Vận dụng Triết học vào đời sống - Triết học Mác - Lênin | Đại học Tôn Đức Thắng
ĐỀ CƯƠNG TRIẾT HỌC MÁC – LÊNINI. NỀN KINH TẾ TRI THỨC1. Khái ni mệKinh tế tri thức là nền kinh tế dựa trực tiếp vào việc sản xuất, phân phối và sử dụng tri thức, thông tin. Trong nền kinh tế tri thức, việc sản xuất, phân phối và sử dụng tri thức giữ vai trò quyết định đối với sự phát triển kinh tế, xã hội; tạo ra của cải. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Triết học Mác -Lênin (THML01)
Trường: Đại học Tôn Đức Thắng
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
ĐỀ CƯƠNG TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN
I. NỀN KINH TẾ TRI THỨC 1. Khái ni m ệ
Kinh tế tri thức là nền kinh tế dựa trực tiếp vào việc sản xuất, phân phối và sử dụng tri
thức, thông tin. Trong nền kinh tế tri thức, việc sản xuất, phân phối và sử dụng tri thức giữ
vai trò quyết định đối với sự phát triển kinh tế, xã hội; tạo ra của cải, nâng cao chất lượng
cuộc sống. Kinh tế tri thức là nền kinh tế được phát triển chủ yếu dựa vào tri thức và công
nghệ hiện đại. Cơ sở của nền kinh tế tri thức là tri thức (thể hiện trong con người và trong công nghệ)... 2. S ra đ ự i và p ờ hát tri n c ể a ủ nềền kinh tri th c ứ
Khái niệm kinh tế tri thức manh nha xuất hiện từ đầu những năm 1960 của thế kỷ
trước, tiên phong bởi Fritz Machlup và Peter Drucker, là kết quả tất yếu của quá trình phát
triển lực lượng sản xuất xã hội. Nó được thúc đẩy bởi sự phát triển mạnh mẽ của cách mạng
khoa học - công nghệ tiên tiến hiện đại, nhất là cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư với
sự phát triển nhanh, mang tính đột phá của công nghệ thông tin. Sự xuất hiện ngày càng
nhiều các sáng kiến, phát minh khoa học,... đã tạo ra tính linh hoạt, hiệu quả cao cho hoạt động sản xuất.
Kinh tế tri thức là giai đoạn phát triển cao của lực lượng sản xuất, cao hơn so với kinh
tế công nghiệp và kinh tế nông nghiệp. Trong nền kinh tế tri thức, tri thức đóng vai trò quyết
định hàng đầu đối với phát triển kinh tế - xã hội.
3. Đặc điểm c a kinh tềế tri th ủ c ứ
3.1. Tri thức là lực lượng sản xuất trực tiếp. Tri thức là nguồn lực vô hình to lớn,
quan trọng nhất trong đầu tư phát triển, nền kinh tế dựa chủ yếu vào tri thức. Nền kinh tế tri
thức lấy tri thức là nguồn lực có vị trí quyết định nhất của sản xuất, là động lực quan trọng nhất cho sự phát triển.
3.2. Nền kinh tế ngày càng dựa vào các thành tựu của khoa học - công nghệ. Nếu
trong nền kinh tế công nghiệp, sức cạnh tranh chủ yếu dựa vào tối ưu hóa và hoàn thiện công
nghệ hiện có, thì trong nền kinh tế tri thức lại dựa chủ yếu vào việc nghiên cứu, sáng tạo ra
công nghệ mới, sản phẩm mới. Trong nền kinh tế tri thức, cơ cấu sản xuất dựa ngày càng
nhiều vào việc ứng dụng các thành tựu của khoa học - công nghệ, đặc biệt là công nghệ chất
lượng cao. Các quyết sách kinh tế được tri thức hóa.
3.3. Cơ cấu lao động được chuyển dịch theo hướng ngày càng coi trọng lao động trí
tuệ. Trong nền kinh tế tri thức, cơ cấu lao động chuyển dịch theo hướng giảm số lao động
trực tiếp làm ra sản phẩm, tăng số lao động trí tuệ. Lao động trí tuệ chiếm tỷ trọng ngày càng
cao. Nguồn nhân lực nhanh chóng được tri thức hóa, sự sáng tạo, đổi mới, học tập trở thành
nhu cầu thường xuyên đối với mọi người. Học suốt đời, xã hội học tập là nền tảng của kinh tế tri thức.
3.4. Quyền sở hữu trí tuệ ngày càng trở nên quan trọng. Quyền sở hữu trí tuê \ là sự
bảo đảm pháp lý cho tri thức và sự đổi mới sáng tạo sẽ tiếp tục được tạo ra, duy trì và phát
triển. Trong nền kinh tế tri thức, nguồn lực trí tuê \ và năng lực đổi mới là hai nhân tố then
chốt để đánh giá khả năng cạnh tranh, tiềm năng phát triển và sự thịnh vượng của một quốc
gia. Các tài sản trí tuệ và quyền sở hữu trí tuệ ngày càng trở nên quan trọng. Viê \c bảo hộ
quyền sở hữu trí tuệ được xem là một nguyên tắc cơ bản trong sự vận động và phát triển của nền kinh tế tri thức.
3.5. Nền kinh tế tri thức là nền kinh tế toàn cầu. Nền kinh tế tri thức chỉ được hình
thành và phát triển khi lực lượng sản xuất xã hội đã phát triển ở trình độ cao, phân công lao
động mang tính quốc tế và theo đó là hệ thống sản xuất mang tính kết nối giữa các doanh
nghiệp các quốc gia trong một chuỗi giá trị sản phẩm. Bởi vậy, nó mang tính toàn cầu hóa.
Trong nền kimh tế tri thức, sự sản sinh, truyền bá và sử dụng tri thức không còn nằm trong
phạm vi biên giới một quốc gia. Nền kinh tế tri thức còn được gọi là nền kinh tế toàn cầu hóa
nối mạng, hay là nền kinh tế toàn cầu dựa vào tri thức.
Ngoài các đặc điểm trên, nền kinh tế tri thức còn là một nền kinh tế hướng đến sự phát
triển bền vững, thân thiện với môi trường; nền kinh tế làm thay đổi cơ cấu xã hội và thang
giá trị xã hội, làm xuất hiện các cộng đồng dân cư kiểu mới, các làng khoa học, các công
viên khoa học, vườn ươm khoa học... 4. u thềế c Ư a nềền kinh tềế tr ủ i th c ứ
Sản xuất sạch, sử dụng ít nguyên liệu và năng lượng, không gây ô nhiễm môi trường, phát triển bền vững
Sản xuất theo nhu cầu, cân bằng cán cân cung – cầu, ít hàng hóa tồn kho
Yêu cầu phải tạo ra cái mới liên tục chứ không phải từ cái cũ lớn dần lên
Tài sản làm ra chủ yếu dựa vào cái chưa biết, vì vậy cần thúc đẩy quá trình nghiên
cứu, sáng tạo của con người, phát triển khoa học công nghệ
Việc ứng dụng thực tế ảo (VR) trong: học tập (học nghề), thiết kế công trình (xây
dựng, sản xuất máy móc, thiết bị), thực nghiệm khoa học (chế xuất, chọn giống),…
giúp tiết kiệm thời gian, tiền bạc, đồng thời nâng cao hiệu quả của quá trình sản xuất thực. 5. Thách th c c ứ a nềền kinh t ủ ềế tri th c ứ
Các nền văn hóa có nguy cơ bị pha tạp, lai căng, đánh mất bản sắc văn hóa dân tộc.
