Vận dụng triết - Vận dụng triết - Triết học Mác - Lênin | Đại học Tôn Đức Thắng
Sự thống nhất giữa các mặt đối lập: + Ví dụ 1: Trong XH Tư bản, giai cấp vô sản và giai cấp tư sản là 2 mặt đốilập thống nhất với nhau, nếu không có giai cấp vô sản tồn tại với tư cách là một giai cấp bán sức lao động cho nhàTB. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Triết học Mác -Lênin (THML01)
Trường: Đại học Tôn Đức Thắng
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
Sự thống nhất giữa các mặt đối lập: + Ví dụ 1: Trong XH Tư bản, giai cấp vô sản và giai cấp tư sản là 2 mặt đối
lập thống nhất với nhau, nếu không có giai cấp vô sản tồn tại với tư cách là một giai cấp bán sức lao động cho nhà
TB, thì cũng không có giai cấp TS tồn tại với tư cách là một giai cấp mua sức lao động của giai cấp vô sản để bóc lột giá trị thặng dư. + Ví dụ 2 :
Có nam có nữ đều là con người mới thành vợ chồng. Cái thiện và cái ác trong 1 con người. Trong
cái ác đều có cái thiện, làm sao để lương tâm thức tỉnh.
Sự đấu tranh giữa các mặt đối lập: + Ví dụ: Trong xã hội công xã nguyên thủy, con người phải đấu tranh với tự
nhiên, trình độ lao động rất sơ khai. Để tồn tại, loài người phát minh ra nhiều công cụ: rìu đá, lao, chăn nuôi... tức
là giải quyết mâu thuẫn giữa sống hoặc chết đói. Nhờ công cụ cải tiến, của cải làm ra nhiều hơn mức tiêu thụ, dẫn
đến của cải còn thừa tập trung vào một số người, hình thành mâu thuẫn mới giữa người có của và không có của.
Loài người bước sang xã hội phân biệt giai cấp (Chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản). Khi giai cấp bị áp bức tiêu
diệt giai cấp áp bức (những người không có của tiêu diệt những người có của) loài người sẽ bước sang xã hội mới,
xã hội Xã hội Chủ nghĩa.
Mâu thuẫn cơ bản (Ví dụ: Trong khách quan quan điểm lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, mâu thuẫn căn bản là
mâu thuẫn về con đường đi lên chủ nghĩa tư bản hay chủ nghĩa xã hội.)
Mâu thuẫn không cơ bản (Ví dụ: Mâu thuẫn không căn bản trong khách quan quan điểm lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam là mâu thuẫn về xác lập văn hóa tương lai văn hóa xã hội chủ nghĩa hay văn hóa hiện tượng.)
Mâu thuẫn chủ yếu (Ví dụ: Trong giai đoạn thực hiện cuộc cách mạng dân tộc dân chủ để giải phóng dân tộc,
mâu thuẫn chủ yếu của dân tộc Việt Nam là: Mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với đế quốc, thực dân xâm lược)
Mâu thuẫn đối kháng (Ví dụ: Xã hội tư bản chủ nghĩa mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản với giai cấp vô sản)
III.Sự liên hệ của quy luật mâu thuẫn trong đời sống học tập của sinh viên
Mỗi sự vật trong hiện tượng khách quan đều là thể thống nhất của các mặt đối lập của sự vật hiện tượng, thống
nhất với nhau tạo nên mâu thuẫn. Khi mới xuất hiện mâu thuẫn biểu hiện ở sự khác nhau của hai mặt trong sự vật,
khác nhau do dần dần hình thành sự đối lập khi đó mâu thuẫn rõ nét, hai mặt đối lập đấu tranh với nhau, sự đấu
tranh phát triển đến đỉnh cao thì xảy ra xung đột giữa hai mặt của mâu thuẫn. Hai mặt đó chuyển hóa với nhau
trong những điều kiện nhất định tức là mâu thuẫn được giải quyết, một sự thống nhất mới xuất hiện, mâu thuẫn cũ
mất đi, mâu thuẫn mới lại hình thành. Có sự mâu thuẫn và đấu tranh thì sẽ đưa đến sự phát triển, làm cho sự vật
vận động và không ngừng phát triển. Từ bài học về mâu thuẫn bản thân em tại đây xin đưa ra phần vận dụng của
bản thân về quy luật mâu thuẫn. Em đang ở lứa tuổi 18, là thời kỳ hoàn thành và ổn định sau những biến động sâu
sắc của tuổi dậy thì, là giai đoạn đang chuẩn bị cho việc hình thành nghề nghiệp ổn định và bắt đầu bước vào
phạm vi hoạt động lao động. Trong em bắt đầu hình thành thế giới quan để nhìn nhận, đánh giá cuộc sống, học tập, sinh hoạt hàng ngày.
Trong em cũng mang những nhu cầu, khát vọng thành đạt. Học tập ở đại học là cơ hội tốt để em trải nghiệm bản
thân. Vì vậy em rất thích khám phá, tìm tòi cái mới, đồng thời em luôn có mong muốn được khẳng định và thể
hiện bản thân, thích học hỏi, trau dồi vốn sống, hiểu biết, dám đối mặt với thử thách để khẳng định mình. Môi
trường đại học với một cuộc sống học tập và xã hội ngày càng đổi mới, mở rộng cho cá nhân em. Trong môi
trường này, để hoạt động học tập có kết quả đòi hỏi bản thân em phải có sự thích nghi với các hoạt động diễn ra
trong trường đại học. Quá trình thích nghi này chủ yếu tập trung ở các mặt: nội dung học tập mang tính chuyên
ngành, phương pháp học tập mới mang tính nghiên cứu và học; môi trường sinh hoạt mở rộng, nội dung và cách
thức giao tiếp phong phú đa dạng. Có nhiều bạn dễ dàng và nhanh chóng hòa nhập với môi trường mới nhưng lại
gặp khó khăn trong việc thích ứng với phương pháp và cách thức học mới… Ở đây bản thân em xảy ra khá nhiều
mâu thuẫn: Mâu thuẫn giữa ước mơ mong muốn của bản thân với việc thực hiện ước mơ đó, mâu thuẫn giữa mong
muốn học tập nghiên cứu sâu môn học mà mình yêu thích với yêu cầu phải thực hiện toàn bộ chương trình học
theo thời gian biểu nhất định, mâu thuẫn giữa lượng thông tin nhiều trong xã hội với khả năng và thời gian có hạn.
