lOMoARcPSD| 61601492
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA NGỮ VĂN
**********
BÀI THUYẾT TRÌNH MÔN TRIẾT HỌC
Đề tài:
VẬN DỤNG QUY LUẬT CHUYỂN HÓA
TỪ NHỮNG SỰ THAY ĐỔI VỀ LƯỢNG
THÀNH NHỮNG SỰ THAY ĐỔI VỀ CHẤT VÀ NGƯỢC LẠI
TRONG NHẬN THỨC VÀ THỰC TIỄN
Giảng viên hướng dẫn: PGS.TS. NGUYỄN NGỌC KHÁ
Lớp: VĂN HỌC VIỆT NAM
Học viên thực hiện: Võ Nguyễn Huỳnh Như
Tsàn Dùng Nhành
Nguyễn Thị Phương Linh
Ngô Trần Xuân Hạnh
Hoàng Nhật Linh
Đặng Nguyễn Hồng Duyên
Nguyễn Hoàng Nhật Khuê
Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 12 năm 2023
lOMoARcPSD| 61601492
MỤC LỤC
A. ĐẶT VẤN ĐỀ
B. NỘI DUNG
1. Cơ sở lý luận
1.1. Các khái niệm
1.1.1. Lượng
1.1.2. Chất
1.1.3. Điểm nút
1.1.4. Bước nhảy
1.2. Mối quan hệ biện chứng giữa lượng và chất
1.3. Ý nghĩa phương pháp luận
2. Vận dụng quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay
đổi về chất và ngược lại trong nhận thức và thực tiễn
2.1. Vận dụng trong chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những sự
thay đổi về chất và ngược lại trong thực tiễn cuộc sống
2.2. Vận dụng quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những
sự thay đổi về chất ngược lại trong nhận thức của bản thân (đối với lĩnh
vực chuyên môn)
C. KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
A. ĐẶT VẤN Đ
Quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi
về chất ngược lại là một trong ba quy luật bản thuộc nguyên lý về sự phát triển
trong chủ nghĩa duy vật biện chứng được đề xướng bởi học thuyết triết học của Karl
Marx và Friedrich Engels. Quy luật chuyển hóa này cho phép con người tìm hiểu về
cách thức tính chất của sự phát triển, tđâu xuất hiện những sự thay đổi về
chất, ngược lại, những sự thay đổi về chất này tác động qua lại như thế nào đối
với lượng của sự vật. Chính bởi vậy quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi
về lượng dẫn đến những thay đổi về chất đóng vai trò nền tảng cho việc nghiên cứu
sự phát triển của các sự vật hiện tượng trong thế giới chung, đồng thời cũng tạo
sở cho phương pháp chung nhất của tư duy biện chứng.
Bất svật, hiện tượng nào cũng sự thống nhất biện chứng giữa hai mặt
chất lượng. Sự thay đổi về lượng tới điểm nút sẽ dẫn đến sự thay đổi về chất thông
qua bước nhảy. Chất mới ra đời sẽ tác động trở lại sự thay đổi của lượng mới. Quá
trình đó liên tục diễn ra, tạo thành phương thức phổ biến của các qtrình vận động,
phát triển của sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, hội, tư duy. Trong thực tiễn đời
sống, quy luật chuyển a từ những sự thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về
chất còn ý nghĩa đối với nhận thức hành động của mỗi nhân. thế, khi
nghiên cứu, học tập vận dụng quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về
lOMoARcPSD| 61601492
lượng thành những sthay đổi về chất và ngược lại trong nhận thức và thực tiễn
một trong những phương thức thúc đẩy sự phát triển của con người hội trong
bối cảnh hiện nay.
B. NỘI DUNG
1. Cơ sở lý luận
1.1. Các khái niệm
1.1.1. Lượng
Lượng là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định vốn có của sự vật, hiện ợng
về mặt số lượng, quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận động và phát triển của sự vật, hiện
tượng.
Cũng giống chất, lượng là cái vốn có của sự vật, nhưng lượng chưa làm cho sự vật
là nó, chưa thể làm nó trở nên khác biệt so với những cái khác. Lượng tính khách quan
và tồn tại cùng với chất của sự vật. Do đó bất cứ sự vật nào cũng bao gồm hai mặt chất
và lượng. Mỗi sự vật, hiện tượng có vô vàn chất vì thế nên nó cũng có vô vàn lượng.
Trong thực tế, lượng của sự vật có thể được xác định bằng thông số chính xác hoặc
thông số trừu tượng. Thông số chính xác thường biểu thị dưới dạng những đơn vị đo lường
cụ thể.
Ví dụ: đỉnh Phan Xi Păng thuộc dãy Hoàng Liên Sơn ở nước ta cao 3143m.
Bên cạnh đó, có những lượng chỉ có thể biểu thị dưới dạng trừu tượng và khái quát
như IQ3 (chỉ số thông minh), EQ4 (chỉ số cảm xúc),...
Có những lượng biểu thị yếu tố quy định kết cấu bên trong của sự vật song cũng có
những lượng vạch ra yếu tố quy định bên ngoài của sự vật.
Sự phân biệt chất và lượng của sự vật chỉ mang tính tương đối. những tính quy
định trong mối quan hệ này chất của sự vật, song trong mối quan hệ khác lại biểu thị
lượng của sự vật và ngược lại.
1.1.2. Chất
Cần phải nói rằng, trong lịch sử triết học từ trước đến nay đã xuất hiện nhiều quan
điểm khác nhau về khái niệm chất, lượng mối quan hệ giữa chúng. Những quan điểm
đó chủ yếu phụ thuộc vào thế giới quan và phương pháp luận của từng nhà triết học, từng
trường phái triết học riêng.
Phép biện chứng duy vật thuộc triết học Marx-Lenin cho rằng: Chất là phạm trù triết
học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật sự thống nhất hữu cơ của
những thuộc tính làm cho sự vật chứ không phải là cái khác. Mà các thuộc tính khách
quan của sự vật, hiện tượng chỉ bộc lộ ra khi nó nằm trong mối liên hệ với các sự vật, hiện
tượng khác. Trên cơ sở này, ta thể xác định thuộc tính của một sự vật, hiện ợng bằng
cách đặt chúng trong mối liên hệ với các sự vật hiện ợng khác, tức là chúng ta có thể dựa
vào chất mà phân biệt các sự vật, hiện tượng với nhau.
Một số đặc điểm của chất:
Một là, chất có tính khách quan: trước hết, chất là cái vốn của sự vật. Mỗi sự vật,
hiện tượng trong thế giới đều có những chất vốn có, làm nên chính chúng. Nhờ đó, chúng
mới không bị nhầm lẫn với các sự vật, hiện tượng khác.
lOMoARcPSD| 61601492
Hai là, chất được tạo thành từ những thuộc tính của sự vật (chủ yếu là những thuộc
tính cơ bản). Thuộc tính của sự vật những tính chất, những trạng thái, yếu tố tạo thành
sự vật… Đó là những cái vốn của sự vật từ khi sự vật được sinh ra hoặc được hình thành
trong sự vận động phát triển của nó. Tuy nhiên, ta chỉ thể nhận ra những thuộc tính
của sự vật thông qua sự tác động qua lại của sự vật đó với bản thân chúng ta hoặc thông
qua quan hệ, mối liên hệ giữa nó và những sự vật khác.
dụ: chúng ta chỉ thể nhận biết đồ ăn mặn hay ngọt, chua hay cay bằng cách
nếm thử, tạo ra sự tiếp xúc giữa vị giác chúng ta với đồ ăn.
Mặt khác, không phải thuộc tính nào cũng biểu hiện chất của sự vật. Thuộc tính của
sự vật có thuộc tính bản không bản. Những thuộc tính bản được tổng hợp lại
tạo nên chất của sự vật. Chỉ khi nào chúng thay đổi hoặc mất đi thì sự vật mới thay đổi và
mất đi. Nhưng như đã nói trước, thuộc tính của vật chỉ được bộc lộ qua mối liên hệ với
những sự vật, hiện tượng xung quanh. Vì vậy sự phân chia thuộc tính cơ bảnkhông
bản chỉ mang tính tương đối.
Ba là, mỗi sự vật đều có nhiều chất tùy theo góc độ xem xét. Bởi lẽ, mỗi sự vật đều
rất nhiều thuộc tính mỗi thuộc tính lại biểu hiện một chất khác nhau. Trong hiện thực
khách quan, không thể tồn tại sự vật không có chất không thể có chất nằm ngoài sự
vật.
1.1.3. Điểm nút
Theo giáo trình Chuyên đề Triết học của PGS. TS. Nguyễn Ngọc Khá về khái niệm
về điểm nút là: “Điểm nút là một phạm trù dùng để chỉ điểm giới hạn mà tại đó sự thay đổi
về lượng đã làm thay đổi căn bản về chất của sự vật, hiện tượng.”(trang 109,
PGS. TS. Nguyễn Ngọc Khá, (2022), Chuyên đề Triết học, NXB Đại học phạm
TPHCM)
dụ: Sau khi bước vào môi trường phạm được học những chuyên môn nghề
nghiệp liên quan đến nghiệp vụ phạm, người sinh viên sẽ được phát triển, trau dồi các
năng chuyên môn. Không những thế, tình yêu nghề sẽ được bồi đắp theo năm tháng…
Các điểm nút như: năm thứ nhất bắt đầu làm quen với các môn chuyên ngành, năm thứ hai
và thứ ba bắt đầu học các môn liên quan đến phương pháp giảng dạy; nửa cuối năm ba
năm sẽ điểm nút chặng thực tập phạm, lúc này sinh viên sẽ được thực hành
những kĩ năng sư phạm và học hỏi ở môi trường thực tế. Từ những điểm nút trên năng lực
chuyên môn, phẩm chất đạo đức nghề giáo sẽ giúp người sinh viên phạm biến đổi nhanh
hơn về chất. Đó quy trình chuyển hóa từ sthay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về
chất. Khi sinh viên đã dần bước qua trau dồi những năng chuyên môn từ thấp đến cao
đến vận dụng trong công việc tương lai của mình.
1.1.4. Bước nhảy
Theo giáo trình Chuyên đề Triết học của PGS. TS. Nguyễn Ngọc Khá về khái niệm
về bước nhảy là: “Bước nhảy một phạm trù dùng để chỉ sự chuyển hóa về chất của sự
vật, hiện tượng do sự thay đổi dần dần về lượng trước đó gây nên.
Bước nhảy đánh dấu sự kết thúc một giai đoạn vận động, phát triển của sự vật, hiện
tượng; đồng thời đó cũng điểm khởi đầu cho một giai đoạn mới tiếp theo, sự gián đoạn
trong quá trình vận động, phát triển liên tục của sự vật, hiện tượng.” (trang
lOMoARcPSD| 61601492
109, PGS. TS. Nguyễn Ngọc Khá, (2022), Chuyên đề Triết học, NXB Đại học phạm
TPHCM).
Ngoài ra, khái niệm bước nhảy có thể được hiểu như “một quá trình bất ngờ và đột
ngột, khi một sự thay đổi nhỏ trong một hệ thống dẫn đến một sự thay đổi lớn về chất, mà
không có sự chuyển đổi trung gian. Sự thay đổi lớn về căn bản về chất có thể gây ra một
sự hiểu biết mới và sâu sắc hơn về sự vật hoặc hiện tượng đó.”
Chuyên đề Triết học của PGS. TS. Nguyễn Ngọc Khá cũng nêu rằng: “Có nhiều
hình thức bước nhảy: bước nhảy dần dần và bước nhảy đột biến, bước nhảy chậm và bước
nhảy nhanh, bước nhảy cục bộ và bước nhảy toàn bộ.”(trang 109, PGS. TS. Nguyễn Ngọc
Khá, (2022), Chuyên đề Triết học, NXB Đại học Sư phạm TPHCM).
Như vậy, lượng biến đổi đến một điểm giới hạn nhất định vượt quá độ, sự vật, hiện
tượng, sẽ thực hiện ớc nhảy. Chỉ thực hiện bước nhảy khi đã tích lũy lượng đến giới hạn
điểm nút. Bởi đây yếu tố cần đủ để thực hiện các giá trị về ợng. Khi tích lũy được
trong yêu cầu cần thiết. từ đó chất mới hình thành mới mang đến các đặc điểm, chức
năng mới tốt hơn đặc điểm, chức năng cũ. Đồng thời, đảm bảo cho tính chất phát triển của
chiều hướng đi lên.
Có thể hiểu đơn giản là, mọi sự vật đều vận động và phát triển nhưng cần thời gian
sự tác động từ bên ngoài, điều này sẽ đảm bảo hiệu quả đối với qtrình tổng hợp
các nội dung tổng hợp được trên thực tế. vậy, bố trí thời gian nỗ lực hợp cho kế
hoạch đã đặt mục tiêu. Ta cần phải định hướng học tập, trau dồi với ợng kiến thức như
thế nào cho hợp lý: chia nhỏ theo thời gian, lộ trình để tiếp thu hiệu quả. Kết quả đạt được
với các cuộc kiểm tra, đánh giá và nhận được công nhận của mọi người, từ đó “chất” mới
được hình thành
Ví dụ 1: Mỗi giai đoạn duy của trẻ em đều là một bước nhảy trong sự phát triển
của duy con người. Trong mỗi giai đoạn, trẻ em phát triển một tầm nhìn hiểu biết mới
và sâu sắc hơn về thế giới xung quanh, và chúng không thể đạt được bằng cách chuyển đổi
từ một giai đoạn sang giai đoạn khác thông qua sự chuyển đổi nhỏ về lượng. Mỗi giai đoạn
duy của trẻ em tạo ra một sự chuyển đổi lớn về căn bản về chất đóng vai trò quan
trọng trong sự phát triển của tư duy con người.
Ví dụ 2: Khi hai người mới gặp nhau thường thì họ chỉ có một chút gì đó cảm mến
với nhau lúc đầu thôi chứ khó có thể nói là đã yêu nhau được (Trừ tình yêu kiểu sét đánh).
Sau khi đã quen biết nhau, họ bắt đầu đi lại nhiều hơn, nói chuyện với nhau nhiều n,
cùng nhau làm một số việc như cùng học, cùng đi chơi... qua những chuyện đó họ sẽ dần
dần hiểu nhau hơn, hiểu về con người, tính cách, tính t duyên dáng đáng yêu của
nhau hơn. Dần dần trong họ bắt đầu nảy nở tình yêu vì thấy rằng đối phương là một người
rất đáng yêu trong các hoàn cảnh của cuộc sống. Việc tích lũy về những hiểu biết, những
tình cảm, cảm xúc về nhau đó được xem là việc tích lũy về lượng. Khi những sự hiểu biết
đó, những tình cảm đó đủ lớn, tình cảm đó sẽ có thể chuyển thành tình yêu. Nhưng thường
để chính thức được công nhận là người yêu, họ thường qua một bước gọi là ngỏ lời yêu và
nhận lời yêu. Đây được xem một “bước nhảy” trong quan hệ giữa hai người chuyển từ
chất này (tình bạn) qua chất khác (tình yêu).
1.2. Mối quan hệ biện chứng giữa lượng và chất
lOMoARcPSD| 61601492
1.2.1. Những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất
Bất kỳ sự vật hay hiện tượng nào cũng là sự thống nhất giữa mặt chất và mặt lượng.
Chúng tác động qua lại lẫn nhau. Quy định về lượng sẽ không bao giờ tồn tại nếu không
có tính quy định về chất và ngược lại.
Sự thay đổi vợng về chất của sự vật diễn ra cùng với sự vận động phát
triển của sự vật, có quan hệ chặt chẽ, mật thiết với nhau. Tuy nhiên, không phải lúc nào sự
thay đổi về lượng cũng làm thay đổi ngay lập tức sự thay đổi về chất của sự vật. trong
“độ”, lượng của sự vật thay đổi, nhưng chất của sự vật chưa thay đổi cơ bản. Phải đến khi
lượng của sự vật được tích lũy vượt qua được giới hạn đó, đạt đến điểm nút thì chất cũ mất
đi và lúc này chất mới thay thế chất cũ.
1.2.2. Những thay đổi về chất dẫn đến những thay đổi về lượng
Chất mới của sự vật ra đời sẽ tác động trở lại lượng của sự vật, hiện ợng. Sự tác
động ấy thể hiện chỗ chất mới thể làm thay đổi kết cấu, quy , trình độ, nhịp điệu
của sự vận động và phát triển của sự vật.
Tóm lại, có thể khái quát quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng dẫn
đến những thay đổi về chất và ngược lại (Gọi tắt là quy luật lượng - chất) như sau: “Mọi
sự vật đều là sự thống nhất giữa lượng và chất, sự thay đổi dần dần về lượng tới điểm nút
sẽ dẫn đến sự thay đổi về chất của sự vật thông qua bước nhảy; chất mới ra đời tác động
trở lại sự thay đổi của lượng mới lại có chất mới cao hơn… Quá trình tác động này diễn
ra liên tục làm cho sự vật không ngừng biến đổi”
Hay dễ hiểu hơn, như Friedrich Engels từng phát biểu thì: “Những thay đổi đơn
thuần về lượng, đến một mức độ nhất định, sẽ chuyển hóa thành những sự khác nhau về
chất.” (C.Mác và Ph.Ăng-ghen: Toàn tập, 1994, trang 179).
1.3. Ý nghĩa phương pháp luận
Một là, trong nhận thức và thực tiễn cần phải coi trọng cả hai mặt chất và lượng.
Vận dụng: Khi học tập ngoài việc cần hoàn thành số tín chỉ để ra trường đúng thời
hạn (hoặc sớm hơn), tuy nhiên chỉ tích lũy được số lượng tín chỉ nhưng kết quả học tập lại
không “chất lượng”, chuyên môn, kiến thức không được tiếp thu mà chỉ học cho qua n
thì kết quả cũng không thể gọi là đạt được. Nhưng nếu không đảm bảo về lượng thì không
có cơ sở để tích lũy đến chất mới.
Hai là, cần chú ý khâu tích lũy về lượng để đến khi đầy đủ điều kiện chín muồi
sẽ làm thay đổi chất của sự vật, hiện tượng.
Vận dụng: thể nhìn nhận với các bằng cấp và trình độ yêu cầu trong công việc.
Nếu có trình độ, năng lực nhưng không có bằng cấp cũng nhận được nhiều lời từ chối.
có bằng cấp nhưng không có kinh nghiệm cũng vậy. Phải đảm bảo các vận động luôn được
tiến hành. Các chất mới được sinh ra đảm bảo ý nghĩa và nội dung cần thiết của nó.
Ba , chống lại bệnh chủ quan, nóng vội, duy ý chí cũng như chống lại bệnh bảo
thủ, trì trệ khi lượng chưa biến đổi đến điểm nút mà đã vội vàng thực hiện bước nhảy; hoặc
khi lượng đã biến đổi đến điểm nút nhưng không chịu thực hiện bước nhảy.
Vận dụng: Hiện nay có khá nhiều sinh viên đã quyết định đi làm trong thời gian học
tập. Tuy nhiên, kiến thức và kinh nghiệm chuyên môn cũng như sắp xếp thời gian học tập
chưa hợp dẫn đến việc hiệu quả học tập kém đi đồng thời chất ợng công việc cũng
chưa chắc đảm bảo, dù sinh viên đó đi làm sớm nhưng ra trường trễ, không có bằng cấp
lOMoARcPSD| 61601492
thì sẽ không thể thăng tiến trong công việc; so với các bạn đồng trang lứa tập trung học
tập, làm thêm vừa sức, ra trường đúng hạn, bằng cấp chuyên môn thì nắm bắt nhanh
chóng những hội nghề nghiệp tốt hơn. Ngược lại, sinh viên đã học tập bằng cấp
chuyên môn chính thức để đi làm nhưng lo lắng, chọn lựa chỗ này chỗ nọ không m
thử thách và nắm bắt cơ hội để va chạm thực tế vì vậy để mất nhiều cơ hội nghề nghiệp.