Sự “lão hóa tri thức” nhanh chóng đòi hỏi người lao động phải không ngừng học tập,
sáng tạo, chuyển giao công nghệ, chuyển đổi nghề nghiệp để thích ứng với thời đại
Con người có nguy cơ trở thành “cỗ máy” tìm kiếm tri thức mới mà không có thời
gian nghỉ ngơi, thư giãn, du lịch…
Sự thay đổi công nghệ liên tục gây nên sự lãng phí vì phải loại bỏ công nghệ cũ, gây áp lực cho môi trường
Sự phân hóa giàu nghèo, nguy cơ thất nghiệp, khủng hoảng xã hội gia tăng
Kinh tế tri thức sử dụng khoa học công nghệ như số hóa, tự động hóa, rô bốt, thay thế
việc sử dụng cơ bắp, gây ảnh hưởng đến sức khỏe.
Lối sống ảo và tình trạng nghiện các thiết bị công nghệ (máy tính, smartphone) trong giới trẻ 6. Nh ng tềền đềề đ ữ phát tr ể
i nể nềền kinh tềế tri th c ứ
6.1. Thể chế kinh tế và môi trường xã hội thuận lợi cho sáng tạo và sử dụng tri
thức. Thể chế kinh tế và môi trường xã hội thuận lợi, minh bạch cho phép dòng chảy tự do
của tri thức, đổi mới sáng tạo công nghệ, hỗ trợ công nghệ - thông tin và truyền thông,
khuyến khích các chủ doanh nghiệp sáng tạo và sử dụng tri thức là trọng tâm của kinh tế tri thức.
6.2. Hệ thống giáo dục - đào tạo có chất lượng. Hệ thống giáo dục - đào tạo là điều
kiện quan trọng để người dân có cơ hội được học tập, nghiên cứu nâng cao năng lực sáng
tạo, chia sẻ và sử dụng tri thức. Đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao. Nguồn nhân lực
nhanh chóng được tri thức hóa; sự sáng tạo, đổi mới, học tập trở thành yêu cầu thường xuyên
đối với mọi người và phát triển toàn diện con người trở thành nhiệm vụ trung tâm của xã hội.
6.3. Hạ tầng cơ sở thông tin (ICT) hiện đại. Hạ tầng cơ sở thông tin là điều kiện cần
thiết để tăng cường sự trao đổi phổ biến và xử lý kiến thức. Công nghệ thông tin được ứng
dụng rộng rãi trong mọi lĩnh vực và thiết lập được các mạng thông tin đa phương tiện. Thông
tin trở thành tài nguyên quan trọng của nền kinh tế tri thức.
Kết cấu hạ tầng quan trọng nhất của nền kinh tế tri thức là thông tin, việc tổ chức sản
xuất trở nên linh hoạt đặc biệt. Với mạng thông tin, tri thức truyền bá, phổ cập rộng rãi,
mạng thông tin trở thành hệ thống cung cấp nguyên liệu không biên giới cho hệ thống sản
xuất và phân công lao động toàn cầu. Các hoạt động sản xuất, kinh doanh trở nên sôi động,
nhanh nhạy, gắn bó mật thiết với thị trường, tổ chức quản lý có hiệu lực và hiệu quả hơn,
thúc đẩy sự minh bạch và trách nhiệm giải trình của không những chủ thể các tổ chức sản
xuất, kinh doanh mà còn bao hàm các chính phủ và các tổ chức quốc tế.
6.4. Hệ thống sáng tạo có hiệu quả. Mạng lưới các học viện, trường đại học, trung
tâm nghiên cứu, tổ chức chuyên gia, cố vấn, doanh nghiệp, các nhóm cộng đồng là cần thiết
để thu nhận được kho tri thức toàn cầu luôn không ngừng tăng, truyền bá và thích ứng chúng
cho các nhu cầu của đất nước và sáng tạo ra các tri thức mới cần thiết.
6.5. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội. Với đặc trưng của nền kinh tế tri thức, kết cấu hạ tầng
cứng là quan trọng và cần thiết. Với tư cách là thành tố vật chất của lực lượng sản xuất, phát
triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội luôn giữ vai trò đặc biệt. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội
xác lập sự đồng bộ trong hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nhằm tạo ra tiền đề cho sự
hình thành các trụ cột của nền kinh tế tri thức, tạo ra môi trường cho sự phát triển của hệ
thống sáng tạo từ đó mà thúc đẩy sự lan tỏa và sản sinh tri thức mới thay vì chỉ là ứng dụng tri thức.
7. Giải pháp phát tri n kinh tềế tri th ể c ứ Vi ở t Nam ệ
Đổi mới cơ chế, chính sách, xây dựng khuôn khổ pháp lý mới phù hợp với nền kinh tế
tri thức. Khuyến khích doanh nghiệp đổi mới dựa trên nền tảng công nghệ, thúc đẩy sự
ra đời của các doanh nghiệp kinh doanh sản phẩm, công nghệ mới. Tạo ra môi trường
cạnh tranh công bằng, bình đẳng, chống độc quyền.
Phát triển nguồn lao động trí tuệ, đầu tư phát triển giáo dục, đào tạo nhân tài, nâng cao
dân trí như: cán bộ khoa học, kỹ thuật, cán bộ quản lý, doanh nhân, công nhân lành nghề…
Nâng cao năng lực khoa học – công nghệ của quốc gia bằng cách tiếp thu, vận dụng
sáng tạo tri thức mới nhất của thế giới, sáng tạo công nghệ đặc thù của quốc gia
Tăng cường ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin, phục vụ nền kinh tế tri thức,
rút ngắn khoảng cách với các nước trên thế giới
Đẩy mạnh đầu tư nghiên cứu khoa học – công nghệ, đổi mới cơ chế quản lý, thúc đẩy
kết nối khoa học – công nghệ với thực tiễn sản xuất – kinh doanh, tạo ra của cải và tri
thức mới, phục vụ quá trình phát triển kinh tế- xã hội
Xây dựng và phát triển tài nguyên trí lực, bao gồm: khả năng quan sát, ghi nhớ, suy
nghĩ, trí tưởng tượng, sức sáng tạo, kỹ năng thực hành…
Tích cực hội nhập quốc tế, kết hợp giữa ngoại lực và nội lực để phát triển khoa học –
công nghệ, phục vụ mục tiêu hiện đại hóa lực lượng sản xuất. 8. Nh ng thành t ữ u c ự a Vi ủ t Nam trong n ệ ềền kinh tềế tri th c ứ
Tổng sản phẩm trong nước (GDP) quý IV/2021 ước tính tăng 5,22% so với cùng kỳ
năm trước, tuy cao hơn tốc độ tăng 4,61% của năm 2020 nhưng thấp hơn tốc độ tăng của quý
IV các năm 2011-2019. Trong đó, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 3,16%; khu
vực công nghiệp và xây dựng tăng 5,61%; khu vực dịch vụ tăng 5,42%. Về sử dụng GDP
quý IV/2021, tiêu dùng cuối cùng tăng 3,86% so với cùng kỳ năm trước; tích lũy tài sản tăng
3,37%; xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ tăng 14,28%; nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ tăng 11,36%.
Trong tháng 12/2021, hoạt động xuất, nhập khẩu hàng hóa tiếp tục là điểm sáng của
nền kinh tế với tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa ước tính đạt 66,5 tỷ USD, tăng
6,4% so với tháng trước và tăng 19,7% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung năm 2021,
tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa đạt 668,5 tỷ USD, tăng 22,6% so với năm trước,
trong đó xuất khẩu tăng 19%; nhập khẩu tăng 26,5%.
Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa thực hiện tháng 11/2021 đạt 31,87 tỷ USD, cao hơn
1,97 tỷ USD so với số ước tính. Ước tính tháng 12/2021, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu đạt
34,5 tỷ USD, tăng 8,3% so với tháng trước và tăng 24,8% so với cùng kỳ năm trước. Kim
ngạch xuất khẩu quý IV/2021 ước đạt 95,6 tỷ USD, tăng 19,4% so với cùng kỳ năm trước và
tăng 16,4% so với quý III/2021. Tính chung năm 2021, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa ước
đạt 336,25 tỷ USD, tăng 19% so với năm trước. Trong đó, khu vực kinh tế trong nước đạt
88,71 tỷ USD, tăng 13,4%, chiếm 26,4% tổng kim ngạch xuất khẩu; khu vực có vốn đầu tư
nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 247,54 tỷ USD, tăng 21,1%, chiếm 73,6%. Trong năm 2021
có 35 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD, chiếm 93,8% tổng kim ngạch xuất
khẩu (có 8 mặt hàng xuất khẩu trên 10 tỷ USD, chiếm 69,7%).
II. QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA – HIỆN ĐẠI HÓA 1. Khái ni m công nghi ệ p hoá, hi ệ n đ ệ i hoá ạ
Công nghiệp hóa là quá trình chuyển dịch của nền kinh tế nông nghiệp sang nền kinh
tế công nghiệp. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi toàn diện các hoạt
động kinh tế xã hội từ sản xuất sử dụng lao động thô sơ, thủ công đơn giản, sang sản xuất
công nghiệp với phương pháp tiên tiến, công nghiệp hóa hiện đại làm tăng năng suất lao động
Những khái niệm kinh tế nói chung và khái niệm công nghiệp hoá nói riêng mang tính
lịch sử, tức là luôn có sự thay đổi cùng với sự phát triển của nền sản xuất xã hội, của khoa
học công nghệ. Do đó, việc nhận thức đúng đắn khái niệm này trong từng giai đoạn phát
triển của nền sản xuất xã hội có ý nghĩa to lớn cả về lý luận và thực tiễn. động xã hội cao 2. Đ c đi ặ m công nghi ể p hóa ệ
Mỗi nước đề ra yêu cầu với phát triển công nghiệp hóa khác nhau, nhưng cơ bản vẫn có
những điểm cơ bản sau:
Khắc phục những điểm yếu của công nghiệp truyền thống về bất công xã hội, lãng phí vật
chất, làm ô nhiễm môi trường, thời gian thực hiện kéo dài)
Gắn kết việc công nghiệp hóa với phát triển nền kinh tế và công nghệ, tiếp cận kinh tế tri
thức, đẩy mạnh phát triển các ngành công nghệ cao.
Chú trọng phát triển bền vững, vừa phát triển kinh tế, vừa bảo vệ an ninh xã hội và vấn đề môi trường.
3. Thự c tềễn công nghi p hóa, hi ệ n đ ệ i hóa ạ Vi ở t Nam ệ
Kế thừa và chọn lọc những tri thức văn minh của nhân loại, rút những kinh nghiệm
trong lịch sử tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá và từ thực tiễn công nghiệp hoá ở Việt
Nam trong thời kỳ đổi mới, Hội nghị ban chấp hành Trung ương lần thứ 7 khoá VI và Đại
hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII Đảng cộng sản Việt Nam đã xác định công nghiệp hoá là
quá trình chuyển đổi căn bản toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh dịch vụ và quản lý
kinh tế - xã hội từ sử dụng sức lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến
sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến hiện đại dựa trên sự
phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học công nghệ tạo ra năng suất lao 4. Vai trò c a thanh niền ủ
Trong cuộc cách mạng giải phóng dân tộc cũng như thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc, thanh niên Việt Nam luôn phát huy truyền thống của dân tộc, nêu cao tinh thần xung
phong, tình nguyện, xung kích, đi đầu trong các hoạt động, phấn đấu hoàn thành xuất sắc
nhiệm vụ được giao. Thanh niên tiếp tục là lực lượng xã hội to lớn, là chủ thể sáng tạo trong
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa (CNH), hiện đại hóa (HĐH) và hội nhập quốc tế với mục
tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; sớm đưa nước ta cơ bản trở thành
nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Đứng trước cơ hội và thách thức, hơn bao giờ hết tuổi trẻ cần nhận thức rõ đây vừa là
vinh dự to lớn vừa là trách nhiệm hết sức nặng nề của mình đối với đất nước. Từ đó, đòi hỏi
mỗi thanh niên cần phát huy tinh thần tự học, tự rèn luyện, có đủ bản lĩnh, ý chí, trình độ để
phát huy thuận lợi, tận dụng thời cơ khắc phục khó khăn, vượt qua thách thức, tích cực tham
gia vào sự nghiệp CNH, HĐH, tham gia vào nền kinh tế tri thức và quá trình hội nhập quốc
tế, hoàn thành sứ mệnh vẻ vang đã được Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó.
Xuất phát từ yêu cầu, nhiệm vụ của đất nước trong giai đoạn mới, Đại hội Đoàn toàn
quốc lần thứ X đã xác định nhiệm vụ trọng tâm của thanh niên Việt Nam là:
- Tăng cường giáo dục chính trị tư tưởng, đạo đức cách mạng, truyền thống, lịch sử
dân tộc, văn hóa, lối sống, ý thức chấp hành pháp luật cho thanh thiếu nhi; góp phần hình
thành lớp thanh niên ưu tú trên mọi lĩnh vực, kế thừa trung thành và xuất sắc sự nghiệp cách
mạng của Đảng, của dân tộc.
- Đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước, phát huy mạnh mẽ trí tuệ, sức lực, tinh
thần xung kích, sáng tạo, tình nguyện, khơi dậy tiềm năng to lớn của thanh niên trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; chăm lo tốt hơn nhu cầu, nguyện vọng chính đáng của tuổi trẻ.
- Tập trung củng cố, xây dựng tổ chức Đoàn TNCS Hồ Chí Minh vững mạnh, trọng
tâm là chất lượng cơ sở, chất lượng đội ngũ cán bộ đoàn và mở rộng mặt trận đoàn kết tập
hợp thanh niên, xứng đáng là đội dự bị tin cậy của Đảng, là lực lượng trung kiên, gần Đảng
nhất; tích cực tham gia xây dựng và bảo vệ Đảng, xây dựng hệ thống chính trị; đề cao trách
nhiệm chăm sóc, giáo dục thiếu nhi; mở rộng, nâng cao hiệu quả công tác quốc tế thanh niên.
III. QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI ĐẤT NƯỚC
Tổng hợp các thành tựu nổi bật của quá trình đổi mới đất nước? Trước khi chưa đổi
mới thì đất nước thế nào ?
Quan điểm của triết học Mác Lê-nin đã góp phần như thế nào? Tại sao lại có cuộc cách
mạng đổi mới? Bài học kinh nghiệm từ quá trình đổi mới? 1. Thời kỳ tr c đ ướ i m ổ ới:
Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước ngày 30/4/1975, cả nước độc
lập thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
nhưng đồng thời cũng trong tình thế ‘ngàn cân treo sợi tóc” khi bước vào thời kỳ khôi phục
kinh tế. Những khó khăn của nền kinh tế đất nước: cơ sở vật chất kỹ thuật còn yếu kém;
năng suất lao động thấp, sản xuất chưa đảm bảo nhu cầu đời sống và tích luỹ,… Nguyên
nhân là do nền kinh tế nước ta là sản xuất nhỏ; công tác tổ chức và quản lý kinh tế có nhiều
hạn chế,…Nhưng những điểm bất hợp lý trong quan hệ sở hữu Đảng lại chưa chỉ ra. Tư liệu
lao động từ chỗ là tài sản riêng của người lao động bỗng chốc trở thành những tư liệu được
tập thể hoá nên đã làm suy yếu đi một lực lượng sản xuất to lớn, lợi ích cá nhân không được
coi trọng đúng mức, hay nói như lời của một số nhà nghiên cứu: “ở nước ta trước đây (thời
kỳ trước đổi mới), lợi ích kinh tế, đặc biệt là lợi ích cá nhân người lao động, một động lực
trực tiếp của hoạt động xã hội chưa được quan tâm đúng mức. Vì thế, sự vận động của nền
kinh tế nhìn chung là chậm chạp, kém năng động”. Các vấn đề xã hội được giải quyết theo
cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp trong hoàn cảnh đất nước lâm vào khủng
hoảng kinh tế - xã hội nghiêm trọng, nguồn viện trợ giảm dần, bị bao vây, cô lập và cấm vận.
