Văn học Người Lái Đò Sông Đà (Nguyễn Tuân)
Văn học Người Lái Đò Sông Đà (Nguyễn Tuân) được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem !
61
31 lượt tải
Tải xuống
NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ
-Nguyễn Tuân-
A. MỞ BÀI CHUNG
- MB1: Pautopxki từng nói “Niềm vui của nhà văn chân chính là niềm vui của
người dẫn đường đến xứ sở cái đẹp”. Hơn ai hết, Nguyễn Tuân chính là nhà văn như thế.
Ông là người theo chủ nghĩa duy mĩ với quan niệm cuộc đời là một cuộc hành trình đi tìm
cái đẹp và “Suốt đời tôn thờ và phụng sự cái đẹp”. Mỗi tác phẩm của ông là một bài ca về
cái đẹp của con người, của cuộc sống với tình cảm, sự gắn bó sâu nặng với quê hương, đất
nước. Nguyễn Tuân được người đọc đặc biệt chú ý về phong cách nghệ thuật rất riêng và
rất độc đáo mà phong cách ấy được gắn với chữ “ngông” và sự tài hoa, uyên bác. Nếu như
trước cách mạng, văn học của Nguyễn Tuân chạm đến lòng người bởi vẻ đẹp tài hoa của
những con người "một thời vang bóng" như Huấn Cao thì sau cách mạng, ông khiến người
đọc rung cảm bởi sự tinh tế và tài năng trong việc vẽ nên những nét đẹp gân guốc nhưng
gần gũi, bình dị của thiên nhiên và đời sống con người. “Người lái đò sông Đà” là tác
phẩm tiêu biểu cho sáng tác của Nguyễn Tuân sau cách mạng.
- MB2: Từ (1940) đến (1960), con đường sáng tạo văn
chương cùa Nguyễn Tuân đã trải qua 20 năm tròn. Tùy bút làm cho chân dung
văn học của Nguyễn Tuân thêm tươi sáng, rạng rỡ. Với 15 tùy bút và một bài thơ phác
thảo, Sông Đà đã khẳng định vị trí vẻ vang của Nguyễn Tuân trong lịch sử văn học Việt
Nam hiện đại, tô đậm một phong cách nghệ thuật uyên bác, độc đáo và tài hoa để ta thêm
yêu mến tự hào.
rút trong tập tùy bút thể hiện cá tính sáng tạo của
Nguyễn Tuân trên một tầm cao phát triển mới. Là nhà văn của những tính cách phi thường,
Nguyễn Tuân phát hiện, miêu tả con người Tây Bắc mang bao phẩm chất tuyệt đẹp mà ông
gọi đó là “chất vàng mười” của tâm hồn. Là một con người yêu thiên nhiên tha thiết, ông
nói về cảnh sắc sông Đà với những phát hiện hết sức tinh tế và độc đáo về núi và sông, về
cây cỏ trên một vùng đất nước bao la, hùng vĩ và thơ mộng
B. PHÂN TÍCH MỘT SỐ ĐOẠN VĂN TRONG TÁC PHẨM
Đoạn số 1:
! " # $
% &' % ( ) *+ , ! , - . ( /" 0
1 +2 34" 5 6 + 1 + 7 84
6 " 0 849 : : ) 9 3 - ; + " < /:
: 84 849 *+% = > *+ ?% *+ @ 5 A =
B - 6 4 C : /6 3 5 *+ : C D
E = F"
G? 849 ( H G:% & I+ J . K % K %
K % 4< 4 4< = 4J L , : > M 4N * 5
1
: M 84 *+" O49 + 4* + @ > &P Q
C E 4+H /"
G? 849 R # S &. T G" R/6 ) $ ,
. J 2 6 K4J U 4V W 34" . A I+
A 64 C J W (" R/6 ( , K:+ S +% > 84+ ; ;
$ 84? " X 4+H : & Y 3 $ , . *+% 4+H :
84 > =: U . 849 % + J * : U , 84
849 M ? / : '" 0=: + : $
84 2 I4% $ 2 I4 . ( ( 6 / &34 :" $ = )
/; 6 N $ 2 , *+ E K4J" 0 $ 4+H 9
W , , K4J% 4+H /< + I+ 4J M /< E 2 % W &@
3 &. 2 T , 4 . *+ K A 4Z &." R M 9
2 ? 84+ : M : 4J /4+H ? : %
9 &> < : 4+H , / /< : 4+H @ +
84+ K4J + , [; I+ , @ M 6 , ( 6
4. . : 2 " R2 /< 4 " 0 4+H K:+ S% $ .
4 > 84+ S% + M :/Y[:7Y 6 ( 2
2 KI+ : \ . K Y 4Z J , &+% J 6
K D ] E : + 84+ KY" 0
4 M /: 2 K: S +% /4+H ? : KY S ' *+ @
*+ I < $ ( 2 @ *+ 7 2 /; W 5 : J
6 . ^ < ; /, 6 Q+ ="
(Người lái đò sông Đà, Nguyễn Tuân)
Cảm nhận của anh/ chị vẻ đẹp hình tượng sông Đà ở đoạn trích trên đây. Từ
đó, nhận xét về cách nhìn mang tính phát hiện về dòng sông Đà và cái Tôi của nhà
văn Nguyễn Tuân.
I. MỞ BÀI
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm: R #A 4
- Đoạn trích sau đây trong “Người lái đò Sông Đà” thể hiện rõ cách nhìn mang tính
phát hiện của nhà văn Nguyễn Tuân về dòng sông Đà: _ ` =a"
II. THÂN BÀI
1. Khái quát
- Hoàn cảnh ra đời: Tùy bút Người lái đò Sông Đà được in trong tập tùy bút Sông Đà
(1960), gồm 15 bài tùy bút và một bài thơ ở dạng phác thảo. Tác phẩm được viết trong thời
kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Đó là kết quả của chuyến đi thực tế của nhà văn
đến Tây Bắc trong kháng chiến chống Pháp, đặc biệt là chuyến đi thực tế năm 1958.
Nguyễn Tuân đến với nhiều vùng đất khác nhau, sống với bộ đội, công nhân và đồng bào
các dân tộc. Thực tiễn xây dựng cuộc sống mới ở vùng cao đã đem đến cho nhà văn nguồn
cảm hứng sáng tạo.
2
- Nội dung: Nguyễn Tuân là một nhà văn yêu nước, giàu lòng tự hào dân tộc. Tình yêu
nước ấy cũng được biểu hiện trước hết ở tình yêu thiên nhiên tha thiết. Khám phá về sông
Đà – dòng chảy dữ dội của núi rừng Tây Bắc là một thành công đặc sắc của ông trong tùy
bút “Người lái đò sông Đà”. Chỉ có Nguyễn Tuân mới không nhọc công dò đến ngọn
nguồn lạch sông, truy tìm đến tận nơi gốc tích khai sinh ra sông Đà, để biết chỗ phát
nguyên của nó thuộc huyện Cảnh Đông và thoạt kì thủy, dòng sông mang những cái tên
Trung Hoa khá thơ mộng: Li Tiên, Bả Biên Giang. Cũng chưa có nhà văn nào trước
Nguyễn Tuân có thể kể tên vanh vách 50/73 con thác lớn nhỏ nằm lô nhô suốt một dải
sông từ Lai Châu về đến chợ Bờ.
- Lời đề từ _0, + V4 [ D 4ab Nhà văn Nguyễn Tuân
đã đặc biệt muốn nhấn mạnh cá tính độc đáo của của dòng sông. Sông Đà khác hẳn các
dòng sông khác bởi nếu tất cả các dòng sông khác đều chảy về hướng đông thì riêng Sông
Đà chạy về hướng bắc. Có lẽ vì con sông đặc biệt như vậy nên nó trở thành đối tượng rất
phù hợp với cá tính sáng tạo của Nguyễn Tuân, nó được tác giả tìm đến để thể hiện cá tính
nghệ thuật của mình. Ở lời đề từ _1 Q+ + 2 /6 & a tác giả lại thể
hiện xúc cảm mãnh liệt trước vẻ đẹp của dòng sông và con người gắn bó với dòng sông,
bộc lộ rõ cảm hứng chủ đạo của tác phẩm là ngợi ca thiên nhiên và con người Tây Bắc.
- Nguyễn Tuân là nhà văn theo chủ nghĩa xê dịch và ưa cảm giác mạnh. Giống như các
nhà văn theo chủ nghĩa xê dịch, Nguyễn Tuân thích đi nhiều để thay đổi cảm giác cho các
giác quan. Ông không thích những gì bình thường và tầm thường nên đối tượng mà ông
miêu tả đã đẹp thì phải đẹp đến mức tuyệt mĩ, dữ dội phải đến mức khủng khiếp và tài
năng phải đến mức siêu phàm. Con sông Đà của Tây Bắc rất phù hợp với mĩ cảm của nhà
văn nên bằng quan sát tỉ mỉ, sự liên tưởng, tưởng tượng phong phú và tài năng nghệ thuật
xuất sắc nhà văn Nguyễn Tuân đã xây dựng con sông Đà thành một hình tượng nghệ thuật
hấp dẫn, biến nó từ vật vô tri vô giác thành một sinh thể có sức sống, có tâm trạng và tính
cách. Có lẽ cũng vì thế tác giả gọi nó là “con” và viết hoa tên của nó thành Sông Đà. Con
Sông Đà hiện lên trong tác phẩm với hai nét tính cách nổi bật là hung bạo và trữ tình. Hai
nét tính cách tưởng chừng như đối lập nhưng lại cùng tồn tại trong một hình tượng nghệ
thuật. Sông Đà rất hung dữ, hiểm ác gây tai họa cho con người nhưng cũng là một công
trình nghệ thuật tuyệt vời của tạo hóa, vừa hùng vĩ vừa thơ mộng tạo nên chất men say cho
con người trong cuộc sống. Đoạn trích nêu trên nằm trong phần miêu tả tính cách hung
bạo của Đà giang.