Mâu thuẫn lớn nhất mà em gặp phải là mâu thuẫn giữa việc học và tham gia các hoạt động. Đầu tiên là vấn đề tự
học một trong những khác biệt lớn nhất và dễ nhận ra nhất giữa học đại học và học phổ thông. Nếu như học phổ
thông được các thầy cô và bố mẹ kèm cặp, nhắc nhở nhưng lên Đại học việc tự học của bản thân sẽ là yếu tố quyết
định nhất với năng lực học tập của bản thân vì đã đủ 18 tuổi - tuổi của sự trưởng thành. Thêm nữa là sự đa dạng
của kiến thức nên muốn giỏi thực sự đòi hỏi bản thân em chăm chỉ, miệt mài tìm hiểu. Tuy nhiên, sự tự học lại
mang đến nhiều sự tự do thoải mái ví dụ như: học Đại học em có thể đến muộn mà không ai quan tâm… và vấn đề
nữa đó là mâu thuẫn giữa việc học và tham gia các hoạt động xã hội. Bản thân em vừa muốn học tập tốt, nhận
được điểm cao, qua môn… tuy nhiên trong một vài trường hợp sẽ có những lý do khác để bỏ qua việc học tập để
tập trung vào những công việc khác. Ví như việc làm thêm kiếm tiền để không dựa dẫm quá nhiều vào bố mẹ vì
thế việc học có một chút ảnh hưởng. Bản thân em cũng muốn trau dồi thêm kỹ năng mềm nên thường xuyên tham
gia vào các hoạt động xã hội, tiêu tốn quá nhiều thời gian vào các hoạt động này mà không cân đối được thời gian
học tập nên dẫn đến kết quả học tập không tốt. Trước khi vào đại học bản thân em đã đặt ra khá nhiều mục tiêu và
ước mơ. Nhưng khi va chạm thực tế, do cách học sai lệch nên tạo ra rất nhiều áp lực cho chính bản thân mình. Đó
chính là sự mâu thuẫn giữa ước mơ và hành động thực tế của bản thân. Không phải vì ước mơ quá viển vông, phi
thực tế mà thực sự em cảm thấy bản thân chưa làm được việc gì để biến ước mơ đấy thành hiện thực. Em không
thể chỉ học mà không quan tâm đến các hoạt động xã hội. Cuộc sống sinh viên luôn bị chi phối bởi nhiều yếu tố
khác. Có người muốn tập trung học thay vì tham gia các hoạt động xã hội bên ngoài. Một số người lại muốn có
cuộc sống tự lập, tự bươn chải làm thêm phụ giúp bố mẹ nên thời gian học tập ít hẳn đi hay những người khác lại
thích tham gia các hoạt động xã hội quá tích cực dẫn đến thời gian tự học bị thu hẹp… Đây là một trong những
mâu thuẫn mà chính bản thân em và mọi người gặp phải. Các mặt đối lập vừa bài trừ lẫn nhau nhưng không thể
chỉ tồn tại một mặt duy nhất mà phải tồn tại đồng thời cùng nhau hay còn gọi là sự thống nhất giữa các mặt đối
lập. Từ bài học về mâu thuẫn em nhận ra được rất nhiều bài học cho bản thân khi sống trong một môi trường xa lạ,
vội vã. Việc tìm hiểu về quy luật mâu thuẫn đã giúp em có những thay đổi tích cực: bản thân em đã năng động
hơn, biết học hỏi, tìm tòi về kiến thức, học hỏi những điều bổ ích về cuộc sống từ bạn bè và ngoài xã hội để thích
nghi nhanh nhất, tốt nhất với môi trường mới này. Từ việc nghiên cứu về quy luật của việc mâu thuẫn, em đã hòa
hợp tốt hơn với môi trường học tập mới có tính chất tập trung chuyên sâu cao, cân bằng giữa học tập và vui chơi,
nghiên cứu và giải trí trong cuộc sống, đồng thời có được định hướng tốt cho tương lai và hơn thế em đã trả lời
được các câu hỏi: Tại sao mình học đại học, mình thích gì và muốn có được gì trong tương lai, làm sao để thực
hiện được điều mình mong muốn…
a) Phải biết tôn trọng mâu thuẫn. Con người cần luôn luôn cố gắng tìm hiểu để phát hiện mâu thuẫn, phân tích đầy
đủ các mặt đối lập để nắm bắt bản chất và khuynh hướng phát triển. Đối với sinh viên, tôn trọng mâu thuẫn chính
là tìm hiểu đầy đủ những môn học của nhà trường, chọn ra các môn phù hợp với định hướng, mục tiêu tương lai
vạch ra kế hoạch học tập, tham gia các hoạt động đoàn thể và thực hiện kế hoạch.
b) Không sợ mâu thuẫn, không né tránh mâu thuẫn. Khi gặp vấn đề không được tránh né, mà cần tìm ra giải pháp
khắc phục, như thế mới có thể phát triển bản thân, có thêm tự tin và kinh nghiệm để giải quyết mâu thuẫn phát
sinh sau này. Sinh viên cũng vậy, khi gặp bài giảng không hiểu, hay bài tập không giải được, cần phải tìm tòi trên
các trang mạng, diễn đàn học vấn, hỏi và tiếp thu từ các giảng viên, các đàn anh, đàn chị hay cả những bạn học.
