Vận dụng học thuyết giá trị thặng dư - Kinh tế Chính Trị Mac | Trường Đại học Vinh

Vận dụng học thuyết giá trị thặng dư - Kinh tế Chính Trị Mac | Trường Đại học Vinh được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!

Môn:

Kinh tế ( CTKT 2) 32 tài liệu

Trường:

Đại học Vinh 147 tài liệu

Thông tin:
3 trang 6 tháng trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Vận dụng học thuyết giá trị thặng dư - Kinh tế Chính Trị Mac | Trường Đại học Vinh

Vận dụng học thuyết giá trị thặng dư - Kinh tế Chính Trị Mac | Trường Đại học Vinh được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!

74 37 lượt tải Tải xuống
Vận dụng học thuyết giá trị thặng dư của C.Mác trong phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Học thuyết giá trị thặng của Mác ra đời trên sở nghiên cứu phương thức sản xuất bản
chủ nghĩa. Phát hiện giá trị thặng làm nổ ra cuộc cách mạng thực sự trong toàn bộ khoa học
kinh tế, trang bị cho giai cấp sản thứ khí sắc bén trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa
bản. Ngày nay, từ quan niệm đổi mới về chủ nghĩa hội, học thuyết này còn ý nghĩa quan
trọng trong sự nghiệp xây dựng, phát triển nền kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
nước ta, việc nghiên cứu, khai thác để vận dụng học thuyết giá trị thặngcủa Mác trở thành
việc làm cần thiết trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Học thuyết giá trị thặng của Mác được xây dựng trên snghiên cứu lịch sử nền sản xuất
hàng hoá hàng hóa bản chủ nghĩa.Cho nên, chính Mác chứ không phải ai khác một trong
những người nghiên cứu sâu sắc về nền kinh tế hàng hóa bản chủ nghĩa hay gọi kinh tế thị
trường. Trong nền kinh tế thị trường định hướng hội chủ nghĩa nước ta hiện nay, với nhiều
thành phần kinh tế trong đó có thành phần kinh tế tư nhân, không thể phủ nhận chủ doanh nghiệp
bản nhân thông qua hoạt động sản xuất kinh doanh hợp pháp đã góp phần thúc đẩy lực
lượng sản xuất phát triển nâng cao mức sống của người lao động. Tuy nhiên, xét một cách
biện chứng thì thu nhập của chủ doanh nghiệp bản nhân lợi nhuận (tức giá trị thặng dư)
nên vẫn tồn tại bóc lột giá trị thặng dư. Cũng cần khẳng định chiếm đoạt giá trị thặng đối
lập với hội chủ nghĩa chúng ta đang xây dựng nhưng chừng nào vẫn còn tác dụng
chúng ta vẫn phải tạo điều kiện cho nó tồn tại và làm cho nó gia tăng. Và như vậy, việc vận dụng
học thuyết giá trị thặng dư trong phát triển nền kinh tế thị trường định hướnghội chủ nghĩa
nước ta là cần thiết, tập trung khai thác, vận dụng những vấn đề sau:
Một là, khai thác những di sản luận C. Mác về phương pháp sản xuất ra giá trị thặngtrong
nền kinh tế hàng hóa tư bản chủ nghĩa.
Ngay từ khi mới ra đời, chủ nghĩa bản đã phát triển nền kinh tế hàng hóa, thông qua th
trường, giai cấp sản mới mua được liệu sản xuất sức lao động, mới bán được hàng hóa
bóc lột được giá trị thặng do người lao động tạo ra. Trong nền kinh tế của chủ nghĩa
bản, dưới sự tác động của các quy luật kinh tế, trong đó quy luật giá trị thặng dư, nhà bản
thực hiện phương pháp sản xuất giá trị thặng tuyệt đối thực hiện kéo dài ngày lao động,
tăng cường độ lao động nhưng phương pháp này vấp phải những phản kháng của người lao động
nên các nhà bản thực hiện phương pháp sản xuất giá trị thặng tương đối bằng cách ứng
dụng những thành tựu khoa học công nghệ vào sản xuất để tăng năng suất lao động hội, bên
cạnh đó các nhà bản còn tích cực cải tiến tổ chức sản sức, tiết kiệm chi phí sản xuất, tìm hiểu
nhu cầu của thị trường. Các tiềm năng về vốn, khoa học công nghệ, trình độ quản sản xuất
kinh doanh được khơi dậy phát triển mạnh mẽ, từ đó làm cho nền kinh tế năng động. Trong
điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng hội chủ nghĩa nước ta, các thành phần kinh tế
cần phải vận dụng các phương pháp sản xuất giá trị thặng dư các nhàbản đã vận dụng để
phát triển sản xuất đặc biệt chú trọng vận dụng phương pháp sản xuất giá trị thặng tương
đối để năng cao năng suất lao động, thúc đẩy tăng trưởng phát triển kinh tế kết hợp với phân
phối theo lao động hiệu quả kinh tế nhằm nâng cao đời sống vật chất tinh thần cho người
lao động.