2. Hình tượng con Sông Đà qua đoạn trích
Nhận xét đầu tiên của nhà văn về dòng sông Đà ở đây là _
! $ a" Câu văn đã khẳng định sông Đà là dòng sông hùng vĩ
và hẳn là vẻ hùng vĩ ấy được thể hiện rõ nhất ở những thác đá trên sông. Nhưng hùng vĩ
của sông Đà không chỉ có thế mà còn thể hiện rõ qua cảnh đá bờ sông dựng vách thành,
những ghềnh sông, hút nước được miêu tả trong đoạn trích.
2.1. Cảnh đá bờ sông dựng vách thành
Sông Đà ở quãng này chảy qua vùng rừng núi Tây Bắc và hình ảnh “vách thành” đã
phần nào thể hiện sự vững chãi thâm nghiêm và sức mạnh bí ẩn đầy đe dọa của những
3
vách núi bên bờ sông Đà. Tác giả đã dùng những chi tiết tưởng như bâng quơ, ngẫu nhiên
nhưng lại có giá trị gợi tả gián tiếp độ hẹp của dòng sông, độ cao của vách đá. Chẳng hạn,
( ) *+ ! , , - . ( /. Những vách đá dựng đứng khiến ánh
sáng mặt trời ở đây chỉ có vào lúc giữa trưa, tức là khi mặt trời chiếu sáng theo phương
thẳng đứng mới có thể lọt xuống dòng sông. Hoặc cách so sánh 1
+2 34 – động từ “chẹt” cùng với việc 5 6 + 1 + 7
84 6 hoặc 0 849 : : ) 9 3 - ; +
đã đem đến ấn tượng mãnh liệt cho người đọc về độ hẹp của lòng sông với lưu tốc
nước chảy mạnh khi bị vách đá chèn ép tới nghẹt thở. Nguyễn Tuân là nhà văn của những
cảm giác mạnh và ông thường miêu tả thế giới sự vật thông qua cảm giác. Bằng cảm giác
của xúc giác nhà văn miêu tả < /: : 84 849 *+, = >
*+ ?. Ấn tượng của thị giác được thể hiện khi lấy hè phố để miêu tả mặt sông, lấy nhà
cao gợi tả vách đá, truyền cho người đọc những hình dung về cái tăm tối lạnh lẽo đột ngột
khi con thuyền đi từ ngoài vào khúc sông có đá hun hút dựng vách thành qua hình ảnh so
sánh về 4 C ^ : /6 3 5 *+ : ; D E = F.
2.2. Mặt ghềnh Hát Loóng
Dòng sông Đà lắm thác nhiều ghềnh vốn đã từng được nhắc đến trong ca dao:
Đường lên Mường Lễ bao xa
Trăm bảy cái thác, trăm ba cái ghềnh
Nhà văn Nguyễn Tuân trong tác phẩm có thể kể vanh vách hơn bảy mươi cái thác
trên sông Đà. Đáng chú ý, ở quãng Hát Loóng có những ghềnh sông mà cảnh tượng của nó
rất dữ dội
G? 849 Lc H G:, & I+ J . K , K ,
K , 4< 4d
4< = 4J L… Thông qua sự miêu tả của Nguyễn
Tuân, những ghềnh sông ấy không chỉ dữ dội mà còn đầy nguy hiểm. Cách nhà văn sử
dụng toàn câu ngắn, nhịp nhanh xô nhau, dồn dập, chồng chất lên nhau kết hợp với các
thanh sắc, những từ ngữ trùng điệp nối tiếp thế chỗ nhau trong các cụm từ ngữ đã tái hiện
sinh động quần thể những sức mạnh thiên nhiên dữ dội nhất của nước, sóng, gió, và đá
sông Đà. Từ láy “gùn ghè” và hình ảnh so sánh mang đậm sắc thái nhân hóa về việc sóng
gió trên mặt ghềnh Hát Loóng , : > M K4N * 5 :
M 84 *+ đã thể hiện sinh động sự hung hãn lì lợm và cuồng bạo của dòng sông.
Qua từ “M K4N”, nhà văn đóng góp thêm vào Từ điển tiếng Việt một từ mới mẻ, độc đáo
vì nợ không có vẫn đòi, không đòi bằng tiền, bằng tình mà đòi bằng mạng sống của con
người. Những người lái qua đó sơ xuất tay lái thì sẽ bị lật ngửa bụng thuyền ra.
2.3. Hút nước trên sông Đà
Trên Sông Đà còn có những hút nước rất nguy hiểm. Những cái hút nước xoáy tít
đáy ấy được tác giả miêu tả qua một loạt những so sánh sống động, đặc sắc. Nó giống như
những 2 6 được người ta thả xuống sông để chuẩn bị xây móng cầu, với âm
thanh A 64 C J W (, trong âm thanh như nước bị / &34 . Các từ
láy tượng hình “lừ lừ”, từ láy tượng thanh tăng nghĩa “ặc ặc” cùng biện pháp nhân hóa khi
miêu tả nước A 64% W (… Tất cả góp phần làm hiện ra cả hình ảnh và âm thanh của
hút nước như một quái vật đang giận dữ.
4
Sự nguy hiểm của những hút nước sông Đà được nhà văn miêu tả qua kiến thức về
giao thông, giúp người đọc dễ dàng hình dung ra cảm giác hãi hùng nếu phải đi thuyền
men gần hút nước đáng sợ ấy. Thuyền bè đi ngang qua đó phải % +
J * : U : e 849 M ? / : '. Nguy hiểm hơn
nữa là thuyền bè đi nghênh ngang là sẽ bị nó “lôi tuột xuống” đáy hút nước. Khi bị hút vào
đó, lập tức thuyền trồng cây chuối, bị dìm sống đi ngầm dưới lòng sông, mươi phút sau lại
thấy xuất hiện nhưng đã tan xác ở khuỷnh sông dưới.
Dường như miêu tả bằng hình ảnh, âm thanh chưa đủ, Nguyễn Tuân còn dùng
những kiến thức về điện ảnh, những liên tưởng phong phú và đặc biệt là cảm giác mạnh để
miêu tả những nước trên Sông Đà. Nhà văn liên tưởng đến việc có một anh quay phim táo
bạo vì muốn truyền cảm giác lạ cho người xem nên đã ngồi vào chiếc thuyền thúng tròn
vành rồi cả thuyền, cả mình, cả máy quay xuống xoáy hút Sông Đà để thu ảnh. Đây hẳn là
một giả tưởng li kì dẫn dụ người đọc vào trò chơi cảm giác, kéo họ xuống tận đáy hút nước
xoáy tít, sâu hoắm cùng một anh bạn quay phim táo tợn. Hút nước được miêu tả bằng thủ
pháp điện ảnh, hất ngược từ dưới lên một cách sống động, truyền cảm từ hình khối của
2 KI+ : \ . cho đến màu sắc của dòng sông “nước xanh ve”, và thậm
chí cho đến cả cảm giác sợ hãi rất chân thực của con người khi 0 4+H K:+ S% $
. 4 > 84+ S, khi phải đứng trong lòng một J 6 K D ]
, bất cứ lúc nào cũng như sắp đổ ụp vào người. Những thước phim ấy truyền cảm lại
cho người xem những cảm giác rất mạnh như đang lấy gân ngồi giữ chặt chiếc ghế như ghì
lấy mép một chiếc lá rừng vừa bị vứt vào một chiếc cốc pha lê nước khổng lồ vừa rút lên
cái gậy đánh phèn.
3. Đánh giá
3.1. Về nghệ thuật
Bằng thể tùy bút phóng túng, vốn kiến thức phong phú, đa dạng trên nhiều lĩnh vực,
tác giả đã khám phá vẻ đẹp của dòng sông ở góc độ địa lí nhưng đậm chất văn chương, kết
hợp với nhiều ngành nghệ thuật khác như giao thông, âm nhạc, hội hoạ, điện ảnh, đầy ấn
tượng; Sự quan sát tỉ mỉ, sự liên tưởng, tưởng tượng phong phú, ngôn ngữ tài hoa, điêu
luyện giàu chất thơ, chất nhạc, chất tạo hình; Cách sử dụng nghệ thuật khắc họa hình tượng
tự nhiên, những ví von, so sánh, liên tưởng, tưởng tượng độc đáo, bất ngờ và rất thú vị; Từ
ngữ phong phú, sống động, giàu hình ảnh và có sức gợi cảm cao; Câu văn đa dạng, nhiều
tầng, giàu nhịp điệu, lúc thì hối hả, gân guốc, khi thì chậm rãi, trữ tình... tác giả đã biến con
sông đà từ vô tri vô giác thành con sông có những nét cá tính riêng biệt mà không con sông
nào có.