Sinh viên không được ngại việc học lại, học bổ sung để củng cố kiến thức của mình. Bên cạnh đó, sinh viên cũng
cần phải biết chia sẻ kiến thức của mình cho những người cần chúng. Chia sẻ và học hỏi là cách tốt nhất để giải
quyết các mâu thuẫn gặp phải đối với sự học của một sinh viên.
c) Vận dụng quy luật mâu thuẫn liên tục tìm tòi, đổi mới và sáng tạo trong tri thức: Bởi vì mâu thuẫn luôn tồn tại,
nên nó buộc người ta không bao giờ được nghĩ mình có đầy đủ tri thức, mà phải liên tục học thêm các tri thức mới
để giải quyết các vấn đề mới. Để làm được điều đó, con người cần phải luôn luôn đổi mới, sáng tạo ra các tri thức
mới. Đồng thời, quy luật mâu thuẫn cũng buộc chúng ta phải biết vượt qua mọi định kiến để bài trừ những cái cũ,
không còn phù hợp và tiếp thu, chọn lọc cái mới còn chưa quen thuộc. Có thể nói quy luật mâu thuẫn chính là nền
tảng cho kho tàng tri thức vô cùng vô tận đang trở nên phong phú hơn qua mỗi ngày của nhân loại. Quy luật này
đòi hỏi sinh viên phải tìm tòi, học hỏi các kiến thức mới chứ không được ngủ quên trên một vài kiến thức nhất
định nào đó. Điều đó giúp cho sinh viên thêm phần sáng tạo, là yếu tố rất có ích cho cả việc học lẫn sự nghiệp sau
này. Cũng bởi vì thế mà qua mỗi năm, các trường đại học, học viện phải tái bản một số cuốn sách để đổi mới kiến thức cho các sinh viên.
d) Quy luật mâu thuẫn đòi hỏi con người tiếp thu kiến thức một cách có hệ thống. Bởi vì, kiến thức không đi riêng
lẻ, mà ta phải nhìn nhận được sự tương tác, tương hỗ giữa các kiến thức, của các ngành nghề khác nhau để bổ trợ
cho sự thiếu sót của nhau, đồng thời loại bỏ những kiến thức thừa thãi. Cũng như vậy, sinh viên cần tìm hiểu sự
tương tác qua lại giữa các môn học, ngành học, qua đó đánh giá và chọn lọc được một chỉnh thể những môn học
phù hợp với bản thân. Cần biết vận dụng khả năng tổng hợp, phân tích để tiếp thu và ghi nhớ những kiến thức cần thiết.
Quan điểm toàn diện trong lĩnh vực giáo dục ở Việt Nam hiện nay:
Việc nghiên cứu, xem xét các sự vật, hiện tượng của người học cần dựa trên nguyên tắc toàn diện của triết học
Mác – Lênin. Nếu muốn đánh giá chủ thể một cách hiệu quả nhất, sinh viên cần tự nhận thức rõ ràng là phải nhìn
nhận sự vật, hiện tượng một cách toàn diện, từ nhiều mặt của vấn đề, sự việc, tránh việc nhìn nhận phiến diện, chủ
quan dẫn đến sai lầm, lệch hướng vấn đề mà mình đang nghiên cứu. Từ đó mà các đánh giá mới mang đến tính
chất khách quan, hiệu quả. Như Lênin đã khẳng định: “Muốn thực sự hiểu được sự vật, cần phải nhìn bao quát và
nghiên cứu tất cả các mặt, tất cả các mối liên hệ và “quan hệ gián tiếp” của sự vật đó.”. Vì thế, trong suốt quá trình
học tập, các bạn sinh viên cần có tinh thần tích cực rèn luyện cách nhìn nhận, đánh giá tổng thể, toàn diện đối với
những gì đang xảy ra xung quanh cuộc sống của bản thân mình. Chúng ta cần chống lại thuật ngụy biện, biến
nguyên nhân cơ bản, chủ yếu thành thứ yếu và ngược lại, chẳng hạn kết quả học tập đạt điểm kém thì đổ lỗi cho
thầy cô, nhà trường... Quan điểm toàn diện giúp cho chúng ta khi nghiên cứu, xem xét sự vật, hiện tượng sẽ có
cách nhìn đúng đắn, chính xác, từ đó ta sẽ hiểu kĩ được bản chất của sự vật, hiện tượng mà mình quan tâm và có
phương pháp, cách thức giải quyết một cách triệt để và hiệu quả.
Thực tế, trong suốt thời gian dài vừa qua nền giáo dục của nước ta quá tập trung vào trang bị kiến thức cho người
học ở dạng lý thuyết, ít thực hành và chưa chú ý đến trang bị phẩm chất cho người học. Đúng như Đảng ta khẳng
định: “còn nặng về lý thuyết, nhẹ về thực hành, chưa quan tâm đúng mức đến kỹ năng xã hội, kỹ năng sống và khả
năng tự học, kỹ năng sáng tạo…”. Cho nên, thực tế những năm gần đây sẩy ra nhiều hiện tượng đáng tiếc như: bạo
lực học đường, cách ứng xử của người học với người dạy, cách ứng xử của người trẻ với người lớn tuổi chưa đúng
chuẩn mực. Vì vậy, tiếp tục kế thừa nghị quyết số 29-NQ/TW tại Hội nghị Trung ương 8 khóa XI của Đảng, Đại
hội XIII Đảng ta chỉ rõ: “Chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện
năng lực và phẩm chất người học; … Đào tạo con người theo hướng có đạo đức, kỷ luật, kỷ cương, ý thức trách
nhiệm công dân, xã hội; có kỹ năng sống, kỹ năng làm việc, ngoại ngữ, công nghệ thông tin, công nghệ số, tư duy
sáng tạo và hội nhập quốc tế (công dân toàn cầu)”. Đây chính là toàn diện về nội dung giáo dục toàn diện, thể hiện
ở trang bị cho người học cả năng lực và phẩm chất; đó là giáo dục cả đức, cả trí, cả thể, cả mỹ; giáo dục cả kỹ
năng sống, thái độ ứng xử đối với tự nhiên, xã hội và với chính con người để làm việc hiệu quả.
