bác cụ thể hóa bằng chủ trương “Đảng và Chính phủ là đầy tớ của
nhân dân”, “chính quyền phải có trách nhiệm lo cho dân: Làm cho dân có ăn, làm cho
dân có mặc, làm cho dân có chỗ ở, làm cho dân có học hành”. Bác còn chỉ rõ: “Chính
sách của Đảng và Chính phủ phải hết sức chăm nom đến đời sống của nhân dân. Nếu
dân nói, Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân rét là Đảng và Chính phủ có lỗi. Vì vậy,
cán bộ Đảng và chính quyền từ trên xuống dưới, đều phải hết sức quan tâm đến đời
sống của nhân dân”. Bác dạy rằng cán bộ các cấp đều là “công bộc của dân, nghĩa là
gánh vác việc chung cho dân”. Và “việc gì có lợi cho dân ta phải hết sức làm, việc gì
có hại cho dân phải hết sức tránh”.
Phẩm chất “trung với nước, hiếu với dân” được coi là hạt nhân cơ bản của tư
tưởng Hồ Chí Minh. Và cũng chính Người là biểu tượng cao đẹp thể hiện phẩm chất
này. Suốt cuộc đời vì dân, vì nước, đến khi chuẩn bị vĩnh biệt thế giới này Bác cũng
tính toán sao cho khỏi tốn kém thì giờ và tiền bạc của nhân dân đối với việc riêng của
mình. Bác khẳng định: “Bất kỳ bao giờ, bất kỳ ở đâu, tôi cũng chỉ theo đuổi một mục
đích là làm cho ích nước, lợi dân”.
b. Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, “Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư” là nội
dung cốt lõi của đạo đức cách mạng, là phẩm chất đạo đức gắn liền với hoạt động hằng 5
ngày của mỗi người. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Bọn phong kiến ngày xưa nêu cần, kiệm,
liêm, chính, nhưng không bao giờ làm mà lại bắt nhân dân phải tuân theo để phụng sự
quyền lợi cho chúng. Ngày nay ta đề ra cần, kiệm, liêm, chính cho cán bộ thực hiện
làm gương cho nhân dân theo để lợi cho nước cho dân” .
Cần được hiểu là siêng năng, chăm chỉ, cố gắng dẻo dai. “Muốn cho chữ cần có
nhiều kết quả hơn, thì phải có kế hoạch cho mọi công việc”. Cần tức là lao động cần
cù, chịu khó, có kế hoạch, sáng tạo, đạt được năng suất cao; lao động với tinh thần tự
lực cánh sinh, chủ động, không lười biếng, không ỉ lại, không dựa dẫm. Mỗi người
phải nhận định rõ: “Lao động là nghĩa vụ thiêng liêng, là nguồn sống, nguồn hạnh phúc của chúng ta”.
Kiệm là “tiết kiệm, không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi”. Đây được
hiểu là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thời gian, tiết kiệm tiền của nhân dân, cả nước,
của bản thân mình, tiết kiệm từ cái to đến nhỏ; không phô trương hình thức, kiên quyết
chống lãng phí, xa hoa. Tuy nhiên, cũng nên suy nghĩ đúng đắn về “kiệm”, không nên
hiểu “kiệm” là đòi hỏi cán bộ lãnh đạo, quản lý phải “thắt lưng, buộc bụng”, nắm cơm
với quả cà để xây dựng chủ nghĩa xã hội; hay cán bộ không được mua sắm và sử dụng
những phương tiện hiện đại phục vụ cho công việc trong khi đã có điều kiện. Phải
phân biệt rõ, “Tiết kiệm không phải là bủn xỉn. Khi không nên tiêu xài thì một đồng xu
cũng không nên tiêu. Khi có việc đáng làm, việc lợi ích cho đồng bào, cho Tổ quốc, thì
dù bao nhiêu công, tốn bao nhiêu của, cũng vui lòng. Như thế mới là kiệm. Việc đáng
tiêu mà không tiêu, là bủn xỉn, chứ không phải là kiệm”. Cái mà chúng ta đang giáo
dục, đấu tranh, phản đối là lối sống gấp, lãng phí, chạy theo thị hiếu không lành mạnh
dẫn đến suy thoái về đạo đức và phong cách sống. “Cần với kiệm, phải đi đôi với
nhau, như hai chân của con người”.
Liêm là “trong sạch, không tham lam”, luôn tôn trọng tài sản của công và của
nhân dân, liêm khiết trong mọi hoàn cảnh, “không tham địa vị. Không tham tiền tài.
Không tham sung sướng. Không ham tâng bốc mình”. “Chữ liêm phải đi đôi với chữ
kiệm. Cũng như chữ kiệm phải đi đôi với chữ cần. Có kiệm mới có liêm được” bởi
tham lam ắt sẽ dẫn đến bất liêm. Để thực hiện mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh”, trước hết đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý phải là tấm
gương về “liêm”, cán bộ không nghiêm, phạm vào các thói hư như tham ô, tư lợi bất
chính, lãng phí... thì không mang lại niềm tin cho quần chúng, làm suy yếu nội bộ Đảng và xã hội.
Chính là không tà, nghĩa là thẳng thắn, đứng đắn, chính trực. Chính được thể
hiện rõ trong ba mối quan hệ. Đối với mình, phải tìm hiểu, học hỏi cầu tiến bộ, không
tự cao tự đại, phải tự kiểm điểm, tự phê bình, tiếp thu nhận xét của người khác. Đối
với người, không nịnh trên, khinh dưới, không dối trá, lừa lọc, luôn giữ thái độ chân
thành, khiêm tốn, đoàn kết. Đối với việc, phải để việc công lên trên, lên trước việc tư,
việc nhà. Được giao nhiệm vụ gì quyết làm cho bằng được, không sợ khó mà lùi; “việc
thiện dù nhỏ mấy cũng làm; việc ác dù nhỏ mấy cũng tránh”.