3.2. Nhận xét những phát hiện về dòng sông Đà của nhà văn Nguyễn Tuân
Tả sự hung bạo của sông Đà, tác giả không chỉ dừng lại ở hình ảnh một dòng sông ở
miền đất Tây Bắc hoang sơ hùng vĩ mà nhằm làm nổi bật sông Đà như một biểu tượng về
sức mạnh dữ dội và vẻ đẹp hùng vĩ, hoang sơ của thiên nhiên, đất nước. Qua cái nhìn của
Nguyễn Tuân, Sông Đà không còn là con sông vô tri, vô giác mà là con sông có linh hồn,
có cá tính như con người: hung bạo, dữ dằn, hùng vĩ. Sông Đà hiện lên như một công trình
5
kiến trúc tuyệt vời mà tạo hóa dành riêng cho mảnh đất Tây Bắc. Nó còn như một sinh thể
có hồn, gần gũi, gắn bó với đất và người nơi đây.
Qua hình tượng Sông Đà, Nguyễn Tuân thể hiện tình yêu mến tha thiết đối với thiên
nhiên đất nước. Với ông, thiên nhiên cũng là một tác phẩm nghệ thuật vô song của tạo hóa.
Cảm nhận và miêu tả Sông Đà, Nguyễn Tuân đã chứng tỏ sự tài hoa, uyên bác và lịch lãm.
Hình tượng Sông Đà là trong tác phẩm có vai trò là phông nền cho sự xuất hiện và tôn vinh
vẻ đẹp của người lao động trong chế độ mới.
3.3. Cái Tôi của nhà văn Nguyễn Tuân được thể hiện qua đoạn trích:
- “Cái tôi” tài hoa, tinh tế thể hiện ở những rung động, say mê của nhà văn trước vẻ
đẹp hùng vĩ của thiên nhiên đất nước.
- “Cái tôi” uyên bác thể hiện ở cách nhìn và sự khám phá hiện thực có chiều sâu; ở
sự vận dụng kiến thức sách vở và các tri thức của đời sống một cách đa dạng, phong phú; ở
sự giàu có về chữ nghĩa. Các thuật ngữ chuyên môn của các ngành quân sự, điện ảnh, thể
thao,… được huy động một cách hết sức linh hoạt nhằm diễn tả một cách chính xác và ấn
tượng những cảm giác về đối tượng.
- “Cái tôi” tài hoa, tinh tế và uyên bác chính là một cách thể hiện tình yêu quê hương
đất nước, lòng yêu cái đẹp của người nghệ sĩ chân chính. Đồng thời cũng cho thấy quan
niệm của Nguyễn Tuân: viết văn là để khẳng định sự đọc đáo của chính người cầm bút.
Đoạn số 2:
""" 0 K D . 2 &." 9 *+ 2 . /7: 3 9 ?% /7:
: 9 6" R2 Y : / @% /< ? K% /< ? 64
S% - \ 2 ?:" R2 /< /J 6 2 : /I4
< $ /; 34 /; /Y 5 ^ C% 4 /; C% /; C
3 7 . /I4 & + " R. /<" :( , M% *+
- 9 /D K I " A I+ ; L f E 2 /:
% @ ) 3 2 4+H : K4* F A 849 3 3 84? 4
+% ) 3 2 : : :( J = ^ &Q+ U <
*+ 4+H" #( : / > ) M% : > L , 7: T
( . ) +" #( /4 S 6 4+2[ + F T + 3 Q"
#( /D K Q /B 6 $ $ . / A
5 < \ + Y: A S ' : 7" @
9 : F : ) " #. *+ /\ I+ + ? /Q /6 "
( /6 L 2 4+H% 4+H
T 2 I4 U / 4 & /Q W g"
H F% C / T A% S 5 $
/ &E 4+H J T : I4 $% : Q 4+2 $ /< . 4<
. 4N 84Q 4 < ?" 24 - : I+ /< 4+H &4 S *+ f -
M 4+2 % @ F E $ ::[Y @ : ^ A 4+2
4+H - . 4+2 /6% 64 &F 4+H /A *
+ + A I " R? /Q & + ; K: @ 4+H E ." hJ
6
M . % . /Y: F : % $ F F : : f
F" # *+ / 6 @ + * e 4+H K 6 4^
/. : 2" # ? , 5 4+H e @
2 3 :" ""
(Người lái đò sông Đà, Nguyễn Tuân)
Cảm nhận của anh/ chị vẻ đẹp hình tượng sông Đà ở đoạn trích trên đây. Từ
đó, nhận xét phong cách tài hoa, uyên bác của nhà văn Nguyễn Tuân.
I. MỞ BÀI
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm: R #A 4
- Đoạn trích sau đây trong “Người lái đò Sông Đà” thể hiện rõ phong cách tài hoa
uyên bác của nhà văn Nguyễn Tuân: _0 K D` 2 3 :a"
II. THÂN BÀI
1. Khái quát
- Hoàn cảnh ra đời: Tùy bút Người lái đò Sông Đà được in trong tập tùy bút Sông Đà
(1960), gồm 15 bài tùy bút và một bài thơ ở dạng phác thảo. Tác phẩm được viết trong thời
kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Đó là kết quả của chuyến đi thực tế của nhà văn
đến Tây Bắc trong kháng chiến chống Pháp, đặc biệt là chuyến đi thực tế năm 1958.
Nguyễn Tuân đến với nhiều vùng đất khác nhau, sống với bộ đội, công nhân và đồng bào
các dân tộc. Thực tiễn xây dựng cuộc sống mới ở vùng cao đã đem đến cho nhà văn nguồn
cảm hứng sáng tạo.
- Nội dung: Nguyễn Tuân là một nhà văn yêu nước, giàu lòng tự hào dân tộc. Tình yêu
nước ấy cũng được biểu hiện trước hết ở tình yêu thiên nhiên tha thiết. Khám phá về sông
Đà – dòng chảy dữ dội của núi rừng Tây Bắc là một thành công đặc sắc của ông trong tùy
bút “Người lái đò sông Đà”. Chỉ có Nguyễn Tuân mới không nhọc công dò đến ngọn
nguồn lạch sông, truy tìm đến tận nơi gốc tích khai sinh ra sông Đà, để biết chỗ phát
nguyên của nó thuộc huyện Cảnh Đông và thoạt kì thủy, dòng sông mang những cái tên
Trung Hoa khá thơ mộng: Li Tiên, Bả Biên Giang. Cũng chưa có nhà văn nào trước
Nguyễn Tuân có thể kể tên vanh vách 50/73 con thác lớn nhỏ nằm lô nhô suốt một dải
sông từ Lai Châu về đến chợ Bờ.
- Lời đề từ _0, + V4 [ D 4ab Nhà văn Nguyễn Tuân
đã đặc biệt muốn nhấn mạnh cá tính độc đáo của của dòng sông. Sông Đà khác hẳn các
dòng sông khác bởi nếu tất cả các dòng sông khác đều chảy về hướng đông thì riêng Sông
Đà chạy về hướng bắc. Có lẽ vì con sông đặc biệt như vậy nên nó trở thành đối tượng rất
phù hợp với cá tính sáng tạo của Nguyễn Tuân, nó được tác giả tìm đến để thể hiện cá tính
nghệ thuật của mình. Ở lời đề từ _1 Q+ + 2 /6 & a tác giả lại thể
hiện xúc cảm mãnh liệt trước vẻ đẹp của dòng sông và con người gắn bó với dòng sông,
bộc lộ rõ cảm hứng chủ đạo của tác phẩm là ngợi ca thiên nhiên và con người Tây Bắc.
- Nguyễn Tuân là nhà văn theo chủ nghĩa xê dịch và ưa cảm giác mạnh. Giống như các
nhà văn theo chủ nghĩa xê dịch, Nguyễn Tuân thích đi nhiều để thay đổi cảm giác cho các
7
giác quan. Ông không thích những gì bình thường và tầm thường nên đối tượng mà ông
miêu tả đã đẹp thì phải đẹp đến mức tuyệt mĩ, dữ dội phải đến mức khủng khiếp và tài
năng phải đến mức siêu phàm. Con sông Đà của Tây Bắc rất phù hợp với mĩ cảm của nhà
văn nên bằng quan sát tỉ mỉ, sự liên tưởng, tưởng tượng phong phú và tài năng nghệ thuật
xuất sắc nhà văn Nguyễn Tuân đã xây dựng con sông Đà thành một hình tượng nghệ thuật
hấp dẫn, biến nó từ vật vô tri vô giác thành một sinh thể có sức sống, có tâm trạng và tính
cách. Có lẽ cũng vì thế tác giả gọi nó là “con” và viết hoa tên của nó thành Sông Đà. Con
Sông Đà hiện lên trong tác phẩm với hai nét tính cách nổi bật là hung bạo và trữ tình. Hai
nét tính cách tưởng chừng như đối lập nhưng lại cùng tồn tại trong một hình tượng nghệ
thuật. Sông Đà rất hung dữ, hiểm ác gây tai họa cho con người nhưng cũng là một công
trình nghệ thuật tuyệt vời của tạo hóa, vừa hùng vĩ vừa thơ mộng tạo nên chất men say cho
con người trong cuộc sống. Đoạn trích nêu trên nằm trong phần miêu tả tính cách hung
bạo của Đà giang.
2. Hình tượng sông Đà trong đoạn trích
2.1. Khái quát
Từ trước đến nay, khi viết về các dòng sông các nhà văn nhà thơ thường ca ngợi vẻ
đẹp trữ tình, hiền hòa, thơ mộng. Cũng có một số nhà văn, nhà thơ miêu tả cảnh dữ dội,
hiểm trở, trùng trùng lớp lớp của những khúc đại giang, của những cảnh thác ghềnh dữ dội
như “Bạch đằng giang phú” của Trương Hán Siêu, “Bạch đằng Hải khẩu” của Nguyễn
Trãi... Nhưng có lẽ chỉ đến “Người lái đò sông Đà” của Nguyễn Tuân thì sự hiểm trở, hung
bạo và dữ dội của con sông mới trở nên sống động và thật khủng khiếp. Trong đoạn văn
này, bậc kì tài về mặt ngôn ngữ Nguyễn Tuân khi miêu tả những thác đá trên sông Đà đã
làm nổi bật lên hình ảnh con sông Đà không chỉ gập ghềnh, lởm chởm mà còn đầy nguy
hiểm, sống dậy gào thét làm náo động cả lên, khiến cho người đọc phải “rùng mình, sởn
gáy” (Nguyễn Đăng Mạnh).