Quan điểm lịch sử - cụ thể trong lĩnh vực giáo dục ở Việt Nam hiện nay:
Ở mỗi cấp bậc tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông sẽ được phân bổ chương trình học khác nhau, lượng
kiến thức cùng với phương pháp học tập phù hợp để thích hợp với trình độ nhận thức của mỗi đối tượng tiếp nhận.
Chương trình học mỗi năm luôn có sự thay đổi, giảm tải để phù hợp với khả năng tiếp nhận kiến thức ở mỗi lứa
tuổi, phù hợp trong từng hoàn cảnh lịch sử - cụ thể, đảm bảo cân bằng giữa việc học và thời gian nghỉ ngơi để học
sinh có thể phát triển toàn diện về nhiều mặt.
Thực trạng học sinh miền núi vùng sâu vùng xa bỏ học nhiều, nguyên nhân là do nhận thức của một bộ phận người
dân về việc học tập của con em còn hạn chế, chưa quan tâm tạo điều kiện để con em đi học. Các làng, bản có
DTTSRIN cư trú đều xa trung tâm xã và trung tâm huyện nên một số học sinh chưa khắc phục được khó khăn khi
xa nhà đi học nên đã bỏ học sau khi học xong cấp tiểu học hoặc THCS. Điều kiện kinh tế của đồng bào DTTSRIN
còn khó khăn, đa số là hộ nghèo, hộ cận nghèo; học sinh DTTSRIN cấp THCS, THPT là lao động chính trong gia
đình, nên các em phải đi làm để phụ giúp gia đình. Một số phong tục, tập quán của một số DTTSRIN còn lạc hậu
ảnh hưởng đến việc học tập của học sinh. Thấu hiểu những khó khăn các em gặp phải và với mục tiêu tạo điều
kiện phát triển về số lượng, nâng cao chất lượng giáo dục cho trẻ em, học sinh, sinh viên các DTTSRIN, Đảng và
Nhà nước ta đặc biệt quan tâm thông qua nhiều các Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, Nghị định Chính phủ.
Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách. Các chính sách cho học sinh, sinh viên vùng có điều
kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, bao gồm chính sách học bổng; miễn giảm học phí; trợ cấp xã hội, hỗ trợ
học tập; chính sách ưu tiên tuyển sinh vào đại học, cao đẳng; chính sách phát triển giáo dục đối với các dân tộc rất
ít người; chính sách tăng cường tiếng Việt cho trẻ em, học sinh vùng DTTS, thực hiện chế độ cử tuyển đang được thực hiện.
Vận dụng vấn đề hòa nhập với môi trường
Cánh cửa Đại học rộng mở là một sự khởi đầu mới mẻ, cũng là một thách thức to lớn đối với những tân sinh viên
như chúng em. Kể từ khi đặt chân lên TPHCM, một môi trường sống hoàn toàn mới so với trước đây, em có những
mục tiêu cho riêng mình: nâng cao trình độ chuyên môn, tập luyện thể chất, sinh hoạt Đoàn Hội tích cực… Tuy
nhiên, để thực hiện được những điều ấy thật sự khó khăn, khi mà những vấn đề rất thực tế trong cuộc sống bao
trùm lấy em: tiền học, tiền sinh hoạt phí, tiền nhà; sống xa gia đình, phải tự lập trong mọi việc; môi trường Đại học
mới lạ khiến sinh viên cảm thấy choáng ngợp, khó hòa nhập, bị ngắt kết nối, lạc lõng, cô đơn… Hay là nhiều thiếu
sót ở chính bản thân em: năng lực học tập còn kém, chưa kịp thích nghi với phương pháp giảng dạy mới của giảng
viên, những chương trình đào tạo mới… Chính những điều ấy đã tác động đến ý thức của em, khiến em sục sôi
một niềm tin mãnh liệt: Em sẽ vượt qua tất cả khó khăn, hòa nhập thật tốt với môi trường mới, chiến thắng chính
mình và thực hiện những mục tiêu mà em đã đề ra.
Từ việc đối mặt những khó khăn đến xác định được mục tiêu hòa nhập, em cần phải hành động. Trước hết, để hòa
nhập tốt vào môi trường học tập mới này, em cần phải tìm hiểu kĩ càng về nội quy của trường và thông tin về
trường qua việc tham gia vào các buổi sinh hoạt công dân, các diễn đàn hỏi đáp trên các trang mạng trực tuyến
chính thống của trường. Từ đó, em có thể trang bị được cho mình nhiều thông tin bổ ích về trường cũng như là
tránh khỏi việc vi phạm nội quy nhà trường. Phải tuân thủ quy định về giờ giấc ở các nơi khác nhau từ lớp học,
đến thư viện, các văn phòng khoa và cả ký túc xá.