Cần, kiệm, liêm là gốc của chính. Như vậy, một cây cần có gốc rễ, hoa, quả mới
là cây hoàn toàn. Một người phải cần, kiệm, liêm nhưng phải chính mới là người hoàn toàn.
Chí công vô tư là hoàn toàn vì lợi ích chung, không vì tư lợi; là hết sức công
bằng, công tâm, không chút thiên tư, thiên vị, luôn đặt lợi ích của Đảng, của nhân dân,
của dân tộc lên hàng đầu, “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”. Muốn “chí công vô tư” 6
thì phải chiến thắng được chủ nghĩa cá nhân vì “chủ nghĩa cá nhân là giặc nội xâm”,
“nó kéo người ta xuống dốc không phanh”. Đây chính là sự tiếp nối của cần, kiệm, liêm, chính.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặc biệt quan tâm đến việc giáo dục, rèn luyện đạo
đức cách mạng. Người cho rằng cần, kiệm, liêm, chính là bốn đức tính cần có của con
người, như trời có bốn mùa, đất có bốn phương; là thước đo chất của mỗi người, bởi
“Thiếu một đức thì không thành người”. Không những vậy, cần, kiệm, liêm, chính còn
là thước đo trình độ văn minh, tiến bộ của một dân tộc: “Một dân tộc biết cần, kiệm,
biết liêm là một dân tộc giàu về vật chất, mạnh về tinh thần, là một dân tộc văn minh, tiến bộ”.
Từ đó, ta thấy được cần, kiệm, liêm, chính có mối quan hệ chặt chẽ với nhau,
với chí công vô tư. Cần, kiệm, liêm, chính dẫn đến chí công vô tư. Ngược lại, đã chí
công vô tư thì nhất định sẽ thực hiện được cần, kiệm, liêm, chính.
Báo tuổi trẻ Đại học Đà Nẵng 7
Chương II: Thực trạng đạo đức và lối sống của sinh viên hiện nay
2.1. Thực trạng hiện nay
Đạo đức Hồ Chí Minh là đạo đức cách mạng, vì vậy nó đề cao chủ nghĩa tập
thể, bài trừ chủ nghĩa cá nhân, lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ, vô ngã vị tha, chí
công vô tư. Dưới ngọn cờ của tư tưởng này, trong mỗi giai đoạn cách mạng, thế hệ trẻ
Việt Nam đã đạt được nhiều thành tích to lớn, đóng góp vào bước tiến chung của lịch
sử dân tộc. Đó những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc: yêu nước, thương dân,
thương người, đền ơn đáp nghĩa, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư và những nội
dung mới theo yêu cầu của đất nước và thời đại. Nhờ vậy, đa số sinh viên, trí thức trẻ
vẫn giữ được lối sống thân thiện, trong sáng, lành mạnh, sống có trách nhiệm với Tổ
quốc, gia đình và bản thân; có ước mơ, hoài bão; có kiến thức, kỹ năng, sức khỏe tốt,
tư duy năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm.
Bên cạnh đó, dưới tác động của kinh tế thị trường cùng hội nhập quốc tế, lối
sống thực dụng, coi thường đạo lý, bất chấp chạy theo danh lợi đã làm nảy sinh những
hiện tượng tiêu cực xã hội ngày càng phổ biến. Do vậy, chính những biểu hiện xa rời
mục tiêu của chủ nghĩa xã hội chưa được khắc phục, cùng với sự chống phá của các
thế lực phản động quốc tế nhằm thực hiện âm mưu “Diễn biến hòa bình” đã tác động
lớn đến đời sống đạo đức của nhân dân, đến tư tưởng, tình cảm, ý chí của sinh viên và trí thức trẻ.
2.1.1. Mặt tích cực của sinh viên
Trong thời gian qua, với sự quan tâm của Đảng và nhà nước, gia đình, nhà
trường, toàn xã hội, cùng với sự nỗ lực của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí
Minh,... công tác giáo dục đạo đức cho học sinh, sinh viên đã có được những kết quả
đáng tuyên dương nhất định, góp phần đào tạo, xây dựng, tạo nên một thế hệ thanh
niên đủ sức đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới.
Không chỉ vậy, thế hệ trẻ ngày nay ngày càng năng động, nhiệt huyết, tự tin,
thông minh, nhiều bạn trẻ đã có những thành tựu đáng ngưỡng mộ từ khi còn rất sớm.
Phần lớn sinh viên tin vào sự lãnh đạo của Đảng, sống có trách nhiệm, có ước mơ,
hoài bão, dám nghĩ, dám làm, dám thành công, ra sức học tập rèn luyện và không
ngừng phát triển bản thân. Sự năng động ấy của sinh viên được thể hiện tích cực trong
việc tham gia các hoạt động xã hội cộng đồng như từ thiện (giúp đỡ trẻ em vùng cao
bằng cách chia sẻ quần áo, giấy bút, dạy các em học…), y tế (trong cuộc chiến chống
đại dịch Covid-19, giúp dân và tuyên truyền các biện pháp phòng ngừa dịch bệnh…).