2.2. Tiếng nước thác trên Sông Đàb
Sông Đà hung bạo không chỉ ở những cảnh đá bờ dựng vách thành, những ghềnh
sông, hút nước đầy nguy hiểm mà hùng vĩ và dữ dội nhất trên sông Đà là những thác đá.
Những thác đá trên sông Đà được nhà văn miêu tả chi tiết qua âm thanh, cảnh tượng và sự
nguy hiểm đến kinh hoàng của nó. Trước tiên nhà văn cảm nhận nó qua âm thanh. Chủ thể
miêu tả đang trong quá trình di chuyển đến gần cái thác đá, và âm thanh tiếng nước thác
được miêu tả phù hợp về khoảng cách và cường độ. Ban đầu, có lẽ là nghe từ xa thì tiếng
nước thác : / @% /< ? K% /< ? 64 S% - \
2 ?:. Rồi khi lại gần, tiếng thác /J 2 : /I4 <
$ /; 34 /; /Y 5 ^ C% 4 /; C% /; C 3 7
. /I4 & + . Nguyễn Tuân đã rất ngông khi dùng lửa để miêu tả nước.
Nước và lửa vốn xung khắc với nhau, hủy diệt lẫn nhau nhưng ở đây nhà văn đã dùng hình
ảnh và âm thanh của lửa để miêu tả nước khiến hiện ra trước mắt người đọc là cả một rừng
vầu, tre nứa đang bị đốt cháy, phát ra tiếng nổ. Nhưng âm thanh đó còn chưa là gì khi trong
khu rừng đang cháy ấy còn có hàng ngàn con trâu mộng to khỏe đang bị lửa hun nóng và
đốt cháy. Lửa đã bén vào da của đàn trâu khiến chúng rống lên đầy đau đớn và lồng lộn
8
muốn phá tan rừng lửa để tìm cách thoát thân. Miêu tả từ xa đến gần nên lúc đầu là tiếng
“réo” còn về sau trở thành tiếng “rống”. Đây là cách dùng từ rất chính xác và bất ngờ,
khiến sông Đà từ một đối tượng vô tri vô giác trở thành một sinh thể có tính cách và tâm lí,
như một con người. Các sắc thái khác nhau của âm thanh tiếng “réo” của nước thác: vừa
mới “oán trách” và “van xin” như một kẻ bại trận, biết mình yếu thế hơn đối thủ; ngay lập
tức chuyển sang “khiêu khích” và “chế nhạo” rồi “rống” lên như một kẻ trên cơ, ra sức
giễu cợt, đe dọa đối phương. Bản hợp âm khủng khiếp và đòn tâm lí chiến trở mặt như trở
bàn tay ấy cho thấy sự nham hiểm, xảo quyệt của sông Đà khi sắp xung trận. Những người
lái đò yếu bóng vía và non kinh nghiệm sẽ cảm thấy mất tinh thần, hồn xiêu phách lạc.
Quả thật, sức mạnh hoang dã của tự nhiên qua tài đối sánh, nhân hóa và trí tưởng
tượng phong phú, độc lạ của Nguyễn Tuân đã cho người đọc một cảm giác mạnh đến tận
độ. Như vậy, chỉ riêng với âm thanh của thác đá sông Đà, Nguyễn Tuân đã gây ấn tượng
trong người đọc về sự dữ dội đến khủng khiếp của những thác đá Sông Đà.
2.3. Những thạch trận đá trên sông Đà
Tiếp theo là những ấn tượng từ sự quan sát trực quan của tác giả khi đã “Tới cái thác
rồi”. Cảnh tượng những thác đá trên Sông Đà cũng thật dữ dội. Ngoặt tới khúc sông ấy là
cảnh - 9 /D I / . Sóng nước vấp phải đá tung bọt trắng xóa.
Sông Đà ở đây bao nhiêu là đá với đủ những đá to đá bé, đá hòn đá tảng… mà thằng đá
nào trông cũng ngỗ ngược, xấc xược, hỗn hào, du côn và mặt cũng nhăn nhúm, méo mó
hơn mặt nước ở quãng ấy. Dưới ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân, mỗi hòn đá không chỉ
mang những nét chung ấy mà còn có một gương mặt riêng. Để khắc họa từng gương mặt
riêng của những hòn đá trên thác đá Sông Đà, Nguyễn Tuân đã phải lao động cật lực, khổ
công quan sát và tung ra trường từ vựng hết sức giàu có, phong phú. Phép liên tưởng và
nhân hóa, kết hợp với những động từ, tính từ: chỉ hành động (nhổm cả dậy, vồ lấy, chặn
ngang, dụ, đánh khuýp quật vu hồi, đánh tan, tiêu diệt), chỉ tính cách (ngỗ ngược), hình sắc
(nhăn nhúm, méo mó, to, bé), tư thế (đứng, ngồi, nằm) khiến người đọc cảm nhận Sông Đà
mang gương mặt của dân anh chị, những kẻ côn đồ chuyên đi đòi nợ thuê bặm trợn và sẵn
máu giang hồ.
Sự nham hiểm quỷ quyệt của Sông Đà đối với những người lái đò được thể hiện rõ
nhất ở những thế trận mà đá dàn bày. Đội quân đá ấy ngàn năm vẫn mai phục hết trong
lòng sông. Đá sông Đà dường như không đứng, nằm, ngồi một cách tùy tiện mà Sông Đà
đã giao việc cho mỗi hòn. Mỗi hòn một dáng (đứng, nằm, ngồi), mỗi hòn một nhiệm vụ
(đám tảng đám hòn chia làm ba hàng chặn ngang trên sông: hàng tiền vệ là hai hòn canh
một cửa đá trông như là sơ hở giữ vai trò dụ cái thuyền đối phương đi vào sâu nữa; tuyến
giữa sóng nước đánh khuýp quật vu hồi lại, tuyến ba là những boong-ke chìm và pháo đài
đá nổi có nhiệm vụ phải đánh tan cái thuyền lọt lưới đá tuyến trên).
Đá trên sông Đà đã giao việc cho nhau như vậy để dàn bày thành ba thạch trận đá
đầy biến hóa. Mỗi thạch trận đều có rất nhiều cửa tử và chỉ có duy nhất một cửa sinh. Cửa
sinh lúc ở bên tả, lúc ở bên hữu, lúc ở chính giữa. Thạch trận thứ nhất: Sông Đà bày ra năm
9
cửa trận, có bốn cửa tử, một cửa sinh, cửa sinh nằm lập lờ phía tả ngạn sông. Thạch trận
thứ hai: “RL 6 H4 C C U ; : 4+H :% C ? J /S F
84 S $4 ?" i Y: < 2 ? /6 4N
84Q 4 < 2 4+H”. Đến thạch trận thứ ba: j C T% 6 6 / H4
4< 2 " 0 4< J A ( + ? A + $ - Q4 F : "
Tại đây những boong-ke chìm và pháo đài đá nổi ở đầu chân thác phải đánh tan cái thuyền,
tiêu diệt cả thủy thủ và thuyền trưởng trên chiếc thuyền ấy.
Có thể nói, bằng vốn kiến thức phong phú, sự tài hoa, uyên bác Nguyễn Tuân đã sử
dụng kiến thức ở nhiều lĩnh vực như giao thông, điện ảnh, quân sự, võ thuật (“mai phục”,
“chặn ngang”, “canh”, “đánh tan”, “tiêu diệt”, sóng: “đánh khuýp quật vu hồi”, “đánh giáp
lá cà”, “đòn tỉa”, “đòn âm”)... làm hiện lên hình tượng con Sông Đà dữ dội, hung bạo đến
khủng khiếp. Con Sông Đà như một loài thủy quái, hung hăng, bạo ngược, là một thứ thiên
nhiên Tây Bắc với “diện mạo và tâm địa một thứ kẻ thù số một”. Con sông mà “hằng năm
và đời đời kiếp kiếp làm mình làm mẩy với con người Tây Bắc và phản ứng giận dỗi vô tội
vạ với người lái đò Sông Đà”. Chẳng thế mà sông Đà được gắn với câu đồng dao thần
thoại Sơn Tinh Thủy Tinh:
Núi cao sông hãy còn dài
Năm năm báo oán đời đời đánh ghen.
3. Đánh giá
3.1. Nghệ thuật
Nguyễn Tuân đã dùng hết bút lực để thi tài với tạo hoá. Ông dùng những câu góc
cạnh, giàu tính tạo hình, những câu nhiều động từ mạnh nối tiếp nhau, dồn dập; sử dụng lối
nói ví von, ẩn dụ, tượng trưng, liên tưởng đầy bất ngờ, chính xác, thú vị; vận dụng hiểu
biết của nhiều ngành khác nhau: địalý,l ịch sử, hội họa, văn chương và những tri thức về tự
nhiên để khắc họa vẻ đẹp của sông Đà. Cùng với nghệ thuật nhân hóa, liên tưởng phong
phú, ngòi bút miêu tả độc đáo, con sông Đà từ một đối tượng vô tri vô giác, khi bước vào
trang văn Nguyễn Tuân đã trở thành một sinh thể có tính cách và tâm lí rất ghê gớm, đáng
sợ.