Về mặt lý luận, đó là sự lạc hậu về nhận thức lý luận và vận dụng các quy luật đang hoạt
động trong thời kỳ quá độ; đã mắc bệnh chủ quan duy ý chí, giản đơn hóa, muốn thực hiện
nhanh chóng nhiều mục tiêu của CNXH trong điều kiện nước ta mới ở chặng đường đầu tiên
và chịu ảnh hưởng nhiều từ mô hình CNXH của Liên Xô mà đôi khi không phù hợp với tình
hình thực tế của đất nước. 2. T i sao l ạ i có cu ạ c cách m ộ ng đ ạ i m ổ i đấết n ớ c năm 1986 ướ
Đại hội Đảng lần thứ 6 (tháng 12 năm 1986), khi đề ra đường lối đổi mới, Đảng bắt
đầu từ việc đổi mới tư duy, mà “trước hết là tư duy kinh tế”. Kinh tế được điều tiết
theo chuyển động thị trường - vấn đề tưởng như là nguyên lý nhưng đặt vào bối cảnh
khởi động Đổi mới năm 1986 khi đất nước đang lâm vào khủng hoảng kinh tế - xã hội,
mới thấy hết giá trị mang tính mở đường, tính mới mẻ và hiện đại của những chủ
trương chưa từng có trong tư duy của những người Cộng sản.
Khi bước vào những năm 80 của thế kỉ XX trình độ về quốc tế hoá về kinh tế thế giới
ngày càng sâu sắc. Nếu ta không nằm trong quỹ đạo ta sẽ bị bật ra khỏi thế giới do đó
ta phải đổi mới chính sách.
Nếu có đường lối đúng ta không những tận dụng được nguồn vốn mà còn vận dụng
được cả thị trường do đó phải năng động đổi mới.
Những năm đầu của thập kỷ 80 đặc biệt năm 85 trở đi Liên xô và các nước đông âu
nổi lên làn sóng cải cách , cải tổ cơ chế quan liêu bao cấp của Chủ nghĩa xã hội làm
cho nó lâm vào khủng hoảng và thời kì này là thời kỳ khủng hoảng nhất của chế độ
quan liêu bao cấp dẫn đến khủng hoảng kinh tế ở đông âu . Trong khi đó các nước
TBCN biết vươn lên lấy cơ hội để phát triển và có nhiều thành tựu và đồng thời Thực
tiễn ở Việt Nam sau 80 năm chiến tranh nhân dân chịu nhiều đau khổ , mọi người
muốn sống một cuộc sống hạnh phúc hoà bình ấm no và chất lượng cuộc sống . Đ cố
gắng tìm tòi chính sách mới nhưng càng làm càng sụp đổ , một số chủ trương chính
sách về kinh tế và xã hội đều được nghiên cứu nhưng khi thực hiện lại biểu hiện
những sai lầm , những hạn chế , mắc những sai lầm khuyết điểm lớn: Nguyện vọng
của đất nước như vậy nhưng ta làm ko đúng gây ra lạm phát , tiêu cực rất nhiều , làm
lòng tin của dân đối với Đ giảm sút do đó phải nhanh chóng đổi mới.
Đổi mới ở nước ta xuất phát từ sự năng động của nhân dân, mà bắt đầu là từ thực tế
của gần 100 cuộc “phá rào” kinh tế trước đó. Tiêu biểu như chính sách khoán của
Vĩnh Phúc tạo điều kiện cho nông dân làm chủ trên đồng ruộng của mình; là mô hình
phân phối thu mua ở Long An theo giá thoả thuận, hay sự bung ra của thành phố Hồ
Chí Minh với việc thương nhân đứng ra thu gom những mặt hàng có thể xuất khẩu để
trao đổi trực tiếp với nước ngoài
3. Quan đi m Mác-Lềnin đã có tác đ ể
ng thềế nào đềến quá trình đ ộ i m ổ i ớ n ở c ta ướ ?
Từ quan điểm của CN mác lênin về vai trò của lí luận và tư duy lý luận “ không có tư
duy con người thì không có lao động cách mạng” chỉ có lực lượng cách mạng mới có phong
trào cách mạng , phải có lực lượng tiên phong mới đảm đương được nhiệm vụ tiên phong.
-Phương hướng chung: đổi mới tư duy trên tất cả các lĩnh vực của đời sống XH, đổi
mới về quan điểm, bước đi, cách làm cho phù hợp với những quy luật khách quan của Chủ nghĩa xã hội.
-Đổi mới tư duy nhằm làm cho SX phát triển, tạo ra đời sống vật chất tinh thần ngày càng cao cho toàn XH.
-Đổi mới tư duy không phải là mục đích mà là phương tiện để đạt được mục đích xây
dựng thành công Chủ nghĩa xã hội.
- Đổi mới tư duy phải nắm vững bản chất cách mạng và khoa học của CN mác-lênin và tư tưởng HCM.
- Đổi mới không phải là xa rời CN mac lenin mà là vận dụng sáng tạo học thuyết
mác-lênin và khắc phục những quan niệm không đúng về học thuyết đó.
Như vậy có thể khẳng định triết học Mác là cơ sở lí luận vững chắc để Đảng ta dựa vào thực
hiện phương hướng cải cách phù hợp với định hướng tiến lên XHCN 4. Thành t u c ự a quá trình đ ủ i m ổ i ớ
Ðổi mới để phát triển, song phải là phát triển trong thế ổn định, theo đúng định hướng,
con đường mà chúng ta đã chọn. Ðổi mới để thực hiện bước chuyển từ cơ chế tập trung,
quan liêu, bao cấp sang cơ chế thị trường do Nhà nước quản lý, điều hành theo định hướng
XHCN, khắc phục tình trạng thả nổi thị trường; phát triển kinh tế nhưng phải đi đôi với thực
hiện công bằng xã hội, khắc phục tình trạng phân hóa giàu nghèo. Ðổi mới yêu cầu gắn với
mở cửa, hội nhập, với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa để đất nước phát triển nhanh,
bền vững; xây dựng, tăng cường lực lượng sản xuất, củng cố và phát triển quan hệ sản xuất
phù hợp, từ đó nâng tầm đất nước lên trình độ mới, tầm cao mới.
Sau 35 năm, công cuộc đổi mới đã thật sự gắn bó với vận mệnh dân tộc, vận mệnh đất
nước, gắn bó với mỗi người Việt Nam, và được bạn bè quốc tế hết sức quan tâm cũng như
đạt được những kết quả thiết thực, mà trước hết là đổi mới tư duy để khắc phục được nhận
thức lệch lạc, nhất là bệnh giáo điều, chủ quan duy ý chí, vì thế vai trò lãnh đạo của Ðảng
càng được tăng cường, định hướng XHCN được giữ vững, hình thành quan niệm mới về
mục tiêu, bước đi, cách thức phát triển đất nước. Công cuộc đổi mới đã giải phóng sức sản
xuất, củng cố, tăng cường quan hệ sản xuất mới, đưa đất nước ra khỏi tình trạng một nước có
thu nhập thấp; đời sống nhân dân cải thiện đáng kể, ổn định chính trị - xã hội được bảo đảm,
an ninh quốc phòng được củng cố vững chắc, quan hệ hợp tác quốc tế ngày càng sâu rộng.
