



Preview text:
lOMoAR cPSD| 61601590
Đề bài: Vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức trong cuộc
sống, học tập của sinh viên. LÝ LUẬN:
- Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lạicon
người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và
tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác. Ý thức là kết quả của quá trình phát triển tự
nhiên (bộ óc người và mối quan hệ giữa con người và thế giới xung quanh) và lịch
sử xã hội (lao động và ngôn ngữ). Ý thức mang bản chất xã hội, là hình ảnh chủ
quan của thế giới khách quan, là sự phản ánh tích cực, tự giác, chủ động thế giới
khách quan vào bộ não con người thông qua hoạt động thực tiễn.
- Theo chủ nghĩa duy vật biện chứng, vật chất và ý thức có mối quan hệ biệnchứng,
trong đó vật chất quyết định ý thức, còn ý thức tác động trở lại vật chất.
- Vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức:
+ Thứ nhất, vật chất quyết định nguồn gốc của ý thức. Vật chất tồn tại khách quan,
độc lập với ý thức nên vật chất là cái có trước, tính thứ nhất; còn ý thức chỉ là sự
phản ánh vật chất vào trong bộ óc người nên ý thức là cái có sau, tính thứ hai. Phải
có sự vận động của vật chất trong tự nhiên và trong xã hội mới có sự ra đời của ý thức.
+ Thứ hai, vật chất quyết định nội dung của ý thức. Dưới bất cứ hình thức nào, ý
thức đều là sự phản ánh hiện thực khách quan và nội dung của ý thức là kết quả của
sự phản ánh hiện thực khách quan trong đầu óc con người. Sự phát triển của hoạt
động thực tiễn là động lực mạnh mẽ quyết định tính phong phú và độ sâu sắc nội
dung của ý thức con người qua các thế hệ.
+ Thứ ba, vật chất quyết định bản chất của ý thức. Ý thức là sự phản ánh tích cực,
sáng tạo hiện thực khách quan, tức là thế giới vật chất được dịch chuyển vào bộ óc
người và được cải biến trong đó. Vậy nên, vật chất là cơ sở để hình thành bản chất của ý thức.
+ Thứ tư, vật chất quyết định phương thức tồn tại và kết cấu của ý thức. Tri thức và
các yếu tố của ý thức đều dựa trên sự phản ánh vật chất.
Ví dụ: Tục ngữ có câu: “Có thực mới vực được đạo”, nghĩa là phải ăn uống đầy đủ
mới có sức để đi theo đạo, hoàn cảnh sẽ quyết định lối suy nghĩ, đời sống vật chất
phải được đáp ứng thì chúng ta mới hướng đến đời sống tinh thần. Điều này đã chứng
minh cho quan niệm về vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức.
- Sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất:
+ Thứ nhất, sự tác động của ý thức đối với vật chất phải thông qua hoạt động thực
tiễn của con người. Nhờ hoạt động thực tiễn, ý thức có thể biến đổi các điều kiện,
hoàn cảnh vật chất để phục vụ cho cuộc sống con người. lOMoAR cPSD| 61601590
+ Thứ hai, vai trò của ý thức thể hiện ở chỗ chỉ đạo hoạt động, hành động của con
người, nó có thể quyết định làm cho hoạt động của con người đúng hay sai, thành
công hay thất bại. Ý thức không trực tiếp tạo ra hay làm thay đổi thế giới mà nó trang
bị cho con người tri thức về hiện thực khách quan để con người xác định mục tiêu,
kế hoạch, hành động nên làm. Sự tác động của ý thức đối với vật chất diễn ra theo hai hướng: *
Tích cực: Khi phản ánh đúng hiện thực, ý thức sẽ là động lực thúc đẩy vật chấtphát triển. *
Tiêu cực: Khi phản ánh sai lệch hiện thực, ý thức sẽ kìm hãm sự phát triển củavật chất.