3.2. Nội dung
Đoạn trích là khúc ca ca ngợi vẻ đẹp hung bạo, đầy cá tính của sông Đà, biểu tượng
cho vẻ đẹp hùng vĩ, dữ dội của thiên nhiên Tây Bắc. Đó chính là sức mạnh của thiên nhiên
mà con người cần chinh phục và cũng là niềm tự hào của tác giả về Tổ quốc hùng vĩ, giàu
đẹp. Qua đó ta có thể hình dung những vất vả gian lao mà những người lái đò phải vượt
qua, từ đó ta càng khâm phục hơn ý chí kiên cường và tài trí của họ trong việc chinh phục
con sông, bắt nó phải quy phục và cống hiến cho cuộc sống của con người.
3.3. Nhận xét về phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân
- Hình ảnh sông Đà hung dữ ở một mức độ ghê gớm, hơn tất cả mọi con sông đã
được tái hiện trong văn học, là bởi vì cảm quan sáng tác của Nguyễn Tuân chỉ hứng thú với
những vẻ đẹp vượt lên mức bình thường, gây ấn tượng mãnh liệt.
- Biểu hiện phong cách tài hoa, uyên bác của nhà văn Nguyễn Tuân: Ông không
chấp nhận sự sáo mòn. Ông luôn tìm kiếm những cách thức thể hiện, những đối tượng mới
10
mẻ. Nhà văn luôn tiếp cận sự vật ở phương diện văn hóa thẩm mĩ, có ấn tượng với những
sự vật gây cảm giác mạnh (Sông Đà là một sinh thể như vậy). Ông có xu hướng muốn tô
đậm cái cá tính, phi thường của dòng sông Đà để gây cảm giác mãnh liệt, dữ dội. Tác giả
bộc lộ sự tinh vi trong mĩ cảm với trường liên tưởng phong phú, ngôn ngữ vừa phong phú
vừa tinh tế. Một cái tôi uyên bác khi huy động mọi kiến thức thuộc nhiều lĩnh vực khác
nhau để khắc họa hình tượng sông Đà. Nét độc đáo kết hợp với sự tài hoa và uyên bác
trong ngòi bút Nguyễn Tuân khiến cho hình tượng sông Đà trở nên đặc sắc và đáng nhớ.
- Phong cách nghệ thuật đã thể hiện rõ Nguyễn Tuân là nhà văn có ý thức tự
khẳng định cá tính độc đáo của mình. Chứng tỏ ông là người có một lòng yêu quê hương
đất nước tha thiết, một cuộc đời lao động nghệ thuật khổ hạnh, một trí thức tâm huyết với
nghề. Người đọc yêu hơn, trân trọng hơn phẩm chất, cốt cách của con người đáng quý này.
Đoạn số 3:
… 9 2 2 U *% 4< . A * S
*+ ( *+ ? k`l" #( /: S D 6 C
U : /; K4J I C : 34 " f J 7 2
T% I f 1 ( *+ 4J % ( 7: F 4< <
% !% I : ) U" RL 6 9 6 2 ) 2
. " /6 4+H 4 T =:% f Y /B 2 ! 4+ D -
! : 3 " Q+ K: / ? /Q 5 *" X
, ! + ! D% 4 I+ 5 ^ 4 2 4Q" m
9 D D 3 3 " m 9 4 84+ 4Q E S >
T . U /A +" 34 ; /<% A / L C /Q% J C C
C % C \ Q S ? " 5 + L 6 H4 C C
U ; : 4+H :% C ? J /S F 84 S $4 ?" 0] 6
% ] 2 ] ^" i Y: < 2
? /6 " D ( *+ M , 4< /<% @ T %
D *+ 4< . , : C % 2
7: H S C *+" nJ L - + 84I C . 6 / H K / W
S4 4+H : Q : C C" m f . ( - +% 5 @ /
/ : T =: 6% 5 @ = * 6 ( / U A 2" $ 4< C
9 e 2 ? 4 4+H" 0! o /Y: 2 4< " 0, f
. 64 S% ( &34 \ . 5 2 A C : 9 4 !4
( K = * - 4 4+H 9 /, : C /* *+" 0
/ I+ 5 $" j C T% 6 6 / H4 4< 2 " 0 4< J A
( + ? A + $ - Q4 F : " 05 o 4+H% -
C $ " R4+H , 84 ^ A 7" ,% ,% C :% C
11
/:% ? C /: % 4+H > 6 /Y K4+6 84 T .% ;
K4+6 ; ' M M M" R2 2 `"
(Trích Người lái đò sông Đà [ Nguyễn Tuân, $ L pq, tập một)
Phân tích nhân vật ông lái đò trong đoạn trích trên đây. Từ đó, nhận xét cái
nhìn mang tính phát hiện về con người của nhà văn Nguyễn Tuân.
(Có thể hỏi theo cách khác: khám phá về người lao động mới hoặc tìm thấy chất
vàng mười đã qua thử lửa trong tâm hồn Tây Bắc)
I. MỞ BÀI
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm: R #A 4
- Đoạn trích sau đây trong “Người lái đò Sông Đà” đã làm nổi bật vẻ đẹp của nhân
vật ông lái đò, thể hiện cái nhìn mang tính phát hiện về con người của nhà văn Nguyễn
Tuân: _` 9 2 2 ` R2 2 aa"
II. THÂN BÀI
1. Khái quát (Có thể lược ngắn gọn hơn)
- Hoàn cảnh ra đời: Tùy bút Người lái đò Sông Đà được in trong tập tùy bút Sông Đà
(1960), gồm 15 bài tùy bút và một bài thơ ở dạng phác thảo. Tác phẩm được viết trong thời
kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Đó là kết quả của chuyến đi thực tế của nhà văn
đến Tây Bắc trong kháng chiến chống Pháp, đặc biệt là chuyến đi thực tế năm 1958.
Nguyễn Tuân đến với nhiều vùng đất khác nhau, sống với bộ đội, công nhân và đồng bào
các dân tộc. Thực tiễn xây dựng cuộc sống mới ở vùng cao đã đem đến cho nhà văn nguồn
cảm hứng sáng tạo.
- Lời đề từ: Hai câu đề từ của tác phẩm đã không chỉ thể hiện nguồn cảm hứng mà còn
nêu lên được những ý nghĩa chủ đề của tác phẩm. Ngay từ câu để từ đầu tiên trong tác
phẩm nhà văn Nguyễn Tuân đã viết: “Đẹp vậy thay tiếng hát trên dòng sông”. Có ý kiến
cho rằng lời đề từ này là để ca ngợi vẻ đẹp trữ tình, thơ mộng của dòng sông Đà. Nhưng
không chỉ vậy, nó còn gợi liên tưởng về hình ảnh con người lao động trên dòng sông.
Tiếng hát ở đây là lời ngợi ca con người trong lao động, chinh phục tự nhiên để xây dựng
cuộc sống. Lời đề từ “Đẹp vậy thay tiếng hát trên dòng sông” còn gợi hình ảnh đẹp về con
người trong lao động, sản xuất mà ở đây nhà văn Nguyễn Tuân muốn nhắc đến hình ảnh
ông lái đò trong tác phẩm. Câu đề từ thứ hai nhấn mạnh vẻ đẹp đầy cá tính, dữ dội của
dòng sông Đà để từ đó ta có thể hình dung những vất vả gian lao mà những người lái đò
phải vượt qua, càng khâm phục hơn ý chí kiên cường và tài trí của họ trong việc chinh
phục con sông, bắt nó phải quy phục và cống hiến cho cuộc sống của con người.
- Giới thiệu về nhân vật trong tác phẩm: Nhân vật ông lái đò không có tên tuổi, lai lịch
cụ thể mà chỉ được gọi bằng nghề nghiệp. Nhà văn đã làm mờ tên tuổi của nhân vật để khái
quát vẻ đẹp của con người Tây Bắc, vẻ đẹp của những người lao động bình dị mà phi
thường. Nhà văn Nguyễn Tuân giới thiệu “Ông lái đò Lai Châu bạn tôi” khoảng 70 tuổi.
Ông đã làm nghề lái đò trên Sông Đà được hơn mười năm, đã xuôi ngược trên dòng sông
12
Đà hàng trăm chuyến để trở thành da trâu, xương hổ, cánh kiến về xuôi và ông cũng đã
không lái đò được khoảng 10 năm. Ở tuổi 70, ngoại hình của ông lái đò được nhà văn miêu
tả: cái đầu bạc quắc thước, đôi tay dài lêu nghêu trông rất trẻ trung, đôi chân khuỳnh
khuỳnh như kẹp lấy một cuống lái trong tưởng tượng. Nhãn giới vòi vọi như lúc nào cũng
chờ đợi một cái bến tưởng tượng trong sương mù, giọng nói ào ào như nước mặt gềnh…
Có thể nói ngoại hình của ông lái đò là ngoại hình của một người lao động trên sông nước.
Trên ngực còn ông nổi một số “củ nâu” thương tích mà Nguyễn Tuân rất ngưỡng mộ gọi là
“thứ huân chương lao động siêu hạng”.