Các thành tựu đó tạo tiền đề quan trọng để đất nước tiếp tục đổi mới, phát triển trong
những năm tới. Cội nguồn của các thành tựu đó là do Ðảng ta có đường lối đổi mới đúng
đắn, sáng tạo, phù hợp lợi ích, nguyện vọng của nhân dân, được nhân dân tích cực ủng hộ,
thực hiện, được bạn bè quốc tế ủng hộ, hợp tác, giúp đỡ. Ðó là cơ sở để năm 2020, với
phương châm vì tính mạng con người, không để ai bị bỏ lại phía sau, toàn Ðảng, toàn dân,
toàn quân đã nỗ lực vượt qua đại dịch Covid-19, khắc phục hậu quả bão lụt ở các tỉnh miền
trung, giúp nhân dân sớm ổn định cuộc sống. Các thành tựu cụ thể như sau:
5. Quy mô nềền kinh tềế tăng nhanh
Trong suốt 35 năm qua, kinh tế Việt Nam đã đạt tốc độ tăng trưởng khá ấn tượng. Nếu
như trong giai đoạn đầu đổi mới (1986 - 1990) thì giai đoạn 2016 - 2019 đạt mức bình quân
6,8%. Mặc dù năm 2020, kinh tế chịu ảnh hưởng nặng nề của dịch bệnh Covid-19 nhưng tốc
độ tăng GDP của Việt Nam vẫn thuộc nhóm các nước tăng trưởng cao nhất khu vực, thế giới.
Quy mô, trình độ nền kinh tế được nâng lên, nếu như năm 1989 mới đạt 6,3 tỷ
USD/năm thì đến năm 2020 đã đạt khoảng 268,4 tỷ USD/năm. Đời sống nhân dân cả về vật
chất và tinh thần được cải thiện rõ rệt, năm 1985 bình quân thu nhập đầu người mới đạt 159
USD/năm thì đến năm 2020 đạt khoảng 2.750 USD/năm.
Những nỗ lực đổi mới trong 35 năm qua đã giúp cho môi trường đầu tư liên tục được
cải thiện, nhờ đó đã thu hút ngày càng nhiều hơn vốn đầu tư cho phát triển..Năm 2020, trong
bối cảnh đại dịch Covid-19, Việt Nam vẫn là một điểm đến tin cậy cho các nhà đầu tư với
tổng vốn FDI đạt 28,5 tỷ USD. Ngoài ra, tại Việt Nam đã hình thành các vùng kinh tế trọng
điểm để làm động lực cho phát triển kinh tế vùng, miền và cả nước; phát triển các khu kinh
tế, khu công nghiệp tập trung nhằm thu hút vốn đầu tư phát triển, đồng thời hình thành các
vùng chuyên môn hóa cây trồng, vật nuôi gắn với chế biến công nghiệp... Nhìn chung, các
ngành, lĩnh vực của nền kinh tế đều có bước phát triển mạnh mẽ.
Năm 1986 từ chỗ thiếu ăn, Việt Nam nay đã trở thành một trong những nước xuất khẩu nông
sản lớn trên thế giới. Kim ngạch xuất khẩu của nhiều mặt hàng nông sản, như cà phê, gạo,
hạt điều, rau quả, tôm, gỗ và sản phẩm từ gỗ... luôn duy trì ở mức cao. Các mặt hàng xuất
khẩu khác cũng có bước tiến lớn. Đặc biệt, trong bối cảnh bị ảnh hưởng nặng nề bởi dịch
Covid-19 khiến hoạt động thương mại và đầu tư thế giới suy giảm, thì tổng kim ngạch xuất
nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam năm 2020 vẫn đạt 543,9 tỷ USD. Với kim ngạch xuất
nhập khẩu ấn tượng đã đưa Việt Nam xếp thứ 22 thế giới về quy mô kim ngạch và năng lực
xuất khẩu, đứng thứ 26 về quy mô thương mại quốc tế. 6. Phát tri n găến k ể
ềết hài hòa v i phát tri ớ n văn hó ể a - xã h i ộ
Trong suốt quá trình 35 năm đổi mới, việc tăng trưởng kinh tế đã cơ bản gắn kết hài
hòa với phát triển văn hóa, xây dựng con người, tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ tài
nguyên và môi trường. Tăng trưởng kinh tế đi đôi với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội
ngay trong từng bước phát triển. Từ chỗ Nhà nước bao cấp toàn bộ trong việc giải quyết việc
làm đã dần chuyển trọng tâm sang thiết lập cơ chế, chính sách để các thành phần kinh tế và
người lao động đều tham gia tạo việc làm; từ chỗ không chấp nhận có sự phân hóa giàu -
nghèo đã đi đến khuyến khích mọi người làm giàu hợp pháp đi đôi với tích cực xóa đói giảm
nghèo. Công tác giảm nghèo của Việt Nam đã đạt được những thành tựu ấn tượng. Tỷ lệ hộ
nghèo trên cả nước chỉ còn dưới 3% năm 2020 (theo chuẩn nghèo đa chiều).
Quy mô giáo dục tiếp tục được phát triển, cơ sở vật chất được nâng cao, chất lượng
đào tạo từng bước đáp ứng yêu cầu về nguồn nhân lực. Nhiều chỉ số về giáo dục phổ thông
của Việt Nam được đánh giá cao trong khu vực, như: Tỷ lệ huy động trẻ 6 tuổi vào lớp 1 đạt
99% (đứng thứ 2 trong khu vực ASEAN sau Singapore); tỷ lệ học sinh đi học và hoàn thành
chương trình tiểu học sau 5 năm đạt 92,08%, đứng ở tốp đầu của khối ASEAN.
Vị thế các trường đại học của Việt Nam đã được nâng lên trong bảng xếp hạng châu Á
và thế giới, năm 2019 xếp thứ 68/196 quốc gia trên thế giới, tăng 12 bậc so với năm 2018.
Lần đầu tiên, Việt Nam có 4 cơ sở giáo dục đại học được vào top 1.000 trường đại học tốt
nhất thế giới. Việt Nam đang là điểm đến được lựa chọn của nhiều sinh viên quốc tế trong những năm gần đây.
Năng lực của hệ thống các cơ sở y tế được củng cố và phát triển. Nhờ đó, người dân
dễ dàng tiếp cận với các dịch vụ y tế hơn. Việt Nam là một trong số ít quốc gia có hệ thống y
tế hoàn chỉnh, tổ chức rộng khắp tới tận thôn, bản; làm chủ được nhiều kỹ thuật công nghệ
cao mang tầm thế giới như: ghép chi, tim, gan, thận...; kiểm soát được nhiều dịch bệnh nguy
hiểm, trong đó có Covid-19; chủ động sản xuất được nhiều loại vắc xin phòng bệnh.
Bên cạnh đó, công tác bảo đảm an sinh xã hội luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm
thực hiện. Đến nay, diện thụ hưởng chính sách an sinh xã hội ngày càng mở rộng, mức hỗ trợ
được nâng lên, đời sống vật chất và tinh thần của người dân, đặc biệt là người nghèo, đồng
bào dân tộc thiểu số. Trong 25 năm qua, ngành Bảo hiểm xã hội đã giải quyết cho hơn 112,5
triệu lượt người hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội. Từ năm 2003 - 2018, ngành Bảo hiểm xã
hội phối hợp với ngành Y tế đã đảm bảo quyền lợi cho người tham gia khám, chữa bệnh bảo hiểm y tế.
Ngoài ra, các phong trào “Tương thân tương ái,” “Đền ơn đáp nghĩa,” “Uống nước
nhớ nguồn” do các cấp và các đoàn thể, các tổ chức xã hội, các doanh nghiệp và toàn thể
nhân dân thực hiện và hưởng ứng tham gia trong những năm qua cũng đã phát huy truyền
thống tốt đẹp của dân tộc, đóng góp đáng kể an sinh xã hội cho nhân dân, nhất là người nghèo, vùng khó khăn. 7. H i nh ộ p quôếc tềế sấu r ậ ng, v ộ thềế ngà ị y càng đ c nấng cao trền tr ượ ng quôếc tềế ườ
35 năm đổi mới cũng là một chặng đường hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng trên nhiều
cấp độ, đa dạng về hình thức. Việt Nam đã thiết lập được nhiều quan hệ đối tác chiến lược về
kinh tế; tích cực xây dựng Cộng đồng ASEAN 2015 và hoàn thiện thị trường trong nước đầy
đủ hơn theo cam kết WTO. Đến nay, đã có 71 quốc gia công nhận nền kinh tế Việt Nam là
nền kinh tế thị trường, trong đó có các đối tác thương mại lớn của Việt Nam.
