














Preview text:
VÙNG VĂN HÓA TÂY NGUYÊN
A - ĐẶC ĐIỂM CỦA VÙNG VĂN HÓA TÂY NGUYÊN
I – VĂN HÓA VẬT CHẤT TÂY NGUYÊN 1. Nhà ở:
-Nhà Rông, nhà sàn ở Tây Nguyên là di sản văn hóa gắn liền với lịch sử
cư trú lâu đời của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên. Là một trong
những nét đặc trưng văn hóa nổi bật của đồng bào dân tộc cư ngụ tại đây.
-Loại hình nhà văn hóa này thường được bắt gặp tại các buôn làng người
dân tộc Ba Na, Gia Rai ở phía Bắc vùng Tây Nguyên. Đặc biệt là ở tỉnh Kon Tum và Gia Lai. a. Nhà rông:
-Đặc điểm chung nhà Rông
+Sử dụng vật liệu chính là tre, lồ ô, cỏ tranh lợp nhà,…
+Nhà được xây dựng trên những cây cột có kích thước lớn từ những cây
đại thụ, thẳng đều và chắc chắn.
+Địa điểm xây dựng là khoảng đất rộng nhất ở trung tâm của buôn làng.
+Cầu thang lên xuống của nhà Rông thường được làm bằng các cây gỗ
lớn. Gồm có 7 hoặc 9 bậc, mang dáng bầu vú mẹ tiêu biểu cho mẫu hệ Tây nguyên.
-Chức năng của nhà Rông Tây Nguyên
+Là nơi sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng của buôn làng
+Là trụ sở của bộ máy quản trị của buôn làng
+Là trung tâm chỉ đạo các hoạt động sinh hoạt sản xuất
+Là trung tâm chỉ huy chiến đấu của thời xưa
+Là nơi để thực hiện các sự kiện quan trọng của một đời người
-Ý nghĩa của nhà Rông Tây Nguyên
+Là nơi ẩn chứa đựng nét đẹp văn hóa tâm linh bền vững và
trường tồn của người dân Tây Nguyên.
+Là nơi thể hiện lòng đoàn kết dân tộc. Là sự gắn bó keo sơn
của người dân Tây Nguyên nói riêng và cộng đồng người Việt nói chung.
+Gắn liền với nét đẹp văn hóa, tinh thần và đời sống sinh hoạt
của một cộng đồng dân cư. Mang đậm sắc màu Tây Nguyên.
+Là di sản văn hóa quý báu, được xem là trái tim của dân làng.
Là nơi cất giữ sử thi và huyền thoại dân tộc. b. Nhà sàn:
-Do điều kiện môi trường khắc nghiệt lắm mưa nhiều gió ở Tây Nguyên,
nhà sàn của đồng bào thường được tạo ra theo hướng Bắc – Nam để
không đón gió mát và bị nắng chiều hắt vào.
-Hầu hết nhà được xây dựng bởi người dân trong làng, vật liệu tạo nên
nhà sàn đều là vật liệu tự nhiên đơn sơ như tre, nứa, tranh và dây mây…
-Các ngôi nhà của Tây Nguyên đều mát mẻ vào mùa hè và ấm áp vào
mùa đông, bởi đặc tính của gỗ rừng tự nhiên mang lại. Đặc biệt là khi
thiết kế nhà sàn họ đã biết cách khéo léo tận dụng những đặc điểm của
thiên nhiên để bảo vệ mình. Việc sử dụng gỗ làm nhà sàn là một trong
những sáng tạo của đồng bào Tây Nguyên.
-Do đặc điểm chung là chung sống nhiều thế hệ nên các căn nhà sàn Tây
Nguyên thường được thiết kế từ 3-7 gian, tùy theo số lượng gia đình.
Kích thước: Rộng 5,6m đến 7m, thông thường 3m một gian, tùy theo số lượng gian. 2. Ẩm thực:
a. Bữa ăn thường ngày của người dân Tây Nguyên
+Từ những món ăn nhẹ nhàng của Đà Lạt như: Bánh căn, bánh
xèo, canh atiso hầm giò heo; thịt nướng… đến những món ăn dân dã của
đồng bào dân tộc như: Gỏi trứng kiến, heo ướp lá mắc mật, cá lăng om lá
khổ qua, canh trứng kiến lá giang (Đắk Lắk, Gia Lai). Ngày thường,
đồng bào Tây Nguyên ăn cơm gạo tẻ với thức ăn nấu từ các loại rau rừng,
mộc nhĩ, các loại củ, măng le. Thỉnh thoảng mới kiếm được con cá dưới
sông, con thú từ trong rừng để cải thiện thêm bữa ăn. b. Rượu cần
+Nhắc đến ẩm thực đặc sắc của Tây Nguyên, đặc sản phải nói
đầu tiên đó chính là rượu cần. Đồng bào Tây Nguyên thường có nghi
thức uống rượu cần trong các dịp lễ Tết. Việc uống rượu cần trở thành
một nét đẹp trong văn hóa của người Tây Nguyên.
+Rượu cần được làm từ nhiều nguyên liệu như: gạo, mì, bắp cho
đến bo bo, kê,… đều là những sản vật do chính người đồng bào ở đây nuôi trồng và thu hoạch. c.Cơm lam
+Đối với người dân Tây Nguyên nói chung và người Mạ trên địa
bàn tỉnh Đắk Nông nói riêng, cơm lam là món ăn phổ biến và không thể
thiếu trong các dịp lễ, hội.