Có thể thấy rằng, những phẩm chất này đều là những thế mạnh, ưu điểm vô cùng nổi
bật của sinh viên Việt Nam thời đại mới. Hơn nữa, đa số lớp sinh viên, thanh niên trí
thức luôn giữ được lối sống tình nghĩa, trong sạch; cần cù sáng tạo, có ý chí xây dựng
cơ nghiệp riêng của bản thân. Ngày nay, trên các lĩnh vực đời sống xã hội đã và đang
xuất hiện những nhà quản lý, nhà khởi nghiệp trẻ,... có đức, có tài ở độ tuổi thanh niên.
Ở họ đều thấy được cái ý chí, hoài bão, tinh thần học hỏi, cần cù, không ngừng sáng
tạo để nâng cao giá trị bản thân, thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, làm giàu cho chính
mình, gia đình và xã hội. Cùng với đó, thái độ nhận thức tốt và tư tưởng chính trị cao
của nhiều sinh viên được phát huy, kế thừa mạnh mẽ truyền thống xung kích của 8
những thế hệ trước, vì thế mà trở thành tấm gương sáng cho đông đảo thanh niên noi
theo. Không thể phủ nhận rằng, những tấm gương điển hình tiên tiến đi đầu trong học
tập và công tác, đặc biệt là trong quá trình sự nghiệp đổi mới và hội nhập quốc tế đã
liên lục khẳng định vị thế và vai trò quan trọng của thế hệ trẻ; là kết quả, minh chứng
chứng sinh động cho sự bồi dưỡng, đào tạo nên thế hệ cách mạng kế thừa những
truyền thống tốt đẹp của Đảng và Nhà nước.
2.1.2. Mặt tiêu cực của sinh viên
Bên cạnh những kết quả đạt được, việc học tập và làm theo tư tưởng đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh của học sinh, sinh viên hiện nay vẫn còn một số hạn chế.
Đầu tiên phải kể đến nội dung giáo dục hiện nay chưa kết hợp nhuần nhuyễn giữa giáo
dục đạo đức, giáo dục văn hóa và giáo dục khoa học kỹ thuật, nội dung chưa đáp ứng
nhu cầu và xu thế của thị trường lao động trong nước và thế giới. Đặc biệt lâu nay
chúng ta còn xem nhẹ việc giáo dục đạo đức cho thanh niên, nếu có thì cũng chỉ mang
tính hình thức, chưa hiệu quả. Nhìn chung nội dung giáo dục đạo đức cho thanh niên
Việt Nam hiện nay vẫn chỉ tập trung vào giáo dục chính trị tư tưởng, giáo dục tri thức,
giáo dục hướng nghiệp, lao động, việc làm..., một số nội dung cơ bản, quan trọng và
cấp thiết chưa được quan tâm đúng mức , đặc biệt là vấn đề giáo dục đạo đức.
Phương pháp giáo dục thanh niên trước đây vẫn còn theo lối mòn truyền thống,
còn lạc hậu, chậm đổi mới, chậm hiện đại, chưa gắn với đời sống xã hội và công việc
nghề nghiệp, chưa phát triển nhân cách thanh niên, sức sống, sức sáng tạo và năng lực
thực tiễn của thanh niên… Không chỉ vậy, vẫn còn có những thanh niên, sinh viên
không có định hướng, mục tiêu rõ ràng. Họ sống một cách hờ hững, thờ ơ với mọi điều
diễn ra xung quanh trong cuộc sống. Đây là cách sống ích kỷ, dễ bị cám dỗ, vô kỷ luật
đáng lên án. Hơn nữa, họ hiểu biết chưa đầy đủ về truyền thống cách mạng của Đảng
và dân tộc, chưa quan tâm đến tình hình đất nước và thế giới. Một số học sinh hiện nay
chỉ quan tâm đến lợi ích cá nhân, những cái lợi trước mắt. Họ chỉ quan tâm đến học
tập chuyên môn, tập trung cho việc đi học, sau đó đi làm thêm, ít quan tâm đến các vấn
đề chính trị xã hội, ít tham gia các hoạt động thể thao, xã hội. Ngoài ra, có những bộ
phận sinh viên còn bị ảnh hưởng bởi các chiêu trò tuyên truyền xuyên tạc của các thế
lực thù địch, tư tưởng còn dao động, có lúc mơ hồ, thiếu vững vàng, thiếu chủ động,
chưa tích cực tham gia các hoạt động thể thao, xã hội. Nghiêm trọng hơn, một số bộ
phận nhỏ sinh viên “nhạt Đảng, phái Đoàn, xa chính trị”, không có ý thức tiến bộ trong
học tập, rèn luyện, mất niềm tin, thiếu niềm tin, thiếu dũng khí, thậm chí bị các thế lực
thù địch lôi kéo, xúi giục, lợi dụng, tham gia vào các hoạt động phi pháp, hủy hoại tương lai.