Tiếp đến, để không phải bỡ ngỡ và lạc lõng ở đại học thì làm quen với bạn cùng lớp, cùng ngành hay cùng khoa là
một cách giúp em sớm hoà nhập với môi trường đại học. Những người bạn đồng trang lứa và cũng đều mang sự bỡ
ngỡ đặt chân vào giảng đường đại học sẽ dễ dàng thấu hiểu, đồng cảm, sẻ chia và giúp đỡ nhau trong mọi mặt đời sống.
Chưa dừng lại ở đó, để mở rộng các mối quan hệ của mình cũng như là trang bị thêm những kinh nghiệm ở các
lĩnh vực khác nhau thì việc tích cực tham gia các hoạt động tập thể và câu lạc bộ đội nhóm là điều vô cùng lý
tưởng. Nhờ vào các mối quan hệ đó mà ta có thể được tiếp thêm nhiều động lực, sức mạnh, sẻ chia và cả niềm vui
để môi trường học tập trở nên thú vị và bớt nhàm chán hơn. Những hoạt động của các câu lạc bộ, hội nhóm cũng
góp phần cải thiện cho em những kĩ năng mềm như kỹ năng giao tiếp, kỹ năng làm việc nhóm, kỹ năng quan sát và
xử lý vấn đề,… Ngoài ra, qua những hoạt động như thế, những tân sinh viên như chúng em còn có cơ hội gặp gỡ
các anh chị khoá trên – những người dày dặn kinh nghiệm có thể hỗ trợ chúng em trong quá trình hoàn thiện bản
thân. Từ đó, em tích lũy thêm nhiều kinh nghiệm, kiến thức quý báu, giao tiếp và làm việc có hiệu quả. Tin tưởng
vào năng lực của bản thân mình cũng là một phần sức mạnh để em không lùi bước trước những khó khăn, chán
nản. Và để hiện thực hóa những niềm tin và hi vọng của mình, cần phải có ý chí quyết tâm và tích cực năng động sáng tạo.
Cuối cùng, việc trau dồi tri thức nên là ưu tiên để có thể hòa nhập tốt trong môi trường sư phạm – môi trường của
những con người không chỉ giỏi giang mà luôn có chí tiến thủ. Chuyên gia tâm lý Nguyễn Hoàng Khắc Hiếu chia
sẻ phương pháp học tập thành công tại bậc đại học là mỗi sinh viên cần thực hiện đầy đủ bốn bước của quy trình:
Một là, nắm chắc mục tiêu môn học; hai là, đọc sách liên quan đến môn học, đặc biệt là đọc thêm sách viết bằng
tiếng Anh (tinh hoa văn hóa của nhân loại); ba là, chú ý lắng nghe giảng viên giảng bài, hướng dẫn, không ngần
ngại thắc mắc với giảng viên về những điều chưa hiểu; bốn là, lăn xả vào thực tế ngay khi còn ngồi trên ghế giảng
đường để trải nghiệm đan xen giữa lý thuyết và thực tiễn. Đây là phương pháp học khoa học và chủ động, giúp
sinh viên nắm chắc, chuyên sâu kiến thức và thành công trên con đường chinh phục tri thức.
Tuy vậy, ông bà ta đã nói: “Hòa nhập chứ không hòa tan”. Ta cố gắng hòa nhập với môi trường mới bằng nhiều
cách khác nhau nhưng phải hòa nhập đúng cách. Nếu cố gắng hòa nhập mà quên đi chính mình, quên mất giá trị
bản thân, sống không có chính kiến, luôn a dua, hùa theo người khác thì như vậy, ta đã “hòa tan”. Hay việc hiểu
không trọn vẹn nghĩa của “hòa nhập” : nghĩ rằng ta đã hòa vào biển người, là một phần của họ là đã đủ. Nhưng
thực ra, ta còn phải luôn phấn đấu, nỗ lực để trở nên xuất sắc, giỏi hơn bản thân của mình ngày hôm qua, không
ngừng khẳng định bản thân và vị trí của mình giữa người người vô tận, không để bản thân chỉ là một cá nhân mờ
nhạt, không có dấu ấn. Như vậy, ta mới hòa nhập đúng nghĩa, hòa nhập xuất sắc.
Sau cùng, nhờ những nỗ lực và phương hướng phát triển đúng đắn của bản thân, em dần hòa nhập môi trường mới:
tích lũy thêm nhiều kinh nghiệm, kỹ năng, tri thức, những mối quan hệ tốt đẹp giúp cuộc sống sinh viên trở nên thập phần đáng nhớ. Làm việc nhóm
Năm thứ nhất đại học là quãng thời gian mà sinh viên sẽ gặp nhiều khó khăn trong việc hòa nhập vào môi trường
mới, giờ giấc sinh hoạt, học tập sẽ khác xa so với thời cấp 3. Bởi kiến thức ở đại học nhiều và nặng, vì vậy mà cách
giảng dạy của thầy cô thường sẽ khuyến khích cho sinh viên làm việc nhóm nhiều hơn. Tuy nhiên, không phải ai
cũng cảm thấy thoải mái khi làm việc trong một tập thể, bản thân em không cảm thấy tự tin bởi nhận thấy mình còn
nhiều thiết sót như chưa có kỹ năng làm powerpoint; không tự tin khi thuyết trình trước đám đông; chưa biết cách
quản lý thời gian sao cho phù hợp; nghiên cứu, chọn lọc thông tin chưa đầy đủ, đúng với nhiệm vụ,... Chính những
điều này đã làm cho em cảm thấy áp lực, khó khăn, chán nản, nhiều lúc không đủ niềm tin rằng mình có thể hoạt
động nhóm được. Muốn phá vỡ được rào cản của bản thân, thay đổi là điều bắt buộc và cấp thiết.