Giống như hầu hết các nhân vật của Nguyễn Tuân như Huấn Cao với nét chữ rồng bay
phượng múa, nói lên cái hoài bão tung hoành của cả cuộc đời con người, giống như một cụ
ấm thức dậy từ tờ mờ sáng đã pha trà để nhận ra trong chén trà “có mùi thơ và một triết
lý”… Hình tượng ông lái đò Tây Bắc cũng là một người nghệ sĩ trong công việc, nghề
nghiệp của mình. Ông là tay lái ra hoa, là một người nghệ sĩ trong nghệ thuật vượt thác qua
ghềnh, Để làm nổi bật tài hoa, trí dũng của ông lái đò, nhà văn Nguyễn Tuân đã sáng tạo ra
tình huống nghệ thuật ông lái đò vượt thác Sông Đà là một một cuộc thủy chiến có một
không hai trong lịch sử văn học, giữa một bên là thủy quái sông Đà với sức mạnh ghê gớm,
tâm địa xảo trá và một bên là ông lái đò tuy dẻo dai, cường tráng nhưng đơn độc trong
cuộc chiến gay go, quyết liệt.
2. Vẻ đẹp của ông đò trong đoạn trích
2.1. Tái hiện hình ảnh ông lái đò trong cuộc giao tranh với dòng Sông Đà
Đoạn văn đã tái hiện cuộc giao chiến của ông lái đò với dòng sông Đà một cách sinh
động, đầy gay cấn. Sông Đà trong đoạn trích hiện nguyên hình là một kẻ thù số một của
con người, như một bầy thủy quái rất nham hiểm, chúng bày sẵn những thạch trận đá đầy
biến hóa với mục đích ăn chết cái thuyền, tiêu diệt thủy thủ và thuyền trưởng ở ngay chân
thác.
- Thạch trận thứ nhất: Ở thạch trận thứ nhất, Sông Đà hiện lên là một đối thủ kiên
cường, lắm mưu nhiều kế: A / L C /Q% J C C C % C
\ Q S ? . Cảnh hỗn chiến ác liệt bởi 9 2 2
U * rồi lại < % !% I : ) U. Thác
nước reo hò làm thanh viện RL 6 9 6 2 ) 2 . ,
chúng tạo ra cảnh tượng đầy đe dọa #( /: S D 6 C U
: /; K4J I C : 34 . Một bên giao chiến nữa là ông lái đò.
Trước sự tấn công đầy dữ dội của dòng sông, ông lái đò đã bị thương, mặt méo bệch đi
nhưng ông cố nén vết thương, hai tay giữ chặt mái chèo, chân kẹp chặt lấy cuống lái. Bằng
thể chất dẻo dai, cường tráng, sức chịu đựng phi thường và bằng sự bình tĩnh, tự tin /6
2 4+H 4 T =: f 6 2 ! 4+ D -% &5 : 3
ông lái đò đã vượt qua thạch trận thứ nhất một cách bình tĩnh, chủ động.
- Thạch trận thứ hai: Không được nghỉ tay nghỉ mắt, ông lái đò bước vào ngay thế
trận thứ hai. Thế trận này L 6 H4 C C U ; : 4+H :% C
? J /S F 84 S $4 ?, vẫn chỉ có một cửa sinh còn lại đều là luồng chết.
Thác nước Sông Đà được so sánh với sức mạnh của hổ báo và chúng tấn công những
13
người lái đò một cách quyết liệt với & Y: < 2 ? /6 .
Nhưng bằng nghệ thuật lái đò điêu luyện, ông lái đò chủ động thế tấn công, ông cưỡi lên
sóng thác sông Đà như là cưỡi hổ, “Nắm chặt lấy bờm sóng”, “ghì cuống lái”, “lái biết một
đường chéo để phóng nhanh vào cửa sinh”. Hàng loạt động từ được nhà văn huy động như
một đội quân ngôn ngữ hùng hậu để miêu tả khí thế xung trận của ông đò: Nắm, ghì,
phỏng, lái, tránh, ráo, đè, chặt… Dù ông đò đã bẻ gãy những đợt tấn công của chúng,
nhưng bọn đá sông Đà vẫn chưa chấp nhận chịu thua nên bốn năm thủy quân cửa ải xô ra
để hòng lôi thuyền vào tập đoàn cửa tử nhưng ông đò sớm đã nhận ra dã tâm của chúng,
đứa thì ông tránh mà rảo bơi chèo, lúc thì ông chặt đôi ra để mở đường tiến, khiến thằng đá
tướng đứng chiến ở cửa đá này mặt xanh lè, tiu nghỉu vì thất trận.
- Thạch trận thứ ba: Thạch trận thứ ba ít cửa hơn. Nhưng bên phải bên trái, bên tả
bên hữu đều là cửa chết. Những thế trận mà sông Đà dàn bày quả thực đầy biến hóa, vừa
khiêu khích, dụ dỗ vừa đầy mưu cao kế hiểm. Ở trùng vi thạch trận này, tác giả miêu tả
không nhiều song vẫn làm nổi bật lên được sự nham hiểm của đá thác Sông Đà và tài nghệ
của ông lái đò. Một loạt các động từ lại được nhà văn sử dụng để miêu tả cách đánh của
ông đò: Phóng, chọc thủng, xuyên qua, xuyên nhanh, lái lượn được.. phối hợp phép điệp
"cánh mở, cánh khép", "cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng", âm thanh "vút vút" tạo
nên sự thần tốc trong cách đánh. Quả đúng như Phan Huy Đông đã từng nhận định, "Đọc
Người lái đò Sông Đà, ta có ấn tượng rõ rệt về sự tự do của một tài năng, một đấng hóa
công thực sự trong nghệ thuật ngôn từ". Cách đánh nhanh thắng nhanh đã giúp người lái đò
vượt qua các trùng vi một cách phi thường. Đến đây, người lái đò đã khiến nhà văn, khiến
người đọc và có lẽ là cả đội quân đá trên sông Đà phải hoàn toàn tâm phục khẩu phục. Ông
đã bộc lộ hết tài năng của mình, thể hiện một trình độ chèo lái điêu luyện, dạn dày, siêu
phàm như đua tài cùng tạo hóa. Tài nghệ đến mức điêu luyện của ông đã khiến việc lái đò
như biến thành một môn nghệ thuật: R4+H , 84 ^ A 7" ,% ,%
C :% C /:% ? C /: % 4+H > 6 /Y K4+6 84 T
.% ; K4+6 ; ' M M M" R2 2 `"
=> Có thể nói quy luật trên Sông Đà là một quy luật khắc nghiệt chỉ cần thiếu bình
tĩnh, một chút nghỉ tay, nghỉ mắt, lỡ tay là phải trả giá bằng cả mạng sống. Tuy nhiên,
trong cuộc chiến không cân sức giữa một bên là thiên nhiên dữ dội với một bên là ông lão
đơn độc chỉ có mái chèo là vũ khí duy nhất, chiến thắng đã thuộc về con người.
2.2. Đánh giá về đẹp của ông lái đò
"Nếu Xuân Diệu xem tình yêu là tôn giáo thì Nguyễn Tuân xem cái đẹp như là tôn
giáo của mình" (Gs Trần Đình Sử). Thật vậy, Nguyễn Tuân là một người nghệ sĩ tài hoa,
suốt đời đi tìm cái đẹp, là người nghệ sĩ ý thức đầy đủ về thiên chức sáng tạo. Trong hành
trình sáng tạo nghệ thuật, ông luôn tìm mọi cách để kiếm tìm và phát hiện cái đẹp, cái thật,
cái mới lạ, độc đáo “xưa nay chưa từng có”. Rõ ràng qua cách miêu tả đến tột cùng sự dữ
dội của con sông và cuộc giao chiến giữa những người lái đò với dòng sông hung bạo,
Nguyễn Tuân nhằm đến một mục đích lớn là ca ngợi vẻ đẹp của ông lái đò, ca ngợi sự
dũng cảm, tài trí và chiến thắng vĩ đại của ông.
14
- Tài hoa: Nguyễn Tuân quan niệm “mỗi trang đời là một trang nghệ thuật”, con
người trong tác phẩm của ông dù làm bất cứ công việc gì, ở tầng lớp nào đều là bậc nghệ sĩ
trong công việc, nghề nghiệp của mình. Qua sự miêu tả của Nguyễn Tuân, công việc lái đò
đã trở thành một nghệ thuật và trình độ lái đò của ông lái đò đã đạt đến sự siêu phàm. Tài
hoa của ông lái đò được thể hiện rõ:
+ Ông lái đò rất am hiểu về dòng sông Đà m 9 D D 3
3 " m 9 4 84+ 4Q E S > T . U /A +% ông
cũng nhớ mặt của từng thằng đá với những âm mưu của chúng m f . ( -
+ nên rất ung dung chủ động. Hình ảnh ông lái đò vì thế được đánh giá “trên thác hiên
ngang người lái đò sông Đà có tự do, vì người lái đò ấy đã nắm được cái quy luật tất yếu
của dòng nước Sông Đà”.
+ Ông lái đò đã trở thành một nghệ sĩ điêu luyện trong nghệ thuật vượt thác qua
ghềnh, một tay lái ra hoa. Việc đưa con thuyền tìm đúng luồng nước, vượt qua bao cạm
bẫy của thạch trận sông Đà quả thực là một nghệ thuật cao cường từ một tay lái điêu luyện.
Nhà văn đã sử dụng ngôn từ có tính nghệ thuật cao để miêu tả tài năng của ông lái đò như
“Ông lái đò ghì cương lái”, lái miết một đường chéo”, “đè sấn lên”, “chặt đôi ra để mở
đường tiến”, “thuyền như một mũi tên xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động
lái lượn được”...