Những năm gần đây, Việt Nam đã nhiều nỗ lực mạnh mẽ trong việc cải thiện năng suất lao
động (NSLĐ), nhờ đó đã những cải thiện đáng kể, cả về giá trị tốc độ. Theo Báo cáo của
Tổ chức Năng suất Châu Á (APO) năm 2020 đã cho thấy: năng suất lao động của Việt Nam được
cải thiện nét, bình quân giai đoạn 2016-2020 tăng 5,8%/năm, cao hơn giai đoạn 2011-2015
(4,3%) vượt mục tiêu đề ra (5%). Đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) bình
quân 5 năm đạt khoảng 45,2% (mục tiêu đề ra là 30-35%). Cũng theo Báo cáo 2020 của Tổ chức
Năng suất châu Á (APO), năng suất lao động Việt Nam tụt hậu so với Nhật Bản 60 năm, so với
Malaysia 40 năm Thái Lan 10 năm. Điều này cho thấy Việt Nam cần phải nhiều nỗ lực
mạnh mẽ hơn nữa trong việc cải thiện năng suất quốc gia.
Hai, khai thác những luận điểm của Mác về những biện pháp, thủ đoạn nhằm thu được nhiều
giá trị thặng dư của các nhà tư bản để góp phần vào việc quản lý thành phần kinh tế tư nhân( đặc
biệt kinh tế bản nhân) trong nền kinh tế nước ta sao cho vừa khuyến khích phát triển,
vừa hướng thành phần kinh tế này đi vào quỹ đạo của chủ nghĩa hội. Điều này cần chính
sách thúc đẩy thành phần kinh tế này để qua đó thu hút được nhiều lao động hội, sử dụng
nhiều trình độ lao động để tạo ra nhiều sản phẩm thỏa mãn nhu cầu hội. Trong thực tế, sau
hơn 30 năm kể từ khi Luật đầu tư được ban hành năm 1987, đây là văn bản pháp quan trọng nhất
chính thức hóa việc tiếp nhận đầu nước ngoài, tạo điều kiện mời gọi các doanh nghiệp vốn
đầu nước ngoài vào Việt Nam. Hơn 30 năm qua, khu vực vốn đầu trực tiếp nước ngoài
(FDI) đang trở thành một phần không thể thiếu của nền kinh tế, đóng góp không nhỏ sự phát
triển kinh tế- xã hội ở Việt Nam. Theo thống kê của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, sau hơn 30 năm đón
vốn FDI, từ năm 1988 đến tháng 8/2018, 63 tỉnh, thành phố của cả nước thu hút 26.438 dự án
FDI của 129 quốc gia vùng lãnh thổ còn hiệu lực, với tổng vốn đăng 333,83 tỷ USD. Vốn
FDI đầu vào 19/21 ngành trong hệ thống phân ngành kinh tế quốc dân. Đầu nước ngoài
hiện nguồn vốn bổ sung quan trọng chiếm khoảng 25% tổng vốn đầu cả nước, đóng góp
khoảng 20% GDP. Năm 2017, khu vực FDI đóng góp khoảng 8 tỷ USD, chiếm 14,4% tông thu
ngân sách. 10 đối tác đứng đầusố vốn đăng ký khoảng 82%, trong đó phải kể đến Hàn Quốc,
Nhật Bản, Singapor và Đài Loan (Trung Quốc).