Bốn là, cần phải xác định được bước nhảy, có thái độ ủng hộ bước nhảy và tạo mọi
điều kiện cho bước nhảy. (nắm bắt thời cơ thực hiện bước nhảy là yêu cầu quan trọng nhất.
Vận dụng: Chỉ bản thân mới hiểu năng lực của mình ở đâu vì vậy trong quá trình học tập,
phát triển bản thân mỗi người cần phải hiểu bản thân mình mạnh đâu để tập trung phát
triển mảng đó. Một người năng khiếu mỹ thuật nên đi theo ngành nghề ng tạo thẩm
mỹ như thiết kế đồ hoạt, kiến trúc sư, thiết kế thời trang… không thể dạy triết được.
Năm là, trong đời sống xã hội, cần nhận thức đúng và vận dụng một cách phù hợp
khi giải quyết mối quan hệ giữa chất tự nhiên và chất xã hội của sự vật, hiện tượng. Tùy
vào từng điều kiện lịch sử - cụ thể mà có thể nhấn mạnh chất tự nhiên hay chất xã hội lên
hàng đầu.
Sáu là, cần có những biện pháp cụ thể để thay đổi chất của sự vật, hiện tượng:
- Thay đổi số lượng các yếu tố cấu thành nên sự vật, hiện tượng.
- Thay đổi chất lượng các yếu tố cấu thành nên sự vật, hiện tượng.
- Thay đổi chế tác động giữa các yếu tố cấu thành nên sự vật, hiện tượng
(thay đổi cấu trúc của sự vật, hiện tượng).
- Thay đổi trật tự sắp xếp giữa các yếu tố cấu thành nên sự vật, hiện tượng
(thay đổi cấu trúc của sự vật, hiện tượng).
- Thay đổi chức năng của các yếu tố cấu thành nên sự vật, hiện tượng và chức
năng của toàn bộ sự vật, hiện tượng.
- Thay đổi môi trường tồn tại của sự vật, hiện tượng.
2. Vận dụng quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những
sự thay đổi về chất và ngược lại trong nhận thức và thực tiễn
2.1. Vận dụng trong chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những
sự thay đổi về chất ngược lại trong thực tiễn cuộc sống (trong việc nuôi dạy con
cái ở tuổi mầm non)
2.1.1. Một là trong nhận thức và thực tiễn cần phải coi trọng cả hai mặt chất và
lượng
Trong nhận thức và thực tiễn, chính bản thân chúng ta đều phải coi trọng cả hai mặt
chất và lượng khi nuôi dạy con mình. đây, ta có thể xem chất tính cách con mình
sẽ hình thành, lượng sẽ là công sức, lời dạy bảo, hành động của chúng ta với con cái. Trong
trường hợp chúng ta chỉ quan tâm đến mặt lượng, cụ thể việc ta đồng ý quá nhiều với
các yêu cầu của con không quan tâm đó là yêu cầu gì, có hợp hay không. Với một
đứa trẻ mầm non, chúng giống như giấy trắng không phân biệt được đâu là những yêu
cầu chính đáng, phù hợp và đâu là những nhu cầu không chính đáng. Nếu chúng ta liên tục
chấp nhận những yêu cầu của con không xem xét tính hợp lí của yêu cầu, lâu dần, khi
đã tích tụ đủ lượng, sẽ tạo thành sự ích kỉ của con trẻ. Bởi lẽ, sự chấp nhận dễ dãi của
lOMoARcPSD| 61601492
bố mẹ sẽ khiến trẻ hiểu rằng “muốn gì được đó”, “ba mẹ không từ chối”... những suy nghĩ
này tích tụ dần, lâu dần sẽ tạo nên hành động như ăn vạ khi bố mẹ không cho để cho
con không m như thế, bố mẹ thường sẽ tiếp tục đáp ứng nhu cầu cho chúng. Lâu dần,
những suy nghĩ, hành động này tiếp tục phát triển, đến một mức nào đó, tạo thành sự ích
kỉ cho bản thân đứa trẻ, khiến chúng nghĩ rằng “bất kì ai cũng phải thoả mãn yêu cầu của
mình”, “mình không có nghĩa vụ phải hoàn thành một nhiệm vụ nào đó”...
Trong trường hợp ngược lại, nếu chúng ta quá quan tâm đến chất tức tính cách
của con cái mà ta muốn trở thành. Trong trường hợp này, quay lại với đứa trẻ ích kỉ, nếu
ngay từ đầu, ta liên tục từ chối các yêu cầu của con, không quan tâm đó là nhu cầu gì, chỉ
mong muốn con làm theo ý của ba mẹ, lâu dần nó lại phản ứng ngược, tạo thành một đứa
trẻ rụt rè, không hiểu được nhu cầu bản thân. Bởi lẽ, đối với các bậc làm cha làm mẹ, điều
mong muốn của mình là con cái ngoan ngoãn, vâng lời. Việc can thiệp quá nhiều vào các
nhu cầu của con khiến đứa con nghĩ rằng “đó là một cái không nên”, “phải tuyệt đối nghe
lời bố mẹ”... Điều này tích tụ đủ lượng, lâu dần, đến một khoảng giới hạn đủ sự thay đổi
về lượng, bước nhảy” sẽ được thực hiện và đứa trẻ sẽ nh thành cho mình tính cách tự ti,
nhút nhát, không biết được nhu cầu của bản thân cũng như không thể bày tỏ tiếng nói của
bản thân.
Do đó, trong quá trình nuôi dạy con cái, nhất trong lứa tuổi mầm non, lứa tuổi
quyết định ban đầu trong việc hình thành tính cách con trẻ, ta cần phải cân bằng được lượng
và chất. Ta cần phải biết khi nào nói lời nào, đáp ứng điều gì cho con cái. Sự tích tụ đủ dần
về lượng khi ta cân bằng được nhu cầu con cái, mong muốn của mình sẽ tạo thành đứa con
có sự tự tin, hiểu bản thân, quan tâm mọi người và là một đứa trẻ hạnh phúc.
2.1.2. Hai là cần chú ý khâu tích lũy về lượng để đến khi có đầy đủ điều kiện chín
muồi sẽ làm thay đổi chất của sự vật, hiện tượng
Trong bài học chú ý khâu tích lũy về lượng để đến khi đầy đủ điều kiện chín
muồi sẽ làm thay đổi chất của sự vật, hiện ợng, với câu chuyện nuôi dạy con i, ta
thể hiểu đó là sự nuôi dạy, tích luỹ đủ lượng của con cái để đến lúc chín muồi, chúng sẽ tự
phát triển bản thân. Ở câu chuyện này, lượng vẫn là sự quan tâm, dạy dỗ của cha mẹ, thầy
cô và môi trường xung quanh tác động đến đứa trẻ nhưng chiếm lượng nhiều nhất vẫn
là cha mẹ. Chúng ta có thể thấy rằng hành vi, sự quan tâm, nuôi dưỡng, dạy dỗ của cha mẹ
sẽ ảnh hưởng rất lớn đến con cái hành vi của ba mẹ lại chiếm phần tỉ trọng cao. Với
tâm lí của một đứa trẻ mầm non, chúng thường sẽ bắt chước hành động của bố mẹ lâu
dần thành thói quen từ thói quen thành tính cách: “Gieo hành động, gặt thói quen, gieo
thói quen, gặt tính cách, gieo tính cách, gặt số phận” (Samuel Smiles). Nếu chúng ta ngoài
việc nói những lời hay, ý đẹp, khuyên bảo, n dạy trẻ bằng lời nói tviệc người lớn thể
hiện hành động lại việc nên làm. Với mỗi hành động của người lớn được trẻ ghi nhận,
học hỏi, lượng năng, hiểu biết của chúng được tăng dần lên mỗi ngày. Với việc hành
động theo hướng tích cực ngày càng nhiều của trẻ, lâu dần sẽ tạo thành thói quen cho
con, sau đó là dần định hình và tạo nên tính cách cho trẻ.
Vì thế, chúng ta cần phải lưu ý đến những hành vi, lời nói, sự dạy dỗ từng bước của
bản thân với con cái đchúng dần học được, thay đổi hành vi của chúng. Lâu dần, khi
lượng đã tích đủ, chúng sẽ thay đổi được tính cách, tâm lí của bản thân.
lOMoARcPSD| 61601492
2.1.3. Ba là chống lại bệnh chủ quan, nóng vội, duy ý chí, khi lượng chưa biến đổi
đến điểm nút mà đã vội vàng thực hiện bước nhảy
Trong cuộc sống thực tế, cha mẹ thường hay mắc phải vấn đề con chưa đến lúc
sẵn sàng nhưng đã xem chúng đã hiểu đã đến lúc tiếp nhận i mới. Họ thường hay
nóng vội, nghĩ rằng con mình đã tích đủ lượng cần thiết để biến đổi thành tính cách, kiến
thức, kĩ năng mới nhưng thực tế, chúng vẫn chưa đến được “điểm nút”.
Ta thấy rất rõ, mỗi đứa trẻ sẽ bản tính, khả năng riêng chúng ta phải cách
nuôi dạy riêng cho từng đứa trẻ. Thực tế, trong việc dạy trẻ, thời gian để đứa trẻ tích đủ
lượng để thay đổi tính cách, hành vi không phải là ngày một ngày hai và tuỳ thuộc lớn vào
chính bản thân của trẻ. Có bé chỉ mất vài lần đhiểu ra vấn đề nh gặp phải thay
đổi sớm. Nhưng ngược lại, cũng những tiếp thu vấn đề ta nói chậm hơn, chưa đủ
nhận thức, hành vi đhiểu lời ta cũng như chưa đến thời điểm chín muồi để thay đổi.
Chẳng hạn trong trường hợp ba mẹ mong muốn con được học chữ độ tuổi mầm non.
Trong trường hợp này theo chỉ đạo của BGDĐT tuyệt đối không được dạy chữ cho trẻ
trước khi vào lớp 1. Theo PGS.TS Nguyễn Công Khanh, Giám đốc Trung m Đảm bảo
chất lượng giáo dục và khảo thí cho rằng: “Đối với lứa tuổi mầm non, vui chơi hoạt động
chủ đạo. Nhóm mầm non 5 gần 6 tuổi đã chương trình làm quen với chữ cái, làm
toán, hệ thống âm… vừa đủ để cho trẻ sẵn sàng vào lớp 1. Tối kỵ để cho trẻ viết trước,
phải 6 tuổi trở lên mới đủ những yêu cầu cần thiết để học viết. Đứa trẻ khi viết phải vặn
cổ, vặn lưng rất mệt, giáo bắt phải đúng chữ, đúng nét thì rất khổ, đâm ra trẻ sẽ chán
học. Mất hứng thú học đường rất nguy hiểm”. Nhưng một số phụ huynh lại rất mong muốn
con mình được học sớm để thể chuẩn bị tốt “bằng bạn bằng bè”, đây hành vi thể
hiện rõ bệnh chủ quan duy ý chí, khi con trẻ chưa tích đủ lượng đã vội vàng dồn ép để tạo
chất mới. Điều này không chỉ ảnh hưởng đến tâm trẻ con còn dẫn đến sự mệt mỏi
cho giáo viên mầm non. Việc ta cần làm ở đây chính là hiểu, ghi nhận sự thay đổi về lượng
từ từ của con và đồng thời kiên nhẫn chờ đợi “bước nhảy” mà đứa trẻ sẽ thay đổi bản thân
chúng, đừng quá nóng vội, bắt chúng thay đổi ngay mà hãy để chúng tự mình thay đổi bản
thân.
2.1.4. Bốn là chống lại bệnh bảo thủ, trì trệ, khi lượng đã biến đổi đến điểm nút
nhưng không chịu thực hiện bước nhảy
Ở căn bệnh đối lập với sự chủ quan, nóng vội là bệnh bảo thủ, trì trệ. Ở đây, chúng
ta có thể thấy được hành động quen thuộc của ba mẹ là thiếu sự ủng hộ, tin tưởng con của
mình. Trong vấn đề này, ta thể khai thác sự bao bọc quá mức của cha mẹ. Chẳng hạn
như đứa con muốn tự tắm một mình. Ta thể thấy trước đây, trong những lần cha mẹ
tắm cho mình, đứa trẻ đã để ý và học những bước đơn giản mà mình cần làm để có một cơ
thể sạch sẽ. Khi chúng cảm thấy rằng đã đến “bước nhảy”, lúc mà chúng tự tin mình sẽ tự
tắm được, và xin ba mẹ để mình tự tắm. Nếu là bậc phụ huynh hiểu được “bước nhảy” thì
sẽ để con tự trải nghiệm trong sự giám sát của bản thân để tránh một số tai nạn mà trẻ con
hay gặp trong khi tắm như phòng vào mắt, để nước quá nóng… Tuy nhiên, nhiều
người lại quá lo lắng phản đối, không để chúng tự làm nhất nhất phải làm cho
chúng suy nghĩ “Nó còn nhỏ, làm được đâu, để lớn nữa…” không hề biết con
đã đến lúc tự làm. Đây điểm nút để thực hiện “bước nhảy” đánh dấu những bước đầu
cho việc tự lập của con mình. Nếu không tôn trọng điều này, lâu dần, đứa con sẽ phát triển
lOMoARcPSD| 61601492
sang hướng khác, thể hiện sự rụt rè, không thể tự lập khi từ những điều đơn giản, chúng đã
không thể tự làm, tự quyết.
Từ đó, cha mẹ chúng ta cần chú ý vào những “điểm nút” “bước nhảy” của con.
Khi đã đến lúc, y để cho chúng được thực hiện “bước nhảy” của mình, để chúng tự quyết
dù rằng việc mới chuyển sang “chất” mới sẽ gặp nhiều khó khăn với trẻ nhưng đó việc
cần thiết để làm tiền đề cho tính tự lập sau này.
2.1.5. Năm là cần phải xác định được bước nhảy, có thái độ ủng hộ bước nhảy và
tạo mọi điều kiện cho bước nhảy được thực hiện một cách kịp thời
Trong câu chuyện về bước nhảy, hãy quay lại ví dụ đứa con tắm trên. Ở đây, đứa
con đã tự nhận thức rằng “Đã đến lúc mình tự làm” thế chúng mới ngỏ lời xin bố
mẹ. Đây chính thời điểm “bước nhảy” để chúng bắt đầu vào chất mới sự hình thành
ban đầu cho tính cách tự lập sau này. đây, ta cần tôn trọng quyết định của trẻ để trẻ
thực sự tự tắm, từ từ rút kinh nghiệm cho nh. Tất nhiên, ban đầu chúng vẫn phải tắm
dưới sự quan sát, kiểm soát của ta để tránh một số tai nạn, hành vi không đúng của trẻ. Lâu
dần, dưới sự rèn luyện của ta, trẻ dần biết tự giữ vệ sinh, tự tắm, học được cách tự lập cho
mình.
Do đó, với vai trò làm cha làm mẹ, ta cần tôn trọng những bước đi quyết định của trẻ, ủng
hộ con tạo những điều kiện thuận lợi nhất để con thực hiện “bước nhảy” khi đã đến
“điểm nút”.
2.1.6. Sáu là trong đời sống xã hội, cần nhận thức đúng và vận dụng một cách phù
hợp khi giải quyết mối quan hệ giữa chất tự nhiên và chất xã hội của sự vật hiện tượng
Tùy vào từng điều kiện lịch sử - cụ thể mà có thể nhấn mạnh chất tự nhiên hay chất
xã hội lên hàng đầu. Với ý nghĩa này, ta cần xem xét cả hai chất tự nhiên và xã hội của đứa
trẻ để có hướng phù hợp trong việc nhấn mạnh điều gì. Ở đây, chất tự nhiên sẽ là những gì
do đứa trẻ ấy bẩm sinh đã có, chất xã hội là phần mà đứa trẻ học được từ bên ngoài.
Đối với chất tự nhiên của đứa trẻ, ta cần hiểu đứa trẻ của mình có được những điểm tốt
về mặt tự nhiên: ngoại hình, trí thông minh, tài năng, tính cách ban đầu, sở thích… để
hướng phát triển phù hợp cho trẻ. Đối với đứa trẻ mầm non, chất tự nhiên của đứa trẻ
tính cách ban đầu do đứa trẻ đó tự có như tự tin, thẳng thắn, phóng khoáng hay rụt rè, hiền
lành… hay tài năng bẩm sinh của đứa trẻ: cảm âm, nhận diện không gian… để hướng
nhấn mạnh thích hợp. Nếu đó chất tự nhiên tốt, ta cần tạo điều kiện phát huy, nếu đó
chất tự nhiên không phù hợp, ta cần giảm lại và thay đổi dần.
Đối với chất hội, đó những đứa trẻ tiếp nhận từ môi trường bên ngoài
uốn mình theo đó. Với đứa trẻ mầm non thì thế giới của chúng tương đối đơn giản, chủ yếu
xoay quanh gia đình, nhà trường và một số nơi quen thuộc của chúng. Vợi sự thay đổi của
môi trường, chúng sẽ bị môi trường tác động và thay đổi dần lượng (hành vi, thái độ…) và
sau đó chất (tính cách). Chẳng hạn như khi chúng sống trong môi trường đầy sự phức
tạp của những người xung quanh, kể cả gia đình, sẽ dần tác động đến chúng tạo thành
một phần tính cách phức tạp, trưởng thành nhanh nhưng dễ bị tác động trở thành đứa ngỗ
nghịch. Ngược lại, môi trường lành mạnh cộng với sự tác động đúng mức của bố mẹ, chất
xã hội trong đứa trẻ sẽ dần thay đổi tính cách của chúng, góp phần tạo nên đứa trẻ tốt, phù
hợp với thời đại.
lOMoARcPSD| 61601492
Nhìn chung, để biết được chúng ta cần nhấn mạnh vào chất nào, thời điểm nào, ta
cần xem xét cả hai chất tự nhiên và xã hội của đứa trẻ. Điều cần phát huy phải giữ lại, tăng
sự tác động, điều cần thay đổi phải có sự tác động để giảm sự tác động, dần dà sẽ thay đổi
được “chất” của đứa trẻ.
2.1.7. Bảy là cần có những biện pháp cụ thể để thay đổi chất của sự vật hiện
tượng
a. Thay đổi số lượng các yếu tố cấu thành nên sự vật, hiện tượng.
Trong cuộc sống thực tiễn chúng ta sẽ tùy vào điều kiện lịch sử - cụ thể để quyết
định tăng hay giảm lượng qua đó vẫn đảm bảo tạo điều kiện cho chất mới hình thành
có chất lượng. Như trong việc nuôi dạy con trẻ để con phát triển tính độc lập, sáng tạo của
bản thân thì hơn ai hết cha mẹ sẽ là người cân đo đong đếm những hành động, ứng xử với
con. Với cương vị phụ huynh thì chúng ta phải biết được khi nào nên quan tâm, chăm
sóc, che chở cho con và khi nào con nên tự thực hiện, tự chịu trách nhiệm với hành vi của
bản thân. Tránh trường hợp con được nhận qnhiều lượng bao bọc, che chở từ cha mẹ
dẫn đến con sẽ lại, thiếu tính tự lập ích kỷ. Cũng như nếu phụ huynh bỏ cảm xúc
của trẻ hay thiếu quan tâm con sẽ dẫn đến tình trạng tự kỷ, rối loạn cảm xúc lo âu ở trẻ.
b. Thay đổi chất lượng các yếu tố cấu thành nên sự vật hiện tượng.