Để có thể phát triển kỹ năng hoạt động nhóm, em đã có những cố gắng sau: tôn trọng quy tắc của nhóm, hoàn
thành nhiệm vụ được giao đúng hạn, điều này sẽ giúp em trở nên có trách nhiệm tập thể hơn. Bên cạnh đó, em cần
phát huy tính năng động, sáng tạo của ý thức: chủ động tìm hiểu, khai thác vấn đề, tự nghiên cứu, học kĩ năng làm
powerpoint để mở rộng vốn kiến thức, có năng lực giải quyết các bài tập, đề án của nhóm; năng nổ phát biểu ý
kiến, thân thiện trò chuyện cùng các thành viên trong nhóm để bồi dưỡng tình cảm tập thể, gắn bó với nhau, tạo
cho bản thân một môi trường thoải mái, lý thú, vừa học vừa chơi. Niềm tin cũng là một yếu tố quan trọng, tin rằng
bản thân sẽ thật sự là một mảnh ghép không thể thiếu của nhóm em sẽ nỗ lực, phát huy vai trò của bản thân. Để
thực hiện được niềm tin ấy là rèn luyện một ý chí quyết tâm bằng cách luôn trau dồi, học hỏi, không nản chí khi
gặp khó khăn; chủ động, tích cực, tìm kiếm thông tin từ nhiều nguồn khác nhau, từ đó chọn lọc ra nguồn tài liệu
uy tín, chất lượng, phù hợp với nhiệm vụ nhất
Em cũng cần phải biết khi nào mình cần sự giúp đỡ và sẵn sàng trao đổi với tập thể để các bạn cùng nhau giúp em
giải quyết vấn đề; lắng nghe ý kiến khác với ý kiến của mình; học hỏi và rút kinh nghiệm khi được nhóm góp ý;
không bảo thủ cho một quan điểm hay bác bỏ ý kiến của bất kỳ cá nhân nào, mà thay vào đó là tôn trọng ý kiến của
thành viên trong nhóm; tạo điều kiện và môi trường để tất cả các thành viên đều được sáng tạo và cất lên tiếng nói của mình.
Ngoài ra, trưởng nhóm cần phân công công việc phù hợp với khả năng của từng người, điều này sẽ đảm bảo cho
nhiệm vụ được hoàn thành hiệu quả hơn, đưa ra thời hạn nộp bài phù hợp, các thành viên trong nhóm có thể giúp
đỡ, chia sẻ, nhắc nhở nhau hoàn thành nhiệm vụ đúng hạn, không những vậy, bản thân mỗi người cũng phải có
trách nhiệm đối với tập thể, với nhiệm vụ của nhóm.
Làm việc nhóm là thứ mà tất cả sinh viên đều phải đối mặt trong suốt quá trình học đại học, nhưng đó có phải là
khó khăn hay không là do chính bản thân chúng ta quyết định. Không chỉ mỗi cá nhân cần cố gắng, mà là cả tập
thể cùng cố gắng, phải có sự đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau trong suốt quá trình thì mới tạo ra được sản phẩm hoàn thiện nhất.
2.1. Vận dụng quan điểm toàn diện trong cuộc sống, học tập của bản thân 2.1.1. Học tập
Ngày nay, bản thân là sinh viên dễ dàng nhanh chóng nắm bắt được các kiến thức thông qua nhiều nơi như học tại
lớp, qua lớp học trực tuyến, qua giao tiếp, … nhưng ứng với việc học là phải đi đôi với hành. “Học” là quá trình
đạt được sự hiểu biết, kiến thức, hành vi, kỹ năng, giá trị, thái độ và sở thích mới. Khả năng học hỏi được thấy ở
con người, động vật và một số máy móc; cũng có bằng chứng cho một số loại học tập ở một số loài thực vật.
“Hành” hiểu là thực hành là quá trình vận dụng, áp dụng mọi kiến thức bản thân có sẵn hay học hỏi được, quá trình
các bạn làm lại, thực hành lại những gì đã cũ bằng những hành động cụ thể và đem lại kết quả thực tế. Hành còn
hiểu là đưa lý thuyết thực tế vào thực hành, thí nghiệm một cách khoa học nhằm đưa ra những kết luận chính xác
nhất. Học tập còn xuất phát từ trong ý nghĩ, trong nhận thức và thôi thúc con người tự nguyện thực hiện hành vi
đúng đắn trong đời sống thường ngày; cần phải kiên trì, cố gắng duy trì vì mục tiêu, lý tưởng sống cao đẹp và trong
sáng. Như vậy, việc học phải đi đôi với hành là mối liên hệ cơ bản, vì khi học mà không có hành thì việc học sẽ trở
nên vô nghĩa không có thực hành, không áp dụng thực tế. Học chỉ cho biết mà không dùng để làm gì. Còn hành mà
không có học thì bản thân chưa có cái nền vững chắc để tiếp tục thực hành, chẳng hạn khi bản thân học Cơ sở tự
nhiên ở Tiểu học, giáo dục học ở Tiểu học, … phải có cái kiến thức và nền vững chắc thì mới có thể thực hành
giảng dạy tốt được. Có được vừa học và vừa hành sẽ thể hiện thái độ, tinh thần, trách nhiệm trong công việc và
lòng tự trọng bản thân.