Ví dụ: Do có nhận thức đúng đắn về thực tế nền kinh tế đất nước từ sau Đại hội
Đảng lần thứ VI, Đảng ta chuyển từ nền kinh tế tự cung, tự cấp, quan liêu sang nền
kinh tế thị trường để phát triển đất nước như hôm nay. Điều này cho thấy ý thức đã
phản ánh được thực tiễn và đưa ra mục tiêu, phương hướng để tác động lại vật chất,
tạo sự phát triển cho vật chất. VẬN DỤNG:
- Khi vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức vào đời sống và học
tập của sinh viên, chúng ta có thể dễ dàng tìm đến nhiều phương pháp hữu ích: +
Thứ nhất, vì vật chất quyết định ý thức nên trong nhận thức và hoạt động thực tiễn
đều phải xuất phát từ thực tế khách quan. Là một sinh viên trong thời đại mới, chúng
ta cần nhìn nhận hoàn cảnh sống, điều kiện kinh tế của bản thân để xác định mục
tiêu và phương pháp thực hiện mục tiêu đó. Ví dụ như trong thời buổi dịch bệnh còn
diễn biến khá phức tạp, việc học tập của sinh viên có thể gặp phải một số khó khăn
nhất định, nhưng nếu nhận thức được hoàn cảnh và nắm bắt, tận dụng những lợi thế
của thời đại mới như internet, các thiết bị điện tử tiên tiến, … sinh viên vẫn có thể
đề ra phương pháp hiệu quả, điều chỉnh cuộc sống và học tập của mình một cách
hợp lý. Khi mà chất lượng vật chất ngày càng đi lên, nếu tận dụng tốt điều này, ý
thức học tập của sinh viên sẽ ngày càng cao. Tuy nhiên, cũng có những trường hợp
ngược lại, khi vật chất đi xuống, nếu ý thức được nâng cao thì sinh viên sẽ nhận thức
rõ cần phải ra sức học tập, rèn luyện để phát triển không ngừng, từ đó thay đổi chất
lượng cuộc sống, và đó cũng là trường hợp của những tấm gương vượt khó, học giỏi
để thoát nghèo như thầy giáo Nguyễn Ngọc Ký hay Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi.
Hơn thế nữa, mỗi người cần phải chú ý tôn trọng tính khách và hành động theo quy
luật khách quan. Sinh viên đi học cần nắm rõ và tuân thủ nội quy của nhà trường,
tham gia đầy đủ các tiết học, đóng góp xây dựng bài học và hoàn thành các nhiệm
vụ được giao, khi nghỉ phải xin phép giảng viên. Hay như trong thời buổi dịch bệnh,
sinh viên cần có ý thức tuân thủ các biện pháp phòng chống dịch, ý thức tham gia
các buổi học online, không lơ là, xao nhãng. + Thứ hai, vì ý thức có sự tác động trở
lại đối với vật chất nên cần phải phát huy tính tích cực, năng động sáng tạo của ý
thức. Trong kết cấu của ý thức thì tri thức là yếu tố quan trọng nhất và tri thức là lOMoAR cPSD| 61601590
phương thức tồn tại của ý thức. Vì vậy, sinh viên cần tự giác ôn bài cũ và xem trước
bài mới để có sự chủ động trong học tập.
Trong giờ học, tích cực phát biểu ý kiến, đóng góp, xây dựng bài học, trau dồi thêm
kiến thức, chủ động liên hệ với giảng viên nếu có chỗ chưa hiểu. Bên cạnh đó, sinh
viên cần năng nổ tham gia các câu lạc bộ, các buổi tọa đàm hay lên thư viện đọc
sách để học từ nhiều nguồn khác nhau. Nếu có thể thì nên thử sức với các công việc
bán thời gian hay tham gia các hoạt động thiện nguyện để có cơ hội làm việc thực
tế. Tình cảm là sự rung động của con người trong quan hệ với hiện thực. Nhờ có
tình cảm mà tri thức mới có sức mạnh và là cơ sở cho hành động. Hay nói cách khác,
tình cảm là nguồn động lực quý giá thúc đẩy con người đến với thành công. Trong
khi lựa chọn ngành nghề để theo đuổi, chúng ta thường chọn theo sở thích, đam mê
của mình. Bởi chính nhờ đam mê, nhờ cảm giác vui vẻ khi được làm những điều
mình thích, ta mới có đủ can đảm để vượt lên trên khó khăn. Và tình cảm gia đình,
bạn bè cũng vô cùng quan trọng trong việc tiếp thêm động lực dẫn lối đến thành
công. Niềm tin là một trong những động cơ tinh thần định hướng hoạt động của con
người. Một sinh viên của thời đại mới cần phải đặt niềm tin vào cuộc sống. Trước
hết, đó chính là tin vào bản thân mình, tin rằng mình sẽ làm được để cố gắng phấn
đấu hướng đến mục tiêu đã đề ra. Sau đó là tin vào những chân lý tốt đẹp của xã hội
để rèn luyện nhân cách, trở thành một phiên bản tốt hơn của chính mình. Còn ý chí
biểu hiện sức mạnh giúp con người vượt qua khó khăn, trở ngại để thực hiện mục
đích của mình. Môi trường đại học nói riêng và cuộc sống nói chung luôn tồn tại
nhiều thử thách và cám dỗ, vì vậy, một ý chí kiên định sẽ luôn là công cụ đắc lực
giúp sinh viên bảo vệ chính mình. Ví dụ, sinh viên chúng ta cần kiên quyết tránh xa
các tệ nạn xã hội, tránh nhậu nhẹt, cờ bạc sa đọa hay lười biếng mà trốn học. Học
tập theo câu nói của Lê-nin: “Học - học nữa - học mãi” luôn là phương châm hàng
đầu dành cho mỗi người chúng ta.