2.2. Nguyên nhân của thực trạng
2.2.1. Nguyên nhân mặt tích cực a. Nguyên nhân khách quan
Do sinh viên đã được tiếp thu tư tưởng Hồ Chí Minh. Bởi lẽ, tư tưởng Hồ Chí Minh
bắt nguồn từ những giá trị truyền thống của dân tộc và kế thừa những tư tưởng tiến bộ
của nước ngoài như tư tưởng của C.Mác, Ăng-ghen, Lênin… Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã bổ sung thêm những khái niệm, phạm trù đạo đức của thời đại nhưng không xóa đi
những chuẩn mực đạo đức của dân tộc Việt Nam. Do đó, khi tiếp cận với tư tưởng Hồ 9
Chí Minh, sinh viên vẫn cảm thấy thân quen, gần gũi, dễ tiếp thu. Thêm vào đó, các
giá trị tinh thần truyền thống mà nhân dân ta gây dựng luôn được lồng ghép vào sinh
hoạt và tiếp tục được lưu truyền trong hệ thống giáo dục nước nhà. b. Nguyên nhân chủ quan
Vì đã được thấm nhuần đạo đức, tư tưởng, lối sống và phong cách Hồ Chí Minh
nên phần lớn sinh viên hiện nay vẫn giữ được lối sống tình nghĩa, trong sạch , lành
mạnh và khiêm tốn. Họ sống có bản lĩnh, có hoài bão, có sự nhạy bén, chăm chỉ và
sáng tạo. Dù thời thế có đổi thay, họ vẫn tự ý thức được trách nhiệm và nghĩa vụ của
bản thân với xã hội, với quốc gia . Khi có nhận thức đúng đắn, họ chủ động tiếp thu và
vận dụng những giá trị truyền thống quý báu của dân tộc vào trong thực tiễn.
2.2.2. Nguyên nhân mặt tiêu cực a. Nguyên nhân khách quan
- Sự phát triển của nền kinh tế:
Mặt trái của nền kinh tế thị trường đã và đang làm đảo lộn các giá trị đạo đức và lối
sống, thậm chí là tác động mạnh mẽ đến nhận thức và niềm tin của sinh viên vào
Đảng, vào XHCN. Với sự bùng nổ của mạng Internet, sinh viên được tiếp xúc đa dạng
với các trang mạng xã hội. Tuy nhiên, việc kiểm soát thông tin trên mạng xã hội vẫn là
một thách thức do đó sinh viên dễ dàng bị lôi kéo vào những hoạt động tiêu cực, tiếp
xúc với các trang mạng xã hội không lành mạnh và tiếp cận với những thông tin sai
lệch, thiếu đạo đức. Khi chứng kiến những hình ảnh bạo lực và vô nhân đạo trên mạng
xã hội, sinh viên dễ có những nhận thức sai trái và thực hiện hành vi xấu ngoài thực tế.
Bên cạnh đó, cùng với sự phát triển kinh tế, giao lưu và hội nhập quốc tế là cách mà
nước ta làm giàu đẹp văn hóa dân tộc nhưng nó cũng tạo điều kiện cho những tiêu cực
của văn hóa và lối sống ngoại quốc du nhập vào nước ta. Tồi tệ hơn là âm mưu “ diễn
biến hòa bình” thế lực thù địch trong và ngoài nước khiến lòng yêu nước và niềm tin
vào Đảng của sinh viên bị lung lay.
- Sự lỏng lẻo của pháp luật:
Nhân cách của con người được xây dựng và hình thành trong xã hội vì vậy nhân
cách của mỗi cá nhân ít nhiều bị chi phối bởi môi trường xã hội. Sống và làm theo hiến
pháp và pháp luật là phương châm sống của mọi công dân, mọi quốc gia văn minh trên
thế giới. Nếu được sống trong một môi trường nghiêm minh về pháp luật, sinh viên sẽ
có cách hành xử đúng đắn và tôn trọng pháp luật. Ngược lại, khi sống trong môi
trường không có quy tắc, vô tổ chức, chứng kiến những sai phạm hằng ngày, sinh viên
dễ có nhận thức lệch lạc và sa vào các tệ nạn xã hội. Ví dụ điển hình đó là sinh viên
được dạy là luôn phải tuân thủ luật an toàn giao thông, tuy nhiên, trong thực tế, họ lại
thường xuyên chứng kiến những hành vi như vượt đèn đỏ, không đội mũ bảo hiểm,…
của người lớn, đôi khi là của cảnh sát giao thông. Tóm lại, một xã hội tuân thủ pháp
luật là môi trường giáo dục lý tưởng để nuôi dưỡng nhân cách cho những công dân
tương lai của đất nước.
- Sự giáo dục của gia đình và nhà trường:
Nhà trường và gia đình là một trong những yếu tố tác động lớn đến sự phát triển
nhân cách và định hướng lối sống của sinh viên. Trước hết là tình trạng giáo dục
buông lỏng ở một số gia đình. Một số phụ huynh thương con, nuông chiều con quá 10
mức khiến con ỷ lại, sống lười biếng, hưởng thụ và ích kỷ. Cũng có những phụ huynh
mải mê kiếm tiền, chạy theo vật chất mà bỏ bê, thờ ơ và thiếu sự quan tâm đến đời
sống tinh thần của con cái. Thực tế, phần lớn sinh viên xuống cấp đạo đức và sa vào
các tệ nạn xã hội là do thiếu sự quản lý của gia đình. Hơn nữa, cuộc sống hôn nhân
hạnh phúc của cha mẹ là nền tảng giúp sinh viên có nhân cách hoàn chỉnh, biết sẻ chia
và yêu thương. Ngược lại, cuộc sống hôn nhân tan vỡ của cha mẹ tạo áp lực lớn về mặt
tinh thần, dễ khiến sinh viên mất niềm tin vào tình yêu, sống vô cảm và có cái nhìn bi
quan về cuộc sống. Tiếp đó là nội dung chương trình giảng dạy còn nặng lý thuyết và
quá xa vời thực tế khiến sinh viên thiếu kỹ năng sống. Các tiết học giảng dạy về các
chuẩn mực đạo đức còn quá ít, chưa được coi trọng và chưa sát tình hình thực tiễn.