+Cách thức chế biến cơm lam: họ vào rừng chặt những ống lồ ô
còn non, giữ lại mấu ở một đầu ống rồi cho gạo nếp và nước vào, xong
nút lại đem đốt bằng lửa và than cho thật khéo. Những ống cơm lam,
ngoài vỏ tuy đen đúa, lem nhem nhưng khi chẻ bỏ lớp vỏ ấy đi thì lộ ra
lớp cơm nếp thơm ngon, hấp dẫn lạ thường. Hương vị nếp quyện với
hương thơm của tre tươi qua lửa làm cho cơm lam có một hương vị đặc
biệt, hơn hẳn cơm nếp nấu trong chõ, trong nồi. 3. Trang phục:
-Trang phục dân tộc của người dân Tây Nguyên rất đa dạng và nhiều
màu sắc. Mỗi dân tộc thường có một màu sắc trang phục khác nhau. Tuy
nhiên, điểm giống của những bộ trang phục chính là kiểu dáng.
-Nét chung nhất trong trang phục truyền thống của các dân tộc Tây
Nguyên là đàn ông đóng khố, mặc áo chui đầu hoặc áo choàng quấn, phụ
nữ mặc áo, váy tấm. . .
- Trang phục của họ thường sử dụng hai gam màu chủ đạo là đỏ, đen.
+Các dân tộc Bắc Tây Nguyên kết hợp thêm màu xanh đậm và trắng
+Các dân tộc Nam Tây Nguyên kết hợp với dệt, thêu các loại hoa văn
-Tuy vậy, trang phục, cách ăn mặc của các dân tộc cũng có những nét
khác nhau ở mỗi tộc người. Trang phục của người Xơ Đăng chủ đạo là
màu đen chàm; của người Giẻ Triêng là màu đen, xanh; của người Gia
Rai chủ đạo là màu trắng hoặc màu chàm.
- Nguyên liệu để làm nên những bộ đồ thổ cẩm đặc sắc của người Tây
Nguyên: nguyên liệu dệt được lấy từ cây bông trong tự nhiên.
4. Danh lam thắng cảnh:
-Những danh lam thắng cảnh nổi tiếng trong và ngoài Thành phố Đà lạt
như thác Đămbơri, thác Premli thơ mộng với hồ than thở, thung lung
tình yêu. . giá trị văn hóa hữu hình ở Tây nguyên còn phải kể đến vườn
Quốc gia Yooc Đôn, Nom Ka, cao nguyên Konplong, khu rừng nguyên
sinh Chư Mô Ray Đakuy, núi Ngọc Linh với những chim thú, cây rừng
hiếm quý, với thác Trinh Nữ mộng mơ, thác Yali hùng vĩ, thác Drây Sap,
hồ Lắk, Dắk Tré, Kon Lak còn in đậm nét hoang dã.
II – VĂN HÓA TINH THẦN TÂY NGUYÊN 1. Lễ hội:
• Lễ hội là một hình thái sinh hoạt tinh thần mang đậm đà bản sắc dân tộc Tây
Nguyên, thường được tổ chức sau những ngày lao động mệt nhọc.
• Giá trị văn hóa tinh thần trong lễ hội của người Tây Nguyên được thể hiện trong
các lễ hội nông nghiệp, lễ hội tín ngưỡng, lễ hội lịch sử
➢ Lễ hội nông nghiệp: một hoạt động tín ngưỡng của cư dân nông
nghiệp thể hiện khát vọng thoát khỏi thiên tai lũ lụt, cầu mong mưa
thuận gió hòa, cho mùa màng tốt tươi.
➢ lễ hội tín ngưỡng: là hình thức hoạt động tín ngưỡng có tổ chức, thể
hiện sự tôn thờ, tưởng niệm và tôn vinh những người có công với
nước, với cộng đồng, thờ cúng tổ tiên, biểu tượng có tính truyền thống
và các hoạt động tín ngưỡng dân gian khác tiêu biểu cho những giá
trị tốt đẹp về lịch sử, văn hóa, đạo đức xã hội.
➢ Lễ hội lịch sử, cách mạng là lễ hội được tổ chức nhằm tôn vinh những
danh nhân, sự kiện lịch sử, cách mạng. Loại hình lễ hội này ghi lại
những dấu ấn lịch sử, các sự kiện chính trị quan trọng của đất nước
và dân tộc, thể hiện lòng yêu nước, ý chí tự cường của con người Việt Nam.
• Một số lễ hội tiêu biểu có thể kể đến:
- Lễ hội đâm trâu: được tổ chức hàng năm từ tháng 12 đến tháng 3 âm lịch,
khi tất cả các mùa vụ trong năm đều đã thu hoạch xong. Người Ba Na gọi
là x'trăng, người Cor gọi là xa-ố-piêu, người Gia Lai gọi là mnăm thu
người Lạch gọi là Pơru. Tuy mỗi dân tộc có cách gọi khác nhau nhưng ý
nghĩa của lễ hội đâm trâu là nhằm mục đích tế thần linh hoặc những người
đã có công chủ trì thành lập buôn làng, ăn mừng chiến thắng, ăn mừng mùa
màng bội thu hay ăn mừng các sự kiện quan trọng khác.
⇨ Những tộc người có lễ hội đâm trâu: Người Ba Na, người Cor,
người Lạch, người Gia Lai, người Ê Đê,. .
- Lễ hội cồng chiêng Tây Nguyên: Cồng chiêng Tây Nguyên một loại hình
văn hóa trải dài suốt 5 tỉnh: Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông, Lâm
Đồng. Chủ nhân của loại hình văn hóa đặc sắc này là các dân tộc Tây
Nguyên: Bana, Xê Đăng, Mnông, Cơ Ho, Rơmăm, Ê Đê, Gia Rai. Lễ hội
Cồng chiêng là một lễ hội được tổ chức hằng năm và luân phiên giữa các
tỉnh có văn hóa Cồng chiên (Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông, Lâm
Đồng) nhằm quảng bá hình ảnh Không gian văn hóa Cồng Chiêng Tây
Nguyên đã được UNESCO công nhận là di sản truyền khẩu và phi vật thể
nhân loại. Tại đây, những lễ hội dân gian đặc sắc của các dân tộc Tây
Nguyên sẽ được dựng lại, nhằm kêu gọi cộng đồng cùng chung sức bảo tồn
và phát huy những giá trị văn hóa của đồng bào các dân tộc.