+ Thứ ba, cần chống lại bệnh chủ quan, duy ý chí vì nó đã thổi phồng tính tích cực,
sáng tạo của ý thức. Khi gặp phải những vấn đề khó khăn, tuy tích cực là tốt nhưng
sinh viên không nên tích cực hóa mọi thứ, từ đó dẫn đến ngó lơ những bài học đúc
kết được từ thất bại. Việc thổi phồng tính tích cực không khiến sinh viên phát triển,
học được những lỗi sai của bản thân bởi tư duy tích cực quá độ khiến chúng ta trốn
tránh những điểm yếu và nhận định rằng: “Mọi thứ sẽ ổn thôi”. Chúng ta cần nhìn
vào thực tế khách quan, nhìn nhận hoàn cảnh, điều kiện hiện tại của mình để đề ra
mục tiêu và phương hướng giải quyết hiệu quả hơn. Cụ thể là khi đăng ký học phần,
sinh viên cần xem xét học lực, điều kiện sức khỏe, thời gian của bản thân để cân
nhắc, điều chỉnh cho phù hợp để học tập thật hiệu quả.
+ Thứ tư, cần chống lại bệnh bảo thủ, trì trệ vì đã hạ thấp tính tích cực, sáng tạo của
ý thức. Với những thông tin được tiếp nhận, sinh viên cần sử dụng kĩ năng phản biện,
đặt ra những câu hỏi để làm sáng tỏ vấn đề. Không tiếp nhận một chiều, nhìn nhận
vấn đề một cách phiến diện mà phải xem xét, đặt vấn đề trong mối quan hệ đa dạng, lOMoAR cPSD| 61601590
nhiều chiều. Chúng ta không được bảo thủ, cho rằng những quan điểm của mình là
đúng mà hãy tập cách lắng nghe ý kiến của người khác, tiếp thu có chọn lọc và không
để cảm xúc cá nhân chi phối. Một lần nữa, sinh viên cần nhìn vào thực tế để biết khi
nào mình cần thay đổi để không bị tụt hậu so với tiến trình phát triển của xã hội.
+ Thứ năm, khi xem xét các hiện tượng xã hội cần phải tính đến cả điều kiện vật chất
lẫn nhân tố tinh thần, cả điều kiện khách quan lẫn nhân tố chủ quan. Ví dụ, khi sinh
viên muốn tìm một công việc làm thêm thì cần xem xét tính chất công việc có phù
hợp với chuyên ngành không, học được gì từ công việc ấy và khi làm có đảm bảo
được việc học hay không. Có rất nhiều yếu tố chủ quan và khách quan mà chúng ta
cần cân nhắc kỹ lưỡng để tránh trường hợp chỉ lo kiếm tiền mà khiến việc học dang
dở, không đi đến đâu.
- Tóm lại, vật chất và ý thức có mối quan hệ hai chiều, luôn không ngừng tương tác,
tác động qua lại lẫn nhau. Nhận thức đúng đắn về mối quan hệ này sẽ đem đến cho
sinh viên nói riêng và mọi người nói chung những giá trị vô cùng hữu ích trong cuộc sống.