Các trường đại học chủ yếu giảng dạy kiến thức chuyên môn mà thiếu sự quan tâm
đến việc truyền tải đạo đức nghề nghiệp khiến sinh viên dễ có nhận thức phiến diện và
hành xử vô trách nhiệm. Thực tế, khi bước chân vào môi trường công sở, môi trường
xã hội, nhiều sinh viên vẫn còn lúng túng trong việc xử lý các tình huống đạo đức. Tồi
tệ hơn là hiện tượng biến chất của một bộ phận giảng viên và những sai phạm trong hệ
thống giáo dục khiến sinh viên mất niềm tin vào nhà trường và dễ lặp lại những hành vi tiêu cực đó. b. Nguyên nhân chủ quan
Một là do một số sinh viên chưa có nhận thức rõ ràng hậu quả mà hành vi của
mình gây ra, hầu như chỉ hành động theo cảm tính, thiếu sự chín chắn và suy nghĩ kỹ
trước khi hành động. Hơn nữa, họ có sự hiểu biết quá hẹp hòi về các giá trị đạo đức, thậm chí còn hiểu sai.
Hai là do sinh viên hiện nay thiếu sự tu dưỡng, rèn luyện kiến thức xã hội và kỹ
năng sống, không vững vàng tư tưởng chính trị nên dễ bị dắt mũi, bị cuốn theo các
phong trào trên mạng xã hội. Đặc biệt là khi bước vào môi trường đại học, rời xa gia
đình, không có sự ràng buộc nên họ dễ có hiện tượng buông thả bản thân, sống vô kỷ
luật, ăn chơi đua đòi. Không chỉ vậy, bộ phận sinh viên được nuông chiều, thiếu kỹ
năng sống nên họ ngại khó khăn, gian khổ, sợ va chạm với các tình huống xã hội. 11
Chương III: Vận dụng những chuẩn mực “trung với nước, hiếu với dân”, “cần
kiệm liêm chính, chí công vô tư” của Hồ Chí Minh vào xây dựng đạo đức, lối sống
cho sinh viên Đại học Thương Mại.
3. 1. Vận dụng xây dựng đạo đức, lối sống phù hợp cho sinh viên
Với cương vị là một thế hệ trẻ, thế hệ thanh niên, tương lai của đất nước, mỗi
sinh viên cần trang bị cho mình những bài học, kiến thức mà Bác để lại, thấm nhuần
và phát huy nó. Trong văn kiện đại hội Đảng lần thứ XII đã chỉ rõ: “ Việc học tập và
làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là nhiệm vụ quan trọng thường xuyên, lâu
dài của cán bộ,đảng viên, của các chi bộ, tổ chức đảng và các tầng lớp nhân dân. Mỗi
cán bộ, đảng viên không ngừng tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng, thực sự là
một tấm gương về phẩm chất đạo đức, lối sống” mà thanh niên cụ thể là mỗi sinh viên
cần thực hiện đầu tiên, vì thanh niên, sinh viên là tương lai của đất nước. Sinh viên
trường Đại học Thương Mại hiện nay cần không ngừng rèn luyện học tập để hoàn
thiện bản thân có một lối sống lành mạnh, tích cực, học tập theo tấm gương đạo đức
của Hồ Chí Minh, cụ thể như:
Một là, sinh viên cần luôn ghi nhớ nhiệm vụ “trung với nước, hiếu với dân,
suốt đời đấu tranh cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng
con người.” sinh viên cần phải tuyệt đối trung thành với Đảng, tin tưởng vào Đảng và
nhà nước ta. Không nghe, tin theo và tuyên truyền những hình ảnh không tốt, vu
khống, hạ thấp uy tín của Đảng và nhà nước ta. Không tham gia các tổ chức phản động
nhằm phá hoại Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Hiện nay, chúng ta đang sống trong thời bình là nhờ xương máu, sự hy sinh của
các thế hệ ông cha ta. Chúng ta cần phải biết ơn đến những công lao to lớn của các thế
hệ đi trước. Chúng ta sống trong thời bình không có nghĩa là quên đi nhiệm vụ bảo vệ
tổ quốc bởi có rất nhiều thế lực thù địch đang hướng đến nước ta nhằm lật đổ chế độ
xã hội chủ nghĩa. Gần đây, là các vấn đề về biển Đông giữa ta và Trung Quốc gây
hoang mang cho dư luận, đồng thời gây kích động dân chúng; là sinh viên chúng ta
cần nhận thức đúng đắn về đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước không nên có
những biểu hiện quá khích, tự phát, lôi kéo mọi người tham gia biểu tình,... gây khó
khăn, cản trở trong quá trình thực các biện pháp đối ngoại của Nhà nước ta. Thực hiện
đúng và đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của công dân như quyền bầu cử, thực hiện
nghĩa vụ quân sự,... chấp hành đúng các quy định của pháp luật, tố giác những hành vi
vi phạm pháp luật. Không vi phạm các nội quy tại trường lớp, nơi cư trú; bài trừ những
tệ nạn xã hội, hủ tục lạc hậu, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa thế giới.Chúng ta
nên xây dựng nếp sống văn hóa, kính trên nhường dưới; hiếu thảo với ông bà, cha mẹ;
tôn sư trọng đạo; phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta. Luôn đặt lợi ích tập thể
lên lợi ích cá nhân; tích cực tham gia các hoạt động của trường, lớp của Đoàn và xã
hội. Hăng hái tham gia các hoạt động bảo vệ môi trường, tuyên truyền cho mọi người
về tầm quan trọng của việc bảo vệ môi trường.