Việt Nam cũng là thành viên chủ động, tích cực và có trách nhiệm cao trong các tổ
chức quốc tế. Việt Nam đã tham gia vào Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), Diễn
đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC), các tổ chức của Liên hợp quốc...
đóng góp tích cực và đang trở thành nước có vị thế và vai trò ngày càng cao ở khu vực, được
cộng đồng quốc tế tôn trọng. Bên cạnh đó, Việt Nam đã được tín nhiệm bầu vào các cơ quan
quan trọng của Liên hợp quốc, như: năm 2020, Việt Nam cùng lúc đảm nhận 3 trọng trách:
Ủy viên không Thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, Chủ tịch ASEAN và Chủ tịch
AIPA. Trong bối cảnh vô cùng khó khăn của đại dịch Covid-19 và những thiệt hại nặng nề
do thiên tai bão lũ... song Việt Nam đã hoàn thành tốt cả ba trọng trách, góp phần nâng cao
uy tín, vị thế Việt Nam trong khu vực và trên thế giới.
Những thành tựu của 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới đã tiếp tục khẳng định
đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo. Những thành tựu to lớn và có ý nghĩa
lịch sử kết tinh sức sáng tạo của Đảng và nhân dân ta, khẳng định con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại;
khẳng định sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của
cách mạng Việt Nam nhưng bên cạnh đó vẫn có những bài học kinh nghiệm được rút ra,. 8. Bài h c rút ra ọ
8.1. Thứ nhất, bài học về sự kiên định.
Đổi mới là sự thay đổi về phương thức, cách thức, phương tiện… phát triển đất nước
nhưng không phải từ bỏ mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, mà là làm cho chủ nghĩa xã hội được
nhận thức đúng đắn hơn và được xây dựng có hiệu quả hơn. Tức là, làm cho con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội ngày càng sáng tỏ hơn. Trước mắt, mục tiêu của Đảng và nhân dân ta
hướng tới là “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Sự nghiệp cách mạng đó
đòi hỏi Đảng, Nhà nước và nhân dân ta phải kiên định, kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội. Vận dụng tư tưởng của Hồ Chí Minh “Dĩ bất biến ứng vạn biến” thì mục
tiêu này chính là cái “bất biến” mà không ai có thể từ bỏ.
8.2. Hai là, bài học về “dân làm gốc”.
“Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng” luôn là quan điểm xuyên suốt của Đảng ta
trong các thời kỳ cách mạng. Dân ngày càng giàu thì nước ngày càng mạnh; nước càng mạnh
thì càng tác động để dân càng giàu hơn. Do đó, phải luôn chú trọng lắng nghe dân, gần dân,
trọng dân, thực hành dân chủ rộng rãi, bảo đảm các quyền và lợi ích chính đáng của nhân
dân. “Đảng phải trực tiếp trả lời câu hỏi “Nhân dân đang muốn gì?”, để từ đó đề ra các chủ
trương, đường lối cho đúng, cho sát và phù hợp với nhân dân. Mục tiêu “dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” mà Đảng ta từng bước phấn đấu chỉ có thể thành công
khi Đảng, Nhà nước mãi mãi lấy “Dân làm gốc”.
8.3. Ba là, bài học về “đổi mới”.
Đổi mới phải toàn diện, đồng bộ, có bước đi phù hợp; tôn trọng quy luật khách quan,
xuất phát từ thực tiễn, bám sát thực tiễn, coi trọng tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, tập
trung giải quyết kịp thời, hiệu quả những vấn đề do thực tiễn đặt ra.
8.4. Bốn là, bài học về yêu cầu phải đặt lợi ích quốc gia – dân tộc lên trên hết.
Phải đặt lợi ích quốc gia – dân tộc lên trên hết; kiên định độc lập, tự chủ, đồng thời
chủ động và tích cực hội nhập quốc tế trên cơ sở bình đẳng, cùng có lợi; kết hợp, phát huy
sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam
xã hội chủ nghĩa. Bên cạnh đó, “đặt lợi ích quốc gia dân tộc lên trên hết không phải là bỏ qua
chủ nghĩa quốc tế vô sản, bỏ qua trách nhiệm quốc tế vì sự tiến bộ và phát triển của tất cả các dân tộc
8.5. Năm là, bài học về xây dựng Đảng và xây dựng hệ thống chính trị.
Phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu của Đảng; xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ năng lực
và phẩm chất, ngang tầm nhiệm vụ; nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước,
Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và của cả hệ thống chính trị; tăng cường mối
quan hệ mật thiết với nhân dân.Yêu cầu về “phát triển kinh tế là trọng tâm, xây dựng Đảng là
then chốt” vẫn luôn là một đòi hỏi phù hợp thực tiễn. Xây dựng Đảng là để Đảng luôn trong
sạch, vững mạnh, đủ năng lực và sức chiến đấu để lãnh đạo thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế.
IV. CON NGƯỜI PHÁT TRIỂN TOÀN DIỆN 1. Khái ni m ệ
1.1. Theo quan điểm triết học:
Tích cực hóa nhân tố con người là phát hiện, độc lập, hình thành, sử dụng tiềm năng
sáng tạo của con người lao động và phát huy nhân tố con người chính là chăm lo, tạo
dựng điều kiện cần thiết để mỗi con người, mỗi cộng đồng người có thể bộc lộ, thể
hiện tối đa năng lực của mình trong lao động sản xuất, trong hoạt động sáng tạo nhằm
thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, hướng tới thực hiện mục
tiêu tất cả vì hạnh phúc của mỗi con người.
Phát huy nhân tố con người là làm gia tăng giá trị cho con người, giá trị tinh thần, giá
trị thể chất, vật chất. Con người ở đây xem xét như một tài nguyên, một nguồn lực. Vì
vậy phát huy nhân tố con người hay phát triển nguồn lực con người trở thành một lĩnh
vực nghiên cứu hết sức cần thiết trong hệ thống phát triển các loại nguồn lực như vật
lực, tài lực, nhân lực, trong đó phát triển nguồn nhân lực giữ vai trò trung tâm. Trong
lịch sử, không chế độ nào tồn tại lại không nhắc tới yếu tố con người, những vấn đề
khai thác, phát huy theo lợi ích của giai cấp nào và bằng phương thức nào có sự khác
nhau. Thực chất chiến lược con người là tạo ra môi trường xã hội (môi trường kinh tế -
xã hội, môi trường chính trị - xã hội, văn hóa – xã hội…) kích thích con người hoạt
động sáng tạo và thỏa mãn nhu cầu tối đa của con người trong điều kiện lịch sử cụ thể.
1.2. Theo tư tưởng chủ tịch Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng:
Giáo dục toàn diện để phát triển con người Việt Nam cả đức, trí, thể, m ỹ luôn là tư
tưởng xuyên suốt của Đảng và Nhà nước ta. Trong bối cảnh mới của sự phát triển kinh
tế - xã hội, bên cạnh những tác nhân truyền thống cũng xuất hiện nhiều tác nhân giáo
dục mới. Vì vậy, cần tìm tòi và đề xuất những giải pháp đột phá để huy động mọi chủ
thể cho giáo dục toàn diện gắn với tình hình mới. Theo Người, để trở thành con người
mới xã hội chủ nghĩa phải chú ý cả hai phương diện.
Một mặt, đó là sự phấn đấu vươn lên không ngừng của mỗi người theo hướng tự
giác đấu tranh với những mặt lạc hậu, mặt xấu vốn tồn tại như mặt bản năng tự
nhiên của con người, đồng thời học tập, tu dưỡng đạo đức cách mạng được xem
như tinh hoa văn hóa của nhân loại.