2.1.2. Đánh giá con người Cấp 3, bản thân nghĩ rằng những bạn xinh xắn, ưa nhìn thì sẽ có tấm lòng cởi mở và dễ
thương, còn với những bạn ít nói, chưa được xinh đẹp thì sẽ là người có tấm lòng ác độc và bản thân sẽ không
thiện chí khi nói chuyện và làm bạn với những bạn đó. Cách đánh giá như vậy là phiến diện, chủ quan trái với quan
điểm toàn diện. Dần dần thời gian, làm bạn và chơi cùng thì thấy được rằng những bạn xinh đẹp, thân thiện chưa
chắc là tốt còn những bạn ít nói, ngại giao tiếp thì lại là những bạn tốt bụng, hay chia sẽ, cùng nhau vượt qua khó
khăn, hoạn nạn. Sự tự nhận thức là bước đầu trong quá trình tạo ra một cuộc sống. Bên cạnh đó, sẽ có khả năng
nhận biết những suy nghĩ và cảm xúc của mình trong quá trình nhìn nhận đánh giá con người. Qua thời gian, thì
mới hiểu rõ được bản chất của sự việc đó, muốn biết và nhìn rõ bản chất sự việc đánh giá con người nên quan sát
họ, tiếp xúc đủ lâu. Từ đó, tránh mắc sai lầm trong việc đánh giá con người.
2.1.3. Rèn luyện đạo đức Việc rèn luyện đạo đức cho sinh viên cũng được gắn liền với việc giáo dục pháp luật.
Sinh viên ngoài việc nắm bắt những nội qui, qui chế nhà trường còn cần có những hiểu biết cơ bản về pháp luật, về
an toàn giao thông, phòng chống ma tuý và các tệ nạn xã hội… Rèn luyện cho sinh viên đạo đức và pháp luật có
mối quan hệ chặt chẽ với nhau, giúp họ vừa có ý thức tự giác, chủ động vừa nhận thức được những giới hạn cụ thể
trong thái độ và hành vi của mình. Rèn luyện đạo đức cho sinh viên không thể chỉ ở việc tuân thủ thực hiện những
qui tắc, chuẩn mực cứng nhắc. Có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc định hướng, giáo dục những kỹ năng
“mềm” để sinh viên có thể xử lý các tình huống nảy sinh trong cuộc sống một cách tích cực nhất. Để có thể đạt
được mục tiêu như vậy thì nhà trường phải tạo môi trường cho sinh viên sinh hoạt, rèn luyện, phát triển toàn diện,
có sức khoẻ tốt và đời sống tinh thần phong phú lành mạnh. Bên cạnh đó, chú trọng bồi dưỡng thể lực tạo tiền đề
vật chất để sinh viên có thể hoàn thành tốt những nhiệm vụ khác như học tập, nghiên cứu và tham gia các hoạt
động xã hội. Như vậy, có thể thấy rằng việc rèn luyện đạo đức và giáo dục pháp luật của đối với sinh viên là rất quan trọng.
2.2. Vận dụng quan điểm lịch sử - cụ thể trong cuộc sống, học tập của bản thân 2.2.1. Quan hệ bạn bè
Cần ứng xử, hành động sao cho hợp lí. Đối với bạn bè thân thiết, bản thân cần có quan hê tốt và bền vững đòi hỏi
bạn phải biết lắng nghe. Lắng nghe cũng là mô ‚ t cách giao ‚ tiếp văn minh và văn hóa. Lắng nghe là môt chuyê ‚ n
nhưng để hiểu được ý của người ‚ nói và bạn lắng nghe được những gì từ họ thì lại là môt chă ‚ ng đường dài. Đối
với bạn ‚ bè bình thường, cần quan tâm, giúp đỡ những người yếu thế hơn mình. Đối với bạn bè chưa tốt thì cần
phải bình tĩnh, nói chuyện hợp lí, cần tâm sự để giải bày mọi khúc mắc.
2.2.2. Hoạt động phong trào Trong hoàn cảnh cụ thể, các phong trào hành động cách mạng của Đoàn là để góp
phần trực tiếp vào quá trình giáo dục, đào tạo thanh niên thành những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa
“hồng”, vừa “chuyên” như lời căn dặn của Bác Hồ kính yêu. Phong trào hành động cách mạng của Đoàn đã trở
thành đặc trưng của tuổi trẻ, là phương thức hữu hiệu để Đoàn thực hiện chức năng “trường học xã hội chủ nghĩa
của thanh niên”, mở rộng mặt trận đoàn kết, tập hợp thanh niên, thu hút thanh niên rèn luyện, phấn đấu vì mục tiêu,
lý tưởng của Đảng là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh. Và qua các phong trào hành động cách mạng, thanh niên trở thành chủ thể tích cực của tích cực thi đua học
tập, đồng thời, thanh niên được chăm lo, ngày càng trưởng thành, phát triển toàn diện hơn, ngày càng hiểu rõ hơn, tin tưởng.
2.2.3. Xây dựng lối sống văn hóa Lối sống văn hoá không chỉ là một bộ phận cấu thành của nền văn hóa dân tộc
mà còn có tác động sâu sắc đến các lĩnh vực khác của đời sống xã hội. Xây dựng lối sống văn hóa nói chung, là
một nhiệm vụ cách mạng quan trọng, là sự nghiệp lâu dài, gian khổ, đòi hỏi phải có quyết tâm cao của toàn xã hội
và của sinh viên. Đối với vấn đề xây dựng lối sống văn hóa, lối sống có văn hóa là một bộ phận hợp thành trong
xây dựng nền văn hóa dân tộc đã được Đảng ta quan tâm từ rất sớm, ngay cả khi chúng ta chưa giành được độc lập
dân tộc. Đối với bản thân là sinh viên được đặt ở trung tâm của sự nghiệp xây dựng, phát triển văn hóa. Quan niệm
trên về vấn đề xây dựng lối sống văn hóa, sinh viên bản thân cần phải hiểu lối sống là các chiều cạnh chủ quan của
văn hóa, là quá trình hiện thực hóa các giá trị văn hóa thông qua hoạt động sống của con người. Lối sống bao gồm
tất cả những hoạt động sống và phương thức tiến hành các hoạt động sống được một bộ phận lớn hoặc toàn thể
nhóm hay cộng đồng người chấp nhận và thực hành trong một khoảng thời gian tương đối ổn định, đặt trong mối
tương tác biện chứng của các điều kiện sống thực tồn và trong các mối liên hệ lịch sử của chúng. Là một thành tố
của văn hóa, một phương thức tồn tại và biểu hiện của văn hóa, lối sống luôn có liên quan mật thiết với văn hóa
nhưng nó không hoàn toàn đồng nhất với văn hóa và cũng không đồng nhất với hoạt động sống. Giữa lối sống và
văn hóa chỉ là mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng, giữa cái đặc thù và cái phổ biến. Lối sống hình thành và thể
hiện ở mọi lĩnh vực của cuộc sống, dưới hai hình thức: lối sống cá nhân và lối sống tập thể. Ở mỗi từng vấn đề
được nhắc đến sẽ có phát huy vai trò của nó.