Hai là, luôn học hỏi, phát huy đạo đức cách mạng, sống thật thà, khiêm tốn,
dũng cảm như lời Bác đã dặn “cần kiệm liêm chính” sống cần cù, tiết kiệm, thanh
liêm. Luôn luôn trung thực trong học tập, thi cử không nhờ người học hộ, thi hộ, 12
không sử dụng tài liệu khi thi cử,...tích cực học tập, xây dựng bài trên lớp, giúp đỡ bạn
bè cùng nhau học tập. Phải đặt ra mục đích, mục tiêu cho bản thân mình, có tinh thần
tự giác học tập,nghiên cứu khoa học, đi học và làm bài tập đầy đủ và đúng giờ. Luôn
giữ lời hứa, nói phải đi đôi với làm, luôn chủ động trong học tập, nghiên cứu.Có kế
hoạch chi tiêu hợp lý, không chi tiêu hoang phí không có mục đích rõ ràng. Không ăn
chơi đua đòi, chạy đua theo những trào lưu, xu hướng không phù hợp với lứa tuổi, điều
kiện và văn hóa. Thường xuyên tự kiểm điểm đánh giá bản thân mình để hoàn thiện
bản thân mình hơn. Nuôi dưỡng ước mơ, hoài bão lớn, xung kích, sáng tạo, làm chủ
khoa học, công nghệ hiện đại. Hình thành lớp thanh niên ưu tú trên mọi lĩnh vực, kế
tục trung thành và xuất sắc sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc, góp phần
quan trọng vào sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa
3. 2. Giải pháp
a. Góc độ gia đình
Gia đình có vai trò rất quan trọng đối với việc hình thành nhân cách và đạo đức
của con người. Gia đình là nơi đầu tiên mà trẻ em tiếp xúc và học hỏi những giá trị và
quan niệm cơ bản về cuộc sống. Qua việc tương tác với cha mẹ và các thành viên
trong gia đình, trẻ sẽ học được kiến thức, kỹ năng và thái độ đúng đắn cần thiết để phát
triển và trở thành người lớn có đạo đức tốt.
Để nâng cao đạo đức và lối sống sinh viên theo chuẩn mực của Hồ Chí Minh, gia đình cần thực hiện:
- Thường xuyên tạo dựng môi trường gia đình ấm áp, tôn trọng lẫn nhau và luôn sẵn
sàng giúp đỡ nhau khi cần thiết. Đồng thời truyền đạt bồi dưỡng kiến thức về đạo lý, tình yêu thương,...
- Sử dụng các tài liệu, sách vở, bài hát và chương trình văn hóa có giá trị giáo dục để
truyền tải các giá trị đạo đức tốt đẹp cho con cái.
- Thường xuyên đề cao ý thức trách nhiệm, tính tự giác, lòng yêu nước, lòng nhân ái,
nâng cao tinh thần học tập, rèn luyện bản thân và phối hợp hài hoà giữa học tập và vui chơi, giải trí.
- Mỗi thành viên biết hướng thiện, cảm thông và sống vị tha, cư xử đúng mực, có lối
sống lành mạnh; giáo dục nề nếp gia phong, có ý thức giữ gìn và phát huy các giá trị
văn hóa, truyền thống tốt đẹp của gia đình, con cháu hiếu thảo, kính trọng, chăm sóc,
phụng dưỡng ông, bà, cha, mẹ.
- Thường xuyên tạo cơ hội cho con cái để tiếp cận với các hoạt động xã hội, hỗ trợ các
cộng đồng và các hoạt động từ thiện, giúp con cái hiểu được ý nghĩa của sự chia sẻ,
đóng góp và tình người.
b. Về cấp độ giáo dục
Môi trường giáo dục nhà trường không chỉ là nơi trang bị kiến thức mà còn phải
quan tâm đến việc giáo dục nhân cách, đạo đức cho các bạn trẻ. Các hoạt động giáo
dục nhân cách và đạo đức bao gồm các lớp học, hoạt động ngoại khóa, dịch vụ hỗ trợ
và các chương trình tình nguyện. Nhà trường có trách nhiệm cung cấp một môi trường 13
học tập và phát triển toàn diện cho sinh viên, đảm bảo các giá trị đạo đức và nhân cách
được truyền tải và truyền thụ cho sinh viên để giúp họ trở thành công dân có trách
nhiệm và tốt hơn cho xã hội.
- Tăng cường giáo dục chính trị - pháp luật: đưa những tư tưởng - chính sách về độc
lập, tự chủ, vì dân và vì đất nước v.v. vào các hoạt động ngoại khóa, cuộc thi các giải
điểm tốt trong học tập. Tổ chức các hoạt động giáo dục về đạo đức như thuyết trình,
hội thảo, tọa đàm để gia tăng sự hiểu biết của sinh viên về đạo đức.
- Nâng cao trình độ chuyên môn cho đội ngũ cán bộ, giáo viên, giảng viên trong công
tác giáo dục nhân cách cho sinh viên.
- Giảng dạy cho sinh viên kiến thức chuyên môn, tổng quát và kỹ năng mềm. Mỗi cán
bộ giảng viên không ngừng tu dưỡng đạo đức, giữ gìn hình ảnh cao đẹp về người thầy,
là những tấm gương sáng cho học sinh, sinh viên noi theo.
- Khơi gợi và nêu cao tinh thần yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội. Cần khơi gợi và nêu
cao tình yêu gia đình, yêu quê hương đất nước đó sẽ là động lực giúp học sinh, sinh
viên không ngừng học tập và tu dưỡng.