Nhưng để đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa, nhà nước cần phải quản lý doanh nghiệp này để
nhằm hạn chế việc bóc lột người lao động quá mức như kéo dài thời gian lao động vượt quá thời
gian quy định của luật lao động mà không có sự thống nhất của người lao động, việc cắt xén tiền
công, cắt xén các chế độ của người lao động như bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm
hội, bảo hiểm tai nạn lao động. Việc nghiên cứu luận giá trị thặng sẽ cho chúng ta thấy
rằng chúng ta thừa nhận bóc lột này không thể như trong chế độ tư bản chủ nghĩa được mà người
lao động cần phải được bảo vệ thông qua hệ thống pháp luật của Việt Nam. Thực tế, nhà nước ta
đã hệ thống luật pháp bảo vệ người lao động như: Luật lao động, Luật bảo hiểm, quy định về
tiền lương tối thiểu cho khu vực doanh nghiệp nhưng vẫn chưa đầy đủ. Tuy nhiên, yếu kém nhất
hiện nay trong bảo vệ người lao động thiếu sự kiểm soát chặt chẽ xử vi phạm nghiêm
minh của các quan chức năng đối với doanh nghiệp vốn đầu nước ngoài. Nhiều cuộc
đình công, bãi công của công nhân nước ta các doanh nghiệp vốn đầu nước ngoài chiếm
tỷ lệ khá cao trong các cuộc đình công đặc biệt năm 2011 đạt kỷ lục với 857 cuộc đình công.
Hiện nay, tuy đã giảm nhưng vẫn còn diễn ra các cuộc đình công nguyên nhân dẫn đến
liên quan đến các vấn đề về bảo hiểm xã hội, tiền lương, chế độ ngày nghỉ, chất lượng bữa ăn ca.
Nếu khắc phục được những yếu kém này, chúng ta sthúc đẩy nền kinh tế phát triển đồng thời
đảm bảo lợi ích chính đáng của người lao động, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền
kinh tế thị trường.
Ba là, nghiên cứu học thuyết giá trị thặng trong chủ nghĩa bản để chế, chính sách
phân phối giá trị thặng dư đảm bảo công bằng trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam
C.Mác đã khẳng định giá trị thặng dư không phải do tư bản (tiền) được đầu tư vào sản xuất
sinh ra, hoặc do máy móc tạo ra. Giá trị thặng dư là do lao động thặng dư của người lao động tạo
ra. Hiện nay, trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, người lao động
không chỉ bao gồm người công nhân trực tiếp đứng máy, mà còn những người lao động khác
như lao động của những người chủ doanh nghiệp, lao động của bộ phận quản sản xuất kinh
doanh… Nếu người chủ doanh nghiệp cũng người trực tiếp quản thì lao động của họ cũng
tạo ra giá trị thặng dư. Lao động quản gọi lao động phức tạp. Như vậy, chủ doanh nghiệp
được hưởng một phần giá trị thặng từ hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
hoàn toàn chính đáng. Vấn đề đặt ra làm sao lượng hóa chính xác số lượng lao động thặng
của từng bộ phận, từng người lao động để thực hiện phân phối giá trị thặng một cách công
bằng trong các doanh nghiệp hiện nay.
Doanh nghiệp nhà nước doanh nghiệp nhân đều hai hình thức phân phối: Theo
tiền lương, tiền công phân phối theo phúc lợi. Vấn đề lượng hóa một cách chính xác số
lượng, chất lượng lao động. Số lượng thì đơn giản, nhưng về chất lượng thì khó hơn. Mặc dù, lao
động phức tạp bội số của lao động giản đơn, nhưng bội số bao nhiêu thì rất khó. Vậy cần
phải dựa vào hai yếu tố: Một dựa trên sự thỏa thuận hợp đồng của người thuê lao động
người lao động, mối quan hệ này được điều chỉnh theo quy luật của thị trường, quy định mặt
bằng chung về giá cả sức lao động, về cạnh tranh của doanh nghiệp để thu hút lao động bằng tiền
lương, tiền thưởng. Hai là, sự điều chỉnh của Nhà nước bằng chính sách tiền lương luật lao
động. N nước quy định lương tối thiểu điều kiện làm việc, về bảo hiểm…của người lao
động tại các doanh nghiệp.