❖ Lễ hội Cồng chiêng Tây Nguyên không chỉ đơn thuần là một hoạt
động văn hóa mà còn mang ý nghĩa tâm linh rất lớn đối với người dân Tây Nguyên.
- Lễ hội bỏ mả: Lễ bỏ mả hay hội Pơ-thi là một lễ hội lớn nhất và có ý
nghĩa quan trọng trong đời sống tinh thần của các dân tộc Tây Nguyên
như: Bahnar, Ê đê, Jarai. Người chết từ một năm trở lên (có khi 3 đến 5
năm) sẽ được làm lễ bỏ mả. Theo quan niệm của các dân tộc này thì sau
khi chết, linh hồn vẫn còn quanh quất đâu đó, giữa người chết và người
sống vẫn còn mối quan hệ ràng buộc, do vậy hàng ngày người sống vẫn ra
thăm mả, quét dọn sạch sẽ và mang cơm nước cho người đã khuất. Chỉ sau
khi làm lễ bỏ mả thì mối quan hệ ràng buộc này mới chấm dứt, người chết
chờ đầu thai, còn người sống thì yên tâm lo cho cuộc sống của mình. Vì ý
nghĩa này, lễ bỏ mả là lễ hội lớn nhất, vui nhất trong năm
- Hội đua voi: thường diễn ra vào mùa xuân, trên một dải đất rộng, dài hay
một khu rừng, cụ thể hơn vào dip tháng 3 âm lịch, đó là tháng đẹp nhất
trong năm,Là Tháng của những con ong rừng đi lấy mật và cũng là thời
điểm bắt đầu làm nương rẫy. ội Đua Voi nhằm tôn vinh tinh thần thượng
võ và tài nghệ thuần dưỡng voi của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên.
- Lễ mừng cơm mới: đây là một lễ hội độc đáo được tổ chức vào mùa xuân,
còn được gọi là Tết cơm mới (hay Tết hạ nguyên). Mục đích để người dân
bày tỏ lòng cảm tạ, biết ơn các vị thần linh, trời đất đã cho một bụ mùa bội thu, đầy ắp gạo lúa.
- Lễ cúng bến nước: Là một trong những hình thức sinh hoạt văn hóa cộng
đồng mang nhiều ý nghía tích cực trong đời sống tâm linh của đồng bào
dân tộc Ê đê. Với người dân tộc Ê đê, bến nước cũng có thần linh cư ngụ
và cai quản. Do vậy, theo truyền thống, sau khi mùa màng kết thúc, trước
khi bước vào vụ sản xuất mới, người Ê đê thường làm lễ cúng bến nước để
tạ ơn các thần đã cho mưa thuận gió hòa, đem lại nhiều may mắn cho
người dân. Ngoài ý nghĩa tâm linh, đây còn là biểu hiện sự coi trọng nguồn
nước – sự sống của người Ê đê.
2. Tiếng nói và ngôn ngữ:
• Tiếng nói của đồng bào Tây Nguyên thuộc hai nhóm ngôn ngữ khác nhau :
Nam Đảo và Môn – Khơ Me. Cư dân thuộc ngôn ngữ Môn-Khơme có:
M’nông, Bana, Xê Đăng, Hrê, Co, Bru-Vân Kiều, Giẻ Triêng, Cơ Ho, Mạ, Chơ
Ro, Khơme… Cư dân thuộc ngôn ngữ Nam đảo có: Êđê, Giarai, Chăm, Chu Ru, Ra Glai…
• Riêng chữ viết của các dân tộc bản địa ở Dak Lak: Êđê, M’nông, Gia Rai đã
được ra đời vào trước những năm 20 của thế kỷ 20, do các nhà truyền giáo của
người Pháp đã dựa vào bộ chữ La tinh để xây dựng nên chữ viết của các dân
tộc bản địa Tây Nguyên.
❖ Phân biệt tiếng nói và ngôn ngữ:
➢ Tiếng nói là sản phẩm của hoạt động nói năng của con người, nhằm mục
đích biểu hiện tư duy, giao tiếp, định hướng hành động. Như vậy, tiếng
nói là những gì do một cá nhân phát âm để bày tỏ và trao đổi tư tưởng.
➢ Ngôn ngữ là phạm trù rộng hơn, trong đó có tiếng nói, chữ viết, dấu hiệu,
cử chỉ…Cụ thể hơn, ngôn ngữ là một hệ thống những âm, những từ được
kết hợp với nhau theo những quy tắc nhất định, được cộng đồng xã hội
thừa nhận, dùng làm phương tiện thể hiện tư duy và giao tiếp giữa các
thành viên trong cộng đồng người đó. Ngoài ra, nó còn là phương tiện để
truyền đạt các giá trị văn hoá - lịch sử từ thế hệ này sang thế hệ khác.
⇨ Chất liệu để tạo nên tiếng nói là ngôn ngữ. Ngôn ngữ là phương tiện giao
tiếp ở dạng khả năng tiềm tàng, còn tiếng nói là phương tiện giao tiếp ở
dạng hiện thực hoá, tức là ở dạng hoạt động, gắn liền với những nội dung
cụ thể… Ngôn ngữ và lời nói thống nhất nhưng không đồng nhất
3. Tôn giáo và tín ngưỡng:
• Tín ngưỡng của người Tây Nguyên là tín ngưỡng đa thần. Các thần có tên
gọi chung là Giàng. Họ không thờ cúng tổ tiên mà coi trọng các vị thần tự
nhiên như: thần nhà( Yàng Seng), thần làng( Yàng Alabôn), thần
nước( Yàng Pênla) Đồng bào quan niệm đó là những vị thần gần gũi với
người dân, giúp người dân có nhà ở, bảo vệ mùa màng, làng mạc Trong
thế giới tinh thần của cư dân bản địa, Yàng là một vị thân có mọi quyền lực
chi phối đến con người, là nơi trừng phạt cũng như làm phúc cho bất kỳ một người nào.