- Thực hiện tốt Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh” do Đảng ta phát động nhằm kích thích vai trò xung kích của thanh niên, quyết
tâm đào tạo họ thành những người kế thừa xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng”, vừa
“chuyên” như mong mỏi của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
c. Về xã hội
Phải đấu tranh không ngừng chống lại những hành vi gây hại đến nhận thức đạo
đức của sinh viên và phải đưa ra các biện pháp quyết liệt để xử lý các cá nhân lan
truyền văn hóa đồi trụy hoặc những tư tưởng lệch lạc. Cần phải nâng cao ý thức đạo
đức và lý tưởng sống cho sinh viên, hướng dẫn họ phòng tránh các hành vi xấu. Tăng
cường công tác giám sát và kiểm tra các hành vi không đúng đạo đức của các cá nhân
trong cộng đồng sinh viên, từ đó có biện pháp kỷ luật phù hợp để ngăn chặn tình trạng này càng sớm càng tốt. 14 KẾT LUẬN
Tư tưởng và các chuẩn mực “Trung với nước, hiếu với dân”, “Cần, kiệm, liêm,
chính, chí công vô tư” của Chủ tịch Hồ Chí Minh mãi là những giá trị đạo đức cao đẹp
của thời đại. Người đã từng khẳng định: “Thanh niên là người chủ tương lai của nước
nhà. Nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh một phần lớn là do các thanh niên. Thanh
niên muốn làm người chủ tương lai cho xứng đáng thì ngay hiện tại phải rèn luyện tinh
thần và lực lượng của mình, phải ra làm việc để chuẩn bị cái tương lai đó”. Học tập và
làm theo tấm gương đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh là việc làm hết sức cần thiết và
có ý nghĩa, góp phần tạo bước chuyển biến mạnh mẽ về ý thức tu dưỡng, rèn luyện đối
với mỗi người, nhất là với “lớp người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội”.
Trong thời kỳ hội nhập kinh tế, công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước hiện
nay, lối sống của sinh viên Việt Nam càng cần phải được chú trọng, giáo dục, tăng
cường rèn luyện, bồi dưỡng. Mỗi sinh viên phải luôn tự tu dưỡng đạo đức, coi đó là
công việc hàng ngày, thường xuyên được rèn luyện, được thể hiện, cũng như “ngọc
càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”. Có thể nói, học tập và rèn luyện đạo
đức cách mạng theo Bác để “phần tốt của mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân”,
và những giá trị này sẽ tiếp thêm sức mạnh cho mỗi chúng ta để thực hiện mục tiêu, lý
tưởng của bản thân và góp phần vào sự nghiệp chung của đất nước. 15
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr. 292-293
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.11, tr. 601
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6, tr. 16
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.15, tr. 622
Báo tuổi trẻ Đại học Đà Nẵng
Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự Thật, H, 2011, t.6. 16
(Đề cương) Đề tài 1: Nguồn gốc hình thành TTHCM? Trong các nhân tố tạo nên
TTHCM, nhân tố nào đóng vai trò quyết định đối với bản chất khoa học và cách
mạng của TTHCM? Tại sao?
PHẦN MỞ ĐẦU
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: Khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh
1.1. Khái niệm tư tưởng
- Tư tưởng là sự phản ánh hiện thực trong ý thức, là biểu hiện quan hệ của con người
với thế giới chung quanh.
- “Tư tưởng” ở đây dùng với nghĩa là một hệ thống những quan điểm, quan niệm, luận
điểm được xây dựng trên một nền tảng triết học nhất quán, đại biểu cho ý chí, nguyện
vọng của một giai cấp, một dân tộc được hình thành trên cơ sở thực tiễn nhất định và
trở lại chỉ đạo hoạt động thực tiễn, cải tạo hiện thực.
1.2. Khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh
Theo Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt Nam (2011): “Tư
tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề
cơ bản của cách mạng Việt Nam. Kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ
nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị
truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại; là tài sản tinh
thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự
nghiệp cách mạng của nhân dân ta giành thắng lợi.”
Chương 2: Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh
2.1. Cơ sở thực tiễn
● Thực tiễn Việt Nam cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX
- Biến đổi về cơ cấu giai cấp, tầng lớp trong xã hội → Sự ra đời của giai cấp công nhân
và phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân.
- Các mâu thuẫn trong lòng xã hội Việt Nam ngày càng gay gắt (giữa dân tộc Việt Nam
với thực dân Pháp, giữa nông dân với địa chủ phong kiến).
- Phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc dấy lên mạnh mẽ nhưng đều thất bại →
Cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước diễn ra sâu sắc.
→ Con đường cứu nước mới
● Thực tiễn thế giới cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX
- Chủ nghĩa tư bản chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, trở thành kẻ thù chung
của các dân tộc thuộc địa và giai cấp công nhân thế giới.
- Cách mạng Tháng mười Nga năm 1917 thành công, mở ra một thời đại mới trong lịch sử loài người. 17
- Ngày 2/3/1919, Quốc tế Cộng sản ra đời trở thành Bộ tham mưu, lãnh đạo phong trào cách mạng thế giới.
2.2. Cơ sở lý luận
● Giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam
- Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam
- Tinh thần đoàn kết, nhân ái, khoan dung trong cộng đồng, hòa hiếu với các dân tộc lân bang
- Tinh thần cần cù, dũng cảm, sáng tạo, lạc quan
- Tự hào về lịch sử, trân trọng nền văn hóa, ngôn ngữ, phong tục, tập quán và những
giá trị tốt đẹp khác của dân tộc
● Tinh hoa văn hóa nhân loại
- Tinh hoa văn hóa phương Đông + Nho giáo + Phật giáo + Lão giáo
+ Tư tưởng của Mặc Tử, Hàn Phi Tử, Quản Tử, những trào lưu tư tưởng tiến bộ
thời cận hiện đại ở Ấn Độ, Trung Quốc.