Việc thay đổi chất lượng của các yếu tố cấu thành cũng sẽ góp phần thay đổi chất
của hệ thống. Chúng ta có thể áp dụng đặc điểm này trong cách ứng xử với những đứa trẻ
có những hành vi chưa phù hợp để qua đó giúp trẻ hành xử đúng mực hơn.
dụ như con trẻ có tính bừa bộn, con thích bày bừa đồ chơi khắp nhà để được thỏa
thích chơi, nhưng điều đó với ba mẹ là một hành vi không chấp nhận được “nó quá bừa!”,
ba mẹ vừa dọn dẹp nhà sạch sẽ vài phút trước. Trong tình huống đó ba mẹ thường sẽ
phản ứng như sau: hoặc là ra lệnh, chỉ thị, hoặc cảnh cáo, đe dọa “Nếu con không rời khỏi
đó và dọn dẹp đống bừa bộn kia, con sẽ phải thấy hối tiếc đấy”; hoặc những lời giáo điều,
răn dạy “Hãy dọn dẹp những gì mà con đã bày bừa ra.”; hoặc khuyên bảo, đưa ra gợi ý hay
giải pháp “Con không thể dọn dẹp mọi thứ sau khi con đã dùng xong hay sao?”. Phần lớn
các cách ứng xử của cha mẹ được đề cập ở trên là sự xuất phát từ thông điệp “bạn”, từ bản
thân đứa trẻ, con trẻ đôi lúc sẽ không cảm thấy mình sai phản ứng ngược lại với ba mẹ
trước những cách nói đó bằng cách: con không làm, con khóc, con tự trách bản thân, con
đề phòng hơn hay thậm chí con bị kích động tấn công ba mẹ. Vậy khi áp dụng biện pháp
thay đổi chất lượng các câu nói của ba mẹ sẽ thay đổi được chất bừa bộn của con đây.
Theo tiến sĩ tâm lí học người Mĩ Thomas Gordon, ông cho rằng: thay vì gửi đến con thông
điệp “bạn” thì ba mẹ hãy thử gửi đến con thông điệp “tôi” - “Mẹ chắc chắn sẽ thấy rất chán
nản khi nhìn thấy đống bừa bộn trong phòng khách sau khi mẹ vừa dọn dẹp xong”, tả
hành vi của con, sự ảnh hưởng hành vi của con đến ba mẹ và cho con biết được cảm nhận
của ba mẹ, ba mẹ không hề đánh giá con qua đó trẻ sẽ thấu hiểu sẵn sàng thay đổi
hành vi của bản thân mình bên cạnh đó còn biết yêu thương ba mẹ.
c. Thay đổi cơ chế tác động giữa các yếu tố cấu thành nên sự vật, hiện tượng.
Việc thay đổi chế tác động trực tiếp hay gián tiếp; thay đổi chính sách tác động
giữa các yếu tố cấu thành nên sự vật hiện ợng cũng góp phần thay đổi chất của sự vật
hiện tượng. Như trường hợp đối với con độ tuổi khủng hoảng tuổi lên 2, con thường bám
ba mẹ, thích được tham gia cùng với ba mẹ ở tất cả các hoạt động. Chẳng hạn, khi mẹ siêu
lOMoARcPSD| 61601492
thị mua sắm, con nằng nặc đòi theo, la hét, quấy khóc. Trường hợp đó thay vì mẹ trực tiếp
nổi giận la mắng con, phán xét con thì mẹ thể ngồi xuống lắng nghe chủ động cảm
xúc của con trẻ, tìm hiểu nguyên do vì sao con lại như thế hoặc có thể có phần thưởng cho
con nếu con ngoan. Thông qua việc lắng nghe chủ động chúng ta có thể gián tiếp thay đổi
hành vi của trẻ. Việc đó sẽ thay đổi được chất ngang bướng của trẻ, giúp trẻ kiên nhẫn hơn.
Thay đổi trật tự sắp xếp giữa các yếu tố cấu thành nên sự vật hiện tượng (thay đổi cấu trúc
của sự vật, hiện tượng).
Chúng ta thể áp dụng cách này trong việc hướng dẫn con ăn tự lập. Khi con trẻ
bước vào độ tuổi ăn dặm, ba mẹ thường chủ động trong việc chuẩn bị thức ăn, đút con ăn,
còn con trẻ thụ động trong việc ăn dẫn đến đôi khi con chán ăn, hoặc từ chối ăn những món
bản thân con không thích. Nhưng khi chúng ta thay đổi cấu trúc tầng bậc, ba mẹ chỉ
giữ vai trò phụ chuẩn bị thức ăn, con chuyển sang vai trò chính “ăn chủ động”. Từ đó con
được chọn thức ăn mình yêu thích, được chọn lượng thức ăn sẽ nạp vào thể y theo
nhu cầu năng lượng của con, qua đó sẽ ch thích cảm giác ăn và dần dần con sẽ hình thành
chất ham thích ăn của bản thân.
d. Thay đổi chức năng của các yếu tố cấu thành nên sự vật, hiện tượng của toàn bộ
sự vật, hiện tượng
Cũng như tình huống trên, việc thay đổi chức năng của ba mẹ con trong hoạt
động ăn dặm sẽ kích thích con tạo lập được khả năng độc lập, ăn tchủ. Ba mẹ sẽ đóng
vai trò hỗ trợ n con sẽ là người làm chủ bữa ăn của mình từ đó sẽ rèn luyện cho con tính
tự lập, chọn lựa theo như cầu bản thân.
e. Thay đổi môi trường tồn tại của sự vật, hiện tượng
Hành động thay đổi môi trường tồn tại của sự vật, hiện tượng cũng một cách hiệu
quả để thay đổi chất của sự vật, hiện tượng. Chúng ta thể làm phong phú môi trường,
làm suy giảm môi trường, hạn chế môi trường, hay thay thế các hoạt động này bằng các
hoạt động khác,... điều đó sẽ góp phần thay đổi hành vi của con cái và đây cũng được coi
một việc cùng đơn giản lại đem lại hiệu quả tích cực với hầu hết trẻ em tất c
mọi lứa tuổi.
thể dễ dàng nhận thấy các tình huống sau đây sẽ xảy ra trong thực tế. Những
chuyến đi chơi bằng ô tô là thời điểm mà những đứa trẻ thực sự khiến bố mẹ chúng “phát
điên”, chúng luôn đặt hàng loạt câu hỏi với cha mẹ hoặc hơn nữa chạy nhảy, leo trèo
trong xe gây ra những nguy hiểm tiềm ẩn. Để giải quyết tình huống này ba mẹ cần làm
phong phú thêm môi trường xung quanh con bằng cách đồ chơi hay những câu đố hóc
búa để thể giữ sự của trẻ làm chúng bận rộn với những thứ xung quanh, hạn
chế cảm giác bức bối, bồn chồn hay những hành vi gây phiền toái.
Bên cạnh đó việc làm suy giảm môi trường cũng thật sự hiệu quả trong trường hợp
dỗ con ngủ. Những đứa trẻ khi sinh ra bản năng của chúng thể tự ngủ được để duy
trì bản năng này thì cha mẹ cần đảm bảo môi trường ngủ của con khác hoàn toàn với môi
trường khi con thức chơi. Ví dụ như là: không gian tối, mát mẻ, không đồ chơi, không
có tiếng ồn, không có những thứ kích thích hệ thần kinh của trẻ,... điều đó sẽ giúp trẻ phân
biệt được khi nào ngủ và khi nào chơi, qua đó trẻ sẽ rất dễ dàng vào giấc ngủ.
Vậy nhìn chung, việc hiểu áp dụng ý nghĩa phương pháp luận của quy luật chuyển
hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những thay đổi về chất và ngược lại rất hữu ích
lOMoARcPSD| 61601492
trong cuộc sống thực tiễn của mỗi cá nhân con người nói riêng và tập thể xã hội nói chung.
Bên cạnh đó khi hiểu được quy luật lượng - chất chúng ta sẽ dễ dàng hiểu được cách thức
phát triển của sự vật hiện, tượng trong từng điều kiện lịch sử cụ thể. Qua đó con người có
thể đi tắt đón đầu được xu thế của sự phát triển, hay ứng phó với từng vấn đề trong cuộc
sống.
2.2. Vận dụng quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những
sự thay đổi về chất và ngược lại trong nhận thức của bản thân ối với lĩnh vực chuyên
môn)
2.2.1. Trong lĩnh vực truyền hình
Đối với lĩnh vực chương trình truyền hình (TV shows), việc áp dụng đúng đắn và
phù hợp các ý nghĩa phương pháp luận của quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về
lượng thành những sự thay đổi về chất ngược lại (gọi tắt quy luật lượng - chất) vào
từng giai đoạn ng việc cụ thể với từng chương trình trong điều kiện thực tế khách quan
cùng quan trọng cần thiết. Quy luật lượng - chất sẽ giúp biên tập viên chủ nhiệm
chương trình (người chịu trách nhiệm chính về chương trình) đề ra các đầu mục công việc
quan trọng cũng như có những sự quan sát và điều chỉnh kịp thời. Từ đó tạo ra được những
chương trình truyền hình đáp ứng đúng đủ yêu cầu nhà đài đặt ra cũng như nhu
cầu thị hiếu của khán giả hiện nay.
Cụ thể, ý nghĩa phương pháp luận của quy luật lượng - chất được vận dụng vào công
việc của một biên tập viên truyền hình bao gồm:
Thứ nhất, cần coi trọng cả hai mặt chất lượng khi xét về nội dung của một chương
trình truyền hình. Biên tập viên cần phải coi trọng mặt lượng của nội dung đưa vào chương
trình trong một khung thời gian nhất định (10 phút, 30 phút, 60 phút…), trong khoảng thời
gian đó cần đưa bao nhiêu nội dung là hợp lý. Biên tập viên ng cần phải chú ý đến mặt
chất của các nội dung được đưa vào có cung cấp thông tin gì cho người xem không, có phù
hợp với tiêu chí của chương trình và yêu của nhà đài hay không, có đáp ứng được thị hiếu
khán giả hay không, những nội dung được đưa vào chỉ mang tính giới thiệu khái quát hay
cần đào sâu .… Đối với một bản tin thời sự 5 phút, biên tập viên cần phải ưu tiên về mặt
chất - tính thời sự, tức là đưa những thông tin nóng hổi nhất, đang nhận được nhiều sự quan
tâm, các thông tin, hình ảnh phải được chọn lọc kỹ càng nhằm cung cấp trực quan, rõ ràng
cụ thể đi thẳng vào vấn đề, không vòng vo lan man xung quanh những yếu tố phụ hoặc đưa
vào quá nhiều nội dung (tức chú trọng mặt ng) gây loãng thông tin sự tập trung
của khán giả. Nhưng đối với một chương trình truyền hình thực tế, thời lượng dài khoảng
30 đến 60 phút, biên tập viên cần phải chọn số lượng nhiều nội dung để đưa vào chương
trình, để chương trình đa dạng nội dung và không bị thiếu thời lượng. Tuy nhiên, đảm bảo
về mặt lượng nhưng c nội dung đưa vào cũng cần đảm bảo về mặt chất - tính thông tin,
tính giải trí để đảm bảo từng nội dung được đưa vào đều những nội dung giá trị
giữ chân được khán giả, tránh trường hợp tham nội dung nhưng lại bị dàn trải, những nội
dung đưa vào chỉ để lấp cho đủ thời lượng chương trình nhưng không giá trị về mặt
thông tin giải trí. Vậy nên thể suy ra rằng: cả hai mặt lượng chất của nội dung
trong một tập phát sóng của chương trình đều quan trọng nhưng tùy vào từng tình hình và
lOMoARcPSD| 61601492
yêu cầu cụ thể xem mặt nào quan trọng hơn đưa ra phương hướng xây dựng kịch
bản phù hợp.
Thứ hai, cần chú ý khâu tích lũy về lượng để đến khi có đầy đủ điều kiện chín muồi
sẽ thay đổi chất, nhất là trong việc phát triển của một công ty sản xuất chương trình truyền
hình. Hầu hết, các công ty mới thành lập sẽ bắt đầu thực hiện những chương trình nhỏ của
đài đặt hàng với thời lượng khoảng 10 phút hoặc 30 phút cho một tập phát sóng, phải m
kiếm và xây dựng nguồn nhân lực phù hợp với định hướng của công ty, phải tìm kiếm nhà
tài trợ cho chương trình, phải một số lượng chương trình đã sản xuất đđể nhà đài tin
tưởng… Những sự tích lũy về lượng ấy sẽ được thực hiện trong một quá trình nhất định
thể là một - hai năm hoặc dài hơn. Đến khi những sự tích lũy về lượng đã đủ đáp ứng cho
việc sản xuất những chương trình lớn thì công ty có thể thực hiện các chương trình truyền
hình với thời lượng lớn và nội dung phức tạp hơn.
Thứ ba, cần chống lại bệnh chủ quan duy ý chí, cũng như bệnh bảo thủ, trì trệ. Nếu
một người chủ nhiệm chương trình không nắm bắt được tình hình thực tế của ekip, khi
nguồn nhân lực (ekip chương trình) không đủ đáp ứng được hết các đầu việc, nguồn tài lực
chưa đủ đáp ứng các yêu cầu về mặt kỹ thuật, máy móc thiết bị (tức chưa tích lũy về
lượng) đã vội vàng muốn chạy theo xu hướng thực hiện những chương trình truyền
hình với thời lượng lớn, nội dung dày đặc, đòi hỏi nguồn nhân lực tài lực lớn. Tất yếu
sẽ dẫn đến việc chương trình bị thất bại (bể show), hoặc không đạt được chất lượng, lượt
xem sẽ thấp còn m ảnh hưởng đến những chương trình khác của công ty. Ngược lại,
nếu nguồn nhân lực dồi dào và phù hợp, nguồn tài lực, máy móc thiết bị hiện đại đáp ứng
đủ, công ty chấp nhận rót vốn để thực hiện một chương trình lớn. Nhưng chủ nhiệm chương
trình chỉ khăng khăng làm những chương trình nhỏ, hoặc m những chương trình với
những đề tài cũ, nội dung cũ, mà không chịu đổi mớiduy sản xuất những chương trình
mới phù hợp với thhiếu của khán giả hiện đại thì tất yếu sẽ bị bỏ lại đào thải khỏi
ngành giải trí. Đặc biệt đối với ngành truyền hình, đây một trong những ngành sự
đào thải nhân lực rất khủng khiếp buộc những người trong nghề đều phải đổi mới
duy mỗi ngày, mỗi giờ nếu không sẽ bị thụt lùi và tất yếu dẫn đến nguy cơ thất bại.
Thứ tư, cần phải xác định được bước nhảy, có thái độ ủng hộ bước nhảy và tạo mọi
điều kiện cho bước nhảy được thực hiện. Một chương trình truyền hình để thực hiện được
trong một thời gian dài, qua nhiều mùa mà vẫn giữ được độ hot, lượt xem cao đòi hỏi chủ
nhiệm chương trình phải người biết xác định đâu điểm tốt cần giữ lại, đâu những
điểm cần bỏ đi, đâuđiểm cần thêm vào đâu là những điểm cần làm mới trên nền cũ.
Trên sở nghiệm thu chương trình, ghi nhận các ý kiến của khán giả, họp rút kinh nghiệm
từ ekip cập nhật các xu ớng mới, chủ nhiệm chương trình sẽ đánh giá tổng quát
xác định bước nhảy - những thứ cần điều chỉnh, cần thay đổi trên tất cả phương diện của
chương trình mà mình thực hiện để đảm bảo giữ chân được sự yêu thích của khán giả. Điển
hình như chương trình Rap Việt mùa một rất thành công khi hợp tác cùng các rapper như
Wowy, Rhymastic, Binz, Karik, Suboi, Justatee Producer của ng ty Space Speaker
(Hoàng Touliver), nhưng đến mùa hai việc giữ lại gần như các vị trí huấn luyện viên
(chỉ thay Suboi và LK) và Producer dẫn đến việc mùa hai được khán giả đánh giá là giảm
sức hút, không còn hấp dẫn, không còn hay như mùa một nữa, lượt xem trên các nền tảng
cũng nhưsố lượng khán giả quan tâm đến chương trình cũng bị giảm sút. Việc kịp thời
lOMoARcPSD| 61601492
nghiệm thu ghi nhận ý kiến của khán giả, c định ớc nhảy đúng lúc, quyết định thay
đổi gần như toàn bộ huấn luyện viên và Producer của chương trình đã làm cho sức hút của
Rap Việt mùa ba tăng vọt trở lại, thậm chí còn được đánh giá nóng hơn cả hai mùa trước.
Đây thái độ ủng hộ tạo mọi điều kiện để thực hiện bước nhảy cho chương trình,
kinh phí chi cho đội ngũ huấn luyện viên và Producer mùa ba của Rap Việt sẽ cao hơn rất
nhiều so với mùa hai nhưng công ty Vie Channel vẫn quyết định thực hiện bước nhảy này.
Thứ năm, cần những biện pháp cụ thể để thay đổi chất của sự vật - hiện tượng.
Trong đó, thay đổi số lượng các yếu tố cấu thành một chương trình truyền hình, điển hình
yêu cầu thay đổi số lượng nhân sự thiết bị máy móc trong ekip tùy theo đặc thù của
từng chương trình. Một chương trình nội dung đơn giản, thời lượng mười phút thì không
thể một ekip hàng trăm con người với vài chục chiếc máy quay. Nhưng một chương
trình truyền hình thực tế như 2 ngày 1 đêm thì mang theo một ekip chỉ vài chục con
người với bốn hoặc năm chiếc máy quay sẽ không đủ đáp ứng các đầu việc, các nội dung
hình ảnh của chương trình . Vậy thì cần phải sự tăng lên giảm đi phù hợp về số
lượng vật lực và nhân lực tùy theo từng chương trình. Hai là, cần thay đổi chất lượng của
các yếu tố cấu thành một chương trình truyền hình, nhất chất lượng các trang thiết bị
phục vụ cho công tác quay hình. Thời buổi hiện công nghệ tiên tiến như hiện nay, ekip
không thể nào sử dụng những chiếc máy quay cầm tay hoặc những thiết bị ghi hình kém,
hình ảnh mờ, ống kính chỉ một tiêu cự, máy ghi âm không chống nước… những chất
lượng về mặt kỹ thuật nếu không được thay đổi và đầu tư sẽ làm ảnh hưởng rất lớn đến sản
phẩm phát sóng. Ba , thay đổi chế tác động các yếu tố cấu thành một chương trình
truyền hình. Trước đây các chương trình truyền hình thường không chú trọng về mặt truyền
thông, khai thác hậu trường, khai thác trên nền tảng số. Đa số biên tập chính của chương
trình ngoài phụ trách nội dung chính của tập phát sóng n phải phtrách luôn cả những
mảng này. Nhưng những năm gần đây, c công ty sản xuất chương trình truyền hình đã
thay đổi cơ chế tác động để nâng cao vị thế truyền thông và cho các sản phẩm truyền hình
của công ty mình bằng việc chú trọng, tách các mảng này ra thành những bộ phận độc lập
mở thêm vị trí chuyên trách trực tiếp chịu trách nhiệm cho các đầu việc này. Bốn là,
thay đổi trật tự sắp xếp giữa các yếu tố cấu thành một chương trình truyền hình. Theo đánh
giá tâm khán giả, trong 15 đến 20 giây đầu của một tập phát ng, nếu nội dung không
có sự cuốn hút thì thường khán giả sẽ chuyển kênh, vậy thì biên tập viên của chương trình
nhiệm vụ phải thay đổi trật tự như thế nào để giữ chân được khán giả đến phút cuối
cùng của tập phát sóng, nhiệm vụ này đòi hỏi biên tập phải biết thay đổi trật tự sắp xếp
giữa các file ghi hình trong tập phát sóng sao cho vẫn bám sát đường dây kịch bản nhưng
vẫn tạo được sự hấp dẫn cuốn hút, tạo cho khán giả sự háo hức chờ đợi nội dung tiếp theo.
Chứ không phải biên tập nhất quyết y một trật tự các file ghi hình như ngoài set quay.