• Hiện nay, bên cạnh các loại hình tín ngưỡng đa thần truyền thống, ở Tây
Nguyên còn có sự hiện diện của các tôn giáo như Công giáo, Tin lành, Phật
giáo, Cao Đài và một số hiện tượng tôn giáo mới. Công giáo hiện có
391.385 tín đồ(1) là người dân tộc Ba Na, Gia Rai, Xơ Đăng, Ê Đê, Mnông,
Cơ Ho, Mạ, Chu Ru. Tin lành có 563.556 tín đồ(2) ở các dân tộc Ê Đê,
Mnông, Gia Rai, Chơ Ro, Ba Na, Chu Ru, Giẻ Triêng. Phật giáo có 14.716
tín đồ(3) trong các dân tộc Gia Rai, Ba Na, Xơ Đăng, Ê Đê, Mnông, Chơ
Ro, Mạ, Cơ Ho. Đạo Cao Đài có khoảng 100 tín đồ người dân tộc thiểu số.
Ngoài ra, còn có sự xuất hiện của nhiều hiện tượng tôn giáo mới như: Hà
Mòn, Pơ khắp Brâu, Amí Sara, Canh tân Đặc sủng, Cây Thập giá Chúa Jêsu
Krist, Giáo hội Tin lành Đấng Christ Việt Nam,. .
4. Phong tục, luật tục:
• Mỗi tộc người Tây Nguyên đều có những phong tục riêng độc đáo, luật tục có
sức mạnh ghê gớm trong việc chi phối sinh hoạt. Luật tục đề cập tới nhiều vấn
đề khác nhau trong đời sống tộc người từ môi trường tự nhiên, quan hệ sản xuất
và sở hữu, tổ chức và các quan hệ xã hội, phong tục tập quán, hôn nhân và gia đình…
• Luật tục của các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên với nhiều tên gọi khác nhau
như Phạtkđi hay Biđuê của người Ê Đê, Phạtkđuôi của người M Nông,
Tơlơidjuat hay Tơlơiphian của người Gia Rai, Ađatmuca của người Ra Glai,
Dâytơrônkđi của người Mạ, Nri của người S Rê… được coi là sự biểu hiện thái
độ ứng xử của con người với môi trường tự nhiên và cộng đồng xã hội.
• Một số luật tục của các dân tộc Tây Nguyên :
o Luật tục với vấn đề quản lý, bảo vệ phát triển rừng và môi trường:
Điều 231 của luật tục Êđê quy định: “Đất đai, sông suối, cây rừng là cái
nong, cái nia, cái lưng của ông bà. Ông bà là người giữ cái hang, trông
coi rừng, trông coi cây K’tơng, cây Kdjar”, kẻ xâm lấn rừng và đất rừng
của người khác nhất định phải bị đưa ra xét xử.
Luật tục Gia Rai cũng quy định:“Đất đai tổ tiên để lại. Nếu bán đất cũng như bán ông bà”.
o Đối với các quan hệ hôn nhân và gia đình, phát huy truyền thống gia đình:
Luật tục Êđê ở Điều 95 về việc đính hôn và từ hôn quy định rõ không có
sự cưỡng ép: “Trâu bò không ai ép thừng/ trai gái không ai ép duyên/
Nếu trai gái ưng nhau tự họ sẽ cầm lấy vòng”.
o Trong luật tục của các DTTS ở Tây Nguyên cũng có nhiều nội dung
thể hiện sự quan tâm đối với trẻ em:
Chúng còn nhỏ còn bé; Anh chị bỏ rơi nó; Anh chị không thương chúng;
Chúng nó đâu phải là dê con, là bò con mà chỉ biết ăn cỏ; Vì sao anh
chị lại đuổi chúng ra ngoài đường…(Luật tục Gia Rai). 5. Nghệ thuật: ❖ Âm nhạc
• Nhạc khí đặc thù của các dân tộc Tây Nguyên là cồng chiêng. Trong các
lễ hội ở Tây Nguyên hay trong các nghi lễ của từng gia đình đều không
thể thiếu tiếng cồng chiêng. Tiếng cồng chiêng xuyên suốt cả đời người,
là linh hồn là máu thịt của các dân tộc ở đây. Ngày 25-11-2005 cồng
chiêng Tây Nguyên được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới
• Ngoài ra không thể không kể đến các nhạc cụ hơi như Đinh Duk, nhạc
cụ tự thân vang như T’rưng, nhạc cụ dây như đàn Brô hay các nhạc cụ
màng rung gồm trống Sơgơr, trống Pơ Nông,. .
❖ Kiến trúc: kiến trúc nhà mồ
• Nhà mồ là sản phầm kết tinh của nhiều loại hình nghệ thuật , là tác
phầm nghệ thuật tổng hợp, nó là kiến trúc, là điêu khắc, là hội họa, là trang trí
• Theo quan niệm của người Tây Nguyên chết không phải là hết mà là sự
tiếp tục của cuộc sống ở một dạng khác để rồi sẽ trở lại làm người cho
nên nhà mồ cùng với lễ hội bỏ mỏ họp thành biều tượng đề cao sự sống
bất diệt của con người chứ không phải đền đài, miếu mạo để thờ tự
người chết hay lăng tẩm để vĩnh viễn hóa cái chết của một người như các dân tộc khác. ❖ Hội họa, trang trí:
• Hoa văn trang trí: hoa văn trên đồ đan lát(gùi, bồ), hoa văn vẽ, khắc
thậm chí đục thủng trên các bộ phận kiến trúc và hiện vật nghi lễ (ở nhà
chung của làng, trên cột đâm trâu, cột lễ nhà mồ,. .) ❖ Văn chương
• Văn học dân gian của các dân tộc Tây Nguyên phong phú và độc đáo.