Như vậy hiện nay nước ta, mục đích nghiên cứu kinh tế chính trị nói chung luận giá trị
thặng dư nói riêng có sự thay đổi. Nếu trước đây, mục đích nghiên cứu của kinh tế chính trị là để
phê phán phương thức sản xuất TBCN tìm ra bản chất bóc lột giá trị thặng dư của CNTB cổ điển
xu hướng thay thế CNTB bằng một hội tốt đẹp hơn, thì giờ đây, bên cạnh mục đích như
trước, chúng ta còn nghiên cứu, khai thác học thuyết giá trị thặng dư với tư cách là một hệ thống
luận phong phú sâu sắc nhằm vận dụng vào công cuộc xây dựng phát triển kinh tế thị
trường định hướng XHCN.
| 1/3

Preview text:

Vận dụng học thuyết giá trị thặng dư của C.Mác trong phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Học thuyết giá trị thặng dư của Mác ra đời trên cơ sở nghiên cứu phương thức sản xuất tư bản
chủ nghĩa. Phát hiện giá trị thặng dư làm nổ ra cuộc cách mạng thực sự trong toàn bộ khoa học
kinh tế, trang bị cho giai cấp vô sản thứ vũ khí sắc bén trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa tư
bản. Ngày nay, từ quan niệm đổi mới về chủ nghĩa xã hội, học thuyết này còn có ý nghĩa quan
trọng trong sự nghiệp xây dựng, phát triển nền kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Ở nước ta, việc nghiên cứu, khai thác để vận dụng học thuyết giá trị thặng dư của Mác trở thành
việc làm cần thiết trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Học thuyết giá trị thặng dư của Mác được xây dựng trên cơ sở nghiên cứu lịch sử nền sản xuất
hàng hoá hàng hóa tư bản chủ nghĩa.Cho nên, chính Mác chứ không phải ai khác là một trong
những người nghiên cứu sâu sắc về nền kinh tế hàng hóa tư bản chủ nghĩa hay gọi là kinh tế thị
trường. Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, với nhiều
thành phần kinh tế trong đó có thành phần kinh tế tư nhân, không thể phủ nhận chủ doanh nghiệp
tư bản tư nhân thông qua hoạt động sản xuất kinh doanh hợp pháp đã góp phần thúc đẩy lực
lượng sản xuất phát triển và nâng cao mức sống của người lao động. Tuy nhiên, xét một cách
biện chứng thì thu nhập của chủ doanh nghiệp tư bản tư nhân là lợi nhuận (tức giá trị thặng dư)
nên vẫn tồn tại bóc lột giá trị thặng dư. Cũng cần khẳng định chiếm đoạt giá trị thặng dư là đối
lập với xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang xây dựng nhưng chừng nào nó vẫn còn có tác dụng
chúng ta vẫn phải tạo điều kiện cho nó tồn tại và làm cho nó gia tăng. Và như vậy, việc vận dụng
học thuyết giá trị thặng dư trong phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
nước ta là cần thiết, tập trung khai thác, vận dụng những vấn đề sau:
Một là, khai thác những di sản lý luận C. Mác về phương pháp sản xuất ra giá trị thặng dư trong
nền kinh tế hàng hóa tư bản chủ nghĩa.
Ngay từ khi mới ra đời, chủ nghĩa tư bản đã phát triển nền kinh tế hàng hóa, thông qua thị
trường, giai cấp tư sản mới mua được tư liệu sản xuất và sức lao động, mới bán được hàng hóa
và bóc lột được giá trị thặng dư do người lao động tạo ra. Trong nền kinh tế của chủ nghĩa tư
bản, dưới sự tác động của các quy luật kinh tế, trong đó có quy luật giá trị thặng dư, nhà tư bản
thực hiện phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối là thực hiện kéo dài ngày lao động,
tăng cường độ lao động nhưng phương pháp này vấp phải những phản kháng của người lao động
nên các nhà tư bản thực hiện phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối bằng cách ứng
dụng những thành tựu khoa học công nghệ vào sản xuất để tăng năng suất lao động xã hội, bên
cạnh đó các nhà tư bản còn tích cực cải tiến tổ chức sản sức, tiết kiệm chi phí sản xuất, tìm hiểu
nhu cầu của thị trường. Các tiềm năng về vốn, khoa học công nghệ, trình độ quản lý sản xuất
kinh doanh được khơi dậy và phát triển mạnh mẽ, từ đó làm cho nền kinh tế năng động. Trong
điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, các thành phần kinh tế
cần phải vận dụng các phương pháp sản xuất giá trị thặng dư mà các nhà tư bản đã vận dụng để
phát triển sản xuất đặc biệt là chú trọng vận dụng phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương
đối để năng cao năng suất lao động, thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế kết hợp với phân
phối theo lao động và hiệu quả kinh tế nhằm nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người lao động.