2.2.4. Nghiên cứu khoa học Mỗi sinh viên thi tham gia nghiên cứu khoa học đều đòi hỏi phải có nền tảng kiến thức
cơ bản, nhưng không chỉ dừng lại ở các kiến thức đó, trong quá trình nghiên cứu còn đòi hỏi người nghiên cứu
không ngừng bổ sung, hoàn thiện kiến thức của mình. Do đó việc tìm kiếm và đọc thêm các tài liệu bổ trợ là cần
thiết. Điều này tạo cho sinh viên kỹ năng nghiên cứu và kiến thức phục vụ cho đề tài của mình sẽ tăng lên. Đồng
thời, có cơ hội được làm việc cùng với giảng viên hướng dẫn nên sẽ được định hướng và chỉ dẫn thấu đáo hơn đối
với các vấn đề nghiên cứu. Khi tham gia nghiên cứu khoa học, sinh viên sẽ được tiếp cận với những vấn đề cụ thể,
có ý thức đào sâu suy nghĩ và tập cách tư duy để tự nghiên cứu giải quyết một vấn đề. Trong quá trình thực hiện đề
tài sinh viên sẽ nảy sinh ra nhiều hướng giải quyết khác nhau. Quá trình này sẽ giúp sinh viên rèn luyện tư duy độc
lập, biết bảo vệ lập trường khoa học của mình. Đối với đề tài khoa học do một nhóm từ hai sinh viên trở lên cùng
thực hiện thì việc cùng thực hiện một đề tài nghiên cứu cũng giúp sinh viên phát triển các kỹ năng làm việc theo
nhóm với sự chia sẻ ý thức và trách nhiệm, thêm vào đó là biết phân công công việc phù hợp với khả năng và sở
trường của từng thành viên. Nghiên cứu khoa học tạo môi trường để mở rộng mối quan hệ với bạn bè, anh chị, thầy
cô trong Khoa, Trường và các tổ chức, cơ quan bên ngoài xã hội. Nắm trong tay những mối quan hệ tốt đẹp đó
cũng là một lợi thế, để sinh viên có thể học hỏi, mở mang tầm kiến thức đa đạng và phong phú hơn… Điều đó sẽ
tạo thuận lợi cho sinh viên khi xin việc sau này.
III/ Vai trò của Nhà nước trong phát triển kinh tế nước ta hiện nay.
-Trong các yếu tố cấu thành nên kiến trúc thượng tầng, nhà nước giữ vai trò đặc biệt quan trọng và có tác dụng
to lớn đối với cơ sở hạ tầng vì, nó là một lượng vật chất tập trung sức mạnh kinh tế và chính trị của giai cấp thống
trị . Nhà nước không chỉ dựa trên hệ tưởng, mà còn dựa trên những hình thức nhất định của việc kiểm soát xã hội,
sử dụng bạo lực, bao gồm các yếu tố vật chất: quân đội, cảnh sát, toà án, nhà tù… để tăng cường sức mạnh kinh tế
của giai cấp thống trị, củng cố địa vị của quan hệ sản xuất thống trị.
-Trong xã hội có giai cấp, các giai cấp đối kháng đấu tranh với nhau giành chính quyền về tay mình, cũng
chính là tạo cho mình sức mạnh kinh tế. Sử dụng quyền lực nhà nước, giai cấp thống trị sẽ không ngừng mở rộng
ảnh hưởng kinh tế trên toàn xã hội. Kinh tế vững mạnh làm cho nhà nước được tăng cường. Nhà nước được tăng
cường lại tạo thêm phương tiện vật chất để củng cố vững chắc hơn địa vị kinh tế và xã hội của giai cấp thống trị.
cứ như thế, sự tác động qua lại biện chứng giữa kiến trúc thượng tầng và cơ sở hạ tầng đưa lại sự phát triển hợp
quy luật của kinh tế và chính trị. Ở đây, nhà nước là phương tiện vật chất, có sức mạnh kinh tế, còn kinh tế là mục
đích của chính trị, điều này được chứng minh qua sự ra đời và sự tồn tại của nhà nước khác nhau.
VD: Điều hành của Đảng, nhà nước Việt Nam là ví dụ minh hoạ rõ nét cho sự tác động trở lại của kiến trúc thượng
tầng đối với cơ sở hạ tầng. Cụ thể hơn, trong phòng chống dịch CoVid19, Nhà nước đã chỉ đạo các chuyến bay
giải cứu người Việt tại nước ngoài về nước, điều trị các ca nhiễm bệnh. Bên cạnh đó, thực hiện giãn cách, cách ly
xã hội để phòng ngừa. Nhà nước còn ban hành nhiều chỉ đạo về xuất nhập cảnh, xuất nhập khẩu vật tư ngành y tế, xuất khẩu gạo...vv