Dân tộc nào cũng có thần thoại, cổ tích, những làn điệu dân ca. . Đặc biệt
vùng cao nguyên này rất giàu sử thi và luật tục, thể hiện dưới dạng văn
vần và lưu truyền bằng hình thức truyền khẩu. Đặc điểm sử thi Tây
Nguyên là chất anh hùng ca thể hiện rất mãnh liêt, như chàng Đăm San
mà dám nghĩ đến việc bắt nữ thần mặt trời về làm vợ. Nhiều dân tộc Tây
Nguyên có tục kể sư thi cho con cháu nghe : người Ê Đê có Khan, người
Ba Na có Hmon, người Gia Rai có Hri
• Ngoài ra còn có các thể loại như Tơpun (đồng giao), Pơ đuk(ca dao),
Avòng( giao duyên), Hơri( hát đối đáp), Blao( chuyện cười), Hơ
Amôn( trường ca)và các loại văn vần dùng trong các bài khấn, tế, phù
chú như somak, khia, Ninhmang. .
B. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN – LỊCH SỬ - DÂN CƯ – XÃ HỘI TÂY NGUYÊN
I - MÔI TRƯỜNG TỰ NHIÊN 1. Vị trí địa lý
- Tây Nguyên gồm 5 tỉnh, xếp theo thứ tự vị trí địa lý từ Bắc xuống Nam gồm :
Kon Tum, Gia Lai, Đak Lak, Đak Nông và Lâm Đồng.
- Diện tích tự nhiên : 54.7 km2 ( 16.5% diện tích cả nước năm 2006).
- Là vùng duy nhất không giáp biển. Cao nguyên đồ sộ này nằm sát Duyên hải
Nam Trung Bộ, liền kề Đông Nam Bộ, giáp Hạ Lào và Đông Bắc Campuchia.
Vì thế, nơi đây có vị trí đặc biệt quan trọng về quốc phòng và xây dựng kinh tế.
→ Có vị trí địa lý thuận lợi khi tiếp giáp với nhiều vùng văn hóa. Do đó, có thể
học hỏi cũng như giao lưu, làm đa dạng bản sắc văn hóa cũng như truyền bá một
số văn hóa của vùng đến các vùng khác trong khu vực và nước ngoài như Lào, Campuchia.
2. Đặc điểm khí hậu
- Khí hậu Tây Nguyên có tính chất cận xích đạo với một mùa mưa và mùa khô kéo dài:
+ Mùa khô: Từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau, khí hậu khô và lạnh, độ ẩm thấp,
mực nước ngầm hạ thấp. Vì thế việc làm thủy lợi gặp khó khan, tốn kém, là trở
ngại lớn cho sản xuất và sinh hoạt.
+ Mùa mưa: Từ tháng 5 đến tháng 10, khí hậu ẩm và dịu mát, mưa lớn tập trung vào tháng 7-8.
➢ Dựa vào 2 mùa khí hậu mà cư dân thay đổi trang phục linh hoạt để kịp thích ứng
với thời tiết. Mùa khô nóng cư dân có thể dệt các loại vải mỏng hơn, dễ thấm hút
mồ hôi, thoáng mát để sử dụng như sợi tơ tằm, sợi đay. . Khi thời tiết trở lạnh thì
người dân sẽ sử dụng sợi bông để làm thành trang phục giữ ấm cho thân thể.
3. Điều kiện tự nhiên 3.1. Địa hình: -
Gồm 9 cao nguyên liền kề: Kon Tum, M’Drak, Buôn Ma Thuột, Kon Plông,
Kon Hà Nừng, Pleiku, Mơ Nông, Di Linh, Lâm Viên.
→ Đều được bao bọc về phía Đông bởi những dãy núi và khối núi cao chính là Trường Sơn Nam.
- Về phía Tây dãy Trường Sơn, bề mặt địa hình dốc thoải dần từ Đông sang Tây,
đón gió Tây nhưng ngăn chặn gió Đông Nam thổi vào. Địa hình chia cắt phức tạp
có tính phân bậc rõ ràng, bao gồm:
+ Địa hình cao nguyên: địa hình đặc trưng nhất, tạo lên bề mặt của vùng. Dạng địa
hình này thuận lợi cho phát triển nông, lâm nghiệp với quy mô lớn. + Địa hình vùng núi
+ Địa hình thung lũng: chiếm diện tích không lớn, chủ yếu phát triển cây lương
thực, thực phẩm và nuôi cá nước ngọt.
➢ Địa hình cắt xẻ mạnh có ý nghĩa trong việc quy hoạch hệ thống nhà cửa trải dài
theo từng dạng địa hình cũng như là thuận lợi cho việc thâm canh cây trồng trong
nông nghiệp. Ngoài ra, nhờ các dạng địa hình đã tạo nên các thảm thực vật đa
dạng thúc đẩy việc du lịch của vùng. 3.2 . Sông ngòi:
- Có mạng lưới sông ngòi dày đặc, là nơi khởi đầu của 4 hệ thống sông chính
gồm: Xê Xan, Xrê Pôk, Đồng Nai, Ba – Ayun.
→ Tài nguyên nước được thiên nhiên ưu ái, với tổng lượng mưa trung bình cao
( 81 tỷ m3 nước/ năm ), thuận lợi cho việc xây dựng thủy điện, các hồ chứa nước
để cung cấp điện và nước cho người dân trong vùng. Ngoài ra, việc xây dựng các
công trình thủy điện như Yaly, Sê San. . hay một số hồ nước tự nhiên như biển hồ
Tơ Nưng ( Gia Lai ), hồ Xuân Hương ( Đà Lạt ) cũng là một trong những điểm du
lịch hấp dẫn để thông qua đó quảng bá hình ảnh văn hóa Tây Nguyên.