Mặt khác, đó là sự tham gia tích cực của con người vào việc cải tạo xã hội theo
hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội, đối với nước ta là thực hiện cách mạng giải
phóng dân tộc, kết hợp với cách mạng xã hội chủ nghĩa.
=> Đó là hai mặt luôn gắn kết với nhau và “muốn có chủ nghĩa xã hội trước hết phải có
con người xã hội chủ nghĩa”. Tư tưởng về phát triển toàn diện con người đã được thể hiện
một cách dung dị trong 5 điều Bác Hồ dạy thiếu niên, nhi đồng, tư tưởng đó còn được kết
tinh trong hai khái niệm “hồng” và “chuyên”. Người cũng xác định phương pháp xây dựng
con người là nêu gương người tốt, việc tốt. Xây dựng “con người Việt Nam phát triển toàn
diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa
học”, coi đó là “một mục tiêu của chiến lược phát triển”, “phát triển về nhân cách, đạo đức,
trí tuệ, năng lực sáng tạo, thể chất, tâm hồn, trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân, ý thức tuân thủ pháp luật”.
Kế thừa những quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh và những bài học quốc tế (Báo
cáo phát triển con người, công bố lần đầu tiên năm 1990 trong Chương trình Phát triển
Liên hợp quốc (UNDP)về xây dựng phát triển con người toàn diện(6)), có thể xác định
một số tiêu chí con người Việt Nam trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa hiện nay phải bao gồm:
1. Có sức khỏe tốt (gồm cả sức khỏe thể chất, tinh thần và xã hội);
2. Có tinh thần yêu nước;
3. Có đạo đức tốt (gồm cả đạo đức cá nhân và đạo đức nghề nghiệp);
4. Có kỹ năng sống tốt;
5. Có trách nhiệm công dân;
6. Có phẩm chất “công dân toàn cầu”.
Bên cạnh đó, cũng có thể xác định định hướng giáo dục con người Việt Nam toàn diện
trên 5 mặt theo định hướng của Đại hội XII của Đảng bao gồm: 1. Đạo đức; 2. Nhân cách; 3. Lối sống; 4. Trí tuệ; 5. Năng lực làm việc.
2. Áp dụ ng thự c tềễn trong bôếi c nh Vi ả t Nam hi ệ n nay ệ 2.1. Thuận lợi
Thấu triệt rõ lực lượng sản xuất cơ bản của xã hội Việt Nam là con người Việt Nam;
lực lượng sáng tạo ra những giá trị văn hóa tinh thần của dân tộc Việt Nam là con
người Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam đã vận dụng sáng tạo tư tưởng của Các
Mác về con người, giải phóng con người trong điều kiện cụ thể của Việt Nam để chăm
lo cho con người, phát triển con người Việt Nam toàn diện. Chú trọng phát triển con
người, coi con người là nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp đổi mới và hội
nhập quốc tế, trong hơn 30 năm đổi mới đất nước, Đảng Cộng sản Việt Nam đã ban
hành và thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách, giải pháp phát triển con người
Việt Nam phát triển toàn diện cả về trí lực lẫn thể lực, cả về lý tưởng sống, lối sống,
năng lực, trí tuệ, đạo đức và bản lĩnh văn hóa, nhằm thực hiện thành công chiến lược
phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, phục vụ sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Ví dụ cụ thể: Về chỉ số phát triển con người - HDI (chỉ số phát triển con người dựa
trên kết quả đạt được về thu nhập, giáo dục và y tế) của Việt Nam những năm gần đây
cũng cho thấy, dù còn khó khăn, song Việt Nam đã có những cố gắng lớn trong thực
hiện Mục tiêu Thiên niên kỷ, được cộng đồng quốc tế đánh giá cao; nhất là vấn đề
giảm nghèo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, thực hiện nhiều chính sách để ổn
định, từng bước nâng cao chất lượng đời sống của người dân. Mặc dù còn không ít
hạn chế, song những thành tựu của Việt Nam về phát triển con người đã được thực tiễn
chứng minh và không thể phủ nhận. HDI của Việt Nam liên tục tăng qua các năm. Nếu
năm 2000, HDI của Việt Nam đạt 0,683 điểm (thuộc nhóm trung bình), thì năm 2010
là 0,733 điểm (xếp trong nhóm trung bình cao của thế giới). Năm 2014, Việt Nam
được xếp thứ 116/188 nước (ở thứ hạng trên của nhóm các nước có mức phát triển con
người trung bình). Năm 2016, chỉ số HDI tổng quát của Việt Nam tăng 1%, lên 0,683
và ở mức trung bình, xếp hạng 115 trên tổng số 188 quốc gia, tăng 2 bậc so với năm
trước. Chỉ số này được cải thiện nhờ tăng trưởng GDP, chỉ số y tế ở mức cao trong khi
chỉ số giáo dục tăng chậm hơn. Chỉ số IHDI - đo lường mức độ bất bình đẳng cũng đã
tương đối tốt, chênh lệch 17,8% so với chỉ số HDI, tốt nhất khu vực châu Á- Thái Bình Dương…
2.2. Khó khăn, hạn chế
Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán
bộ, đảng viên, chưa thực sự được đẩy lùi. Một số mặt đạo đức xã hội có biểu hiện
xuống cấp nghiêm trọng. Ở một số nơi, vẫn còn tình trạng kẻ xấu lợi dụng sự ngộ
nhận về lòng yêu nước của một bộ phận người dân phục vụ mục đích chống phá chế độ.
Hệ giá trị chuẩn mực văn hóa và con người Việt Nam làm cơ sở triển khai trong
thực tiễn chưa được ban hành. Một bộ phận cán bộ, nhân dân có tâm lý sính ngoại,
tiêu dùng sản phẩm văn hóa cũng như tiếp nhận lối sống thiếu chọn lọc, ảnh hưởng
đến giữ gìn truyền thống văn hóa dân tộc và xây dựng con người trước thách thức toàn
cầu hóa. Chất lượng nguồn nhân lực của Việt Nam còn ở mức thấp so với khu vực Đông Nam Á.
Sự phối hợp giữa gia đình - nhà trường - xã hội trong giáo dục con người chưa
thường xuyên. Công tác giáo dục nghệ thuật, nâng cao năng lực thẩm mỹ trong các
tầng lớp nhân dân chưa được coi trọng. Nhiều hoạt động văn hóa và dịch vụ văn hóa
công cộng bị “thương mại hóa”, hạ thấp tính giáo dục, chiều theo thị hiếu tầm thường
của một bộ phận người dân, gây hậu quả xấu trong xây dựng con người. Công tác xã
hội hóa xây dựng con người chưa động viên tối đa. Một số phong trào biểu dương, tôn
vinh gương người tốt việc tốt, điển hình tiên tiến, danh hiệu thi đua chưa đi vào thực
chất, chạy theo số lượng và hình thức.