Hoặc thay đổi trật tự phát sóng các tập trong một chương trình, biên tập viên cần chọn tập
ghi hình nào hay nhất để phát sóng mở màn cho chương trình, tập nào có nội dung đặc sắc
và phù hợp để phát sóng vào những dịp đặc biệt như lễ, Tết... Năm là, thay đổi chức năng
của các yếu tố cấu thành một chương trình truyền hình và chức năng của toàn bộ chương
trình truyền hình. Hiện nay, nhu cầu của khán giả xem chương trình truyền hình không chỉ
là muốn biết thêm những thông tin mới, mà khán giả còn chú trọng về mặt giải trí của một
chương trình. Do việc phát sinh nhu cầu này, một schương trình đặc thù, điển hình
lOMoARcPSD| 61601492
chương trình thời sự ngoài cung cấp những tin tức về chính trị, văn hóa, xã hội thì còn đưa
vào một số các nội dung nắm bắt xu thế và cập nhật kịp thời các xu hướng của xã hội, đặc
biệt xu hướng của giới trẻ những hiện tượng mạng hội… iểm tuần: “Bội thực
hoa hậu” - VTV1, Điểm tuần: “Hiệu ng hào quang” mặt trái của sự lấp lánh - VTV1…).
Từ việc thay đổi chức năng của các tin trong một bản tin thời sự, o theo chức năng của
một bản tin thời sự rộng hơn chức năng của chương trình thời sự cũng thay đổi từ
chức năng thông tin sang chức năng thông tin (chính) và giải trí (phụ). Sáu là, thay đổi môi
trường tồn tại của một chương trình truyền hình. Với sự phát triển của công nghệ, các thiết
bị điện tử nhỏ gọn thông minh như điện thoại, ipad, máy tính bảng, laptop… được sử
dụng rất phổ biến, chúng ta đã không còn thường xuyên xem TV như trước. Từ đó kéo theo
việc các đài truyền hình phải chuyểnớng đến mục tiêu đến việc khai thác chương trình
truyền hình trên các nền tảng mạng xã hội. Một chương trình truyền hình, vì thế, không chỉ
tồn tại trên TV, không chỉ được quy mức độ thành công bằng ợng rating nữa mà còn được
xem xét nhiều kênh thông tin khác nhau, thông qua các đơn vị đo lường như lượt view,
lượt leo top trending, lượt yêu thích, bình luận và chia sẻ trên các nền tảng mạng xã hội…
Tức môi trường tồn tại của các chương trình truyền hình đã thay đổi. Đài truyền hình
quốc gia VTV các đài truyền hình khác cũng đã nhanh chóng cho ra đời những kênh
Tiktok (VTV24h, Truyền hình Quốc Hội, Truyền hình nh Long…), kênh Youtube
(THVL giải trí, HTV giải trí, VTV24…) và các ứng dụng cài đặt trên điện thoại (app VTV
Go, VTV News, THVLi, HTVC…), Facebook (fanpage THVL - Đài Phát thanh Truyền
hình Vĩnh Long, HTV - Đài Truyền hình TP.HCM, VTV - Đài Truyền hình Việt Nam…)...
Những kênh thông tin này thể giúp khán giả thuận lợi hơn trong việc xem lại chương
trình trên các thiết bị điện tử các nhân có kết nối internet, khán giả có thể xem bất kì đâu,
bất kỳ lúc nào, có thể xem đi xem lại nhiều lần và để lại đánh giá cho chương trình… Đây
là những bước tiến của việc khai thác chương trình truyền hình trên đa dạng các nền tảng,
điều trước đây chương trình truyền hình chỉ được chiếu trên các kênh truyền hình không
thực hiện được.
Thứ sáu, trong đời sống hội cần vận dụng một cách phù hợp khi giải quyết mối
quan hệ giữa chất tự nhiên và chất xã hội của sự vật. Với một chương trình truyền hình để
giữ được sức hút trong thời buổi hiện nay cần phải đáp ng được rất nhiều yêu cầu.
phải có đủ thuộc tính tự nhiên (cung cấp thông tin) nhưng cũng phải đủ các thuộc nh
xã hội (có yếu tố giải trí, gây cười, hình ảnh đẹp, khách mời thú vị, cập nhật xu hướng của
hội…). Điển hình như những sự thay đổi gần đây của nhà đài VTV, nhất trong việc
bắt trend, cập nhật xu ớng nhanh chóng để tìm cách đưa thông tin dẫn dắt chương
trình có sự vui nhộn thú vị, chứ không chỉ đơn giản như ngày trước là một bản tin thời
sự chỉ để cung cấp thông tin nữa. Tuy nhiên, VTV vẫn phân đối tượng khán giả của
chương trình để xây dựng nội dung phù hợp, đối với thời sự trên kênh truyền hình nhà đài
vẫn chú trọng giữ lại tính nghiêm túc được xây dựng từ trước đến nay, nhưng với mục tiêu
đưa thời sự tiếp cận giới trẻ thì VTV24 sẽ mang đến những nội dung bắt trend, vui nhộn,
sôi động hơn để phù hợp với tệp khán giả trẻ. Hay hiện nay, khán giả có nhu cầu xem các
chương trình dạy nấu ăn vẫn còn, nhưng cuộc sống bận rộn, không nhiều thời gian
nên khán giả thường có xu hướng chọn những đoạn video ngắn cung cấp đầy đủ thông tin
mà họ cần, vì thế nên những chương trình ẩm thực (dạy nấu ăn) thời lượng hơn 10 phút đã
lOMoARcPSD| 61601492
không còn phù hợp thay vào đó những video ngắn thời lượng khoảng 3 phút đổ lại
sẽ được khán giả chọn xem nhiều hơn. Tuy nhiên, cũng cần phải chú trọng chất tự nhiên
của một chương trình ẩm thực, do nảy sinh những yêu cầu về chất hội nên một số chương
trình các kênh dạy nấu ăn kém chất lượng, gây phản cảm đối với người xem. Hoặc rất
nhiều những chương trình hài nhảm, giải trí nhảm ra đời nhằm đáp ứng chất hội (nhu
cầu giải trí) nhưng lại bỏ quên cái chất tự nhiên (cung cấp thông tin) của một chương trình
truyền hình. Điều đó đòi hỏi biên tập viên phải cân nhắc giữa chất tự nhiên và chất xã hội
để chọn lọc những nội dung hay và phù hợp để đưa vào sản phẩm của mình.
2.2.2. Trong lĩnh vực sư phạm
Bất kì sự vật, hiện tượng nào cũng sự thống nhất biện chứng giữa hai mặt chất
lượng. Sự thay đổi về lượng tới điểm nút sẽ dẫn đến sự thay đổi về chất thông qua bước
nhảy. Chất mới ra đời stác động trở lại sự thay đổi của ợng mới. Quá trình đó liên tục
diễn ra, tạo thành phương thức phổ biến của các quá trình vận động, phát triển của sự vật,
hiện tượng trong tự nhiên, hội, duy. Cho nên, khi nghiên cứu, học tập biết cách
vận dụng quy luật Lượng Chất vào quá trình học tập ng một trong những phương
thức thúc đẩy, thay đổi quá trình học tập giảng dạy của giáo viên. Từ đó thể đưa ra
những giải pháp giảng dạy một cách hiệu quả hơn, đồng thời giúp cho học sinh sinh viên
nâng cao khả năng vận dụng những tri thức luận vào các hoạt động thực tiễn của bản
thân. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả vận dụng quy luật từ sự thay đổi về lượng dẫn
đến thay đổi về chất ngược lại trong quá trình giảng dạy của giáo viên về học tập của
học sinh, sinh viên hiện nay:
Thứ nhất, giáo viên cần coi trọng cả hai mặt lượng và chất trong quá trình giảng dạy
và đứng lớp. Để làm rõ hơn về vấn đề này thì chúng ta sẽ nói về việc ôn thi THPT QG cho
học sinh, giáo viên cần chú ý tới trong quá trình ôn thi cho học sinh thì về mặt ợng câu
hỏi, đề thi giáo viên cần phải đưa ra cho học sinh đa dạng đề, đa dạng câu hỏi để có thể ma
sát cũng như là làm quen được với nhiều loại đề từ đó sẽ thêm kinh nghiệm làm bài hơn.
Nhưng cũng phải chú trọng về mặt chất trong quá trình ôn thi cho học sinh. Bởi một đề ôn
thi đại học cần đáp ứng những yêu cầu cao và kiến thức rộng hơn, câu hỏi ôn thi phải chất
lượng, bám sát vào chương trình học có trong ma trận ôn thi của Bộ Giáo dục, tránh trường
hợp giải đề tội vạ nhưng lại ko nâng cao được kiến thức của học sinh mà còn tạo ra phản
ứng ngược làm học sinh bị loãng kiến thức, làm không đúng vào yêu cầu của bài. Chính vì
vậy giáo viên cần phải cho học sinh ôn tập rèn luyện sao cho phù hợp với chương
trình ôn tập của bộ đề ra, phù hợp với yêu cầu của ngành giáo dục đối với kỳ thi năm đó.
Chỉ khi nào làm được như vậy học sinh mới đạt được những thành tích, đảm bảo phất tiển
được cả hai mặt lượng và chất.
Thứ hai, giáo viên cần chú ý khâu tích lũy về lượng để đến khi đầy đủ điều kiện
chín muồi sẽ thay đổi chất trong việc giảng dạy học sinh. Trong quá trình học tập, học sinh
cần từng bước tích lũy kiến thức một cách chính xác, đầy đủ. Như chúng ta đã biết, sự vận
động và phát triển của sự vật bao giờ cũng diễn ra bằng cách tích lũy dần dần về lượng đến
một giới hạn nhất định, thực hiện bước nhảy để chuyển về chất việc học tập của học
sinh cũng không nằm ngoài điều đó. Để một kiến thức nền bền vững thì giáo viên cần
trau dồi cho học sinh từ kiến thức bản nhất rồi dần dần mới lên cao hơn. dụ như trong
quá trình ôn thi THPTQG, học sinh đã có được những kiến thức cơ bản tích lũy qua nhiều
lOMoARcPSD| 61601492
năm đi học thì quá trình ôn tập để thi quốc gia cũng sẽ dễ dàng hơn, nhất là với những học
sinh muốn đạt điểm tuyệt đối thì giáo viên ng thể từ kiến thức nền các em đã
sẵn ôn tập nâng cao lên. Như vậy có thể coi học tập quá trình tích lũy về lượng
điểm nút là các kỳ thi, thi cử là bước nhảy và điểm số xác định quá trình tích lũy kiến thức
đã đủ dẫn tới sự chuyển hóa về chất hay chưa. Do đó, trong hoạt động nhận thức, học tập
của học sinh phải biết từng bước tích lũy về lượng tri thức làm biến đổi về chất kết quả
học tập theo quy luật. Cần học tập đều đặn hàng ngày để lượng được thấm sâu chất vào
mỗi học sinh. Tránh việc gấp rút mỗi khi sắp đến kỳ thi, như vậy thiếu kinh nghiệm nhận
thức được trong quá trình học tập.
Thứ ba, giáo viên cần chống lại bệnh chủ quan duy ý chí, cũng như là bệnh bảo thủ
trì trệ. Trong việc ôn thi cho học sinh thì giáo viên cần phải những phương pháp giảng
dạy phù hợp với mỗi học sinh. Ví dụ, đối với học sinh chưa nắm được kiến thức nền, chưa
giải được những đề cơ bản thì giáo viên đã nóng vội cho học sinh phải giải những đề k
hơn, cao hơn như vậy giáo viên đang bị chủ quan duy ý chí, không phù hợp với học sinh.
những học sinh khi học đủ những kiến thức bản sự biến đổi về chất mới thể
học tiếp những kiến thức sâu hơn, khó hơn. Chính thế giáo viên cũng nên tạo điều
kiện cho học sinh giải những đề khó hơn để lấy được điểm tuyển đối. Học tập nghiên cứu
từ dễ đến khó phương pháp học tập mang tính khoa học chúng ta đều biết nhưng
trong thực tế, không phải ai cũng thể thực hiện được. Giai đoạn ôn thi lúc học sinh
củng cố lại kiến thức chứ không phải học mới, do đó giáo viên cần cho học sinh ôn luyện
đề thi với hình thức mà môn đó yêu cầu như trắc nghiệm hoặc tự luận để học sinh thể
làm quen được với dạng đề thi trong thời gian này để đảm bảo lượng kiến thức cũng như
là nhạy bén hơn trong việc giải đề.
Thứ tư, giáo viên cần phải xác định được bước nhảy, phải thái độ ủng hộ bước
nhảy và tạo mọi điều kiện cho bước nhảy được thực hiện. Trong quá trình giảng dạy giáo
viên phải thúc đẩy học sinh phấn đấu học tập rèn luyện, tránh ởng chủ quan. Khi
bước chân vào đại học, có một bộ phận không nhỏ trong học sinh tự mãn với những đã
đạt được, không tiếp tục nỗ lực phấn đấu vươn lên, sống không tưởng, hoài bão.
Xét theo quan điểm của triết học, chất thay đổi sẽ tác động trở lại lượng của sự vật. Sự tác
động đó được thể hiện: Chất mới thể làm thay đổi kết cấu quy mô, trình độ, nhịp điệu
của sự vật. Khi đã đỗ vào đại học, trở thành sinh viên chúng ta được tiếp cận những tri thức
cao hơn, sâu hơn. Nhiệm vụ của mỗi sinh viên là phải tiếp tục học hỏi, trau dồi thêm những
kiến thức (tích lũy về lượng), trở thành những người trình độ đóng góp cho hội. Trong
quá trình học tập, học sinh phải trải qua rất nhiều kỳ thi. Kết quả tốt của các kỳ thi đánh
dấu ta kết thúc một giai đoạn là bước khởi đầu cho ta sang một giai đoạn mới đòi hỏi
chúng ta một trình độ cao hơn, lượng kiến thức nhiều hơn, chính vậy, mỗi học sinh
cần phải không ngừng học tập phấn đấu để tiếp cận những tri thức mới ở trình độ cao hơn.
Nó giúp chúng ta tránh được tư tưởng bảo thủ, trì trệ trong học tập rèn luyện.
Thứ năm, cần những biện pháp cụ thể để thay đổi chất của sự vật hiện tượng. Trong
quá trình ôn thi đại học thì đối với môn Văn, lớp tự nhiên sẽ ôn lượng kiên thức đủ để học
sinh có thể nắm được kiến thức bản trong chương trình ôn thi không đòi hỏi học
sinh phải tập trung quá nhiều vào môn Văn mà thời gian tập trung vào môn này sẽ ít hơn
những môn tự nhiên. Ngược lại với lớp chuyên Văn sẽ nâng cao kiến thức hơn, đi sâu vào
lOMoARcPSD| 61601492
tác phẩm hơn khi đi thi thì học sinh ở lớp này sẽ đòi hỏi về điểm số cũng nhưcách làm
bài có tính sáng tạo hơn nên cần phải ôn luyện nhiều hơn.
Chất lượng đề thi, đề bản để ôn kiến thức nền, đề luyện nâng cao phân hóa
điểm, đề tổng hợp như 1 đề thi ĐH, đề lấy từ các nguồn uy tín, từ đề của tổ bộ môn, đề của
các trường bạn, đề của bộ…
Trong quá trình ôn, phân chia ra thành các loại đề (giải nhà lên lớp sửa, giải trên
lớp, giải có hướng dẫn, tự giải, tự chữa bài, chữa bài chéo, chữa bài nhóm…) tùy theo từng
giai đoạn, từng tình hình thực tế của lớp để giáo viên sắp xếp phù hợp.
Khi ôn thi thay đổi trật tự của lớp tùy theo tình hình bạn giỏi kèm bạn yếu tùy từng
môn phù hợp ở học sinh trong lớp.
Thay đổi các câu hỏi trong bộ đề ôn tập theo từng lớp. Với lớp tự nhiên thì giáo viên
thể cho đề Văn dễ, mục tiêu lấy điểm những câu bản. Đối với lớp hội thì đề sẽ
khó hơn, độ phân hóa cao, mục tiêu lấy điểm câu căn bản và nâng cao. Chức năng của mỗi
câu hỏi và toàn bộ đề ôn thi ở mỗi lớp hoặc ở mỗi học sinh sẽ khác nhau.
Thay đổi môi trường giải đề, mở các kì thi thử để các bạn tập quen với áp lực phòng
thi, mỗi học sinh cần phải tự rèn luyện ý thức học tập tích cực, chủ động.
Cuối cùng, trong việc giảng dạy cần vận dụng một cách phù hợp khi giải quyết mối
quan hệ giữa chất tự nhiên chất xã hội của sự vật. Quá trình ôn thi ĐHQG là lâu dài nên
mỗi giáo viên đều phải chú trọng vào kiến thức nền tảng cho học sinh đó là tính tự nhiên.
Và mỗi năm sẽ có một ma trận đề thi khác nhau để có thể phù hợp với tình hình, năng lực
của học sinh chương trình học của Bộ giáo dục đưa ra. dụ như một thời gian kỳ
thi sẽ hoàn toàn tự luận nhưng mấy m trở lại đây trong kỳ thi quốc gia đổi thành thi
trắc nghiệm hoàn toàn ngoại trừ môn Văn. Đó tính hội. hội tự nhiên mối
quan hệ hỗ trợ chặt chẽ ở trong môi trường giảng dạy.
Tóm lại, việc vận dụng nội dung quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa ợng
chất cũng như ý nghĩa phương pháp luận của nó có vai trò to lớn trong việc học tập và rèn
luyện của giáo viên cũng như học sinh, sinh viên hiện nay. Lượng và chất là hai mặt thống
nhất biện chứng của sự vật, chỉ khi nào lượng được tích lũy tới một độ nhất định mới làm
thay đổi về chất, do đó trong hoạt động nhận thức, hoạt động học tập của sinh viên phải
tích lũy dần về lượng đồng thời phải biết thực hiện thực hiện kịp thời những bước
nhảy khi có điều kiện chín muồi để biến đổi về chất.
C. KẾT LUẬN
Từ việc nghiên cứu về quy luật của schuyển đổi về lượng dẫn đến chuyển
đổi về chất và ngược lại, ta có thể rút ra kết luận:
- Việc vận dụng đúng cách ý nghĩa phương pháp luận quy luật chuyển hóa từ
những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất và ngược lại vào chuyên
môn, nghiệp vụ thực tiễn đời sống vai trò quan trọng trong bối cảnh hội
hiện nay. Bởi lẽ, đó hoạt động mang lại hiệu quả cao trong chuyên môn nghiệp
vụ, giúp nâng cao chất lượng cuộc sống, góp phần vào sự phát triển chung của đất
nước.
lOMoARcPSD| 61601492
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giáo dục Đào tạo (2004), Giáo trình Triết học Mác Lênin, Nhà xuất
bảnChính trị Quốc gia, Hà Nội.
2. Nguyễn Ngọc Khá (Chủ biên), Nguyễn Huỳnh Bích Phương (2022), Chuyên
đề Triết học, Nhà xuất bản Đại học Sư Phạm Thành phố Hồ Chí Minh.
3. Nguyễn Ngọc Khá (Chủ biên), Nguyễn Huỳnh Bích Phương (2017), Lịch sử
triết học trước Mác, Nhà xuất bản Đại học Phạm Thành phố Hồ Chí Minh. 4.
Nguyễn Ngọc Khá (Chủ biên), Nguyễn Huỳnh Bích Phương (2021), tưởng Hồ
Chí Minh - Một số chuyên đề lý luận và thực tiễn, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia,
Hà Nội.
5. Mạch Ngọc Thuỷ (2000), Phương pháp biện chứng duy vật sự vận dụng
phương pháp này của Đảng Cộng sản Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa hiện nay, Luận văn Tốt nghiệp chuyên ngành Giáo dục Chính trị,
Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh.