Những năm gần đây, Việt Nam đã có nhiều nỗ lực mạnh mẽ trong việc cải thiện năng suất lao
động (NSLĐ), nhờ đó đã có những cải thiện đáng kể, cả về giá trị và tốc độ. Theo Báo cáo của
Tổ chức Năng suất Châu Á (APO) năm 2020 đã cho thấy: năng suất lao động của Việt Nam được
cải thiện rõ nét, bình quân giai đoạn 2016-2020 tăng 5,8%/năm, cao hơn giai đoạn 2011-2015
(4,3%) và vượt mục tiêu đề ra (5%). Đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) bình
quân 5 năm đạt khoảng 45,2% (mục tiêu đề ra là 30-35%). Cũng theo Báo cáo 2020 của Tổ chức
Năng suất châu Á (APO), năng suất lao động Việt Nam tụt hậu so với Nhật Bản 60 năm, so với
Malaysia 40 năm và Thái Lan 10 năm. Điều này cho thấy Việt Nam cần phải có nhiều nỗ lực
mạnh mẽ hơn nữa trong việc cải thiện năng suất quốc gia.
Hai là, khai thác những luận điểm của Mác về những biện pháp, thủ đoạn nhằm thu được nhiều
giá trị thặng dư của các nhà tư bản để góp phần vào việc quản lý thành phần kinh tế tư nhân( đặc
biệt là kinh tế tư bản tư nhân) trong nền kinh tế ở nước ta sao cho vừa khuyến khích phát triển,
vừa hướng thành phần kinh tế này đi vào quỹ đạo của chủ nghĩa xã hội. Điều này cần có chính
sách thúc đẩy thành phần kinh tế này để qua đó thu hút được nhiều lao động xã hội, sử dụng
nhiều trình độ lao động để tạo ra nhiều sản phẩm thỏa mãn nhu cầu xã hội. Trong thực tế, sau
hơn 30 năm kể từ khi Luật đầu tư được ban hành năm 1987, đây là văn bản pháp quan trọng nhất
chính thức hóa việc tiếp nhận đầu tư nước ngoài, tạo điều kiện mời gọi các doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Hơn 30 năm qua, khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
(FDI) đang trở thành một phần không thể thiếu của nền kinh tế, đóng góp không nhỏ sự phát
triển kinh tế- xã hội ở Việt Nam. Theo thống kê của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, sau hơn 30 năm đón
vốn FDI, từ năm 1988 đến tháng 8/2018, 63 tỉnh, thành phố của cả nước thu hút 26.438 dự án
FDI của 129 quốc gia và vùng lãnh thổ còn hiệu lực, với tổng vốn đăng ký 333,83 tỷ USD. Vốn
FDI đầu tư vào 19/21 ngành trong hệ thống phân ngành kinh tế quốc dân. Đầu tư nước ngoài
hiện là nguồn vốn bổ sung quan trọng chiếm khoảng 25% tổng vốn đầu tư cả nước, đóng góp
khoảng 20% GDP. Năm 2017, khu vực FDI đóng góp khoảng 8 tỷ USD, chiếm 14,4% tông thu
ngân sách. 10 đối tác đứng đầu có số vốn đăng ký khoảng 82%, trong đó phải kể đến Hàn Quốc,
Nhật Bản, Singapor và Đài Loan (Trung Quốc).
Nhưng để đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa, nhà nước cần phải quản lý doanh nghiệp này để
nhằm hạn chế việc bóc lột người lao động quá mức như kéo dài thời gian lao động vượt quá thời
gian quy định của luật lao động mà không có sự thống nhất của người lao động, việc cắt xén tiền
công, cắt xén các chế độ của người lao động như bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm
xã hội, bảo hiểm tai nạn lao động. Việc nghiên cứu lý luận giá trị thặng dư sẽ cho chúng ta thấy
rằng chúng ta thừa nhận bóc lột này không thể như trong chế độ tư bản chủ nghĩa được mà người
lao động cần phải được bảo vệ thông qua hệ thống pháp luật của Việt Nam. Thực tế, nhà nước ta
đã có hệ thống luật pháp bảo vệ người lao động như: Luật lao động, Luật bảo hiểm, quy định về
tiền lương tối thiểu cho khu vực doanh nghiệp nhưng vẫn chưa đầy đủ. Tuy nhiên, yếu kém nhất
hiện nay trong bảo vệ người lao động là thiếu sự kiểm soát chặt chẽ và xử lý vi phạm nghiêm
minh của các cơ quan chức năng đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Nhiều cuộc
đình công, bãi công của công nhân nước ta ở các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chiếm
tỷ lệ khá cao trong các cuộc đình công đặc biệt là năm 2011 đạt kỷ lục với 857 cuộc đình công.