+ Hình tượng ông lái đò in đậm dấu ấn phong cách Nguyễn Tuân bởi ông chính là
kiểu người tài hoa, nghệ sĩ, biết nâng nghề nghiệp của mình lên thành một môn nghệ thuật.
Và điều đáng chú ý ở đây là những con người tài hoa, nghệ sĩ được miêu tả không phải là
những con người vĩ đại, phi thường mà là những con người bình dị, thậm chí vô danh.
- Trí dũng: Để làm nổi bật vẻ đẹp trí dũng của ông lái đò, nhà văn đã sáng tạo một
đoạn văn tràn đầy không khí trận mạc, đã tưởng tượng ra cuộc chiến đấu ác liệt giữa người
lái đò với “bầy thủy quái” Sông Đà. Sông Đà dữ dội, hiểm độc với trùng trùng, lớp lớp dàn
trận bủa vây, có sự hợp sức của nhiều thế lực: sóng, nước, đá…còn ông đò là một viên
tướng dũng cảm tả xung hữu đột, tỉnh táo nhanh nhẹn, quyết đoán chỉ huy và điều khiển
con thuyền qua nhiều vòng, nhiều cửa và cuối cùng ông lái đò đã chiến thắng. Nhà văn
Nguyễn Tuân cũng tung ra những kiến thức về quân sự, võ thuật, thể hiện một vốn kiến
thức rất phong phú uyên bác để làm nổi bật vẻ đẹp như một anh hùng trên sông nước của
ông lái đò.
3. Đánh giá về đoạn trích
3.1. Về nghệ thuật:
Với tình huống đầy thử thách giúp nhân vật bộc lộ phẩm chất, lối dựng cảnh đặc
sắc, giàu giá trị tạo hình, cách kể chuyện kịch tích, các phép liên tưởng tưởng tượng độc
đáo, đầy bất ngờ và thú vị, các biện pháp tu từ so sánh, nhân hóa, điệp ngữ, sử dụng tri
thức ở nhiều lĩnh vực như điện ảnh, võ thuật, thể thao; nghệ thuật xây dựng nhân vật chú
trọng tô đậm nét tài hoa nghệ sĩ; ngôn ngữ sống động, biến hóa phong phú, những câu văn
co duỗi nhịp nhàng, giàu hình ảnh và sắc thái, mà nói như nhà thơ Phạm Tiến Duật là
những câu nói "tỉa tót mà vẫn mạch lạc góp phần miêu tả cuộc chiến hào hùng và khẳng
định vẻ đẹp tài hoa, trí dũng của nhân vật.
15
3.2. Cách nhìn mang tính phát hiện về con người của nhà văn Nguyễn Tuân.
- Qua nhân vật ông lái đò, Nguyễn Tuân có cách nhìn mang tính phát hiện về người
lao động mới: Ông đò chính là biểu tượng cho vẻ đẹp tâm hồn của người lao động miền
Tây Bắc âm thầm, giản dị, bình thường, nhỏ bé nhưng đã làm nên những kì tích lớn lao
trong công cuộc chiến đấu với thiên nhiên hung dữ. Hình tượng ông lái đò nơi thác sông
Đà hoang vu, khuất nẻo là bản anh hùng ca ca ngợi con người, là bức tượng đài sừng sững
về con người trong công việc lao động chính phục tự nhiên để giành lấy miếng cơm manh
áo. Thông qua hình tượng ông lái đò, nhà văn Nguyễn Tuân thể hiện sự trân trọng, cảm
phục, ca ngợi con người Tây Bắc với chất vàng mười đã qua thử lửa trong tâm hồn, đồng
thời thể hiện rõ sự tin tưởng của nhà văn với công cuộc xây dựng đất nước.
- Qua nhân vật ông đò cho thấy sự thay đổi trong cách tiếp cận con người của
Nguyễn Tuân sau cách mạng: Trước cách mạng, con người Nguyễn Tuân hướng tới ca
ngợi là những “con người đặc tuyển, những tính cách phi thường”. Sau cách mạng, nhân
vật tài hoa của Nguyễn Tuân có thể tìm thấy ngay trong công cuộc chiến đấu, lao động
hàng ngày của nhân dân.
- Nhà văn bộc lộ quan niệm về con người, tài hoa nghệ sĩ và anh hùng
+ Với Nguyễn Tuân con người dù làm bất cứ nghề nghiệp, công việc nào nếu đạt
đến trình độ thành thạo và điêu luyện thì đều rất đáng quý đáng trọng vì khi đó ở họ bộc lộ
sự tài hoa nghệ sĩ.
+ Những người tài hoa nghệ sĩ không chỉ có ở những lĩnh vực có tính nghệ thuật mà
còn có ở trong những lĩnh vực tưởng không liên quan đến nghệ thuật. Người nghệ sỹ
không chỉ là người sáng tạo ra cái đẹp mà còn là người biến công việc lao động của mình
trở thành một nghệ thuật…Như ông lái đò trong tác phẩm đã trở thành người nghệ sĩ trong
nghệ thuật vượt thác qua ghềnh và biến công việc lái đò thành một nghệ thuật.
+ Những người anh hùng không chỉ có ở nơi chiến trường mà còn có ngày ở trong
cuộc sống hằng ngày trong cuộc vật lộn với tự nhiên để giành lấy cuộc sống.
3.3. Phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân
- Đoạn văn góp phần thể hiện phong cách Nguyễn Tuân tài hoa, uyên bác với thể tuỳ
bút vừa giàu tính hiện thực, vừa tràn ngập cái tôi phóng túng đầy cảm hứng, say mê…
- Biểu hiện phong cách tài hoa, uyên bác của nhà văn Nguyễn Tuân: Ông không chấp
nhận sự sáo mòn. Ông luôn tìm kiếm những cách thức thể hiện, những đối tượng mới mẻ.
Nhà văn luôn tiếp cận con người ở phương diện tài hoa, nghệ sĩ. Tác giả bộc lộ sự tinh tế
trong mĩ cảm với trường liên tưởng phong phú, ngôn ngữ vừa phong phú vừa điêu luyện.
Một cái tôi uyên bác khi huy động mọi kiến thức thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau để khắc
họa hình tượng. “Người lái đò sông Đà” tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân
sau cách mạng.
Đoạn số 4
0: 4 & 4 & /$ @% 34 I V F
/: I+ / RI+ nD 4 A : : ?: 4< 4 ,
#=: J T K4I" R 9 @ + I+ K4I + /6 % 9
K4+6
16
84 I+ 4 @ K4J & . " # K4I & K -
S% 5 . K 4 K 2 rI G" # 4
. ; ; S e & ( 3 @ /M4 $% ; ; 4 e
Q &$ A * 9 ' @ ) 4 H" 0 H : *+ &
Y ' &I h 9 = C : / ^ ' RI+ : - \
6 RI+ : 24% /< 5 2 2 : < $"
9 3 @ J I" 04+2 *+ A /; , > 9 T
I4% 9 *+ = ) :" # 6 ?% 846 * @ D ^ /
" s4J &J ,% /. D *+ : : /t : W 24
T : D @ /< e ?+" R @ 2 Y 6 4 D
_u6 : 4+F iT 0I4a" n % 9 % 4<
4< T . /6 " 0: % / : % 4 *+ D 4
@ &3% 4 J ? 6 : 5 849" /; & + /< ? D /
% , 2% \ \ * * ( ? J I% ( &34 J I *+ @
2 D F D 5% J J &W4 & *+% /< J ? o S D e
> + *+"
v$ L pq% Tập một, NXB Giáo dục, 2008, tr.191-192)
Cảm nhận vẻ đẹp hình tượng con sông Đà trong đoạn trích trên đây. Từ đó
nhận xét về chất thơ trong đoạn trích.
I. MỞ BÀI
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm: R #A 4
- Đoạn trích sau đây ca ngợi vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình của sông Đà thể hiện chất thơ
trong sáng tác của Nguyễn Tuân _0: 4 &`+ *+a"
II. THÂN BÀI
1. Khái quát
- Hoàn cảnh ra đời: Tùy bút Người lái đò Sông Đà được in trong tập tùy bút Sông Đà
(1960), gồm 15 bài tùy bút và một bài thơ ở dạng phác thảo. Tác phẩm được viết trong thời
kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Đó là kết quả của chuyến đi thực tế của nhà văn
đến Tây Bắc trong kháng chiến chống Pháp, đặc biệt là chuyến đi thực tế năm 1958.
Nguyễn Tuân đến với nhiều vùng đất khác nhau, sống với bộ đội, công nhân và đồng bào
các dân tộc. Thực tiễn xây dựng cuộc sống mới ở vùng cao đã đem đến cho nhà văn nguồn
cảm hứng sáng tạo.
- Lời đề từ: _0, + V4 [ D 4ab Nhà văn Nguyễn
Tuân đã đặc biệt muốn nhấn mạnh cá tính độc đáo của của dòng sông. Sông Đà khác hẳn
các dòng sông khác bởi nếu tất cả các dòng sông khác đều chảy về hướng đông thì riêng
Sông Đà chạy về hướng bắc. Có lẽ vì con sông đặc biệt như vậy nên nó trở thành đối tượng
rất phù hợp với cá tính sáng tạo của Nguyễn Tuân, nó được tác giả tìm đến để thể hiện cá
tính nghệ thuật của mình. Ở lời đề từ _1 Q+ + 2 /6 & a tác giả lại
thể hiện xúc cảm mãnh liệt trước vẻ đẹp trữ tình của dòng sông và con người gắn bó với
17
dòng sông ấy, bộc lộ rõ cảm hứng chủ đạo của tác phẩm là ngợi ca thiên nhiên và con
người Tây Bắc.