3.3 . Tài nguyên thiên nhiên -
Với đất badan màu mỡ và khí hậu cận xích đạo nên Tây Nguyên có tiềm năng
to lớn về nông nghiệp và lâm nghiệp. ● Về nông nghiệp:
- Đất badan của vùng có tầng phong hóa sâu, giàu chất dinh dưỡng, lại phân bố
tập trung với những mặt bằng rộng lớn thuận lợi cho việc trồng trọt các loài cây
công nghiệp như: cà phê, lúa, cao su, hồ tiêu…
+ Cà phê: cây công nghiệp quan trọng số 1 của Tây Nguyên ( chiếm 4/5 diện
tích cà phê cả nước ). Chính vì vậy, Lễ hội cà phê Buôn Ma Thuột (2005)
xuất hiện, với mục đích thể hiện sự ấm no, mùa bội thu và quảng bá hình ảnh Buôn Ma Thuột.
+ Lúa: cây trồng lâu đời của người dân Tây Nguyên, không chỉ cung cấp về
nguồn lương thực mà nó còn tạo nên nét văn hóa của người đồng bào dân tộc
Jrai với Lễ mừng lúa mới. Lễ hội này để cầu cho mưa thuận, gió hòa, mùa
màng bội thu và gia đình sung túc.
+ Cây điều, hồ tiêu và cây cao su ( vùng trong cao su lớn thứ hai sau Đông
Nam Bộ ) cũng đang được phát triển tại đây. ● Về lâm nghiệp:
- Đầu thập kỉ 90 của thế kỉ XX, rừng Tây Nguyên che phủ 60% diện tích lãnh
thổ đất nước. Có nhiều rừng gỗ quý ( cẩm lai, gụ mặt, nghiến, trắc, sến), nhiều
chim, thú quý ( voi, bò tót, gấu…). Tây Nguyên chiếm thới 36% diện tích đất
có rừng và 52% sản lượng gỗ có thể khai thác của cả nước.
→ Không chỉ tạo nên môi trường sống cho cư dân Tây Nguyên, Rừng còn gắn
với đời sống văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần của cư dân các dân tộc Tây
Nguyên. Rừng chính là môi trường văn hóa, là không gian thiêng lưu giữ ký ức
văn hóa của con người Tây Nguyên. Rừng gắn với với rất nhiều giá trị văn hóa vật
thể và phi vật thể của vùng đất Tây Nguyên như: nhà rông, nhà dài, tượng gỗ, rượu
cần, lễ hội, sử thi. . cùng với biết bao nhiêu phong tục, tập quán khác của mảnh đất
huyền thoại này. Vì vậy, rừng có một vị trí rất quan trọng trong đời sống của người Tây Nguyên.
- Tuy nhiên, nạn phá rừng, hủy diệt tài nguyên thiên nhiên và khai thác lâm sản
hiện nay diễn ra bừa bãi vẫn chưa ngăn chặn có thể dẫn đến nguy cơ làm nghèo
kiệt rừng và thay đổi môi trường, sinh thái.
II – LỊCH SỬ VÙNG TÂY NGUYÊN.
1. Thời nguyên thủy đến trước thế kỉ XIX: -
Vùng đất Tây Nguyên từ xưa vốn là địa bàn sinh sống của các bộ tộc thiểu số,
chưa phát triển thành một quốc gia hoàn chỉnh. Do đất rộng, người thưa các bộ tộc
thiểu số ở đây thỉnh thoảng trở thành nạn nhân trước các cuộc tấn công của vương
quốc Chăm Pa hoặc Chân Lạp nhằm cướp bóc nô lệ. -
Vua Lê Thánh Tông thân chinh đi đánh Chiêm thành, phá được thành Chà Bàn,
sáp nhập 3/5 lãnh thổ Chăm Pa thời đó vào Đại Việt. 2 phần Chăm Pa còn lại được Lê
Thánh Tông chia thành các tiểu Quốc nhỏ thuần phục Đại Việt. phần đất Phan
Lung( tức Phan Rang ngày nay) do viên tướng chăm là Bồ Trì trấn giữ được vua Lê
coi là phần kế thừa của vương quốc Chiêm Thành. Một phần đất nay là tỉnh phú yên,
Lê Thánh Tông phong cho Hoa Anh Vương tạo nên nước Nam Hoa.Vùng đất phía tây
núi Thạch Bi tức miền Bắc Tây Nguyên ngày nay được lập thành nước Nam Bàn. vua
nước này được xưng là Nam Bàn Vương. -
Sau khi Nguyễn Hoàng xây dựng vùng cát cứ phía Nam, các chúa Nguyễn ra
sức loại trừ các ảnh hưởng còn lại của Chăm Pa và cũng phái một số sứ đoàn để thiết
lập quyền lực ở khu vực Tây Nguyên. Các bộ tộc thiểu số ở đây dễ dàng chuyển sang
chịu sự bảo hộ của người Việt, vốn không có thói quen buôn bán nô lệ. Tuy nhiên các
bộ tộc ở đây vẫn còn mong muốn và mục tiêu của các Chúa Nguyễn nhắm trước đến
các vùng đồng bằng nên chỉ thiết lập quyền lực rất lỏng lẻo ở đây . -
Tuy sự ràng buộc lỏng lẻo nhưng về danh nghĩa, vùng đất Tây Nguyên vẫn
thuộc phạm vi bảo hộ của các Chúa Nguyễn thời nhà Tây Sơn, rất nhiều chiến binh
thuộc các bộ tộc thiểu số Tây Nguyên gia nhập quân Tây Sơn, đặc biệt với đội tượng
binh nổi tiếng trong cuộc hành quân của Quang Trung Tiến công ra Bắc Xuân Kỷ Dậu
(1789). Tây Sơn Thượng đạo, vùng đất phía tây đèo An Khê là một căn cứ chuẩn bị
lực lượng cho quân Tây Sơn thuở ban đầu. người lãnh đạo việc hậu cần này của quân
Tây Sơn là người vợ dân tộc Bana của Nguyễn Nhạc.