Preview text:

lOMoAR cPSD| 61601492
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH KHOA NGỮ VĂN **********
BÀI THUYẾT TRÌNH MÔN TRIẾT HỌC Đề tài:
VẬN DỤNG QUY LUẬT CHUYỂN HÓA
TỪ NHỮNG SỰ THAY ĐỔI VỀ LƯỢNG
THÀNH NHỮNG SỰ THAY ĐỔI VỀ CHẤT VÀ NGƯỢC LẠI
TRONG NHẬN THỨC VÀ THỰC TIỄN
Giảng viên hướng dẫn: PGS.TS. NGUYỄN NGỌC KHÁ
Lớp: VĂN HỌC VIỆT NAM
Học viên thực hiện:
Võ Nguyễn Huỳnh Như Tsàn Dùng Nhành
Nguyễn Thị Phương Linh
Ngô Trần Xuân Hạnh Hoàng Nhật Linh
Đặng Nguyễn Hồng Duyên
Nguyễn Hoàng Nhật Khuê
Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 12 năm 2023 lOMoAR cPSD| 61601492 MỤC LỤC A. ĐẶT VẤN ĐỀ B. NỘI DUNG 1. Cơ sở lý luận 1.1. Các khái niệm 1.1.1. Lượng 1.1.2. Chất 1.1.3. Điểm nút 1.1.4. Bước nhảy
1.2. Mối quan hệ biện chứng giữa lượng và chất
1.3. Ý nghĩa phương pháp luận
2. Vận dụng quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay
đổi về chất và ngược lại trong nhận thức và thực tiễn
2.1. Vận dụng trong chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những sự
thay đổi về chất và ngược lại trong thực tiễn cuộc sống
2.2. Vận dụng quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những
sự thay đổi về chất và ngược lại trong nhận thức của bản thân (đối với lĩnh vực chuyên môn) C. KẾT LUẬN TÀI LIỆU THAM KHẢO A. ĐẶT VẤN ĐỀ
Quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi
về chất và ngược lại là một trong ba quy luật cơ bản thuộc nguyên lý về sự phát triển
trong chủ nghĩa duy vật biện chứng được đề xướng bởi học thuyết triết học của Karl
Marx và Friedrich Engels. Quy luật chuyển hóa này cho phép con người tìm hiểu về
cách thức và tính chất của sự phát triển, từ đâu mà xuất hiện những sự thay đổi về
chất, và ngược lại, những sự thay đổi về chất này có tác động qua lại như thế nào đối
với lượng của sự vật. Chính bởi vậy mà quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi
về lượng dẫn đến những thay đổi về chất đóng vai trò nền tảng cho việc nghiên cứu
sự phát triển của các sự vật hiện tượng trong thế giới chung, đồng thời cũng tạo cơ
sở cho phương pháp chung nhất của tư duy biện chứng.
Bất kì sự vật, hiện tượng nào cũng là sự thống nhất biện chứng giữa hai mặt
chất và lượng. Sự thay đổi về lượng tới điểm nút sẽ dẫn đến sự thay đổi về chất thông
qua bước nhảy. Chất mới ra đời sẽ tác động trở lại sự thay đổi của lượng mới. Quá
trình đó liên tục diễn ra, tạo thành phương thức phổ biến của các quá trình vận động,
phát triển của sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội, tư duy. Trong thực tiễn đời
sống, quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về
chất còn có ý nghĩa đối với nhận thức và hành động của mỗi cá nhân. Vì thế, khi
nghiên cứu, học tập và vận dụng quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lOMoAR cPSD| 61601492
lượng thành những sự thay đổi về chất và ngược lại trong nhận thức và thực tiễn
là một trong những phương thức thúc đẩy sự phát triển của con người và xã hội trong bối cảnh hiện nay. B. NỘI DUNG 1. Cơ sở lý luận
1.1. Các khái niệm 1.1.1. Lượng
Lượng là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định vốn có của sự vật, hiện tượng
về mặt số lượng, quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng.
Cũng giống chất, lượng là cái vốn có của sự vật, nhưng lượng chưa làm cho sự vật
là nó, chưa thể làm nó trở nên khác biệt so với những cái khác. Lượng có tính khách quan
và tồn tại cùng với chất của sự vật. Do đó mà bất cứ sự vật nào cũng bao gồm hai mặt chất
và lượng. Mỗi sự vật, hiện tượng có vô vàn chất vì thế nên nó cũng có vô vàn lượng.
Trong thực tế, lượng của sự vật có thể được xác định bằng thông số chính xác hoặc
thông số trừu tượng. Thông số chính xác thường biểu thị dưới dạng những đơn vị đo lường cụ thể.
Ví dụ: đỉnh Phan Xi Păng thuộc dãy Hoàng Liên Sơn ở nước ta cao 3143m.
Bên cạnh đó, có những lượng chỉ có thể biểu thị dưới dạng trừu tượng và khái quát
như IQ3 (chỉ số thông minh), EQ4 (chỉ số cảm xúc),...
Có những lượng biểu thị yếu tố quy định kết cấu bên trong của sự vật song cũng có
những lượng vạch ra yếu tố quy định bên ngoài của sự vật.
Sự phân biệt chất và lượng của sự vật chỉ mang tính tương đối. Có những tính quy
định trong mối quan hệ này là chất của sự vật, song trong mối quan hệ khác lại biểu thị
lượng của sự vật và ngược lại. 1.1.2. Chất
Cần phải nói rõ rằng, trong lịch sử triết học từ trước đến nay đã xuất hiện nhiều quan
điểm khác nhau về khái niệm chất, lượng và mối quan hệ giữa chúng. Những quan điểm
đó chủ yếu phụ thuộc vào thế giới quan và phương pháp luận của từng nhà triết học, từng
trường phái triết học riêng.
Phép biện chứng duy vật thuộc triết học Marx-Lenin cho rằng: Chất là phạm trù triết
học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật và là sự thống nhất hữu cơ của
những thuộc tính làm cho sự vật là nó chứ không phải là cái khác. Mà các thuộc tính khách
quan của sự vật, hiện tượng chỉ bộc lộ ra khi nó nằm trong mối liên hệ với các sự vật, hiện
tượng khác. Trên cơ sở này, ta có thể xác định thuộc tính của một sự vật, hiện tượng bằng
cách đặt chúng trong mối liên hệ với các sự vật hiện tượng khác, tức là chúng ta có thể dựa
vào chất mà phân biệt các sự vật, hiện tượng với nhau.
Một số đặc điểm của chất:
Một là, chất có tính khách quan: trước hết, chất là cái vốn có của sự vật. Mỗi sự vật,
hiện tượng trong thế giới đều có những chất vốn có, làm nên chính chúng. Nhờ đó, chúng
mới không bị nhầm lẫn với các sự vật, hiện tượng khác. lOMoAR cPSD| 61601492
Hai là, chất được tạo thành từ những thuộc tính của sự vật (chủ yếu là những thuộc
tính cơ bản). Thuộc tính của sự vật là những tính chất, những trạng thái, yếu tố tạo thành
sự vật… Đó là những cái vốn có của sự vật từ khi sự vật được sinh ra hoặc được hình thành
trong sự vận động và phát triển của nó. Tuy nhiên, ta chỉ có thể nhận ra những thuộc tính
của sự vật thông qua sự tác động qua lại của sự vật đó với bản thân chúng ta hoặc thông
qua quan hệ, mối liên hệ giữa nó và những sự vật khác.
Ví dụ: chúng ta chỉ có thể nhận biết đồ ăn mặn hay ngọt, chua hay cay bằng cách
nếm thử, tạo ra sự tiếp xúc giữa vị giác chúng ta với đồ ăn.
Mặt khác, không phải thuộc tính nào cũng biểu hiện chất của sự vật. Thuộc tính của
sự vật có thuộc tính cơ bản và không cơ bản. Những thuộc tính cơ bản được tổng hợp lại
tạo nên chất của sự vật. Chỉ khi nào chúng thay đổi hoặc mất đi thì sự vật mới thay đổi và
mất đi. Nhưng như đã nói ở trước, thuộc tính của vật chỉ được bộc lộ qua mối liên hệ với
những sự vật, hiện tượng xung quanh. Vì vậy sự phân chia thuộc tính cơ bản và không cơ
bản chỉ mang tính tương đối.
Ba là, mỗi sự vật đều có nhiều chất tùy theo góc độ xem xét. Bởi lẽ, mỗi sự vật đều
có rất nhiều thuộc tính mà mỗi thuộc tính lại biểu hiện một chất khác nhau. Trong hiện thực
khách quan, không thể tồn tại sự vật không có chất và không thể có chất nằm ngoài sự vật. 1.1.3. Điểm nút
Theo giáo trình Chuyên đề Triết học của PGS. TS. Nguyễn Ngọc Khá về khái niệm
về điểm nút là: “Điểm nút là một phạm trù dùng để chỉ điểm giới hạn mà tại đó sự thay đổi
về lượng đã làm thay đổi căn bản về chất của sự vật, hiện tượng.”(trang 109,
PGS. TS. Nguyễn Ngọc Khá, (2022), Chuyên đề Triết học, NXB Đại học Sư phạm TPHCM)
Ví dụ: Sau khi bước vào môi trường Sư phạm được học những chuyên môn nghề
nghiệp liên quan đến nghiệp vụ sư phạm, người sinh viên sẽ được phát triển, trau dồi các
kĩ năng chuyên môn. Không những thế, tình yêu nghề sẽ được bồi đắp theo năm tháng…
Các điểm nút như: năm thứ nhất bắt đầu làm quen với các môn chuyên ngành, năm thứ hai
và thứ ba bắt đầu học các môn liên quan đến phương pháp giảng dạy; nửa cuối năm ba và
năm tư sẽ có điểm nút ở chặng thực tập sư phạm, lúc này sinh viên sẽ được thực hành
những kĩ năng sư phạm và học hỏi ở môi trường thực tế. Từ những điểm nút trên năng lực
chuyên môn, phẩm chất đạo đức nghề giáo sẽ giúp người sinh viên sư phạm biến đổi nhanh
hơn về chất. Đó là quy trình chuyển hóa từ sự thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về
chất. Khi sinh viên đã dần bước qua trau dồi những kĩ năng chuyên môn từ thấp đến cao
đến vận dụng trong công việc tương lai của mình. 1.1.4. Bước nhảy
Theo giáo trình Chuyên đề Triết học của PGS. TS. Nguyễn Ngọc Khá về khái niệm
về bước nhảy là: “Bước nhảy là một phạm trù dùng để chỉ sự chuyển hóa về chất của sự
vật, hiện tượng do sự thay đổi dần dần về lượng trước đó gây nên.
Bước nhảy đánh dấu sự kết thúc một giai đoạn vận động, phát triển của sự vật, hiện
tượng; đồng thời đó cũng là điểm khởi đầu cho một giai đoạn mới tiếp theo, là sự gián đoạn
trong quá trình vận động, phát triển liên tục của sự vật, hiện tượng.” (trang lOMoAR cPSD| 61601492
109, PGS. TS. Nguyễn Ngọc Khá, (2022), Chuyên đề Triết học, NXB Đại học Sư phạm TPHCM).
Ngoài ra, khái niệm bước nhảy có thể được hiểu như “một quá trình bất ngờ và đột
ngột, khi một sự thay đổi nhỏ trong một hệ thống dẫn đến một sự thay đổi lớn về chất, mà
không có sự chuyển đổi trung gian. Sự thay đổi lớn về căn bản về chất có thể gây ra một
sự hiểu biết mới và sâu sắc hơn về sự vật hoặc hiện tượng đó.”
Chuyên đề Triết học của PGS. TS. Nguyễn Ngọc Khá cũng nêu rằng: “Có nhiều
hình thức bước nhảy: bước nhảy dần dần và bước nhảy đột biến, bước nhảy chậm và bước
nhảy nhanh, bước nhảy cục bộ và bước nhảy toàn bộ.”(trang 109, PGS. TS. Nguyễn Ngọc
Khá, (2022), Chuyên đề Triết học, NXB Đại học Sư phạm TPHCM).
Như vậy, lượng biến đổi đến một điểm giới hạn nhất định vượt quá độ, sự vật, hiện
tượng, sẽ thực hiện bước nhảy. Chỉ thực hiện bước nhảy khi đã tích lũy lượng đến giới hạn
điểm nút. Bởi đây yếu tố cần và đủ để thực hiện các giá trị về lượng. Khi tích lũy được
trong yêu cầu cần thiết. từ đó mà chất mới hình thành mới mang đến các đặc điểm, chức
năng mới tốt hơn đặc điểm, chức năng cũ. Đồng thời, đảm bảo cho tính chất phát triển của chiều hướng đi lên.
Có thể hiểu đơn giản là, mọi sự vật đều vận động và phát triển nhưng cần thời gian
và sự tác động từ bên ngoài, điều này sẽ đảm bảo hiệu quả đối với quá trình tổng hợp và
các nội dung tổng hợp được trên thực tế. Vì vậy, bố trí thời gian và nỗ lực hợp lý cho kế
hoạch đã đặt mục tiêu. Ta cần phải định hướng học tập, trau dồi với lượng kiến thức như
thế nào cho hợp lý: chia nhỏ theo thời gian, lộ trình để tiếp thu hiệu quả. Kết quả đạt được
với các cuộc kiểm tra, đánh giá và nhận được công nhận của mọi người, từ đó “chất” mới được hình thành
Ví dụ 1: Mỗi giai đoạn tư duy của trẻ em đều là một bước nhảy trong sự phát triển
của tư duy con người. Trong mỗi giai đoạn, trẻ em phát triển một tầm nhìn và hiểu biết mới
và sâu sắc hơn về thế giới xung quanh, và chúng không thể đạt được bằng cách chuyển đổi
từ một giai đoạn sang giai đoạn khác thông qua sự chuyển đổi nhỏ về lượng. Mỗi giai đoạn
tư duy của trẻ em tạo ra một sự chuyển đổi lớn về căn bản về chất và đóng vai trò quan
trọng trong sự phát triển của tư duy con người.
Ví dụ 2: Khi hai người mới gặp nhau thường thì họ chỉ có một chút gì đó cảm mến
với nhau lúc đầu thôi chứ khó có thể nói là đã yêu nhau được (Trừ tình yêu kiểu sét đánh).
Sau khi đã quen biết nhau, họ bắt đầu đi lại nhiều hơn, nói chuyện với nhau nhiều hơn,
cùng nhau làm một số việc như cùng học, cùng đi chơi... qua những chuyện đó họ sẽ dần
dần hiểu nhau hơn, hiểu về con người, tính cách, cá tính và nét duyên dáng đáng yêu của
nhau hơn. Dần dần trong họ bắt đầu nảy nở tình yêu vì thấy rằng đối phương là một người
rất đáng yêu trong các hoàn cảnh của cuộc sống. Việc tích lũy về những hiểu biết, những
tình cảm, cảm xúc về nhau đó được xem là việc tích lũy về lượng. Khi những sự hiểu biết
đó, những tình cảm đó đủ lớn, tình cảm đó sẽ có thể chuyển thành tình yêu. Nhưng thường
để chính thức được công nhận là người yêu, họ thường qua một bước gọi là ngỏ lời yêu và
nhận lời yêu. Đây được xem là một “bước nhảy” trong quan hệ giữa hai người chuyển từ
chất này (tình bạn) qua chất khác (tình yêu).
1.2. Mối quan hệ biện chứng giữa lượng và chất lOMoAR cPSD| 61601492
1.2.1. Những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất
Bất kỳ sự vật hay hiện tượng nào cũng là sự thống nhất giữa mặt chất và mặt lượng.
Chúng tác động qua lại lẫn nhau. Quy định về lượng sẽ không bao giờ tồn tại nếu không
có tính quy định về chất và ngược lại.
Sự thay đổi về lượng và về chất của sự vật diễn ra cùng với sự vận động và phát
triển của sự vật, có quan hệ chặt chẽ, mật thiết với nhau. Tuy nhiên, không phải lúc nào sự
thay đổi về lượng cũng làm thay đổi ngay lập tức sự thay đổi về chất của sự vật. Ở trong
“độ”, lượng của sự vật thay đổi, nhưng chất của sự vật chưa thay đổi cơ bản. Phải đến khi
lượng của sự vật được tích lũy vượt qua được giới hạn đó, đạt đến điểm nút thì chất cũ mất
đi và lúc này chất mới thay thế chất cũ.
1.2.2. Những thay đổi về chất dẫn đến những thay đổi về lượng
Chất mới của sự vật ra đời sẽ tác động trở lại lượng của sự vật, hiện tượng. Sự tác
động ấy thể hiện ở chỗ chất mới có thể làm thay đổi kết cấu, quy mô, trình độ, nhịp điệu
của sự vận động và phát triển của sự vật.
Tóm lại, có thể khái quát quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng dẫn
đến những thay đổi về chất và ngược lại (Gọi tắt là quy luật lượng - chất) như sau: “Mọi
sự vật đều là sự thống nhất giữa lượng và chất, sự thay đổi dần dần về lượng tới điểm nút
sẽ dẫn đến sự thay đổi về chất của sự vật thông qua bước nhảy; chất mới ra đời tác động
trở lại sự thay đổi của lượng mới lại có chất mới cao hơn… Quá trình tác động này diễn
ra liên tục làm cho sự vật không ngừng biến đổi”
Hay dễ hiểu hơn, như Friedrich Engels từng phát biểu thì: “Những thay đổi đơn
thuần về lượng, đến một mức độ nhất định, sẽ chuyển hóa thành những sự khác nhau về
chất.” (C.Mác và Ph.Ăng-ghen: Toàn tập, 1994, trang 179).
1.3. Ý nghĩa phương pháp luận
Một là, trong nhận thức và thực tiễn cần phải coi trọng cả hai mặt chất và lượng.
Vận dụng: Khi học tập ngoài việc cần hoàn thành số tín chỉ để ra trường đúng thời
hạn (hoặc sớm hơn), tuy nhiên chỉ tích lũy được số lượng tín chỉ nhưng kết quả học tập lại
không “chất lượng”, chuyên môn, kiến thức không được tiếp thu mà chỉ học cho qua môn
thì kết quả cũng không thể gọi là đạt được. Nhưng nếu không đảm bảo về lượng thì không
có cơ sở để tích lũy đến chất mới.
Hai là, cần chú ý khâu tích lũy về lượng để đến khi có đầy đủ điều kiện chín muồi
sẽ làm thay đổi chất của sự vật, hiện tượng.
Vận dụng: Có thể nhìn nhận với các bằng cấp và trình độ yêu cầu trong công việc.
Nếu có trình độ, năng lực nhưng không có bằng cấp cũng nhận được nhiều lời từ chối. Và
có bằng cấp nhưng không có kinh nghiệm cũng vậy. Phải đảm bảo các vận động luôn được
tiến hành. Các chất mới được sinh ra đảm bảo ý nghĩa và nội dung cần thiết của nó.
Ba là, chống lại bệnh chủ quan, nóng vội, duy ý chí cũng như chống lại bệnh bảo
thủ, trì trệ khi lượng chưa biến đổi đến điểm nút mà đã vội vàng thực hiện bước nhảy; hoặc
khi lượng đã biến đổi đến điểm nút nhưng không chịu thực hiện bước nhảy.
Vận dụng: Hiện nay có khá nhiều sinh viên đã quyết định đi làm trong thời gian học
tập. Tuy nhiên, kiến thức và kinh nghiệm chuyên môn cũng như sắp xếp thời gian học tập
chưa hợp lý dẫn đến việc hiệu quả học tập kém đi đồng thời chất lượng công việc cũng
chưa chắc đảm bảo, dù sinh viên đó có đi làm sớm nhưng ra trường trễ, không có bằng cấp lOMoAR cPSD| 61601492
thì sẽ không thể thăng tiến trong công việc; so với các bạn đồng trang lứa tập trung học
tập, làm thêm vừa sức, ra trường đúng hạn, có bằng cấp chuyên môn thì nắm bắt nhanh
chóng những cơ hội nghề nghiệp tốt hơn. Ngược lại, sinh viên đã học tập và có bằng cấp
chuyên môn chính thức để đi làm nhưng vì lo lắng, chọn lựa chỗ này chỗ nọ không dám
thử thách và nắm bắt cơ hội để va chạm thực tế vì vậy để mất nhiều cơ hội nghề nghiệp.
Bốn là, cần phải xác định được bước nhảy, có thái độ ủng hộ bước nhảy và tạo mọi
điều kiện cho bước nhảy. (nắm bắt thời cơ thực hiện bước nhảy là yêu cầu quan trọng nhất.