- Nguyễn Tuân là nhà văn theo chủ nghĩa xê dịch và ưa cảm giác mạnh. Giống như các
nhà văn theo chủ nghĩa xê dịch, Nguyễn Tuân thích đi nhiều để thay đổi cảm giác cho các
giác quan. Ông không thích những gì bình thường và tầm thường nên đối tượng mà ông
miêu tả đã đẹp thì phải đẹp đến mức tuyệt mĩ, dữ dội phải đến mức khủng khiếp và tài
năng phải đến mức siêu phàm. Con sông Đà của Tây Bắc rất phù hợp với mĩ cảm của nhà
văn nên bằng quan sát tỉ mỉ, sự liên tưởng, tưởng tượng phong phú và tài năng nghệ thuật
xuất sắc nhà văn Nguyễn Tuân đã xây dựng con sông Đà thành một hình tượng nghệ thuật
hấp dẫn, biến nó từ vật vô tri vô giác thành một sinh thể có sức sống, có tâm trạng và tính
cách. Có lẽ cũng vì thế tác giả gọi nó là “con” và viết hoa tên của nó thành Sông Đà. Con
Sông Đà hiện lên trong tác phẩm với hai nét tính cách nổi bật là hung bạo và trữ tình. Hai
nét tính cách tưởng chừng như đối lập nhưng lại cùng tồn tại trong một hình tượng nghệ
thuật. Sông Đà rất hung dữ, hiểm ác gây tai họa cho con người nhưng cũng là một công
trình nghệ thuật tuyệt vời của tạo hóa, vừa hùng vĩ vừa thơ mộng tạo nên chất men say cho
con người trong cuộc sống. Đoạn trích nêu trên nằm trong phần miêu tả tính cách trữ tình,
thơ mộng của Đà giang.
2. Hình tượng con Sông Đà qua đoạn trích: Sông Đà có vẻ đẹp trữ tình, thơ mộng
- Điểm nhìn nghệ thuật: Văn chương luôn đòi hỏi người nghệ sĩ phải tìm tòi những
điều mới lạ. Bởi chính sự mới lạ là một trong điều cần có dẫn đến sự thành công trong sáng
tác của người nghệ sĩ. Vẫn quan sát con sông Đà ở chiều không gian, nhưng trong tùy bút
“Người lái đò Sông Đà”, Nguyễn Tuân đã tạo ra sự mới lạ khi ông quan sát và miêu tả
Sông Đà với một điểm nhìn khác biệt là nhìn từ trên cao nhìn xuống. Nếu trước đó nhà văn
viết rằng mình ngồi trên máy bay mà quan sát sông Đà R + ? 84
*+ 3% > 6 : @ @ @ H : RI+ nD thì
trong đoạn văn này tác giả vẫn thể hiện điểm nhìn ấy: R 9 @ + I+
K4I + /6 % 9 K4+6 84 I+ 4 @ K4J & .
"
- Con sông Đà mang vẻ đẹp của một mĩ nhân: Từ điểm nhìn đặc biệt đó, tác giả đã
cho người đọc thấy Sông Đà thật mềm mại, thướt tha chảy dọc trên mảnh đất Tây Bắc rộng
lớn. Tác giả còn nhìn thật sâu vào dòng Sông Đà để thấy “: 4 &% 4 &
/$ @. Hai từ “tuôn dài” được lặp lại hai lần cho ta thấy được dòng chảy
của Sông Đà dường như nó vô cùng, vô tận như không có điểm dừng cùng với nhịp câu
toàn là thanh bằng đã phần nào diễn tả sự chảy trôi của con sông sao nó chậm rãi êm đềm
đến như thế! Nó thật khác so với sự cuồn cuộn của “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió”
của mặt ghềnh Hát Loóng phần thượng nguồn. Không chỉ thế ta còn bắt gặp được sự tài
hoa, cái chất “ngông” của Nguyễn Tuân trong cách bỏ dấu câu khiến cho dòng sông nó cứ
chảy trôi, chảy trôi êm ả giữa miền đất rộng lớn Tây Bắc. Nhà văn còn so sánh Sông Đà
như “một áng tóc trữ tình” làm cho dòng Sông Đà giống như một làn tóc mây thướt tha,
bồng bềnh và mang vẻ đẹp của người thiếu nữ kiều diễm. Từ “áng” vừa có sự quen thuộc
bởi ta thường bắt gặp từ “áng” ở áng văn, áng thơ vừa có sự mới lạ vì ở đây nó được
18
Nguyễn Tuân gắn với tóc thành “áng tóc trữ tình”. Cả cụm từ ấy đã bộc lộ vẻ đẹp đầy chất
thơ, sự trẻ trung và mềm mại đầy nữ tính của con sông Tây Bắc.
- Sông Đà ẩn hiện giữa thiên nhiên Tây Bắc đầy thơ mộng: Sông Đà như mái tóc của
người thiếu nữ kiều diễm mà 34 % I V F /: I+ / RI+ nD 4 A
: : ?: 4< 4 , #=: J T K4I. Vẻ đẹp của
dòng sông được tác giả điểm tô như mái tóc được cài lên những những bông hoa đầy sắc
màu như màu trắng tinh khôi của hoa ban, màu đỏ thắm của hoa gạo trong tiết tháng Ba.
Ngoài ra, dòng sông còn mang vẻ đẹp ấm áp, mơ màng khi nó ẩn hiện giữa #=:
J T K4I. Vẻ đẹp của dòng sông hài hòa với núi rừng Tây Bắc, được núi rừng điểm
tô thêm cho nhan sắc thêm mĩ miều. Có thể nói những câu văn đầu tiên trong đoạn văn này
của Nguyễn Tuân xứng đáng được xếp vào những câu văn đẹp được coi là “tờ hoa”, “trang
hoa” trong văn học Việt Nam.
- Vẻ đẹp trữ tình của sông Đà được thể hiện qua màu sắc nước: Nhà văn còn có sự
quan sát theo chiều thời gian để thấy rõ sự biến đổi khôn lường của màu nước Sông Đà
theo mùa. Khi miêu tả sắc nước Sông Đà Nguyễn Tuân đã bộc lộ sự mê hoặc trước khi
miêu tả sắc nước Sông Đà trong hai mùa: xuân và thu: “Tôi đã nhìn say sưa làn mây mùa
xuân bay trên Sông Đà, tôi đã xuyên qua đám mây mùa thu mà nhìn xuống nước Sông
Đà”. Về mùa xuân sông Đà hiện lên với màu “xanh ngọc bích” – đó là một màu xanh vừa
trong vừa sáng, đầy hấp dẫn. Ta như bắt gặp màu xanh này trong bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ”
của nhà thơ Hàn Mạc Tử khi miêu tả khu vườn thôn Vĩ: “Vườn ai mướt quá xanh như
ngọc”. Điểm độc đáo ở đây của cả hai tác giả đều lựa chọn sắc xanh ngọc bích để tăng
thêm vẻ đẹp của đối tượng miêu tả. Nhưng có lẽ việc sử dụng màu xanh ngọc bích để miêu
tả sắc Sông Đà của Nguyễn Tuân vào mùa xuân như đang là tăng thêm sự quý giá của
Sông Đà như “chất vàng” mà Nguyễn Tuân luôn tìm kiếm. Không chỉ thế Nguyễn Tuân
còn khẳng định sự khác biệt về màu sắc của Sông Đà không “xanh như màu xanh canh hến
của sông Gâm sông Lô”. Đến đây ta nghĩ đến lời nhận xét của TS. Trịnh Thu Tuyết: “Việc
so sánh màu ngọc bích của Sông Đà với màu xanh canh hến của sông Gâm, sông Lô không
phải chỉ là biểu hiện quen thuộc của một nhà văn thị tài, thích khoe tài, khoe uyên bác mà
còn là một sự thiên vị của một niềm yêu”. Có lẽ Nguyễn Tuân yêu Sông Đà quá nhiều nên
bất cứ con sông nào với ông cũng không đẹp như sông Đà.
Mùa xuân qua đi mùa thu lại đến sắc nước Sông Đà có sự biển đổi đầy rõ nét không
chỉ còn là sắc xanh ngọc bích đầy hấp dẫn đấy nữa mà thay vào đó là màu “lừ lừ chín đỏ”.
Phải chăng là màu đỏ của “Những dòng sông đỏ nặng phù sa” mà Nguyễn Đình Thi miêu
tả? Và như để giải thích rõ hơn về màu đỏ của nước sông Đà nên sau đó tác giả đã miêu tả
và so sánh sắc đỏ ấy với hai đối tượng khác nhau là khiến người đọc dễ hình dung hơn là
_; ; 4 e Q &$ A * 9 ' ) @ ) 4 H” hay _ &
( 3 @ /M4 $a. Nhà văn đã sử dụng thành công biện pháp tu từ so
sánh màu sắc của con sông với sắc thái, tâm trạng của con người lúc “bất mãn”, “bực bội”
khi mỗi đợt thu về đã làm cho con sông Đà hiện lên không còn vô tri, vô giác nữa mà
khiến nó trở nên có hồn và có cảm xúc. Ngoài ra ta còn thấy được cái tài của Nguyễn Tuân
khi đặt hai màu của hai mùa khác nhau trong năm, xanh và đỏ ở cạnh nhau cũng vô cùng
tinh
19
Bấm Tải xuống để xem toàn bộ.