Hiện nay, tuy đã giảm nhưng vẫn còn diễn ra các cuộc đình công mà nguyên nhân dẫn đến có
liên quan đến các vấn đề về bảo hiểm xã hội, tiền lương, chế độ ngày nghỉ, chất lượng bữa ăn ca.
Nếu khắc phục được những yếu kém này, chúng ta sẽ thúc đẩy nền kinh tế phát triển đồng thời
đảm bảo lợi ích chính đáng của người lao động, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường.
Ba là, nghiên cứu học thuyết giá trị thặng dư trong chủ nghĩa tư bản để có cơ chế, chính sách
phân phối giá trị thặng dư đảm bảo công bằng trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
C.Mác đã khẳng định giá trị thặng dư không phải do tư bản (tiền) được đầu tư vào sản xuất
sinh ra, hoặc do máy móc tạo ra. Giá trị thặng dư là do lao động thặng dư của người lao động tạo
ra. Hiện nay, trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, người lao động
không chỉ bao gồm người công nhân trực tiếp đứng máy, mà còn có những người lao động khác
như lao động của những người chủ doanh nghiệp, lao động của bộ phận quản lý sản xuất kinh
doanh… Nếu người chủ doanh nghiệp cũng là người trực tiếp quản lý thì lao động của họ cũng
tạo ra giá trị thặng dư. Lao động quản lý gọi là lao động phức tạp. Như vậy, chủ doanh nghiệp
được hưởng một phần giá trị thặng dư từ hoạt động sản xuất và kinh doanh của doanh nghiệp là
hoàn toàn chính đáng. Vấn đề đặt ra làm sao lượng hóa chính xác số lượng lao động thặng dư
của từng bộ phận, từng người lao động để thực hiện phân phối giá trị thặng dư một cách công
bằng trong các doanh nghiệp hiện nay.
Doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư nhân đều có hai hình thức phân phối: Theo
tiền lương, tiền công và phân phối theo phúc lợi. Vấn đề là lượng hóa một cách chính xác số
lượng, chất lượng lao động. Số lượng thì đơn giản, nhưng về chất lượng thì khó hơn. Mặc dù, lao
động phức tạp là bội số của lao động giản đơn, nhưng bội số là bao nhiêu thì rất khó. Vậy cần
phải dựa vào hai yếu tố: Một là dựa trên sự thỏa thuận hợp đồng của người thuê lao động và
người lao động, mối quan hệ này được điều chỉnh theo quy luật của thị trường, quy định mặt
bằng chung về giá cả sức lao động, về cạnh tranh của doanh nghiệp để thu hút lao động bằng tiền
lương, tiền thưởng. Hai là, sự điều chỉnh của Nhà nước bằng chính sách tiền lương và luật lao
động. Nhà nước quy định lương tối thiểu và điều kiện làm việc, về bảo hiểm…của người lao
động tại các doanh nghiệp.
Như vậy hiện nay ở nước ta, mục đích nghiên cứu kinh tế chính trị nói chung và lý luận giá trị
thặng dư nói riêng có sự thay đổi. Nếu trước đây, mục đích nghiên cứu của kinh tế chính trị là để
phê phán phương thức sản xuất TBCN tìm ra bản chất bóc lột giá trị thặng dư của CNTB cổ điển
và xu hướng thay thế CNTB bằng một xã hội tốt đẹp hơn, thì giờ đây, bên cạnh mục đích như
trước, chúng ta còn nghiên cứu, khai thác học thuyết giá trị thặng dư với tư cách là một hệ thống
lý luận phong phú và sâu sắc nhằm vận dụng vào công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế thị
trường định hướng XHCN.