Vận dụng: Chỉ bản thân mới hiểu năng lực của mình ở đâu vì vậy trong quá trình học tập,
phát triển bản thân mỗi người cần phải hiểu bản thân mình mạnh ở đâu để tập trung phát
triển mảng đó. Một người có năng khiếu mỹ thuật nên đi theo ngành nghề sáng tạo thẩm
mỹ như thiết kế đồ hoạt, kiến trúc sư, thiết kế thời trang… không thể dạy triết được.
Năm là, trong đời sống xã hội, cần nhận thức đúng và vận dụng một cách phù hợp
khi giải quyết mối quan hệ giữa chất tự nhiên và chất xã hội của sự vật, hiện tượng. Tùy
vào từng điều kiện lịch sử - cụ thể mà có thể nhấn mạnh chất tự nhiên hay chất xã hội lên hàng đầu.
Sáu là, cần có những biện pháp cụ thể để thay đổi chất của sự vật, hiện tượng:
- Thay đổi số lượng các yếu tố cấu thành nên sự vật, hiện tượng.
- Thay đổi chất lượng các yếu tố cấu thành nên sự vật, hiện tượng.
- Thay đổi cơ chế tác động giữa các yếu tố cấu thành nên sự vật, hiện tượng
(thay đổi cấu trúc của sự vật, hiện tượng).
- Thay đổi trật tự sắp xếp giữa các yếu tố cấu thành nên sự vật, hiện tượng
(thay đổi cấu trúc của sự vật, hiện tượng).
- Thay đổi chức năng của các yếu tố cấu thành nên sự vật, hiện tượng và chức
năng của toàn bộ sự vật, hiện tượng.
- Thay đổi môi trường tồn tại của sự vật, hiện tượng.
2. Vận dụng quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những
sự thay đổi về chất và ngược lại trong nhận thức và thực tiễn
2.1. Vận dụng trong chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những
sự thay đổi về chất và ngược lại trong thực tiễn cuộc sống (trong việc nuôi dạy con
cái ở tuổi mầm non)

2.1.1. Một là trong nhận thức và thực tiễn cần phải coi trọng cả hai mặt chất và lượng
Trong nhận thức và thực tiễn, chính bản thân chúng ta đều phải coi trọng cả hai mặt
chất và lượng khi nuôi dạy con mình. Ở đây, ta có thể xem chất là tính cách mà con mình
sẽ hình thành, lượng sẽ là công sức, lời dạy bảo, hành động của chúng ta với con cái. Trong
trường hợp chúng ta chỉ quan tâm đến mặt lượng, cụ thể là việc ta đồng ý quá nhiều với
các yêu cầu của con mà không quan tâm đó là yêu cầu gì, có hợp lí hay không. Với một
đứa trẻ mầm non, chúng giống như giấy trắng và không phân biệt được đâu là những yêu
cầu chính đáng, phù hợp và đâu là những nhu cầu không chính đáng. Nếu chúng ta liên tục
chấp nhận những yêu cầu của con mà không xem xét tính hợp lí của yêu cầu, lâu dần, khi
đã tích tụ đủ lượng, nó sẽ tạo thành sự ích kỉ của con trẻ. Bởi lẽ, sự chấp nhận dễ dãi của lOMoAR cPSD| 61601492
bố mẹ sẽ khiến trẻ hiểu rằng “muốn gì được đó”, “ba mẹ không từ chối”... những suy nghĩ
này tích tụ dần, lâu dần sẽ tạo nên hành động như ăn vạ khi bố mẹ không cho và để cho
con không làm như thế, bố mẹ thường sẽ tiếp tục đáp ứng nhu cầu cho chúng. Lâu dần,
những suy nghĩ, hành động này tiếp tục phát triển, đến một mức nào đó, tạo thành sự ích
kỉ cho bản thân đứa trẻ, khiến chúng nghĩ rằng “bất kì ai cũng phải thoả mãn yêu cầu của
mình”, “mình không có nghĩa vụ phải hoàn thành một nhiệm vụ nào đó”...
Trong trường hợp ngược lại, nếu chúng ta quá quan tâm đến chất tức là tính cách
của con cái mà ta muốn nó trở thành. Trong trường hợp này, quay lại với đứa trẻ ích kỉ, nếu
ngay từ đầu, ta liên tục từ chối các yêu cầu của con, không quan tâm đó là nhu cầu gì, chỉ
mong muốn con làm theo ý của ba mẹ, lâu dần nó lại phản ứng ngược, tạo thành một đứa
trẻ rụt rè, không hiểu được nhu cầu bản thân. Bởi lẽ, đối với các bậc làm cha làm mẹ, điều
mong muốn của mình là con cái ngoan ngoãn, vâng lời. Việc can thiệp quá nhiều vào các
nhu cầu của con khiến đứa con nghĩ rằng “đó là một cái không nên”, “phải tuyệt đối nghe
lời bố mẹ”... Điều này tích tụ đủ lượng, lâu dần, đến một khoảng giới hạn đủ sự thay đổi
về lượng, “bước nhảy” sẽ được thực hiện và đứa trẻ sẽ hình thành cho mình tính cách tự ti,
nhút nhát, không biết được nhu cầu của bản thân cũng như không thể bày tỏ tiếng nói của bản thân.
Do đó, trong quá trình nuôi dạy con cái, nhất là trong lứa tuổi mầm non, lứa tuổi
quyết định ban đầu trong việc hình thành tính cách con trẻ, ta cần phải cân bằng được lượng
và chất. Ta cần phải biết khi nào nói lời nào, đáp ứng điều gì cho con cái. Sự tích tụ đủ dần
về lượng khi ta cân bằng được nhu cầu con cái, mong muốn của mình sẽ tạo thành đứa con
có sự tự tin, hiểu bản thân, quan tâm mọi người và là một đứa trẻ hạnh phúc.
2.1.2. Hai là cần chú ý khâu tích lũy về lượng để đến khi có đầy đủ điều kiện chín
muồi sẽ làm thay đổi chất của sự vật, hiện tượng
Trong bài học chú ý khâu tích lũy về lượng để đến khi có đầy đủ điều kiện chín
muồi sẽ làm thay đổi chất của sự vật, hiện tượng, với câu chuyện nuôi dạy con cái, ta có
thể hiểu đó là sự nuôi dạy, tích luỹ đủ lượng của con cái để đến lúc chín muồi, chúng sẽ tự
phát triển bản thân. Ở câu chuyện này, lượng vẫn là sự quan tâm, dạy dỗ của cha mẹ, thầy
cô và môi trường xung quanh có tác động đến đứa trẻ nhưng chiếm lượng nhiều nhất vẫn
là cha mẹ. Chúng ta có thể thấy rằng hành vi, sự quan tâm, nuôi dưỡng, dạy dỗ của cha mẹ
sẽ ảnh hưởng rất lớn đến con cái mà hành vi của ba mẹ lại chiếm phần tỉ trọng cao. Với
tâm lí của một đứa trẻ mầm non, chúng thường sẽ bắt chước hành động của bố mẹ và lâu
dần thành thói quen và từ thói quen thành tính cách: “Gieo hành động, gặt thói quen, gieo
thói quen, gặt tính cách, gieo tính cách, gặt số phận” (Samuel Smiles). Nếu chúng ta ngoài
việc nói những lời hay, ý đẹp, khuyên bảo, răn dạy trẻ bằng lời nói thì việc người lớn thể
hiện hành động lại là việc nên làm. Với mỗi hành động của người lớn được trẻ ghi nhận,
học hỏi, lượng kĩ năng, hiểu biết của chúng được tăng dần lên mỗi ngày. Với việc hành
động theo hướng tích cực ngày càng nhiều của trẻ, lâu dần nó sẽ tạo thành thói quen cho
con, sau đó là dần định hình và tạo nên tính cách cho trẻ.
Vì thế, chúng ta cần phải lưu ý đến những hành vi, lời nói, sự dạy dỗ từng bước của
bản thân với con cái để chúng dần học được, thay đổi hành vi của chúng. Lâu dần, khi
lượng đã tích đủ, chúng sẽ thay đổi được tính cách, tâm lí của bản thân. lOMoAR cPSD| 61601492
2.1.3. Ba là chống lại bệnh chủ quan, nóng vội, duy ý chí, khi lượng chưa biến đổi
đến điểm nút mà đã vội vàng thực hiện bước nhảy
Trong cuộc sống thực tế, cha mẹ thường hay mắc phải vấn đề là con chưa đến lúc
sẵn sàng nhưng đã xem là chúng đã hiểu và đã đến lúc tiếp nhận cái mới. Họ thường hay
nóng vội, nghĩ rằng con mình đã tích đủ lượng cần thiết để biến đổi thành tính cách, kiến
thức, kĩ năng mới nhưng thực tế, chúng vẫn chưa đến được “điểm nút”.
Ta thấy rất rõ, mỗi đứa trẻ sẽ có bản tính, khả năng riêng và chúng ta phải có cách
nuôi dạy riêng cho từng đứa trẻ. Thực tế, trong việc dạy trẻ, thời gian để đứa trẻ tích đủ
lượng để thay đổi tính cách, hành vi không phải là ngày một ngày hai và tuỳ thuộc lớn vào
chính bản thân của trẻ. Có bé chỉ mất vài lần để hiểu ra vấn đề mà mình gặp phải và thay
đổi sớm. Nhưng ngược lại, cũng có những bé tiếp thu vấn đề ta nói chậm hơn, chưa đủ
nhận thức, hành vi để hiểu lời ta cũng như chưa đến thời điểm chín muồi để nó thay đổi.
Chẳng hạn trong trường hợp ba mẹ mong muốn con được học chữ ở độ tuổi mầm non.
Trong trường hợp này theo chỉ đạo của Bộ GDĐT tuyệt đối không được dạy chữ cho trẻ
trước khi vào lớp 1. Theo PGS.TS Nguyễn Công Khanh, Giám đốc Trung tâm Đảm bảo
chất lượng giáo dục và khảo thí cho rằng: “Đối với lứa tuổi mầm non, vui chơi là hoạt động
chủ đạo. Nhóm mầm non 5 và gần 6 tuổi đã có chương trình làm quen với chữ cái, làm
toán, hệ thống âm… vừa đủ để cho trẻ sẵn sàng vào lớp 1. Tối kỵ để cho trẻ viết trước,
phải 6 tuổi trở lên mới đủ những yêu cầu cần thiết để học viết. Đứa trẻ khi viết phải vặn
cổ, vặn lưng rất mệt, cô giáo bắt phải đúng chữ, đúng nét thì rất khổ, đâm ra trẻ sẽ chán
học. Mất hứng thú học đường rất nguy hiểm”. Nhưng một số phụ huynh lại rất mong muốn
con mình được học sớm để có thể chuẩn bị tốt và “bằng bạn bằng bè”, đây là hành vi thể
hiện rõ bệnh chủ quan duy ý chí, khi con trẻ chưa tích đủ lượng đã vội vàng dồn ép để tạo
chất mới. Điều này không chỉ ảnh hưởng đến tâm lý trẻ con mà còn dẫn đến sự mệt mỏi
cho giáo viên mầm non. Việc ta cần làm ở đây chính là hiểu, ghi nhận sự thay đổi về lượng
từ từ của con và đồng thời kiên nhẫn chờ đợi “bước nhảy” mà đứa trẻ sẽ thay đổi bản thân
chúng, đừng quá nóng vội, bắt chúng thay đổi ngay mà hãy để chúng tự mình thay đổi bản thân.
2.1.4. Bốn là chống lại bệnh bảo thủ, trì trệ, khi lượng đã biến đổi đến điểm nút
nhưng không chịu thực hiện bước nhảy
Ở căn bệnh đối lập với sự chủ quan, nóng vội là bệnh bảo thủ, trì trệ. Ở đây, chúng
ta có thể thấy được hành động quen thuộc của ba mẹ là thiếu sự ủng hộ, tin tưởng con của
mình. Trong vấn đề này, ta có thể khai thác sự bao bọc quá mức của cha mẹ. Chẳng hạn
như đứa con muốn tự tắm một mình. Ta có thể thấy là trước đây, trong những lần cha mẹ
tắm cho mình, đứa trẻ đã để ý và học những bước đơn giản mà mình cần làm để có một cơ
thể sạch sẽ. Khi chúng cảm thấy rằng đã đến “bước nhảy”, lúc mà chúng tự tin mình sẽ tự
tắm được, và xin ba mẹ để mình tự tắm. Nếu là bậc phụ huynh hiểu được “bước nhảy” thì
sẽ để con tự trải nghiệm trong sự giám sát của bản thân để tránh một số tai nạn mà trẻ con
hay gặp trong khi tắm như xà phòng vào mắt, để nước quá nóng… Tuy nhiên, có nhiều
người lại vì quá lo lắng mà phản đối, không để chúng tự làm mà nhất nhất phải làm cho
chúng vì suy nghĩ “Nó còn nhỏ, có làm được đâu, để lớn tí nữa…” mà không hề biết con
đã đến lúc tự làm. Đây là điểm nút để thực hiện “bước nhảy” đánh dấu những bước đầu
cho việc tự lập của con mình. Nếu không tôn trọng điều này, lâu dần, đứa con sẽ phát triển lOMoAR cPSD| 61601492
sang hướng khác, thể hiện sự rụt rè, không thể tự lập khi từ những điều đơn giản, chúng đã
không thể tự làm, tự quyết.
Từ đó, cha mẹ chúng ta cần chú ý vào những “điểm nút” và “bước nhảy” của con.
Khi đã đến lúc, hãy để cho chúng được thực hiện “bước nhảy” của mình, để chúng tự quyết
dù rằng việc mới chuyển sang “chất” mới sẽ gặp nhiều khó khăn với trẻ nhưng đó là việc
cần thiết để làm tiền đề cho tính tự lập sau này.
2.1.5. Năm là cần phải xác định được bước nhảy, có thái độ ủng hộ bước nhảy và
tạo mọi điều kiện cho bước nhảy được thực hiện một cách kịp thời
Trong câu chuyện về bước nhảy, hãy quay lại ví dụ đứa con tắm ở trên. Ở đây, đứa
con đã tự nhận thức rằng “Đã đến lúc mình tự làm” vì thế mà chúng mới ngỏ lời xin bố
mẹ. Đây chính là thời điểm “bước nhảy” để chúng bắt đầu vào chất mới là sự hình thành
ban đầu cho tính cách tự lập sau này. Ở đây, ta cần tôn trọng quyết định của trẻ và để trẻ
thực sự tự tắm, từ từ rút kinh nghiệm cho mình. Tất nhiên, ban đầu chúng vẫn phải tắm
dưới sự quan sát, kiểm soát của ta để tránh một số tai nạn, hành vi không đúng của trẻ. Lâu
dần, dưới sự rèn luyện của ta, trẻ dần biết tự giữ vệ sinh, tự tắm, học được cách tự lập cho mình.
Do đó, với vai trò làm cha làm mẹ, ta cần tôn trọng những bước đi quyết định của trẻ, ủng
hộ con và tạo những điều kiện thuận lợi nhất để con thực hiện “bước nhảy” khi đã đến “điểm nút”.
2.1.6. Sáu là trong đời sống xã hội, cần nhận thức đúng và vận dụng một cách phù
hợp khi giải quyết mối quan hệ giữa chất tự nhiên và chất xã hội của sự vật hiện tượng
Tùy vào từng điều kiện lịch sử - cụ thể mà có thể nhấn mạnh chất tự nhiên hay chất
xã hội lên hàng đầu. Với ý nghĩa này, ta cần xem xét cả hai chất tự nhiên và xã hội của đứa
trẻ để có hướng phù hợp trong việc nhấn mạnh điều gì. Ở đây, chất tự nhiên sẽ là những gì
do đứa trẻ ấy bẩm sinh đã có, chất xã hội là phần mà đứa trẻ học được từ bên ngoài.
Đối với chất tự nhiên của đứa trẻ, ta cần hiểu đứa trẻ của mình có được những điểm tốt gì
về mặt tự nhiên: ngoại hình, trí thông minh, tài năng, tính cách ban đầu, sở thích… để có
hướng phát triển phù hợp cho trẻ. Đối với đứa trẻ mầm non, chất tự nhiên của đứa trẻ là
tính cách ban đầu do đứa trẻ đó tự có như tự tin, thẳng thắn, phóng khoáng hay rụt rè, hiền
lành… hay tài năng bẩm sinh của đứa trẻ: cảm âm, nhận diện không gian… để có hướng
nhấn mạnh thích hợp. Nếu đó là chất tự nhiên tốt, ta cần tạo điều kiện phát huy, nếu đó là
chất tự nhiên không phù hợp, ta cần giảm lại và thay đổi dần.
Đối với chất xã hội, đó là những gì đứa trẻ tiếp nhận từ môi trường bên ngoài và
uốn mình theo đó. Với đứa trẻ mầm non thì thế giới của chúng tương đối đơn giản, chủ yếu
xoay quanh gia đình, nhà trường và một số nơi quen thuộc của chúng. Vợi sự thay đổi của
môi trường, chúng sẽ bị môi trường tác động và thay đổi dần lượng (hành vi, thái độ…) và
sau đó là chất (tính cách). Chẳng hạn như khi chúng sống trong môi trường đầy sự phức
tạp của những người xung quanh, kể cả gia đình, nó sẽ dần tác động đến chúng và tạo thành
một phần tính cách phức tạp, trưởng thành nhanh nhưng dễ bị tác động trở thành đứa ngỗ
nghịch. Ngược lại, môi trường lành mạnh cộng với sự tác động đúng mức của bố mẹ, chất
xã hội trong đứa trẻ sẽ dần thay đổi tính cách của chúng, góp phần tạo nên đứa trẻ tốt, phù hợp với thời đại. lOMoAR cPSD| 61601492
Nhìn chung, để biết được chúng ta cần nhấn mạnh vào chất nào, thời điểm nào, ta
cần xem xét cả hai chất tự nhiên và xã hội của đứa trẻ. Điều cần phát huy phải giữ lại, tăng
sự tác động, điều cần thay đổi phải có sự tác động để giảm sự tác động, dần dà sẽ thay đổi
được “chất” của đứa trẻ.
2.1.7. Bảy là cần có những biện pháp cụ thể để thay đổi chất của sự vật hiện tượng
a. Thay đổi số lượng các yếu tố cấu thành nên sự vật, hiện tượng.
Trong cuộc sống thực tiễn chúng ta sẽ tùy vào điều kiện lịch sử - cụ thể để quyết
định tăng hay giảm lượng mà qua đó vẫn đảm bảo tạo điều kiện cho chất mới hình thành
có chất lượng. Như trong việc nuôi dạy con trẻ để con phát triển tính độc lập, sáng tạo của
bản thân thì hơn ai hết cha mẹ sẽ là người cân đo đong đếm những hành động, ứng xử với
con. Với cương vị là phụ huynh thì chúng ta phải biết được khi nào nên quan tâm, chăm
sóc, che chở cho con và khi nào con nên tự thực hiện, tự chịu trách nhiệm với hành vi của
bản thân. Tránh trường hợp con được nhận quá nhiều lượng bao bọc, che chở từ cha mẹ
dẫn đến con sẽ ỷ lại, thiếu tính tự lập và ích kỷ. Cũng như nếu phụ huynh bỏ bê cảm xúc
của trẻ hay thiếu quan tâm con sẽ dẫn đến tình trạng tự kỷ, rối loạn cảm xúc lo âu ở trẻ.
b. Thay đổi chất lượng các yếu tố cấu thành nên sự vật hiện tượng.
Việc thay đổi chất lượng của các yếu tố cấu thành cũng sẽ góp phần thay đổi chất
của hệ thống. Chúng ta có thể áp dụng đặc điểm này trong cách ứng xử với những đứa trẻ
có những hành vi chưa phù hợp để qua đó giúp trẻ hành xử đúng mực hơn.