- Tinh hoa văn hóa phương Tây
+ Quan điểm nhân quyền, dân quyền trong bản Tuyên ngôn Độc lập của Mỹ
(1776), bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp (1791).
+ Nghiên cứu văn hóa nhân loại tại những trung tâm chính trị, kinh tế văn hóa lớn
ở các cường quốc trên thế giới như Mỹ, Anh, Pháp, Nga, Trung Quốc,…
● Chủ nghĩa Mác - Lênin
+ Chủ nghĩa Mác – Lênin là cơ sở thế giới quan và phương pháp luận trong nhận
thức và hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh.
+ Tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh trở thành người cộng sản với tầm vóc trí tuệ lớn.
+ HCM không những đã vận dụng sáng tạo mà còn bổ sung, phát triển và làm
phong phú chủ nghĩa Mác - Lênin trong thời đại mới.
2.3. Nhân tố chủ quan Hồ Chí Minh
● Phẩm chất Hồ Chí Minh
- Hồ Chí Minh có lý tưởng cao cả và hoài bão cứu dân cứu nước, Người có ý chí, nghị lực to lớn.
- Là người có bản lĩnh tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo, giàu tính phê phán, đổi mới và cách mạng.
- Là người có tầm nhìn chiến lược, bao quát thời đại. Có năng lực tổng kết thực tiễn,
năng lực tiên tri, dự báo tương lai chính xác. 18
- Là người suốt đời tận trung với nước, tận hiếu với dân, suốt đời đấu tranh cho sự
nghiệp cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam và của cách mạng thế giới.
● Tài năng hoạt động, tổng kết thực tiễn phát triển lý luận
- Hồ Chí Minh là người có vốn sống và thực tiễn cách mạng phong phú, phi thường.
- Người thấu hiểu về phong trào giải phóng dân tộc, về xây dựng chủ nghĩa xã hội, về
xây dựng Đảng Cộng sản…
- Là nhà tổ chức vĩ đại của cách mạng Việt Nam. Người đã hiện thực hóa tư tưởng, lý
luận cách mạng thành hiện thực sinh động; đồng thời tổng kết thực tiễn cách mạng, bổ
sung, phát triển lý luận, tư tưởng cách mạng.
Chương 3: Nhân tố đóng vai trò quyết định bản chất khoa học và cách mạng của
Tư tưởng Hồ Chí Minh
3.1. Chủ nghĩa Mác Lênin là cơ sở quyết định bản chất khoa học và cách mạng
của Tư tưởng Hồ Chí Minh
● Bản chất khoa học trong tư tưởng Hồ Chí Minh
- Biểu đạt tư tưởng cách mạng đã chạm đến điểm cốt lõi của chân lý.
- Tính cách mạng thể hiện sâu sắc ở dũng khí tự phê phán và phê phán.
- Kiên định lập trường và giữ vững quan điểm cách mạng.
● Bản chất cách mạng trong tư tưởng Hồ Chí Minh
- Nhận thức thấu đáo, giải quyết sáng tạo tính phổ biến và tính đặc thù của cách mạng Việt Nam.
- Cống hiến nhiều tư tưởng, quan điểm mới mẻ về Đảng.
- Giá trị lý luận đặc sắc của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội.
3.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác
- Lênin trong hoàn cảnh lịch sử mới của thời đại ở Việt Nam
● Tư tưởng HCM có mối quan hệ biện chứng, thống nhất với chủ nghĩa Mác - Lênin
- Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần IX (2001), lần thứ XI đều viết: “Tư tưởng
Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản
của cách mạng Việt Nam, kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa
Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta.”
- Chính thế giới quan và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin đã giúp Hồ Chí
Minh vận dụng lý luận và kinh nghiệm thực tiễn phong phú của mình để giải quyết
những vấn đề thực tiễn của cách mạng Việt Nam, tìm ra con đường cứu nước, giải
phóng dân tộc ta, đưa dân tộc ta phát triển.
- Không những vận dụng sáng tạo, Người còn bổ sung, phát triển và làm phong phú
chủ nghĩa Mác- Lênin trong thời đại mới.
● Tư tưởng HCM là kết quả của sự vận dụng sáng tạo và phát triển chủ
nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam
- Luận điểm sáng tạo lớn đầu tiên của Hồ Chí Minh là luận điểm về chủ nghĩa thực 19
dân và vấn đề giải phóng dân tộc.
- Hồ Chí Minh tiếp thu, vận dụng quan điểm giai cấp và đấu tranh giai cấp của chủ
nghĩa Mác – Lênin một cách sáng tạo, Người tìm thấy con đường duy nhất đúng đắn
cho dân tộc, đó là: “Làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”.
- Vấn đề chủ nghĩa xã hội và con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, Hồ Chí
Minh khẳng định: Sau khi cơ bản hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ, chúng ta
nhất định phải quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
- Hồ Chí Minh đã xác định quy luật hình thành của Đảng là “kết hợp chủ
nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước”
- Người đã xác định: Phải giành chính quyền bằng bạo lực, bằng khởi nghĩa vũ trang
và chiến tranh cách mạng nếu kẻ thù ngoan cố, không chịu hạ vũ khí.
- Nhà nước của dân, do dân và vì dân.
- Hồ Chí Minh đã có các quan điểm sáng tạo về chiến lược đại đoàn kết dân tộc theo
phương châm: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết; Thành công, thành công, đại thành công”.
PHẦN KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO 20