Cuộc đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, tiêu cực xã hội chưa thường
xuyên, liên tục. Một số nơi còn coi nhẹ việc đấu tranh, phòng chống các biểu hiện suy
thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trên lĩnh
vực văn hóa, ảnh hưởng đến nhiệm vụ xây dựng con người. Những giải pháp mang
tính đột phá khắc phục những mặt hạn chế của con người Việt Nam chưa được đề xuất. 2.3. Định hướng
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, sự phát triển như vũ bão của cuộc Cách
mạng công nghiệp 4.0 đã làm thay đổi sâu sắc về cách sống, cách làm việc trong mối quan
hệ tương tác với nhau. Sự biến đổi không ngừng của hoàn cảnh xã hội đòi hỏi mỗi con người
cần phải liên tục cập nhật kỹ năng, hoàn thiện mình để thích ứng với tình hình mới. Chính vì vậy:
Giáo dục càng phải tập trung phát triển toàn diện năng lực của cá nhân dựa trên việc
áp dụng các công nghệ đột phá. Xu hướng cá nhân hóa học tập liên quan đến việc
giảng dạy phải được thực hiện theo nhịp độ phù hợp với nhu cầu học tập, được thiết kế
theo sở thích và sự hứng thú cụ thể của từng người học; được thực hiện bằng cách
cung cấp các lựa chọn từ nhiều chương trình giáo dục (từ nhiều trường phái, môn học,
kỹ năng và năng lực khác nhau), nhiều tiếp cận giảng dạy (trực tiếp, gián tiếp, tương
tác, thực nghiệm hoặc độc lập), trải nghiệm học tập (truyền thống như trong lớp học,
phi truyền thống như trực tuyến hoặc kết hợp) và các chiến lược hỗ trợ học tập (các
dịch vụ giáo dục sẵn có để hỗ trợ người học và thúc đẩy quá trình học tập). Về mặt nội
dung, các chương trình giáo dục phải giúp người học hình thành năng lực sáng tạo và
tư duy phản biện, khả năng giao tiếp và hợp tác, kỹ năng tự học, có kiến thức về kỹ
thuật số và dữ liệu, có kiến thức liên ngành để có thể chuyển đổi công việc. Về mặt
phương pháp sư phạm, phải tạo ra cơ hội để xây dựng một “hệ sinh thái” học tập cho
phép cá nhân hóa việc học tập về mặt thời gian và địa điểm. Người học phải được
hướng dẫn để có năng lực tự học và thiết kế các lộ trình học tập của riêng mình dựa
trên các mục tiêu cá nhân qua việc sử dụng linh hoạt các công cụ, như khóa học trực
tuyến theo mô hình khóa học trực tuyến đại chúng mở (Massive open online course,
viết tắt là MOOC), các lớp học, phòng thí nghiệm ảo và các trò chơi học tập, sử dụng
đa dạng các hình thức dạy học kết hợp (blended learning), dạy học theo dự án, dạy học
dựa vào kịch bản và dạy học định hướng giải quyết vấn đề.
2.4. Tiêu chí con người toàn diện
Những yêu cầu hiện đại hóa, quốc tế hóa giáo dục với mục tiêu đào tạo ra những
“công dân toàn cầu” đã đặt ra trách nhiệm của từng học sinh là phải chủ động với bản thân
mình và với xã hội. Công dân toàn cầu là người có khả năng hành động hợp tác, có trách
nhiệm, sáng tạo giải quyết những vấn đề chung của cộng đồng, góp phần làm cho địa
phương, đất nước, thế giới tốt đẹp và phát triển bền vững; giao tiếp, thích ứng trong những
môi trường văn hóa khác nhau, môi trường đa văn hóa; tôn trọng quyền con người, sự đa
dạng; trân trọng, phát huy những giá trị văn hóa của dân tộc, đất nước mình, đồng thời có ý
thức học hỏi những tinh hoa văn hóa của các dân tộc, quốc gia khác.
Những quan điểm về giáo dục công dân toàn diện hướng tới công dân toàn cầu hiện đã
được phản ánh trong việc xác định mục tiêu đổi mới chương trình, sách giáo khoa, giáo dục
phổ thông “phát triển con người Việt Nam toàn diện về đức, trí, thể, mỹ, hướng tới “công
dân toàn cầu””(7) và cụ thể hóa thành những phẩm chất chủ yếu là yêu nước, nhân ái, chăm
chỉ, trung thực, trách nhiệm và phát triển toàn diện các năng lực gồm các năng lực chung,
như năng lực tự chủ và tự học, năng lực giao tiếp và hợp tác, năng lực giải quyết vấn đề và
sáng tạo; năng lực đặc thù, như năng lực ngôn ngữ, năng lực tính toán, năng lực khoa học,
năng lực công nghệ, năng lực tin học, năng lực thẩm mỹ, năng lực thể chất.
Có thể nói, trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng hiện nay, con
người Việt Nam phát triển toàn diện phải là con người có văn hóa, mang bản sắc văn hóa dân
tộc Việt Nam cùng năng lực tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại, thể hiện qua phẩm chất
năng lực của công dân toàn cầu. Con người Việt Nam phát triển toàn diện đức, trí, thể, mỹ
phải bao gồm: Có lòng yêu nước nồng nàn từ yêu quê hương, yêu con người và yêu những
giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, có lòng nhân ái thể hiện qua việc yêu thương, quý
trọng con người không chỉ trong phạm vi gia đình, nhà trường, quốc gia mà cả quốc tế. Đó
còn là người có lý tưởng sống, có ý thức trách nhiệm, có ý chí phấn đấu không ngừng, có lối
sống giản dị vì cộng đồng, hành động cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư. Phải xây dựng
nền giáo dục con người có đủ sức khỏe thể chất và tâm trí để phát huy trí tuệ, tối đa hóa tiềm
năng lao động sáng tạo của bản thân, có năng lực tự học suốt đời.
Bên cạnh việc xác định những tiêu chí con người toàn diện phù hợp với nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chúng ta cần thực thi một số giải pháp căn bản tạo môi
trường cho việc giáo dục toàn diện con người như sau:
- Thứ nhất, cần phân tích chính xác về thực trạng giáo dục toàn diện con người tại thời
điểm hiện tại từ tiếp cận liên ngành và cá nhân hóa để thấy rõ bức tranh giáo dục con người
làm trung tâm và vì con người để đề xuất các giải pháp mang tính tổng hợp.
- Thứ hai, cần phân định rõ chức năng của các thiết chế, chủ thể giáo dục, đặc biệt là
chủ thể phi truyền thống, các phương tiện truyền thông mới, phim ảnh, video game, thực tại
ảo (VR), thực tại mở rộng (XR), sự kết nối vạn vật (IoT),... Cần có những nghiên cứu để cụ
thể hóa những điều này trong Nghị định của Chính phủ hướng dẫn thực hiện Luật Giáo dục
năm 2019 để tránh tình trạng chồng chéo hoặc những “vùng trắng”.
- Thứ ba, cần phải quy định rõ hơn về vai trò, trách nhiệm của gia đình và các tổ chức
khác tham gia vào hoạt động giáo dục con người toàn diện, phù hợp với nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đồng thời phải triển khai phổ biến, hướng dẫn thực thi
các quy định đó. Nhấn mạnh trách nhiệm giáo dục con người toàn diện phải là nhiệm vụ của
cả một hệ sinh thái bao quanh đứa trẻ.
- Thứ tư, xây dựng một xã hội học tập, một xã hội văn minh với các giá trị chân,
thiện, mỹ; biết phê phán và lên án những hành động đi trái với những quy chuẩn đạo đức xã
hội; giáo dục con người toàn diện. Cần phải xây dựng mô hình này mang “tính mở”, tức là
những mô hình và hoạt động vốn từ xưa chỉ mang tính “gia đình” và “nhà ” trường nay cần
chuyển sang tính “xã hội”. Chính vì vậy, đối với nhà trường, nhiệm vụ đặt ra là xây dựng
một môi trường học “mở”, có “tính phản biện”; chương trình đào tạo theo định hướng phát
triển năng lực - dựa trên trải nghiệm; phương pháp giáo dục lấy người học làm trung tâm, sử
dụng tiếp cận đánh giá toàn diện thông qua các công cụ phù hợp trong đánh giá năng lực
công dân toàn diện. Đánh giá không chỉ dừng lại ở đánh giá kết quả học tập của người học
(đánh giá quá trình và đánh giá tổng thể), mà còn cần đánh giá chính chương trình, đặt
chương trình trong bối cảnh thực tế để đánh giá, theo dõi và kịp thời điều chỉnh, cải thiện,
duy trì giáo dục công dân toàn cầu một cách phù hợp và hiệu quả.