Ví dụ như con trẻ có tính bừa bộn, con thích bày bừa đồ chơi khắp nhà để được thỏa
thích chơi, nhưng điều đó với ba mẹ là một hành vi không chấp nhận được “nó quá bừa!”,
vì ba mẹ vừa dọn dẹp nhà sạch sẽ vài phút trước. Trong tình huống đó ba mẹ thường sẽ
phản ứng như sau: hoặc là ra lệnh, chỉ thị, hoặc cảnh cáo, đe dọa “Nếu con không rời khỏi
đó và dọn dẹp đống bừa bộn kia, con sẽ phải thấy hối tiếc đấy”; hoặc những lời giáo điều,
răn dạy “Hãy dọn dẹp những gì mà con đã bày bừa ra.”; hoặc khuyên bảo, đưa ra gợi ý hay
giải pháp “Con không thể dọn dẹp mọi thứ sau khi con đã dùng xong hay sao?”. Phần lớn
các cách ứng xử của cha mẹ được đề cập ở trên là sự xuất phát từ thông điệp “bạn”, từ bản
thân đứa trẻ, con trẻ đôi lúc sẽ không cảm thấy mình sai và phản ứng ngược lại với ba mẹ
trước những cách nói đó bằng cách: con không làm, con khóc, con tự trách bản thân, con
đề phòng hơn hay thậm chí con bị kích động và tấn công ba mẹ. Vậy khi áp dụng biện pháp
thay đổi chất lượng các câu nói của ba mẹ sẽ thay đổi được chất bừa bộn của con ở đây.
Theo tiến sĩ tâm lí học người Mĩ Thomas Gordon, ông cho rằng: thay vì gửi đến con thông
điệp “bạn” thì ba mẹ hãy thử gửi đến con thông điệp “tôi” - “Mẹ chắc chắn sẽ thấy rất chán
nản khi nhìn thấy đống bừa bộn trong phòng khách sau khi mẹ vừa dọn dẹp xong”, mô tả
hành vi của con, sự ảnh hưởng hành vi của con đến ba mẹ và cho con biết được cảm nhận
của ba mẹ, ba mẹ không hề đánh giá con và qua đó trẻ sẽ thấu hiểu và sẵn sàng thay đổi
hành vi của bản thân mình bên cạnh đó còn biết yêu thương ba mẹ.
c. Thay đổi cơ chế tác động giữa các yếu tố cấu thành nên sự vật, hiện tượng.
Việc thay đổi cơ chế tác động trực tiếp hay gián tiếp; thay đổi chính sách tác động
giữa các yếu tố cấu thành nên sự vật hiện tượng cũng góp phần thay đổi chất của sự vật
hiện tượng. Như trường hợp đối với con ở độ tuổi khủng hoảng tuổi lên 2, con thường bám
ba mẹ, thích được tham gia cùng với ba mẹ ở tất cả các hoạt động. Chẳng hạn, khi mẹ siêu lOMoAR cPSD| 61601492
thị mua sắm, con nằng nặc đòi theo, la hét, quấy khóc. Trường hợp đó thay vì mẹ trực tiếp
nổi giận la mắng con, phán xét con hư thì mẹ có thể ngồi xuống lắng nghe chủ động cảm
xúc của con trẻ, tìm hiểu nguyên do vì sao con lại như thế hoặc có thể có phần thưởng cho
con nếu con ngoan. Thông qua việc lắng nghe chủ động chúng ta có thể gián tiếp thay đổi
hành vi của trẻ. Việc đó sẽ thay đổi được chất ngang bướng của trẻ, giúp trẻ kiên nhẫn hơn.
Thay đổi trật tự sắp xếp giữa các yếu tố cấu thành nên sự vật hiện tượng (thay đổi cấu trúc
của sự vật, hiện tượng).
Chúng ta có thể áp dụng cách này trong việc hướng dẫn con ăn tự lập. Khi con trẻ
bước vào độ tuổi ăn dặm, ba mẹ thường chủ động trong việc chuẩn bị thức ăn, đút con ăn,
còn con trẻ thụ động trong việc ăn dẫn đến đôi khi con chán ăn, hoặc từ chối ăn những món
mà bản thân con không thích. Nhưng khi chúng ta thay đổi cấu trúc tầng bậc, ba mẹ chỉ
giữ vai trò phụ chuẩn bị thức ăn, con chuyển sang vai trò chính “ăn chủ động”. Từ đó con
được chọn thức ăn mình yêu thích, được chọn lượng thức ăn sẽ nạp vào cơ thể tùy theo
nhu cầu năng lượng của con, qua đó sẽ kích thích cảm giác ăn và dần dần con sẽ hình thành
chất ham thích ăn của bản thân.
d. Thay đổi chức năng của các yếu tố cấu thành nên sự vật, hiện tượng của toàn bộ sự vật, hiện tượng
Cũng như tình huống trên, việc thay đổi chức năng của ba mẹ và con trong hoạt
động ăn dặm sẽ kích thích con tạo lập được khả năng độc lập, ăn tự chủ. Ba mẹ sẽ đóng
vai trò hỗ trợ còn con sẽ là người làm chủ bữa ăn của mình từ đó sẽ rèn luyện cho con tính
tự lập, chọn lựa theo như cầu bản thân.
e. Thay đổi môi trường tồn tại của sự vật, hiện tượng
Hành động thay đổi môi trường tồn tại của sự vật, hiện tượng cũng là một cách hiệu
quả để thay đổi chất của sự vật, hiện tượng. Chúng ta có thể làm phong phú môi trường,
làm suy giảm môi trường, hạn chế môi trường, hay thay thế các hoạt động này bằng các
hoạt động khác,... điều đó sẽ góp phần thay đổi hành vi của con cái và đây cũng được coi
là một việc vô cùng đơn giản mà lại đem lại hiệu quả tích cực với hầu hết trẻ em ở tất cả mọi lứa tuổi.
Có thể dễ dàng nhận thấy các tình huống sau đây sẽ xảy ra trong thực tế. Những
chuyến đi chơi bằng ô tô là thời điểm mà những đứa trẻ thực sự khiến bố mẹ chúng “phát
điên”, chúng luôn đặt hàng loạt câu hỏi với cha mẹ hoặc hơn nữa là chạy nhảy, leo trèo
trong xe gây ra những nguy hiểm tiềm ẩn. Để giải quyết tình huống này ba mẹ cần làm
phong phú thêm môi trường xung quanh con bằng cách có đồ chơi hay những câu đố hóc
búa để có thể giữ sự tò mò của trẻ và làm chúng bận rộn với những thứ xung quanh, hạn
chế cảm giác bức bối, bồn chồn hay những hành vi gây phiền toái.
Bên cạnh đó việc làm suy giảm môi trường cũng thật sự hiệu quả trong trường hợp
dỗ con ngủ. Những đứa trẻ khi sinh ra bản năng của chúng có thể tự ngủ được và để duy
trì bản năng này thì cha mẹ cần đảm bảo môi trường ngủ của con khác hoàn toàn với môi
trường khi con thức chơi. Ví dụ như là: không gian tối, mát mẻ, không có đồ chơi, không
có tiếng ồn, không có những thứ kích thích hệ thần kinh của trẻ,... điều đó sẽ giúp trẻ phân
biệt được khi nào ngủ và khi nào chơi, qua đó trẻ sẽ rất dễ dàng vào giấc ngủ.
Vậy nhìn chung, việc hiểu áp dụng ý nghĩa phương pháp luận của quy luật chuyển
hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những thay đổi về chất và ngược lại rất hữu ích lOMoAR cPSD| 61601492
trong cuộc sống thực tiễn của mỗi cá nhân con người nói riêng và tập thể xã hội nói chung.
Bên cạnh đó khi hiểu được quy luật lượng - chất chúng ta sẽ dễ dàng hiểu được cách thức
phát triển của sự vật hiện, tượng trong từng điều kiện lịch sử cụ thể. Qua đó con người có
thể đi tắt đón đầu được xu thế của sự phát triển, hay ứng phó với từng vấn đề trong cuộc sống.
2.2. Vận dụng quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những
sự thay đổi về chất và ngược lại trong nhận thức của bản thân (đối với lĩnh vực chuyên môn)
2.2.1. Trong lĩnh vực truyền hình
Đối với lĩnh vực chương trình truyền hình (TV shows), việc áp dụng đúng đắn và
phù hợp các ý nghĩa phương pháp luận của quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về
lượng thành những sự thay đổi về chất và ngược lại (gọi tắt là quy luật lượng - chất) vào
từng giai đoạn công việc cụ thể với từng chương trình trong điều kiện thực tế khách quan
là vô cùng quan trọng và cần thiết. Quy luật lượng - chất sẽ giúp biên tập viên và chủ nhiệm
chương trình (người chịu trách nhiệm chính về chương trình) đề ra các đầu mục công việc
quan trọng cũng như có những sự quan sát và điều chỉnh kịp thời. Từ đó tạo ra được những
chương trình truyền hình đáp ứng đúng và đủ yêu cầu mà nhà đài đặt ra cũng như là nhu
cầu thị hiếu của khán giả hiện nay.
Cụ thể, ý nghĩa phương pháp luận của quy luật lượng - chất được vận dụng vào công
việc của một biên tập viên truyền hình bao gồm:
Thứ nhất, cần coi trọng cả hai mặt chất và lượng khi xét về nội dung của một chương
trình truyền hình. Biên tập viên cần phải coi trọng mặt lượng của nội dung đưa vào chương
trình trong một khung thời gian nhất định (10 phút, 30 phút, 60 phút…), trong khoảng thời
gian đó cần đưa bao nhiêu nội dung là hợp lý. Biên tập viên cũng cần phải chú ý đến mặt
chất của các nội dung được đưa vào có cung cấp thông tin gì cho người xem không, có phù
hợp với tiêu chí của chương trình và yêu của nhà đài hay không, có đáp ứng được thị hiếu
khán giả hay không, những nội dung được đưa vào chỉ mang tính giới thiệu khái quát hay
cần đào sâu .… Đối với một bản tin thời sự là 5 phút, biên tập viên cần phải ưu tiên về mặt
chất - tính thời sự, tức là đưa những thông tin nóng hổi nhất, đang nhận được nhiều sự quan
tâm, các thông tin, hình ảnh phải được chọn lọc kỹ càng nhằm cung cấp trực quan, rõ ràng
cụ thể đi thẳng vào vấn đề, không vòng vo lan man xung quanh những yếu tố phụ hoặc đưa
vào quá nhiều nội dung (tức là chú trọng mặt lượng) gây loãng thông tin và sự tập trung
của khán giả. Nhưng đối với một chương trình truyền hình thực tế, thời lượng dài khoảng
30 đến 60 phút, biên tập viên cần phải chọn số lượng nhiều nội dung để đưa vào chương
trình, để chương trình đa dạng nội dung và không bị thiếu thời lượng. Tuy nhiên, đảm bảo
về mặt lượng nhưng các nội dung đưa vào cũng cần đảm bảo về mặt chất - tính thông tin,
tính giải trí để đảm bảo từng nội dung được đưa vào đều là những nội dung có giá trị và
giữ chân được khán giả, tránh trường hợp tham nội dung nhưng lại bị dàn trải, những nội
dung đưa vào chỉ để lấp cho đủ thời lượng chương trình nhưng không có giá trị về mặt
thông tin và giải trí. Vậy nên có thể suy ra rằng: cả hai mặt lượng và chất của nội dung
trong một tập phát sóng của chương trình đều quan trọng nhưng tùy vào từng tình hình và lOMoAR cPSD| 61601492
yêu cầu cụ thể mà xem mặt nào quan trọng hơn và đưa ra phương hướng xây dựng kịch bản phù hợp.
Thứ hai, cần chú ý khâu tích lũy về lượng để đến khi có đầy đủ điều kiện chín muồi
sẽ thay đổi chất, nhất là trong việc phát triển của một công ty sản xuất chương trình truyền
hình. Hầu hết, các công ty mới thành lập sẽ bắt đầu thực hiện những chương trình nhỏ của
đài đặt hàng với thời lượng khoảng 10 phút hoặc 30 phút cho một tập phát sóng, phải tìm
kiếm và xây dựng nguồn nhân lực phù hợp với định hướng của công ty, phải tìm kiếm nhà
tài trợ cho chương trình, phải có một số lượng chương trình đã sản xuất đủ để nhà đài tin
tưởng… Những sự tích lũy về lượng ấy sẽ được thực hiện trong một quá trình nhất định có
thể là một - hai năm hoặc dài hơn. Đến khi những sự tích lũy về lượng đã đủ đáp ứng cho
việc sản xuất những chương trình lớn thì công ty có thể thực hiện các chương trình truyền
hình với thời lượng lớn và nội dung phức tạp hơn.
Thứ ba, cần chống lại bệnh chủ quan duy ý chí, cũng như bệnh bảo thủ, trì trệ. Nếu
một người chủ nhiệm chương trình không nắm bắt được tình hình thực tế của ekip, khi
nguồn nhân lực (ekip chương trình) không đủ đáp ứng được hết các đầu việc, nguồn tài lực
chưa đủ đáp ứng các yêu cầu về mặt kỹ thuật, máy móc thiết bị (tức là chưa tích lũy về
lượng) mà đã vội vàng muốn chạy theo xu hướng thực hiện những chương trình truyền
hình với thời lượng lớn, nội dung dày đặc, đòi hỏi nguồn nhân lực và tài lực lớn. Tất yếu
sẽ dẫn đến việc chương trình bị thất bại (bể show), hoặc không đạt được chất lượng, lượt
xem sẽ thấp và còn làm ảnh hưởng đến những chương trình khác của công ty. Ngược lại,
nếu nguồn nhân lực dồi dào và phù hợp, nguồn tài lực, máy móc thiết bị hiện đại đáp ứng
đủ, công ty chấp nhận rót vốn để thực hiện một chương trình lớn. Nhưng chủ nhiệm chương
trình chỉ khăng khăng làm những chương trình nhỏ, hoặc làm những chương trình với
những đề tài cũ, nội dung cũ, mà không chịu đổi mới tư duy sản xuất những chương trình
mới phù hợp với thị hiếu của khán giả hiện đại thì tất yếu sẽ bị bỏ lại và đào thải khỏi
ngành giải trí. Đặc biệt là đối với ngành truyền hình, đây là một trong những ngành có sự
đào thải nhân lực rất khủng khiếp và buộc những người trong nghề đều phải đổi mới tư
duy mỗi ngày, mỗi giờ nếu không sẽ bị thụt lùi và tất yếu dẫn đến nguy cơ thất bại.
Thứ tư, cần phải xác định được bước nhảy, có thái độ ủng hộ bước nhảy và tạo mọi
điều kiện cho bước nhảy được thực hiện. Một chương trình truyền hình để thực hiện được
trong một thời gian dài, qua nhiều mùa mà vẫn giữ được độ hot, lượt xem cao đòi hỏi chủ
nhiệm chương trình phải là người biết xác định đâu là điểm tốt cần giữ lại, đâu là những
điểm cần bỏ đi, đâu là điểm cần thêm vào và đâu là những điểm cần làm mới trên nền cũ.
Trên cơ sở nghiệm thu chương trình, ghi nhận các ý kiến của khán giả, họp rút kinh nghiệm
từ ekip và cập nhật các xu hướng mới, chủ nhiệm chương trình sẽ đánh giá tổng quát và
xác định bước nhảy - những thứ cần điều chỉnh, cần thay đổi trên tất cả phương diện của
chương trình mà mình thực hiện để đảm bảo giữ chân được sự yêu thích của khán giả. Điển
hình như chương trình Rap Việt mùa một rất thành công khi hợp tác cùng các rapper như
Wowy, Rhymastic, Binz, Karik, Suboi, Justatee và Producer của công ty Space Speaker
(Hoàng Touliver), nhưng đến mùa hai việc giữ lại gần như cũ các vị trí huấn luyện viên
(chỉ thay Suboi và LK) và Producer dẫn đến việc mùa hai được khán giả đánh giá là giảm
sức hút, không còn hấp dẫn, không còn hay như mùa một nữa, lượt xem trên các nền tảng
cũng như là số lượng khán giả quan tâm đến chương trình cũng bị giảm sút. Việc kịp thời lOMoAR cPSD| 61601492
nghiệm thu và ghi nhận ý kiến của khán giả, xác định bước nhảy đúng lúc, quyết định thay
đổi gần như toàn bộ huấn luyện viên và Producer của chương trình đã làm cho sức hút của
Rap Việt mùa ba tăng vọt trở lại, thậm chí còn được đánh giá là nóng hơn cả hai mùa trước.
Đây là thái độ ủng hộ và tạo mọi điều kiện để thực hiện bước nhảy cho chương trình, vì
kinh phí chi cho đội ngũ huấn luyện viên và Producer mùa ba của Rap Việt sẽ cao hơn rất
nhiều so với mùa hai nhưng công ty Vie Channel vẫn quyết định thực hiện bước nhảy này.
Thứ năm, cần có những biện pháp cụ thể để thay đổi chất của sự vật - hiện tượng.
Trong đó, thay đổi số lượng các yếu tố cấu thành một chương trình truyền hình, điển hình
là yêu cầu thay đổi số lượng nhân sự và thiết bị máy móc trong ekip tùy theo đặc thù của
từng chương trình. Một chương trình nội dung đơn giản, thời lượng mười phút thì không
thể có một ekip hàng trăm con người với vài chục chiếc máy quay. Nhưng một chương
trình truyền hình thực tế như 2 ngày 1 đêm thì mang theo một ekip chỉ có vài chục con
người với bốn hoặc năm chiếc máy quay sẽ không đủ đáp ứng các đầu việc, các nội dung
và hình ảnh của chương trình . Vậy thì cần phải có sự tăng lên và giảm đi phù hợp về số
lượng vật lực và nhân lực tùy theo từng chương trình. Hai là, cần thay đổi chất lượng của
các yếu tố cấu thành một chương trình truyền hình
, nhất là chất lượng các trang thiết bị
phục vụ cho công tác quay hình. Thời buổi hiện công nghệ tiên tiến như hiện nay, ekip
không thể nào sử dụng những chiếc máy quay cầm tay hoặc những thiết bị ghi hình kém,
hình ảnh mờ, ống kính chỉ có một tiêu cự, máy ghi âm không chống nước… những chất
lượng về mặt kỹ thuật nếu không được thay đổi và đầu tư sẽ làm ảnh hưởng rất lớn đến sản
phẩm phát sóng. Ba là, thay đổi cơ chế tác động các yếu tố cấu thành một chương trình
truyền hình.
Trước đây các chương trình truyền hình thường không chú trọng về mặt truyền
thông, khai thác hậu trường, khai thác trên nền tảng số. Đa số biên tập chính của chương
trình ngoài phụ trách nội dung chính của tập phát sóng còn phải phụ trách luôn cả những
mảng này. Nhưng những năm gần đây, các công ty sản xuất chương trình truyền hình đã
thay đổi cơ chế tác động để nâng cao vị thế truyền thông và cho các sản phẩm truyền hình
của công ty mình bằng việc chú trọng, tách các mảng này ra thành những bộ phận độc lập
và mở thêm vị trí chuyên trách trực tiếp chịu trách nhiệm cho các đầu việc này. Bốn là,
thay đổi trật tự sắp xếp giữa các yếu tố cấu thành một chương trình truyền hình
. Theo đánh
giá tâm lý khán giả, trong 15 đến 20 giây đầu của một tập phát sóng, nếu nội dung không
có sự cuốn hút thì thường khán giả sẽ chuyển kênh, vậy thì biên tập viên của chương trình
có nhiệm vụ phải thay đổi trật tự như thế nào để giữ chân được khán giả đến phút cuối
cùng của tập phát sóng, nhiệm vụ này đòi hỏi biên tập phải biết thay đổi trật tự sắp xếp
giữa các file ghi hình trong tập phát sóng sao cho vẫn bám sát đường dây kịch bản nhưng
vẫn tạo được sự hấp dẫn cuốn hút, tạo cho khán giả sự háo hức chờ đợi nội dung tiếp theo.
Chứ không phải biên tập nhất quyết bê y một trật tự các file ghi hình như ngoài set quay.
Hoặc thay đổi trật tự phát sóng các tập trong một chương trình, biên tập viên cần chọn tập
ghi hình nào hay nhất để phát sóng mở màn cho chương trình, tập nào có nội dung đặc sắc
và phù hợp để phát sóng vào những dịp đặc biệt như lễ, Tết... Năm là, thay đổi chức năng
của các yếu tố cấu thành một chương trình truyền hình và chức năng của toàn bộ chương
trình truyền hình.