2. Thời nhà Nguyễn:
- Sang đến triều nhà Nguyễn, mặc dù vua Minh Mạng có đưa phần lãnh thổ tây
nguyên vào bản đồ Việt Nam (Đại Nam nhất thống toàn đồ- 1834). Người Việt vẫn
chủ yếu khai thác miền đồng bằng nhiều hơn, đặc biệt ở các vùng miền Đông Nam Bộ
ngày nay, và đã đẩy mạnh các bộ tộc thiểu số bán sơn địa lên hẳn vùng Tây Nguyên
(như trường hợp của bộ tộc Mạ). Trong cuốn Đại Việt địa dư toàn biên, Phương Đình
Nguyễn Văn Siêu có viết: Thủy xá, Hỏa xá ở ngoài cõi Nam Bàn nước Chiêm Thành.
Bây giờ trong Thượng đạo tỉnh Phú An có núi Bà Nam rất cao, Thủy Xá ở phía đông
núi ấy,. . Hỏa Xá ở phía Tây núi ấy, phía tây tiếp giáp với xứ Sơn Bốc sở nam nước
Chân Lạp, phía Nam thì là Lạc man (những người tộc du cư). Phía trên là sông Đại
Giang, phía dưới là sông Ba Giang làm giới hạn bờ cõi hai nước ấy.
3. Thời Pháp thuộc:
Sau khi người Pháp nắm được quyền kiểm soát Việt Nam, họ đã thực hiện hàng loạt
các cuộc thám hiểm và chinh phục vùng đất Tây Nguyên. Trước đó các nhà truyền
giáo đã đi tiên phong lên vùng đất còn hoang sơ và chất phác này.
Năm 1888, người một người Pháp gốc đảo Corse tên là Mayrena sang Đông Dương
chọn ĐăkTô làm vùng đất căn cứ và lần lượt chinh phục được các bộ lạc thiểu số. Ông
ta thiết lập vương quốc Seđang có Quốc kỳ, có giấy bạc, có cấp chức riêng và tự mình
lập làm vua tước hiệu Maria đệ nhất. Nhận thấy được vị trí quan trọng của vùng đất
Tây Nguyên, nhân cơ hội về Châu Âu, chính phủ Pháp đã đưa công sứ Quy Nhơn lên
đăng quang thay Mayrena. Vùng đất Tây Nguyên được đặt dưới quyền quản lý của
công sứ Quy Nhơn. Sau đó vài năm, thì Vương Quốc này cũng bị giải tán.
Năm 1891 Bác sĩ Alexandre Yersin mở cuộc thám hiểm và phát hiện ra cao nguyên
Langbiang. Ông đã đề nghị với chính phủ thuộc địa xây dựng một thành phố nghỉ mát
tại đây. Nhân dịp này, người Pháp bắt đầu chú ý khai thác kinh tế đối với vùng đất
này.Năm 1896, khâm sứ Trung Kỳ Boulloche đề nghị Cơ mật viện triều Nguyễn giao
cho Pháp trực tiếp phụ trách an ninh tại các cao nguyên Trung kỳ. Một tòa đại lý hành
chính được lập ở Kon Tum, trực thuộc Công Sứ Quy Nhơn. Năm 1899, thực dân Pháp
buộc vua Đồng Khánh ban dụ trao cho họ Tây Nguyên để họ có quyền tổ chức hành
chính và trực tiếp cai trị các dân tộc thiểu số ở đây
4. Sau khi thống nhất:
Sau khi chấm dứt chiến tranh Việt Nam, Nhà nước Việt Nam gọi chung vùng này là
Tây Nguyên, gồm ba tỉnh Đắk Lắk (hình thành từ các tỉnh Đắk Lắk, Phú Bồn và
Quảng Đức), tỉnh Gia Lai- Kon Tum (tỉnh Kon Tum sáp nhập với tỉnh Gia Lai) và
tỉnh Lâm Đồng (sáp nhập tỉnh Lâm Đồng và tỉnh Tuyên Đức). Chính quyền có chính
sách di dân một số sắc dân từ vùng Tây Bắc lên Tây Nguyên, cũng như thành lập
nhiều khu kinh tế mới tại đây.
Ngày 21/8/1991, tỉnh Kon Tum được tái lập trên cơ sở chia tách tỉnh Gia Lai Kon
Tum thành 2 tỉnh Gia Lai và Kon Tum. Ngày 26 tháng 01 năm 2003 Quốc hội ra nghị
quyết số 22/2003/QH.11, tỉnh Đắk Lắk Tách thành hai tỉnh mới là Đắk Lắk và Đắk Nông.
Hiện tại địa bàn Tây Nguyên có 5 tỉnh là Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông, Lâm Đồng.
=> Có thể thấy, từ lâu, mảnh đất Tây Nguyên là mảnh đất của lịch sử anh hùng
bất khuất. Điều đó mang lại văn hóa Tây Nguyên những áng sử thi còn lưu
truyền đến tận ngày nay. Tây Nguyên là vùng đất sản sinh khá nhiều sử thi và do
đó được các nhà khoa học gọi là “vùng sử thi” hay “ chiếc nôi của sử thi Việt
Nam”. Từ sau sử thi “khan Đam San” của người Ểđê được công bố đầu tiên từ
năm 1927, đến nay đã phát hiện được trên 20 sử thi của các bộ tộc khác nhau.
III – ĐẶC ĐIỂM DÂN CƯ XÃ HỘI Ở TÂY NGUYÊN. 1. Nguồn gốc cư dân
- Từ xưa, vùng đất Tây Nguyên là vùng đất tự trị, là địa bàn sinh sống của các bộ tộc
thiểu số nên vốn từ ngày xưa, vùng đất Tây Nguyên đã xuất hiện nhiều bộ tộc.
- Đến thời Pháp thuộc, ngươi Kinh bị hạn chế lên vùng Cao nguyên nên các bộ tộc
người Thượng sinh hoạt trong xã hội truyền thống. Mãi đến giữa thế kỉ 20 sau cuộc di
cư năm 1954 thì số người Kinh mới tăng dần.
- Có khoảng 20 nhóm dân tộc, thuộc 2 nhóm ngữ hệ Môn - Khmer và Mã Lai - Nam Đảo.
- Nhiều dân tộc thiểu số chung sống với dân tộc Việt (Kinh) ở Tây Nguyên như Bana,
Giarai, Êđê, Cơ’ho, Mạ, Xơđăng, Mơnông…
➢ Chính quyền Việt Nam Cộng hòa gọi chung những dân tộc này là đồng bào
sắc tộc” hoặc “người Thượng” ( Thượng có nghĩa là ở trên, là người ở miền cao hay miền núi).
2. Dân số các dân tộc ở Tây Nguyên
- Tây Nguyên có khoảng 5,8 triệu người đang sinh sống, chiếm 6,1% dân số cả nước. (Theo số liệu năm 2019)
- Đa dạng về dân tộc: khoảng 30% là dân tộc thiểu số
- Các dân tộc bản địa: Gia-rai, Ê-đê, Ba-na, Xơ-đăng…
- Một số dân tộc khác đến đây xây dựng kinh tế: Kinh, Tày, Nùng, Mông,…
=> Tây Nguyên có nhiều dân tộc nhưng lại thưa dân nhất Việt Nam, các dân tộc đang
chung sức xây dựng Tây Nguyên ngày càng giàu đẹp.
➢ Các dân tộc thiểu số Tây Nguyên có một nền văn hóa bản địa phong phú và đa
dạng, với văn hóa chữ viết, trang phục, âm nhạc dân gian, văn hóa ẩm thực độc đáo. 3. Xã hội
- Tây Nguyên là địa bàn cư trú của nhiều dân tộc ít người.
- Là nơi cư trú của 47 dân tộc anh em với rất nhiều đặc trưng, sắc thái của nhiều tộc
người, nhiều địa phương trong cả nước hội tụ.
-> Nơi có tốc độ tăng dân số và biến động về cơ cấu dân cư nhanh nhất cả nước.
-> Nguyên nhân chính là do tình trạng di cư tự do kéo dài nhiều năm, đến nay vẫn còn diễn ra phức tạp.
- Đời sống dân cư vẫn còn gặp nhiều khó khăn, những vấn đề như tồn động về dân cư,
việc làm, dân trí cũng như là văn hóa tại Tây Nguyên vẫn cần được quan tâm và cải thiện.
*Cơ Cấu Nghề Nghiệp-Xã Hội ● Nông nghiệp
- Vì điều kiện tự nhiên thuận lợi nên việc sản xuất chính của đồng bào là làm nương
rẫy và khai thác đát theo chế độ luân phiên; công nghệ ở đây vẫn còn thô sơ nên việc
sản xuất ở đây chủ yêu dựa vào thiên nhiên.
- Nông dân xưa chủ yếu làm nghề trồng lúa, đặc biệt là trồng lúa tẻ trở thành nguồn
lương thực chính. Ngoài ra còn có ngô, khoai, sắn làm lương thực phụ và chăn nuôi,
nấu rượu. Tuy nhiên, hiện nay đã chuyển dần sang trồng cây công nghiệp như chè, cà
phê, cao su,… vì nó mang lại nguồn thu nhập cao hơn cho người dân nơi đây.
- Việc chăn nuôi gia súc, gia cầm như: trâu, bò, heo, gà chủ yếu dùng vào việc cúng tế.
● Thủ công nghiệp
- Đồng bào cũng có các nghề thủ công truyền thống nổi tiếng như dệt vải, rèn, mộc,
làm nhà, làm thuyền độc mộc, đan lát các dụng cụ gia đình bằng mây, tre,…
➢ Tạo nên những bộ trang phục truyền thống mang nét đặc trưng riêng cùng hoạ tiết
mang đậm chất thiên nhiên. Bên cạnh đó còn làm nên một loại hình kiến trúc đạt
được mức hoàn thiện cao như nhà rông, nhà sàn.
- Hiện nay, các nghề này vẫn đang được từng bước hồi phục để tạo việc làm cho nhiều
người, có nguồn thu nhập đầu vào và đồng thời bảo tồn những giá trị truyền thống.
➢ Không chỉ mang lại giá trị kinh tế mà còn có giá trị văn hoá đặc sắc trong đời sống xã hội.
Tây nguyên là nơi tập trung của nhiều dân tộc khác nhau sinh sống, đa dạng về
cả văn hóa chữ viết, trang phục, đạo cụ, văn hóa ẩm thực, nơi chứa đựng vô vàn
những văn hóa vật thể và cả phi vật thể. Mỗi loại hình văn hóa của Tây Nguyên không
chỉ có những giá trị đầy huyền thoại phải bảo tồn và phát triển mà còn có những biến
đổi theo chiều hướng tiêu cực cần phải loại trừ nếu không muốn làm “gãy đổ” cả một nền văn hóa kỳ vĩ này.
Document Outline
- A - ĐẶC ĐIỂM CỦA VÙNG VĂN HÓA TÂY NGUYÊN
- 1.Nhà ở:
- a.Nhà rông:
- -Đặc điểm chung nhà Rông
- -Chức năng của nhà Rông Tây Nguyên
- -Ý nghĩa của nhà Rông Tây Nguyên
- b.Nhà sàn:
- 2.Ẩm thực:
- b.Rượu cần
- c.Cơm lam
- 3.Trang phục:
- 4.Danh lam thắng cảnh:
- II – VĂN HÓA TINH THẦN TÂY NGUYÊN
- ⇨Những tộc người có lễ hội đâm trâu: Người Ba Na, n
- oLuật tục với vấn đề quản lý, bảo vệ phát triển rừn
- oĐối với các quan hệ hôn nhân và gia đình, phát huy
- oTrong
- B. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN – LỊCH SỬ - DÂN CƯ – XÃ HỘI
- II – LỊCH SỬ VÙNG TÂY NGUYÊN.
- III – ĐẶC ĐIỂM DÂN CƯ XÃ HỘI Ở TÂY NGUYÊN.