Hiện nay, nhu cầu của khán giả xem chương trình truyền hình không chỉ
là muốn biết thêm những thông tin mới, mà khán giả còn chú trọng về mặt giải trí của một
chương trình. Do việc phát sinh nhu cầu này, một số chương trình đặc thù, điển hình là lOMoAR cPSD| 61601492
chương trình thời sự ngoài cung cấp những tin tức về chính trị, văn hóa, xã hội thì còn đưa
vào một số các nội dung nắm bắt xu thế và cập nhật kịp thời các xu hướng của xã hội, đặc
biệt là xu hướng của giới trẻ và những hiện tượng mạng xã hội… (Điểm tuần: “Bội thực
hoa hậu” - VTV1, Điểm tuần: “Hiệu ứng hào quang” mặt trái của sự lấp lánh - VTV1…).
Từ việc thay đổi chức năng của các tin trong một bản tin thời sự, kéo theo chức năng của
một bản tin thời sự và rộng hơn là chức năng của chương trình thời sự cũng thay đổi từ
chức năng thông tin sang chức năng thông tin (chính) và giải trí (phụ). Sáu là, thay đổi môi
trường tồn tại của một chương trình truyền hình.
Với sự phát triển của công nghệ, các thiết
bị điện tử nhỏ gọn và thông minh như điện thoại, ipad, máy tính bảng, laptop… được sử
dụng rất phổ biến, chúng ta đã không còn thường xuyên xem TV như trước. Từ đó kéo theo
việc các đài truyền hình phải chuyển hướng đến mục tiêu đến việc khai thác chương trình
truyền hình trên các nền tảng mạng xã hội. Một chương trình truyền hình, vì thế, không chỉ
tồn tại trên TV, không chỉ được quy mức độ thành công bằng lượng rating nữa mà còn được
xem xét ở nhiều kênh thông tin khác nhau, thông qua các đơn vị đo lường như lượt view,
lượt leo top trending, lượt yêu thích, bình luận và chia sẻ trên các nền tảng mạng xã hội…
Tức là môi trường tồn tại của các chương trình truyền hình đã thay đổi. Đài truyền hình
quốc gia VTV và các đài truyền hình khác cũng đã nhanh chóng cho ra đời những kênh
Tiktok (VTV24h, Truyền hình Quốc Hội, Truyền hình Vĩnh Long…), kênh Youtube
(THVL giải trí, HTV giải trí, VTV24…) và các ứng dụng cài đặt trên điện thoại (app VTV
Go, VTV News, THVLi, HTVC…), Facebook (fanpage THVL - Đài Phát thanh Truyền
hình Vĩnh Long, HTV - Đài Truyền hình TP.HCM, VTV - Đài Truyền hình Việt Nam…)...
Những kênh thông tin này có thể giúp khán giả thuận lợi hơn trong việc xem lại chương
trình trên các thiết bị điện tử các nhân có kết nối internet, khán giả có thể xem ở bất kì đâu,
bất kỳ lúc nào, có thể xem đi xem lại nhiều lần và để lại đánh giá cho chương trình… Đây
là những bước tiến của việc khai thác chương trình truyền hình trên đa dạng các nền tảng,
điều mà trước đây chương trình truyền hình chỉ được chiếu trên các kênh truyền hình không thực hiện được.
Thứ sáu, trong đời sống xã hội cần vận dụng một cách phù hợp khi giải quyết mối
quan hệ giữa chất tự nhiên và chất xã hội của sự vật. Với một chương trình truyền hình để
giữ được sức hút trong thời buổi hiện nay cần phải đáp ứng được rất nhiều yêu cầu. Nó
phải có đủ thuộc tính tự nhiên (cung cấp thông tin) nhưng cũng phải có đủ các thuộc tính
xã hội (có yếu tố giải trí, gây cười, hình ảnh đẹp, khách mời thú vị, cập nhật xu hướng của
xã hội…). Điển hình như những sự thay đổi gần đây của nhà đài VTV, nhất là trong việc
bắt trend, cập nhật xu hướng nhanh chóng để tìm cách đưa thông tin và dẫn dắt chương
trình có sự vui nhộn và thú vị, chứ không chỉ đơn giản như ngày trước là một bản tin thời
sự chỉ để cung cấp thông tin nữa. Tuy nhiên, VTV vẫn phân rõ đối tượng khán giả của
chương trình để xây dựng nội dung phù hợp, đối với thời sự trên kênh truyền hình nhà đài
vẫn chú trọng giữ lại tính nghiêm túc được xây dựng từ trước đến nay, nhưng với mục tiêu
đưa thời sự tiếp cận giới trẻ thì VTV24 sẽ mang đến những nội dung bắt trend, vui nhộn,
sôi động hơn để phù hợp với tệp khán giả trẻ. Hay hiện nay, khán giả có nhu cầu xem các
chương trình dạy nấu ăn vẫn còn, nhưng vì cuộc sống bận rộn, không có nhiều thời gian
nên khán giả thường có xu hướng chọn những đoạn video ngắn cung cấp đầy đủ thông tin
mà họ cần, vì thế nên những chương trình ẩm thực (dạy nấu ăn) thời lượng hơn 10 phút đã lOMoAR cPSD| 61601492
không còn phù hợp mà thay vào đó là những video ngắn thời lượng khoảng 3 phút đổ lại
sẽ được khán giả chọn xem nhiều hơn. Tuy nhiên, cũng cần phải chú trọng chất tự nhiên
của một chương trình ẩm thực, do nảy sinh những yêu cầu về chất xã hội nên một số chương
trình và các kênh dạy nấu ăn kém chất lượng, gây phản cảm đối với người xem. Hoặc rất
nhiều những chương trình hài nhảm, giải trí nhảm ra đời nhằm đáp ứng chất xã hội (nhu
cầu giải trí) nhưng lại bỏ quên cái chất tự nhiên (cung cấp thông tin) của một chương trình
truyền hình. Điều đó đòi hỏi biên tập viên phải cân nhắc giữa chất tự nhiên và chất xã hội
để chọn lọc những nội dung hay và phù hợp để đưa vào sản phẩm của mình.
2.2.2. Trong lĩnh vực sư phạm
Bất kì sự vật, hiện tượng nào cũng là sự thống nhất biện chứng giữa hai mặt chất và
lượng. Sự thay đổi về lượng tới điểm nút sẽ dẫn đến sự thay đổi về chất thông qua bước
nhảy. Chất mới ra đời sẽ tác động trở lại sự thay đổi của lượng mới. Quá trình đó liên tục
diễn ra, tạo thành phương thức phổ biến của các quá trình vận động, phát triển của sự vật,
hiện tượng trong tự nhiên, xã hội, tư duy. Cho nên, khi nghiên cứu, học tập và biết cách
vận dụng quy luật Lượng – Chất vào quá trình học tập cũng là một trong những phương
thức thúc đẩy, thay đổi quá trình học tập và giảng dạy của giáo viên. Từ đó có thể đưa ra
những giải pháp giảng dạy một cách hiệu quả hơn, đồng thời giúp cho học sinh sinh viên
nâng cao khả năng vận dụng những tri thức lý luận vào các hoạt động thực tiễn của bản
thân. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả vận dụng quy luật từ sự thay đổi về lượng dẫn
đến thay đổi về chất và ngược lại trong quá trình giảng dạy của giáo viên về học tập của
học sinh, sinh viên hiện nay:
Thứ nhất, giáo viên cần coi trọng cả hai mặt lượng và chất trong quá trình giảng dạy
và đứng lớp. Để làm rõ hơn về vấn đề này thì chúng ta sẽ nói về việc ôn thi THPT QG cho
học sinh, giáo viên cần chú ý tới trong quá trình ôn thi cho học sinh thì về mặt lượng câu
hỏi, đề thi giáo viên cần phải đưa ra cho học sinh đa dạng đề, đa dạng câu hỏi để có thể ma
sát cũng như là làm quen được với nhiều loại đề từ đó sẽ có thêm kinh nghiệm làm bài hơn.
Nhưng cũng phải chú trọng về mặt chất trong quá trình ôn thi cho học sinh. Bởi một đề ôn
thi đại học cần đáp ứng những yêu cầu cao và kiến thức rộng hơn, câu hỏi ôn thi phải chất
lượng, bám sát vào chương trình học có trong ma trận ôn thi của Bộ Giáo dục, tránh trường
hợp giải đề vô tội vạ nhưng lại ko nâng cao được kiến thức của học sinh mà còn tạo ra phản
ứng ngược làm học sinh bị loãng kiến thức, làm không đúng vào yêu cầu của bài. Chính vì
vậy mà giáo viên cần phải cho học sinh ôn tập và rèn luyện sao cho phù hợp với chương
trình ôn tập của bộ đề ra, phù hợp với yêu cầu của ngành giáo dục đối với kỳ thi năm đó.
Chỉ khi nào làm được như vậy học sinh mới đạt được những thành tích, đảm bảo phất tiển
được cả hai mặt lượng và chất.
Thứ hai, giáo viên cần chú ý khâu tích lũy về lượng để đến khi có đầy đủ điều kiện
chín muồi sẽ thay đổi chất trong việc giảng dạy học sinh. Trong quá trình học tập, học sinh
cần từng bước tích lũy kiến thức một cách chính xác, đầy đủ. Như chúng ta đã biết, sự vận
động và phát triển của sự vật bao giờ cũng diễn ra bằng cách tích lũy dần dần về lượng đến
một giới hạn nhất định, thực hiện bước nhảy để chuyển về chất và việc học tập của học
sinh cũng không nằm ngoài điều đó. Để có một kiến thức nền bền vững thì giáo viên cần
trau dồi cho học sinh từ kiến thức cơ bản nhất rồi dần dần mới lên cao hơn. Ví dụ như trong
quá trình ôn thi THPTQG, học sinh đã có được những kiến thức cơ bản tích lũy qua nhiều lOMoAR cPSD| 61601492
năm đi học thì quá trình ôn tập để thi quốc gia cũng sẽ dễ dàng hơn, nhất là với những học
sinh muốn đạt điểm tuyệt đối thì giáo viên cũng có thể từ kiến thức nền mà các em đã có
sẵn và ôn tập nâng cao lên. Như vậy có thể coi học tập là quá trình tích lũy về lượng mà
điểm nút là các kỳ thi, thi cử là bước nhảy và điểm số xác định quá trình tích lũy kiến thức
đã đủ dẫn tới sự chuyển hóa về chất hay chưa. Do đó, trong hoạt động nhận thức, học tập
của học sinh phải biết từng bước tích lũy về lượng tri thức làm biến đổi về chất kết quả
học tập theo quy luật. Cần học tập đều đặn hàng ngày để lượng được thấm sâu chất vào
mỗi học sinh. Tránh việc gấp rút mỗi khi sắp đến kỳ thi, như vậy là thiếu kinh nghiệm nhận
thức được trong quá trình học tập.
Thứ ba, giáo viên cần chống lại bệnh chủ quan duy ý chí, cũng như là bệnh bảo thủ
trì trệ. Trong việc ôn thi cho học sinh thì giáo viên cần phải có những phương pháp giảng
dạy phù hợp với mỗi học sinh. Ví dụ, đối với học sinh chưa nắm được kiến thức nền, chưa
giải được những đề cơ bản thì giáo viên đã nóng vội cho học sinh phải giải những đề khó
hơn, cao hơn như vậy là giáo viên đang bị chủ quan duy ý chí, không phù hợp với học sinh.
Có những học sinh khi học đủ những kiến thức cơ bản có sự biến đổi về chất mới có thể
học tiếp những kiến thức sâu hơn, khó hơn. Chính vì thế mà giáo viên cũng nên tạo điều
kiện cho học sinh giải những đề khó hơn để lấy được điểm tuyển đối. Học tập nghiên cứu
từ dễ đến khó là phương pháp học tập mang tính khoa học mà chúng ta đều biết nhưng
trong thực tế, không phải ai cũng có thể thực hiện được. Giai đoạn ôn thi là lúc học sinh
củng cố lại kiến thức chứ không phải học mới, do đó giáo viên cần cho học sinh ôn luyện
đề thi với hình thức mà môn đó yêu cầu như trắc nghiệm hoặc tự luận để học sinh có thể
làm quen được với dạng đề thi trong thời gian này để đảm bảo lượng kiến thức cũng như
là nhạy bén hơn trong việc giải đề.
Thứ tư, giáo viên cần phải xác định được bước nhảy, phải có thái độ ủng hộ bước
nhảy và tạo mọi điều kiện cho bước nhảy được thực hiện. Trong quá trình giảng dạy giáo
viên phải thúc đẩy học sinh phấn đấu học tập và rèn luyện, tránh tư tưởng chủ quan. Khi
bước chân vào đại học, có một bộ phận không nhỏ trong học sinh tự mãn với những gì đã
đạt được, không tiếp tục nỗ lực và phấn đấu vươn lên, sống không có lý tưởng, hoài bão.
Xét theo quan điểm của triết học, chất thay đổi sẽ tác động trở lại lượng của sự vật. Sự tác
động đó được thể hiện: Chất mới có thể làm thay đổi kết cấu quy mô, trình độ, nhịp điệu
của sự vật. Khi đã đỗ vào đại học, trở thành sinh viên chúng ta được tiếp cận những tri thức
cao hơn, sâu hơn. Nhiệm vụ của mỗi sinh viên là phải tiếp tục học hỏi, trau dồi thêm những
kiến thức (tích lũy về lượng), trở thành những người có trình độ đóng góp cho xã hội. Trong
quá trình học tập, học sinh phải trải qua rất nhiều kỳ thi. Kết quả tốt của các kỳ thi đánh
dấu ta kết thúc một giai đoạn và là bước khởi đầu cho ta sang một giai đoạn mới đòi hỏi
chúng ta có một trình độ cao hơn, lượng kiến thức nhiều hơn, chính vì vậy, mỗi học sinh
cần phải không ngừng học tập phấn đấu để tiếp cận những tri thức mới ở trình độ cao hơn.
Nó giúp chúng ta tránh được tư tưởng bảo thủ, trì trệ trong học tập rèn luyện.
Thứ năm, cần có những biện pháp cụ thể để thay đổi chất của sự vật hiện tượng. Trong
quá trình ôn thi đại học thì đối với môn Văn, lớp tự nhiên sẽ ôn lượng kiên thức đủ để học
sinh có thể nắm được kiến thức cơ bản có trong chương trình ôn thi và không đòi hỏi học
sinh phải tập trung quá nhiều vào môn Văn mà thời gian tập trung vào môn này sẽ ít hơn
những môn tự nhiên. Ngược lại với lớp chuyên Văn sẽ nâng cao kiến thức hơn, đi sâu vào lOMoAR cPSD| 61601492
tác phẩm hơn khi đi thi thì học sinh ở lớp này sẽ đòi hỏi về điểm số cũng như là cách làm
bài có tính sáng tạo hơn nên cần phải ôn luyện nhiều hơn.
Chất lượng đề thi, đề cơ bản để ôn kiến thức nền, đề luyện nâng cao có phân hóa
điểm, đề tổng hợp như 1 đề thi ĐH, đề lấy từ các nguồn uy tín, từ đề của tổ bộ môn, đề của
các trường bạn, đề của bộ…
Trong quá trình ôn, phân chia ra thành các loại đề (giải ở nhà lên lớp sửa, giải trên
lớp, giải có hướng dẫn, tự giải, tự chữa bài, chữa bài chéo, chữa bài nhóm…) tùy theo từng
giai đoạn, từng tình hình thực tế của lớp để giáo viên sắp xếp phù hợp.
Khi ôn thi thay đổi trật tự của lớp tùy theo tình hình bạn giỏi kèm bạn yếu tùy từng
môn phù hợp ở học sinh trong lớp.
Thay đổi các câu hỏi trong bộ đề ôn tập theo từng lớp. Với lớp tự nhiên thì giáo viên
có thể cho đề Văn dễ, mục tiêu lấy điểm những câu cơ bản. Đối với lớp xã hội thì đề sẽ
khó hơn, độ phân hóa cao, mục tiêu lấy điểm câu căn bản và nâng cao. Chức năng của mỗi
câu hỏi và toàn bộ đề ôn thi ở mỗi lớp hoặc ở mỗi học sinh sẽ khác nhau.
Thay đổi môi trường giải đề, mở các kì thi thử để các bạn tập quen với áp lực phòng
thi, mỗi học sinh cần phải tự rèn luyện ý thức học tập tích cực, chủ động.
Cuối cùng, trong việc giảng dạy cần vận dụng một cách phù hợp khi giải quyết mối
quan hệ giữa chất tự nhiên và chất xã hội của sự vật. Quá trình ôn thi ĐHQG là lâu dài nên
mỗi giáo viên đều phải chú trọng vào kiến thức nền tảng cho học sinh đó là tính tự nhiên.
Và mỗi năm sẽ có một ma trận đề thi khác nhau để có thể phù hợp với tình hình, năng lực
của học sinh và chương trình học của Bộ giáo dục đưa ra. Ví dụ như có một thời gian kỳ
thi sẽ hoàn toàn là tự luận nhưng mấy năm trở lại đây trong kỳ thi quốc gia đổi thành thi
trắc nghiệm hoàn toàn ngoại trừ môn Văn. Đó là tính xã hội. Xã hội và tự nhiên có mối
quan hệ hỗ trợ chặt chẽ ở trong môi trường giảng dạy.
Tóm lại, việc vận dụng nội dung quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa lượng và
chất cũng như ý nghĩa phương pháp luận của nó có vai trò to lớn trong việc học tập và rèn
luyện của giáo viên cũng như học sinh, sinh viên hiện nay. Lượng và chất là hai mặt thống
nhất biện chứng của sự vật, chỉ khi nào lượng được tích lũy tới một độ nhất định mới làm
thay đổi về chất, do đó trong hoạt động nhận thức, hoạt động học tập của sinh viên phải
tích lũy dần về lượng và đồng thời phải biết thực hiện và thực hiện kịp thời những bước
nhảy khi có điều kiện chín muồi để biến đổi về chất. C. KẾT LUẬN
Từ việc nghiên cứu về quy luật của sự chuyển đổi về lượng dẫn đến chuyển
đổi về chất và ngược lại, ta có thể rút ra kết luận:
- Việc vận dụng đúng cách ý nghĩa phương pháp luận quy luật chuyển hóa từ
những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất và ngược lại vào chuyên
môn, nghiệp vụ và thực tiễn đời sống có vai trò quan trọng trong bối cảnh xã hội
hiện nay. Bởi lẽ, đó là hoạt động mang lại hiệu quả cao trong chuyên môn nghiệp
vụ, giúp nâng cao chất lượng cuộc sống, góp phần vào sự phát triển chung của đất nước. lOMoAR cPSD| 61601492
TÀI LIỆU THAM KHẢO 1.
Bộ Giáo dục và Đào tạo (2004), Giáo trình Triết học Mác – Lênin, Nhà xuất
bảnChính trị Quốc gia, Hà Nội. 2.
Nguyễn Ngọc Khá (Chủ biên), Nguyễn Huỳnh Bích Phương (2022), Chuyên
đề Triết học, Nhà xuất bản Đại học Sư Phạm Thành phố Hồ Chí Minh. 3.
Nguyễn Ngọc Khá (Chủ biên), Nguyễn Huỳnh Bích Phương (2017), Lịch sử
triết học trước Mác, Nhà xuất bản Đại học Sư Phạm Thành phố Hồ Chí Minh. 4.
Nguyễn Ngọc Khá (Chủ biên), Nguyễn Huỳnh Bích Phương (2021), Tư tưởng Hồ
Chí Minh - Một số chuyên đề lý luận và thực tiễn,
Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
5. Mạch Ngọc Thuỷ (2000), Phương pháp biện chứng duy vật và sự vận dụng
phương pháp này của Đảng Cộng sản Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa hiện nay
, Luận văn Tốt nghiệp chuyên ngành Giáo dục Chính trị,
Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh.