MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Văn học hiện đại Nhật Bản đã khẳng định vị thế của mình trên bản đồ
văn học thế giới. Cùng với các nền văn học Châu Á đang lớn mạnh như Trung
Quốc, Ấn Độ,… văn học Nhật đã bước phát triển vượt bậc trong quá trình
giao lưu, quốc tế hóa đang diễn ra mạnh mẽ. Văn học đương đại Nhật Bản trong
khoảng 20 năm gần đây đã có sự chuyển biến lớn trong lòng của nó. Đọc các tác
phẩm văn học Nhật ngày nay, chúng ta khó thể tìm thấy những trang văn
mượt mà, trau chuốt, điển hình cho một Nhật Bản đậm chất truyền thống như
các sáng tác của Kawabata Yasunari, Tanizaki Junichiro, Kenzaburo Oe... Thay
vào đó những tên tuổi hoàn toàn mới với lối viết văn hiện đại: Murakami
Haruki, Murakami Ryu, Banana Yoshimoto, Yamada Amy,… Các nhà văn trẻ
của Nhật đã đang làm một “cuộc cách mạng” thay đổi diện mạo của nền văn
học thuần túy, để đưa nền văn học này ngày một xích lại gần hơn với các nền
văn học lớn trên thế giới. Nghiên cứu, tìm hiểu văn học Nhật Bản đương đại
việc làm cần thiết trong bối cảnh toàn cầu hóa như hiện nay.
1.2. Haruki Murakami nổi lên như một hiện tượng văn học toàn cầu mặc
dù văn chương của ông không dễ để lĩnh hội. Có thể khẳng định rằng, Murakami
một trong những tác giả nổi tiếng ảnh hưởng đến văn học Nhật Bản
thế giới. Tiểu thuyết gia người Mỹ, Richard Powers, cho biết rằng Murakami
được xem một trong số hiếm hoi những nhà văn quốc tế tầm ảnh hưởng
quan trọng Mỹ nhiều nước khác: “Làm thế nào cùng một tác gia ấy lại
vừa tác gia ăn khách vượt bậc Ý Hàn Quốc, vừa hiện tượng văn hoá
Thổ Nhĩ Kỳ, vừa là tác giả văn học được kính nể nhất ở những nơi khác biệt hẳn
nhau như Nga Trung Quốc!” Việt Nam, Murakami một trong số ít nhà
văn Nhật Bản tác phẩm được dịch gần như đầy đủ được giới nghiên
cứu, phê bình quan tâm, đánh giá cao. vậy, việc tìm hiểu về Murakami tác
phẩm của ông là điều cần thiết cho việc tiếp cận với thành tựu văn học Nhật Bản
đương đại, thúc đẩy quá trình giao lưu văn học, văn hóa giữa hai nước Việt
Nhật. Từ đó được cái nhìn chung về hội, văn hóa con người Nhật Bản
từ hậu thế chiến thứ hai đến thời điểm hiện tại.
1.3. Tài năng của tiểu thuyết gia Murakami Haruki tầm ảnh hưởng trên
toàn thế giới. Trả lời vấn đề này, nhà văn khẳng định: “Tôi không nghĩ mình
1
nhà văn hậu hiện đại, mặc nếu bạn gọi tôi bằng cái tên đó thì tôi không phản
đối. Nói thật, người ta gọi tôi là gì tôi cũng chẳng quan tâm. Theo ý tôi, tôi chỉ là
người kể chuyện. Một người kể chuyện khá cừ, chắc vậy. Tôi cho rằng trên thế
giới hai loại tiểu thuyết gia: tiểu thuyết gia đầy cảm hứng tiểu thuyết gia
thường. Bạn cũng đoán được rồi đó, tôi muốn mình loại thứ nhất.” Lời phát
biểu ấy đã gợi mở cho chúng tôi hướng tiếp cận với nghệ thuật tự sự của
Murakami Haruki.
Haruki Murakami sáng tác cả hai thể loại truyện ngắn tiểu thuyết.
thể loại truyện ngắn, Murakami khá thành công với nhiều truyện ngắn được tập
hợp trong các tuyển tập như: Con voi biến mất hay Cây liễu mù, người đàn
ngủ... Nhưng Murakami đặc biệt thành công được biết đến nhiều hơn thể
loại tiểu thuyết với nhiều tác phẩm được đọc dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế
giới như: Lắng nghe gió hát, Rừng Na-Uy, Phía Nam biên giới, phía Tây mặt
trời, Biên niên chim vặn dây cót, Người tình Sputnik, Kafka bên bờ biển
Trong số đó, tiểu thuyết Rừng Na-Uy tuy không phải tiểu thuyết xuất sắc
nhất của Murakami, nhưng đã được dịch đón đọc mọi quốc gia nơi
xuất hiện. Rừng Na-Uy được đánh giá là “nơi Murakami phá vỡ địa hạt cấm cuối
cùng, để cho cái nhìn phóng khoáng tự nhiên về xác thân của phương Tây
tràn ngập trong văn ông” [14; 1].
Tiểu thuyết Rừng Na-Uy một tác phẩm sex hay một tác phẩm nghệ
thuật đích thực, đến nay, điều này vẫn còn gây khá nhiều tranh luận trong giới
nghiên cứu, phê bình Việt Nam. Nhưng không thể phủ nhận sức ảnh hưởng của
đối với giới trẻ đương đại Việt Nam bởi đã phản ánh được tâm tư, cuộc
sống những mối quan tâm của họ hiện nay. Hàng trăm cuộc thảo luận trên
các diễn đàn của giới trẻ Việt Nam được mở ra để bàn luận về đề tài này đã
khẳng định chỗ đứng của Rừng Na-Uy trong lòng độc giả trẻ Việt Nam. Tuy
nhiên, nghiên cứu chính thức về Haruki Murakami cũng như tiểu thuyết Rừng
Na-Uy Việt Nam còn khá ít ỏi. Do vậy, chọn nghiên cứu Rừng Na-Uy của
Haruki Murakami, chúng tôi mong muốn được hiểu hơn về cuộc đời, con
người cũng như giá trị tác phẩm của ông. Đồng thời, mong muốn góp tiếng nói
của mình trong việc đánh giá Rừng Na-Uy, trước hết qua nghệ thuật tự sự của
tác phẩm.
1.4. Tự sự học hướng nghiên cứu triển vọng trong nghiên cứu văn
học Việt Nam. Hiện tại, tuy số lượng những luận văn, luận án đi theo hướng
2
này chưa quá nhiều, nhưng cũng đã một số công trình đạt kết quả nhất định.
Điều đó minh chứng cho sự “bén rễ” của thuyết tự sự hiện đại nước ta. Nếu
được vận dụng hợp phù hợp, hướng nghiên cứu này sẽ mang lại kết quả
khả quan cho việc giải các hiện tượng văn học, các tác giả của giai đoạn văn
học hiện đại hậu hiện đại. Từ những do trên, chúng tôi chọn đề tài “Nghệ
thuật tự sự tiểu thuyết Murakami Haruki” với mong muốn góp phần khám phá,
luận giải đặc trưng thế giới nghệ thuật tiểu thuyết của Murakami Haruki, người
đã “thổi luồng gió mới vào văn học Nhật Bản”.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
- Nhà nghiên cứu Nhật Chiêu trong bài “Thực tại trong ma ảo” đã nhận
định khái quát về phong cách tiểu thuyết Murakami: “Tiểu thuyết của Murakami
Haruki, với tinh thần chơi đùa tự do tưởng tượng được kể bằng một bút pháp
sống động đam như Nghìn lẻ một đêm của thời hiện đại. Nghệ thuật của
ông trở về với ngọn nguồn của tiểu thuyết, thời tiểu thuyết còn đầy tự do,
không bó buộc phải sao chép hiện thực.” [176, tr.4] Nhật Chiêu đã bước đầu chú
ý tới lối kể chuyện hấp dẫn, cuốn hút của Murakami, so sánh với lối kể của
Nghìn lẻ một đêm – kiệt tác của văn chương nhân loại. Trong một bài phỏng vấn
khác, Nhật Chiêu cũng đề cập tới hai yếu tố độc đáo trong nghệ thuật tự sự của
Murakami đó “cấu trúc mở” “ngôn ngữ mới”: “Cấu trúc tác phẩm
Murakami sử dụng trong hầu hết các sáng tác của ông rất mở.” “Murakami
luôn nỗ lực sáng tạo một ngôn ngữ mới cho văn chương Nhật. Ngôn ngữ thường
thấy trong văn chương Nhật luôn mờ ảo, tế nhị. Trong khi đó, Murakami muốn
ngôn ngữ văn chương mới phải sáng tỏ, sống động, phải gần gũi với lời ăn tiếng
nói chân thật mà người dân Nhật vẫn nói hàng ngày.”
Năm 2007, NXB Tổng hợp TP Hồ Chí Minh đã cho xuất bản cuốn Truyện
ngắn Murakami - Nghiên cứu phê bình của tác giả Hoàng Long. Trong cuốn
sách này, người đọc được nhìn lại tiểu sử của nhà văn cũng như bối cảnh xuất
hiện các tác phẩm của ông đặt trong sự thay đổi về văn học, hội cả chính
con người H. Murakami. Để làm rõ sự thay đổi của nền văn học Nhật, tác giả đã
đặt những tác phẩm của ông đứng cạnh Kawabata, nhà văn Nhật đầu tiên đoạt
giải Nobel văn học. Cuốn sách giới thiệu 14 truyện ngắn tiêu biểu của nhà văn
H. Murakami 5 truyện ngắn của Kawabata như một dụ cụ thể cho sự so
sánh một cách tương đối về sự thay đổi của văn học Nhật Bản.
3
Điểm qua tình hình dịch thuật, nghiên cứu Haruki Murakami các tác
phẩm của ông ở Việt Nam căn cứ trên những tài liệu đã bao quát, chúng tôi nhận
thấy nổi bật lên những vấn đề sau đây:
- Việt Nam trên toàn thế giới, tình hình dịch thuật các sáng tác của
Haruki Murakami khá sôi nổi. Qua đó đã giới thiệu được con người, quan
điểm sáng tác và sự nghiệp của Murakami đến với bạn đọc nói chung.
- Tuy nhiên, các bài viết vẫn chỉ dừng lại mức độ giới thiệu một cách
khái quát về Murakami chứ chưa một công trình thực sự nào chuyên sâu về
Murakami các tác phẩm của ông, cụ thể Rừng Na-Uy, các nhà nghiên
cứu trong và ngoài nước đánh giá rất cao về tác phẩm này.
- Hướng tiếp cận văn bản văn học theo góc độ tự sự thể nói khá mới
mẻ được nhiều học giả đánh giá triển vọng. Tuy nhiên, số lượng các
công trình nghiên cứu văn học theo hướng đi này còn khá hạn chế. Nếu thì
cũng chỉ những công trình mang tính chất lặp lại, khẳng định lại, ít công
trình đi sâu tìm tòi khám phá cái mới.
Với một tác giả mới như Haruki Murakami, tình hình dịch thuật và nghiên
cứu các tác phẩm của ông diễn ra còn khá chậm, đơn lẻ chủ yếu chỉ những
ý kiến phát biểu nhân, mang tính tổng hợp hơn khám phá. Xác định tiếp
cận tác phẩm theo góc nhìn nghệ thuật tự sự, chúng tôi mong muốn vượt qua
được cái nhìn đơn tuyến của chủ nghĩa cấu trúc để mang lại cái nhìn bao quát
hơn về Rừng Na-Uy.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng: nghệ thuật tự sự (hay nghệ thuật kể chuyện) của Haruki
Murakami trong tiểu thuyết Rừng Na-Uy.
3.2. Phạm vi: Tiểu thuyết Rừng Na Uy - Trịnh Lữ dịch, Công ty cổ phần
văn hoá truyền thông Nhã Nam giữ bản quyền, Nhà xuất bản Hội nhà văn tái
bản ấn hành năm 2014.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Hướng nghiên cứu tự sự học: Tự sự học là hướng nghiên cứu chính của
chúng tôi khi thực hiện đề tài này. Đây là hướng nghiên cứu được vận dụng
xuyên suốt quá trình thực hiện đề tài.
- Kết hợp với các thao tác: phân tích, miêu tả, đối chiếu, so sánh, phướng
pháp văn hóa-văn học…
4
5. Đóng góp của đề tài
Đề tài Nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết Rừng Na uy của Murakami
Haruki làm giàu thêm về các đề tài nghiên cứu văn học đại chúng Nhật Bản, phù
hợp với thực tiễn nghiên cứu văn học Nhật Bản ở nước ta hiện nay. Qua việc tìm
hiểu những nét đặc sắc trong nghệ thuật kể chuyện trong Rừng Nauy, đề tài sẽ
góp phần làm sáng tỏ một số đặc điểm nghệ thuật tự sự trong phong cách của
Murakami Haruki và của văn học đương đại Nhật Bản. Chúng tôi cũng hy vọng
đây sẽ là một trong những tài liệu tham khảo cho sinh viên thuộc khối, ngành
Khoa học Xã hội và Nhân văn trong các trường Đại học và Cao đẳng ở nước ta
khi học về văn học Nhật Bản và tất cả những ai quan tâm đến.
6. Bố cục của tiểu luận
Ngoài phần mở đầu kết luận, tài liệu tham khảo, bố cục của tiểu luận
gồm 3 chương:
Chương 1. Haruki Murakami với tác phẩm Rừng Na-Uy trong dòng chảy
tự sự Nhật Bản
Chương 2. Cấu trúc tự sự của tiểu thuyết Rừng Na-Uy
Chương 3. Một số thủ pháp nghệ thuật tự sự đặc sắc trong tiểu thuyết
Rừng Na-Uy
5
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. HARUKI MURAKAMI VỚI TÁC PHẨM RỪNG NA-
UY TRONG DÒNG CHẢY TỰ SỰ NHẬT BẢN
1.1. Murakami Haruki - cuộc đời và văn nghiệp
Haruki Murakami sinh ngày 12 tháng 1 năm 1949 tại Kyoto (Nhật Bản).
Thời trai trẻ, ông chủ yếu sống tại Kobe, hiện tại sống ở Boston, Mỹ. Cha ông là
con của một thầy tu Phật giáo, mẹ là con gái của một thương gia ở Osaka. Cả hai
đều dạy môn Văn học Nhật Bản. Tuy vậy, ngay từ nhỏ, Haruki Murakami lại
yêu thích âm nhạc văn học phương Tây, đặc biệt nhạc Jazz. Ông đã theo
học ngành nghệ thuật sân khấu tại đại học Waseda, Tokyo.
Ngay từ thuở nhỏ, Haruki Murakami đã khuynh hướng phản kháng đối
với văn hóa văn học truyền thống. Murakami đã chịu ảnh hưởng lớn từ văn hóa
phương Tây, đặc biệt âm nhạc văn học phương Tây. Ông tìm đọc các tác
phẩm của những tác giả Âu Châu thế kỷ XIX. Sau đó, ông tự học tiếng Anh, tìm
đọc nguyên tác những tác phẩm của các nhà văn Mỹ như Kurt Vonnegut,
Truman Capote Richard Brautigan. Ông ham âm nhạc Châu Âu Châu
Mỹ với những thần tượng Elvis Presley, The Beatles, Beach Boys nhạc
Jazz. thể nói, chính những tiền đề này đã góp tiếng nói quyết định đối với
phong cách sự nghiệp văn chương của Haruki Murakami. Những yếu tố về
âm nhạc hay lối sống phương Tây, văn hoá phương Tây đã được Haruki
Murakami chuyển tải vào trong các tác phẩm của mình. Điều này giúp người
đọc nhận ra một Haruki Murakami đặc biệt hơn so với những nhà văn Nhật Bản
khác.
Murakami khởi nghiệp năm 29 tuổi với tiểu thuyết Lắng nghe gió hát
(xuất bản năm 1979) cuốn sách ông sáng tác trong giai đoạn còn làm việc tại
quán bar của mình. Tác phẩm kể lại những cuộc tranh đấu phản kháng của sinh
viên ông đã từng tham gia với một sự hoài nghi nhất định. Ngay từ tiểu
thuyết đầu tay này, Murakami đã được nhận giải thưởng văn học Gunzo
Shinjinsho lần thứ 22 vào năm 1979, mở màn cho sự nghiệp văn chương lẫy
lừng với hàng loạt những giải thưởng lớn, uy tín trong nước quốc tế. Tuy
nhiên, cuộc đăng đàn của Murakami lại khá trầm lặng, sau đó, ông rất ít xuất
hiện trên báo đài. Thời điểm ấy, độc giả cũng chỉ biết tới ông qua bài viết “Nhà
văn trầm lặng được giới trẻ yêu thích” đăng trên báo Asashi vào tháng 12 năm
6
1980. Sau thành công của tiểu thuyết Lắng nghe gió hát, Murakami quyết định
đi theo nghiệp văn.
Để trở thành một nhà văn Nhật Bản nổi tiếng với những tác phẩm lừng
danh như: Rừng Na-uy, Xứ sở diệu kỳ tàn bạo chốn tận cùng thế giới, Phía
Nam biên giới, phía Tây mặt trời, Người tình Sputnik, Biên niên kí chim văn dây
cót, Kafka bên bờ biển, 1Q84 Haruki Murakami luôn không ngừng sáng tạo
thực sự đãviết nát bản đồ mỹ học”. Theo Giáo Mitsuyoshi Numano, tác
phẩm của Haruki Murakami hấp dẫn, phổ quát văn phong trau chuốt, cốt
truyện, cấu tứ, đan xen khéo léo giữa hiện thực ảo, mang phong vị Nhật
Bản vừa đủ trong bầu không khí kiểu Âu sự đồng cảm với cuộc sống
thành thị của những người độc thân trẻ tuổi. Còn theo chúng tôi, bên cạnh những
do kể trên thì cái chính bởi, những điều Haruki Murakami đặt ra trong các
tác phẩm đã khắc chạm đến những vấn đề mang tính nhân loại, đặc biệt cuộc
vật lộn của con người trong hành trình cuộc đời để tìm thấy bản ngã đích thực
của mình trong một thế giới nhiều khả thể. Bằng những hiểu biết về tâm của
người Nhật đương đại, về âm nhạc, triết học, khoa học tự nhiên những khát
khao của con người trong cuộc truy tầm bản ngã, ý nghĩa đích thực của cuộc
sống… trong tác phẩm của mình, Haruki Murakami đã đặt ra những vấn đề
mang tính nhân loại sâu sắc và thực sự đã chạm vào nơi sâu thẳm nhất trong tâm
hồn con người, khiến mỗi lần đọc xong tác phẩm của ông, chúng ta không khởi
ngỡ ngàng vì bắt gặp mình trong đó.
Tính từ khi Rừng Nauy xuất bản cho đến nay, hàng triệu bản sách của
ông đã được lưu hành trên năm mươi quốc gia. Murakami trở thành “hiện
tượng” của văn hóa đương đại. Tiểu thuyết Murakami được như “chất gây
nghiện” đối với độc giả. Cùng với những tên tuổi nổi tiếng thế giới như
J.K.Rowlling, Dan Brown,… Murakami thực sự đã trở thành nhà văn quốc tế
là một trong những tiểu thuyết gia tài năng của thế giới hiện nay.
1.2. Tiểu thuyết Rừng Na-Uy - dấu mốc trên hành trình sáng tạo nghệ
thuật của Haruki Murakami
Sau thành công của tiểu thuyết đầu tay, thời kì thứ hai trong sự nghiệp của
Murakami được tính từ năm 1985, lúc ông nhận giải thưởng danh giá của văn
học Nhật – giải Tanizaki Junichiro cho tiểu thuyết Xứ sở kì diệu tàn bạo và chốn
tận cùng thế giới (Hard-boiled Wonderland and the End of the World). Đây
thời điểm bắt đầu cho sự bùng nổ của “quả bom” Murakami. Ông xuất hiện
7
nhiều hơn trên mặt báo với cách một nhà văn thế hệ hậu chiến. Nhanh
chóng khẳng định tài năng, hai năm sau đó, năm 1987, Murakami xuất bản tiểu
thuyết nổi tiếng Rừng Nauy (The Norwegian wood). Cuốn sách viết về nỗi
đơn, sự trống rỗng, phản ánh chân thực cuộc sống của thế hệ thanh niên Nhật
Bản vào những thập niên 60, 70 của thế kỉ XX. Lập tức, nó trở thành hiện tượng
best seller tại Nhật Bản rồi nhanh chóng lan ra các nước khu vực Châu Á,
được đánh giá “cuốn sách thanh xuân bất tận, bầu bạn với hết thế hệ này đến
thế hệ khác”. Murakami trở thành tiểu thuyết gia nổi tiếng chỉ sau một đêm.
Chính nhà văn cũng bất ngờ điều này. Giới trẻ châu Á say đọc tiểu thuyết
của ông coi ông thần tượng. Nhật, cứ 10 người thì 1 người đọc Rừng
Nauy. Murakami Haruki trở thành một “hiện tượng” trên chính quê hương mình.
Kể từ sau Rừng Nauy, tiểu thuyết nào của ông ra đời cũng trở thành best seller
như thế.
Ở Việt Nam, cho đến nay đã có hai bản dịch Rừng Na-Uy. Tác phẩm được
dịch sang tiếng Việt và xuất bản lần đầu tiên vào năm 1997 do Kiều Liên và Hải
Thanh thực hiện, Bùi Phụng hiệu đính. Bản dịch này không thực sự xuất sắc
đã bị cắt xén khá nhiều câu, nhiều đoạn bị cho “nhạy cảm”, “dung tục”. Năm
2006 bản dịch mới của Trịnh Lữ được Nhà xuất bản Hội nhà văn ấn hành tái
bản gần nhất năm 2014 được đánh giá khá cao.
Mỗi người trong chúng ta thường tự nhủ với bản thân rằng mình một
sinh linh nhỏ giữa bao người. vậy, nỗi đơn cái buồn luôn đeo đuổi;
nhiều cái chết là ở sự mất niềm tin vào cuộc sống. Đọc Rừng Na-Uy, bạn đọc trẻ
tìm thấy sự đồng cảm. Họ tìm thấy những nghĩ suy mà đôi khi không thể gọi nên
lời. Dường như một cái đó chung giữa bạn đọc với Toru Watanabe,
Midori, Naoko Kizuki ... khác thời đại, khác dân tộc hay dòng máu... Ai
cũng sự mất mát nào đó, đều cảm thấy một nỗi trống trải khôn cùng mỗi
khi nghĩ về nó. Chính vậy Rừng Na-Uy đạt được sự đồng cảm của mọi độc
giả. Đó là sự gặp gỡ, sự đồng cảm của những tâm hồn đồng loại.
Nhân vật trong Rừng Na-Uy được đánh giá hiện đại hơn rất nhiều so
với nhân vật trong văn học Nhật Bản truyền thống niềm khao khát được
chính mình, sống cuộc sống của bản thân mình chứ không phải cuộc sống bầy
đàn nhạt nhẽo. Họ bị bủa vây bởi sự cô độc và luôn muốn đi tìm chính mình. Và
do đó thường rơi vào những bi kịch tinh thần. Chính Haruki Murakami cũng cho
8
rằng, trong hội tính ý thức cộng đồng chặt chẽ như Nhật Bản, một tinh
thần cá nhân độc lập là rất khó tồn tại.
CHƯƠNG 2
CẤU TRÚC TỰ SỰ CỦA TIỂU THUYẾT RỪNG NA-UY
2.1. Khái niệm “tự sự” và cấu trúc tự sự trong tác phẩm Rừng Na-uy
2.1.1. Tự sự
Trong tiếng Anh, người ta dùng từ “narrate” nghĩa “kể lại, thuật lại sự
việc”, “narration” với nghĩa “sự kể chuyện, sự tường thuật sự việc”. Như vậy,
“tự sự” tương đương với nghĩa “kể, trần thuật”. Từ đây, “narratology” xuất hiện
với hàm nghĩa là khoa học về trần thuật.
Việt Nam, Lại Nguyên Ân định nghĩa: “Tự sự một khái niệm khoa
học nhằm chỉ một trong ba phương thức biểu đạt của văn học bên cạnh “trữ
tình” và “kịch”. “Tự sự” và “kịch” đều tái hiện hành động diễn ra trong thời gian
và không gian, tái hiện tiến trình các biến cố trong cuộc đời các nhân vật”.
Đứng về phương thức phản ánh đời sống, tác phẩm tự sự loại tác phẩm
phản ánh đời sống trong tính khách quan. Tính khách quan đây được hiểu với
nghĩa nội dung được phản ánh trong tác phẩm mang tính khách quan so với
người kể chuyện. Người kể chuyện, một mức độ nào đó đứng bên ngoài câu
chuyện được kể. Theo Arixtốt, tự sự người kể chuyện kể về những xảy ra
bên ngoài mình, khác với trữ tình kể về chính mình với những tình cảm
cảm xúc của mình, làvậy. Do đó, tính khách quan được hiểu như một nguyên
tắc tái hiện đời sống của tác phẩm tự sự.
Chính vậy, về phương diện cấu trúc tác phẩm, tác phẩm tự sự phải
các sự kiện khách quan xảy ra để tạo thành một câu chuyện hoàn chỉnh. Muốn
các sự kiện thì phải con người tức các nhân vật hoạt động, cảm xúc
quan hệ với nhau. Tất cả những con người sự kiện đó hoạt động tồn tại
trong những không gian thời gian nhất định. phải một người nào đứng
ra để kể các câu chuyện xảy ra. Cũng như câu chuyện đó phải được kể dưới một
góc nhìn, một quan điểm, một tình cảm nhất định. Điều ấy dẫn đến việc phải
lời văn đặc thù cho từng kiểu kể chuyện, từng giọng kể chuyện, từng nhân kể
chuyện. Đó là các yếu tố cơ bản của cấu trúc tác phẩm tự sự.
9
2.1.2. Cấu trúc tự sự trong tác phẩm Rừng Nauy
Cấu trúc tự sự trong tiểu thuyết Rừng Na-Uy thể được xem xét theo
vấn đề mở đầu, kết thúc và tính toàn vẹn của nó. Rừng Na-Uy mở ra bằng khung
cảnh của một chuyến máy bay sắp hạ cánh, tiếp đó dòng suy nghĩ, ức của
Toru Watanabe về quãng đời sinh viên hai mươi năm trước đây, với những mối
tình đượm màu u buồn. ức nối tiếp ức, ý nghĩ nối tiếp ý nghĩ như một
dòng chảy, chính xác hơn như một giấc dài… Chỉ điều, đó “là những
ức không hoàn hảo những ý nghĩ không hoàn hảo”. Trong giấc không
hoàn hảo ấy, Toru Watanabe vẫn phải chịu đựng những cơn sợ hãi đến thắt lòng.
Khởi đầu bằng một hồi ức được khơi gợi qua bản nhạc Rừng Na-Uy của The
Beatles lẽ cũng dụng ý không ràng của tác giả. Để rồi kết thúc bản nhạc
ấy, thực tại dần bị kéo lùi về hồi ức trong quá khứ, những hồi ức ràng, sống
động đầy dục tính như đang diễn ra chứ không chỉ đã từng diễn ra.
Những hình nhân đại diện cho những nhân vật ở quá khứ đang lướt qua trong hệ
thống màng lọc phức tạp của nhân vật, trút vào trong cái “tưởng kí” lạ lùng ấy
những suy tư trăn trở và chiêm nghiệm về cuộc đời.
Cuốn tiểu thuyết kết thúc bằng tiếng gọi của Toru Watanabe trong một
trạm điện thoại dưới làn mưa bụi, sau rất nhiều biến cố cuộc đời, vui buồn, đau
khổ, mất niềm tin, mất phương hướng, sau những cái chết sự ra đi của không
ít người. Tương lai của Toru Watanabe, Midori hay Reiko ra sao sau kết thúc
truyện, tác giả không nói . Cũng như không nói về sự biến mất của một số
nhân vật khác, như Quốc-xã. Nhưng đó chính cách kết thúc mở của Haruki
Murakami. Người đọc phải suy nghĩ, tự tìm hiểu, tự cảm nhận đưa ra cho
chính mình một cái kết hợp nhất. Sự toàn vẹn của một tác phẩm không nằm
cái kết thúc hậu hay không quan trọng hơn, đó cái kết thúc tự bản thân
mỗi người đọc nhận thức được. Đó mới vấn đề của cấu trúc tự sự trong tiểu
thuyết Rừng Na-Uy của Haruki Murakami.
Có thể nói, cấu trúc tự sự của một tác phẩm về cơ bản là kết cấu của một
tác phẩm tự sự được thể hiện qua những phương diện về hình thức nội dung,
góp phần quan trọng trong việc biểu đạt ý đồ nghệ thuật của tác giả, từ đó tái
hiện cuộc sống con người. Cấu trúc tự sự của một tác phẩm văn học thể bao
gồm nhiều phương diện khác nhau. Tuy nhiên, trong phạm vi khoá luận giới
hạn đề tài này, chúng tôi chỉ cố gắng phân tích, tìm hiểu nghiên cứu một số vấn
đề nổi bật như: nhân vật trần thuật, giọng điệu trần thuật, điểm nhìn trần thuật,…
10
2.1.3. Một số phương diện bản về nghệ thuật tự sự trong Rừng Na-
Uy
Mỗi người khi đọc Rừng Na-Uy thể những cảm nhận khác nhau về
tác phẩm này. Tuy nhiên, tiểu thuyết Rừng Na-Uy cuốn hút người đọc bởi “một
lối cấu tứ tinh tế” (S. Poole, The Guardian), bởi những trang viết miêu tả thiên
nhiên, miêu tả tâm trạng nhân vật rất nhẹ nhàng, trữ tình giàu chất thơ chứ
không phải bởi một cốt truyện kịch tính hoặc sự dồn dập liên tục của các tình
tiết truyện. Cái cảm giác buồn, một nỗi buồn nhè nhẹ, êm êm... không làm người
ta bi lụy mà chỉ thấy nhớ nhung và tiếc nuối một điều gì đó. Đó có thể là nỗi nhớ
về những ngày tháng thanh xuân bất diệt sẽ không trở lại bao giờ, về sự đam
gấp gáp của ái tình tuổi trẻ, về nỗi ưu đơn như một định mệnh của
cuộc đời.
Chính cái lối kể, lối viết văn rất nhẹ nhàng nhưng sâu sắc của Haruki
Murakami đã tạo ra cho Rừng Na-Uy một sự hấp dẫn không thể cưỡng lại. Nghệ
thuật tự sự đóng vai trò quan trọng tạo nên sự hấp dẫn của một tác phẩm văn học
tự sự. chi phối một cách trực tiếp đến cách xây dựng nhân vật, kết cấu, cốt
truyện. Trong văn xuôi hiện đại, nghệ thuật kể chuyện ngày một hoàn thiện để
miêu tả hiện thực một cách thực tế hơn tả điều mình không biết, tái hiện
cuộc sống như vốn vậy. Sự hoàn thiện trong nghệ thuật tự sự này cũng hoàn
toàn dễ dàng để thể nhận ra khi độc giả tiếp xúc với các tác phẩm của Haruki
Murakami tiểu thuyết chúng tôi lựa chọn để nghiên cứu một dụ điển
hình về nghệ thuật kể chuyện.
Nói đến nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết Rừng Na-Uy nói đến cả một
thế giới nhân vật trần thuật, nói đến điểm nhìn trần thuật, giọng điệu trần thuật,
cốt truyện cả không gian - thời gian nghệ thuật. Thủ pháp tự sự dòng ý thức
(stream of consciousness) được bắt nguồn từ “Phân tâm học” của Freud
“Tâm học năng” của William Jame, đã trở thành một công cụ quan trọng
trong việc khám phá thế giới nội tâm phức tạp của con người cho nhiều tiểu
thuyết gia hiện đại trong đó có Haruki Murakami.
2.2. Thế giới nhân vật trong tiểu thuyết Rừng Na-Uy
2.2.1. Hệ thống nhân vật vai trò của nhân vật trong tiểu thuyết
Rừng Na-Uy
11
Nhân vật trong tác phẩm tự sự được chia thành nhiều loại hình, dựa theo
nhiều tiêu chí khác nhau. Về phương pháp nhân vật chủ nghĩa cổ điển, nhân
vật lãng mạn, nhân vật hiện thực. Về thể loại nhân vật tự sự, nhân vật kịch,
nhân vật trữ tình. Tuy nhiên, cách phân biệt các nhân vật phổ biến hiện nay
thường dựa vào ba khía cạnh: kết cấu, ý thức hệ, cấu trúc. Theo đó thể
nhân vật chính, nhân vật phụ; nhân vật chính diện nhân vật phản diện; nhân
vật chức năng, nhân vật tính cách, nhân vật loại hình, nhân vật tưởng… Nhân
vật trung tâm trong tiểu thuyết Rừng Na-Uy Toru Watanabe, sinh viên năm
thứ nhất của một trường đại học tư thục ở Tokyo. Xoay quanh Toru Watanabe là
những mối quan hệ với những nhân vật khác. Đó Kizuki bạn thân nhất của
Toru bạn gái của cậu ta, Naoko; Nagasawa, người chung sở thích đọc
tiểu thuyết Gatsby đại Hatsumi, bạn gái lâu dài của anh ta; Reiko, một
nghệ dương cầm cùng với Naoko tại trại Ami; Midori, bạn học cùng
lớp rất sôi nổi, hoạt bát, có cá tính với ông bố mắc chứng u não của mình…
Lấy phông nền mối quan hệ của Toru Watanabe với những người
xung quanh, từ Naoko Kizuki, Nagasawa Hatsumi cho đến Midori hay
Reiko, Haruki Murakami đã tái hiện đời sống Nhật Bản những năm 60 của thế
kỷ XX một cách khá rõ nét, dù đó không phải là ý đồ nghệ thuật của ông. Những
lần quan hệ tình dục chớp nhoáng giữa Toru với những bạn của Hatsumi, cái
chết khi tuổi đời còn rất trẻ của Kizuki hay của chị gái Naoko… Tất cả góp phần
dựng nên hiện trạng hội Nhật Bản thời kỳ hậu chiến tranh thế giới thứ hai.
Lúc này, xã hội Nhật Bản dường như đang phải gồng mình để tiếp nhận, hấp thụ
những ảnh hưởng của văn hoá Phương Tây đang theo vết xích sắt của những
chiếc xe tăng tràn vào. Cũng như Ấn Độ thời kỳ nửa sau thế kỷ XIX hay Việt
Nam những năm đầu thế kỷ XIX, người Nhật Bản cũng đang đứng trước những
sự lựa chọn, một bên là văn hoá truyền thống và bên kia là văn hoá hiện đại.
Thế giới nhân vật trong Rừng Na-Uy thế giới của những con người
đơn. Cả cuốn sách toát lên sự đơn sâu thẳm trong tâm hồn mỗi nhân vật. Ta
bắt gặp đầu tiên hình ảnh của Toru Watanabe khi nghe bản hoà tấu không lời ca
khúc Rừng Na-Uy của The Beatles. “Giai điệu ấy bao giờ cũng khiến toàn thân
tôi run rẩy, lần này nó làm tôi choáng váng hơn bao giờ hết”. Bản nhạc đưa Toru
trở về miền kỉ niệm, “về những mất mát trong cuộc đời, về những bạn bè đã chết
hoặc vô âm tín, những cảm xúc mãi mãi không còn nữa” [6; 23-24]
12
Hình ảnh “ngày hôm đó” - một cánh đồng mọi thứ hiện lại ràng từ
mùi cỏ, mùi lạnh đến cả tiếng chó sủa Nhưng trống rỗng không con
người đó. Toru Naoko xuất hiện với câu chuyện về cái “giếng đồng”. “Nó
sâu đến độ không thể đo được, đầy chặt bóng tối, như thể toàn bộ bóng tối
của thế giới đã được nấu chảy lèn vào đó đến tận cùng đậm đặc của chúng”
[6; 29]. dường như cũng chính giới hạn của con người trong cuộc đời.
Người ta lo sợ hồ về một điều đó không thể biết đích xác gì, giống
như việc người ta cố gắng đến mấy cũng không thể tìm ra vị trí cái “giếng
đồng”. một nỗi ám ảnh, một yếu tố tồn tại ngay trong chính bản ngã mỗi
người. thế thấy rằng, mỗi nhân vật đơn trong Rừng Na-Uy đều một
người méo mó, không hoàn hảo. Họ xa lạ với hội, với cuộc đời, thậm chí với
chính cả bản thân mình.
Bất cứ nơi đâu trong thế giới của Rừng Na-Uy ta cũng bắt gặp những con
người đơn. Nhân vật không hòa nhập được với cuộc đời thực, họ “phát điên”
lên sợ hãi. Người thì tự vẫn, người chấp nhận quay trở lại trại an dưỡng,
người không biết mình đã lang thang những đâu đang đâu. Tất cả dường
như vô vọng tuy không quá bi thảm. Cuộc sống hiện ra mờ tối, ảm đạm - một sự
“nhợt nhạt” ám ảnh sâu sắc.
Toru nhân vật chính của truyện. Anh đã hoà nhập được với cuộc sống
sau những trải nghiệm nhất định. Nhưng Toru cũng đơn. đơn đến ghê
gớm bởi hoàn cảnh kéo anh khỏi nhịp sống thường nhật. Anh đã từng chỉ kết
thân với Kizuki và bạn gái cậu ta. Bộ ba bọn họ giống như một thể thống nhất và
hoàn hảo đến nỗi dường như không cần thêm hay bớt một phần tử nào. Đến khi
vào đại học, Toru cũng không thật sự thân thiết với ai. Anh ở cùng phòng Quốc-
xã, nhưng luôn mang cậu ấy ra làm trò cười. Toru kết giao với Nagasawa nhưng
không hề cởi mở lòng mình với cậu ấy. Toru gợi cho ta nhớ đến nhân vật chính
trong Người xa lạ của Albert Camus. Anh duy trì một thế giới của riêng mình và
hành động theo những nguyên tắc của thế giới đó, cũng không tìm cách chống
lại hay cố gắng hoà hợp với thế giới bên ngoài. Chính điều này đã tạo nên sự
đơn ở Toru.
Đó Kizuki - bạn thân của Watanabe. Kizuki một người công bình
chu đáo. “Cậu ta có cái tài rất hiếm là biết tìm thấy những cái thú vị trong những
câu chuyện chẳng chút thú vị nào của người khác…”. Thế nhưng Toru
Watanabe lại “thằng bạn thực sự duy nhất của cậu trường”. Người thứ hai
13
Kizuki chơi cùng Naoko, bạn gái của anh ta. Naoko cũng một người
quặc. Ba người đó chơi với nhau như một sự kết hợp hoàn hảo, hầu như không
có mối liên hệ nào với những người khác xung quanh. Naoko được nuôi dạy như
một con búp bê, mặc không hề thích thế. không khả năng phản
kháng, nhất sau cái chết của Kizuki, gần như tách biệt hoàn toàn với
hội, thậm chí với cả gia đình. một nhà trọ không ai thể tìm ra cô,
sống đơn giản đến mức tưởng như không đơn giản hơn thế được nữa.
Naoko không khả năng giao tiếp bình thường. “Mình cố nói một điều đó,
nhưng nói ra từ nào sai từ ấy - chúng đều không đúng hoặc ngược hẳn lại với
điều mình định nói”. Ta còn cảm thấy Naoko một nỗi sợ hãi bước đi của thời
gian. Toru đã nhận ra điều này khi Naoko tròn hai mươi tuổi. “Có cái đó lạ
trong việc nàng đã tròn hai mươi tuổi. Tôi cảm thấy dường như chỉ duy nhất
một thứ ý nghĩa với Naoko cũng như với tôi, đó cứ tiếp tục qua lại mãi
giữa tuổi mười tám tuổi mười chín. Sau tuổi mười tám tuồi mười chín,
sau mười chín lại đến mười tám. […] Chỉ người chết mới mãi mãi tuổi
mười bảy” [6; 86-87]. Con người ấy không chấp nhận được thời gian trôi chảy,
không chấp nhận được cuộc đời, cái đơn tồn tại như một thứ keo dính
chắc, làm cho cô bị gạt sang một bên, trở nên lạc lõng hơn ai hết.
cả chị gái của Naoko cũng vậy “một trong những gái thành công
trong mọi chuyện: một siêu học sinh, siêu vận động viên, danh nổi như cồn, một
nhân vật thủ lãnh, nhân hậu, thẳng thắn, bọn con trai thích cô, thầy giáo cũng
thích cô, tường phòng treo đủ loại giấy khen chứng chỉ” [6; 272]. Thế
nhưng, một gái không bình thường. “Thường cứ độ hai hoặc ba tháng
một lần, chị ấy bỗng trong phòng nằm suốt ngày, không đi học, hầu như
không ăn gì, tắt hết đèn không làm cả. […] Sau hai ngày, chị ấy sẽ lập tức
chấm dứt tình trạng đó lại đi học như thường” [6; 274]. Sự đơn trong con
người này không thể giải nổi. chính thế đã dẫn đến cái một cái kết
thúc mà cho đến khi khép lại cuốn truyện, không một ai trong số chúng ta có thể
chắc chắn là mình hiểu được lí do.
Một nhân vật cô đơn nữa là Quốc-xã, bạn cùng phòng với Toru ở khu học
trường đại học. Đó một con người mang trong mình ít nhiều dấu vết của
Nhật Bản truyền thống: thích cuộc sống ngăn nắp, minh bạch, sống điều độ, lành
mạnh, say đến mức tôn thờ tưởng vẽ bản đồ địa lý. Nhưng Quốc-xã vẫn
đơn độc lạc lõng, như một con thiên nga giữa đàn vịt xấu xí. Bởi mọi người
14
xung quanh lúc bấy giờ đều sống buông thả, phóng túng, không ai mục đích,
tưởng. vậy anh ta cũng độc, không kết thân được với ai, thậm chí bị
mọi người đem ra làm trò cười.
Nagasawa cũng rơi vào tình trạng tương tự như vậy. “Vừa một đạo linh
hồn cao thượng tuyệt vời, vừa một hạng rác rưởi cống rãnh phương cứu
chuộc. Hắn thể vẫn xốc tới như một vị lãnh tụ lạc quan trong khi chính con
tim hắn đang khô héo giữa một đầm lầy độc” [6; 77]. Anh ta một sinh viên
con nhà giàu, thích rượu, thích gái, giá trị con người đối với anh ta sự sành
điệu, nhưng lại kết bạn với một người quá đỗi bình thường như Toru. Anh ta
thành công kiêu ngạo, giải việc mình ngủ với hàng trăm gái như một
việc làm của một “gentleman”, bởi lẽ “người ta chờ đợi bạn làm việc đó, bạn
làm việc đó đúng theo sự chờ đợi của họ”. Nagasawa nổi bật hơn tất cả mọi
người nhưng cũng thế đơn, lạc lõng, như một nốt nhạc sai vang lên
trong một bản hợp ca trầm lắng của xã hội Nhật Bản lúc bấy giờ.
Sự đơn còn thấy Midori Koyabashi - một gái sexy, táo bạo, hiện
đại, tính, thích hút thuốc, uống bia nhưng cũng giỏi nấu ăn biết suy nghĩ.
tự sáng tác hát một bài hát lạ: “Em chẳng gì”. Chính đã kể về
mình: “Sinh ra trong một gia đình phức tạp”, bố mẹ không hề quan tâm yêu
thương một cách đầy đủ. “Tớ vẫn luôn thèm được yêu. chỉ một lần thôi.
Tớ muốn biết được yêu thương đầy đủ phần mình nó ra sao, đầy đến mức không
thể chịu được nữa ấy. Chỉ một lần thôi. Nhưng họ chưa bao giờ cho tớ cái đó”.
luôn đi tìm sự ích kỉ - “ích kỉ đến hoàn hảo”. vậy Midori lạc lõng
không ý thức được điều đó. Cái tôi của Midori quá lớn sự kìm kẹp của gia
đình đã làm cho cô ngột ngạt. Chính thế mà con người cô có nhiều điểm kì quặc.
Đặc biệt hành động khoả thân trước bàn thờ cha, vừa thể hiện tính cách độc
đáo đến kì quái của Midori, mặt khác, nó là lời giã biệt, là nước mắt, là những gì
không thể nói ra, cảm xúc không thể bộc lộ của gái nhỏ trước vong hồn
người đã sinh ra mình.
Một nhân vật nữa khá kì quặc trong tác phẩm Rừng Na-Uy là Reiko Ishisa
- một người phụ nữ đã có chồng con, bỗng một ngày được đánh thức dục tính
bị khiêu khích bởi một học sinh 13 tuổi. rồi chị phải sống tới bảy năm
trời trong một khu điều dưỡng - nơi chỉ những con người méo mó, không
bình thường, không hoà nhập được với cuộc sống bên ngoài. Khu điều dưỡng ấy
giống như biểu tượng của ranh giới giữa cuộc sống thực với cái tôi mỗi con
15
người. Chỉ bước ra khỏi đó cuộc sống bên ngoài biết bao người không thể
làm được. Họ đã sống cả một cuộc đời trong sự lạc lõng, bế tắc như vậy.
ràng, Rừng Na-Uy một thế giới của những con người không hoàn
hảo, thế giới của những con người đơn. Họ đơn bởi chính họ không giải
được sự hiện hữu của mình, bởi hội đã sinh ra họ không cho họ sống như
mình mong muốn. vậy, những nhân vật của Murakami vẫn luôn vận động,
luôn ý thức nỗ lực vượt thoát khỏi nỗi đơn. Mỗi người tìm đến một phương
thức khác nhau nhưng chung lại, họ vẫn luôn cố gắng đi tìm ý nghĩa đích thực
của cuộc đời.
Kizuki và Naoko là bạn thân của Toru. Họ tự mang trong mình một nỗi cô
đơn không thể giải nổi như lần chính Naoko xác nhận: “Cho nên nếu
Kizuki còn sống, nhất định bọn mình sẽ vẫn bên nhau, yêu nhau dần dần
trở thành bất hạnh […] Cậu móc xích nối bọn mình với thế giới bên ngoài.
Bọn mình gắng gỏi thông qua cậu để hoà nhập với thế giới bên ngoài càng nhiều
càng tốt. Nhưng cuối cùng, việc đó không thành, tất nhiên rồi” [6; 246-247].
Mong muốn Toru trở thành móc xích duy nhất với thế giới bên ngoài của
Kizuki đã thất bại. Cậu tìm đến cái chết năm mười bảy tuổi, không để lại một lời
di chúc. Cái chết ấy đã ảnh hưởng không nhỏ đến Toru Naoko. Họ cùng rời
khỏi Kobe tới Tokyo để tìm cho mình một lối thoát. Toru đã gặp lại yêu
Naoko vừa như một cách “tìm lại thời gian đã mất”, vừa như muốn quên lãng
quá khứ u sầu. Và họ đi bộ ngày tháng bên nhau trên khắp các con đường ngoằn
ngoèo của Tokyo, nhằm thẳng về phía trước, như một nghi lễ tôn giáo, một
phương thuốc chữa lành hai linh hồn sớm phải gánh chịu những tổn thương.
Đêm sinh nhật tuổi hai mươi đáng nhớ của Naoko với Toru đã khiến Naoko hiểu
rằng mình thể hoà nhập trở lại với thế giới. Nhưng Naoko đã không bao giờ
chữa lành được vết thương ấy. phải nghỉ học vào sống trong một khu trị liệu
trên núi cao, biệt lập cách xa thành phố. Trong ý thức của mình, tự nhận thấy
mình có nhiều thiếu sót, không hoàn hảo. Cô vừa hi vọng được quay trở lại cuộc
sống bên ngoài, vừa lo sợ. Hành động khoả thân thức trước Toru của Naoko
khát vọng sâu thẳm được phơi bày, mở lòng để hoà nhập sau cái chết của
Kizuki. Nhưng nỗi đau quá khứ cùng nỗi đơn siêu hình ghê gớm một lần nữa
dẫn Naoko đến tuyệt vọng, dẫn đến cái chết khi mới ở tuổi hai mươi.
Đây cũng chính triếtToru rút ra sau cái chết của Kizuki: “Sự chết
tồn tại không phải như một đối nghịch mà là một phần của sự sống”. Sự chết chỉ
16
một trong nhiều yếu tố cấu thành nên sự sống. Cả Kizuki Naoko đều sống
với cái chết ở trong con người họ. Cái chết ngập tràn trong thế giới của các nhân
vật. Họ tìm đến cái chết nhẹ nhàng hết sức mà không bởi lí do cụ thể nào.
Những cái chết đến như một điều chắc chắn phải có. Ngay cả với Hatsumi
- bạn gái của Nagasawa - một gái hoàn hảo, tưởng chừng như không chịu để
cuộc sống buồn chán tác động vào. Vậy “giống như bao nhiêu người khác
tôi đã biết, Hatsumi đã đạt đến một giai đoạn nào đó của cuộc sống đã
quyết định - hầu như hoàn toàn bất ngờ - kết thúc nó. Hai năm sau khi
Nagasawa sang Đức, lấy chồng hai năm sau đó, đã dùng dao cạo cứa
đứt cổ tay mình”.
Những người chết trong tác phẩm đều còn rất trẻ. Họ đơn lạc lõng
trước cuộc đời. Họ cố gắng vượt thoát khỏi nỗi đơn đáng sợ ấy. lẽ bởi
không còn đủ niềm tin, họ đã tìm đến cái chết như một giải pháp nhẹ nhàng, đơn
giản.
Bên cạnh đó, còn những nhân vật một sự ra đi không hứa hẹn
điều gì. Họ cũng đơn, nhưng hoàn cảnh làm cho họ đơn nhiều hơn. Đó
Quốc-xã, anh chàng chỉn chu, ngăn nắp, tưởng. Nhưng con người anh ta
không phù hợp với thực tại hội lúc bây giờ. Murakami đã để cho anh ta
biến mất mãi mãi sau một nghỉ hè. lẽ đây cũng chỉ một biến thể của cái
chết mà thôi. Con người không thể hoà nhập giữa cuộc đời.
Nagasawa - con người đầy tham vọng cũng rời khỏi Nhật Bản. Số phận
anh ta thế nào, chúng ta chẳng thể biết, thể tốt đẹp hơn, thể không. Nhưng
ta hiểu rằng, con người ấy đã không chấp nhận được thực tế hội đương thời
mà ra đi để thực hiện mong muốn của mình.
một trong những nhân vật để lại một sự băn khoăn lớn cho độc giả
Reiko. Bảy năm sống trong khu trị liệu, giờ trở lại cuộc đời với nhiều biến động
đổi thay, điều hứa hẹn chị sẽ một cuộc sống hạnh phúc. Không
chắc chắn cả. Phía trước vẫn một tương lai xa xăm, mờ ảo, một con đường đi
chưa biết đích đến nơi nào. Như vậy, tác giả cũng chỉ ném nhân vật từ
không gian vô định này sang một không gian vô định khác, đâu có chút gì là một
lối thoát ràng? Đêm cuối cùng Toru tiễn biệt Reiko. Họ đến với nhau đơn
giản chỉ một sự chia sẻ giữa những kẻ độc, cùng sự mất mát. Reiko cần
được an ủi để trở lại cuộc sống sau nhiều năm cách biệt, Toru cũng cần được an
ủi để thăng bằng trở lại, để tạm trút bỏ đau buồn và tiếp tục sống. Những lời tâm
17
sự của họ mang lại cho người đọc một chút thanh thản nhưng vẫn mông lung, vô
định và mang nặng ám ảnh.
Và còn biết bao con người khác đang sống một cách vô nghĩa. Họ tìm đến
nhau như một giải pháp tạm thời vượt thoát khỏi nỗi đơn rồi để mặc ngày
hôm sau sẽ ra sao. Từng đôi một đến với nhau, rồi nửa đêm đổi bạn tình tự
nguyện, hay cả những người con gái trả thù người yêu bội bạc bằng cách ngủ
với người đàn ông lần đầu tiên gặp trong quán rượu, dửng dưng đến mức không
cần biết tên, không cần tạm biệt…
Phương thức thể hiện nhân vật cũng rất đa dạng, phong phú. Một cách
trực tiếp, nhận vật được thể hiện bằng chi tiết. Tác giả dùng chi tiết để khắc hoạ
chân dung, ngoại hình, tính cách, hành động, tâm trạng của nhân vật. Cùng với
chi tiết, nhân vật còn được thể hiện qua các sự kiện, xung đột, mâu thuẫn trong
tác phẩm. Các sự kiện, xung đột, mâu thuẫn tác dụng thúc đẩy nhân vật thể
bộc lộ bản chất sâu kín của nó. Nội dung khái quát của nhân vật không chỉ là cái
tính cách hội lịch sử mảng đời sống gắn liền với còn quan niệm
về tính cách, tư tưởng mà tác giả muốn thể hiện.
Qua sự cảm nhận của những người xung quanh, qua môi trường sống, nhà
văn cũng thể hiện nhân vật của mình một cách gián tiếp. Thêm vào nữa, các
phương tiện kết cấu, phương tiện ngôn ngữ cũng góp phần thể hiện trọn vẹn một
hình tượng nhân vật trong tác phẩm tự sự. Nhân vật trong tiểu thuyết là nhân vật
“con người nếm trải”, khác với nhân vật sử thi hay nhân vật kịch thường
những nhân vật hành động. Sau những biến cố, sự kiện trong cuộc sống, nhân
vật ấy sự biến đổi, thể tích cực hoặc tiêu cực, “lớn lên” trong suy nghĩ,
duy của bản thân mình. Xuân trong Số đỏ của Trọng Phụng, Thứ trong Sống
mòn của Nam Cao hay Jean Valjean trong Những người khốn khổ của Victor
Hugo… những điển hình cho nhân vật “con người nếm trải” trong văn học.
Đây là kiểu nhân vật đặc trưng của thể loại tiểu thuyết so với nhân vật trong kịch
và sử thi.
Toru Watanabe trong tiểu thuyết Rừng Na-Uy cũng một “nhân vật nếm
trải”. Tâm tình cảm của Watanabe đã sự thay đổi qua nhiều sự kiện, biến
cố xảy đến với cuộc đời anh. Bị ám ảnh bởi cái chết của người bạn thân,
Watanabe “mất khả năng nhìn nhận sự chết (và sự sống) một cách giản dị như
vậy”, “mắc kẹt trong mối mâu thuẫn nghẹt thở ấy, tôi luẩn quẩn trong một vòng
tròn tận”… thiết lập một khoảng cách thích hợp với mọi chuyện. Trong
18
khi đó, kỉ niệm về Naoko một “lỗ trống” trong tâm trí của Watanabe, bởi từ
sau lần quan hệ vào đêm sinh nhật tuổi 20 của Naoko, hai người họ đã không
gặp nhau trong một thời gian dài. Watanabe đã viết trong một bức thư gửi
cho Naoko: “chờ đợi cậu trả lời một trong những việc đau đớn nhất mình
đã từng phải chịu đựng”. Cái “lỗ trống” trong con người anh ta lại lớn thêm ra.
Mỗi lần đọc thư của Naoko là một lần Watanabe “chìm ngập trong cùng một nỗi
buồn không thể chịu đựng nổi”. Không cách đương đầu với nỗi buồn ấy,
không biết đem nó đi đâu, giấu nó vào đâu.
Khi chứng kiến cảnh Naoko điều dưỡng nhà nghỉ Ami, thế giới như
bừng bừng sống lại trong con người Watanabe. Hạnh phúc trong tình yêu
căng tràn hi vọng về một tương lai tốt đẹp đó, anh thể sống bên cạnh
Naoko, che chở và yêu thương cô. Thế nhưng, đến cuối tác phẩm, khi nhận được
tin Naoko đã không còn, anh “hoàn toàn kiệt sức”, liền ba ngày sau đó,
Watanabe “như đi dưới đáy biển”. Anh đi lang thang khắp Nhật Bản không
có mục đích, không một chút niềm tin hay hi vọng.
2.2.2. Hình tượng nhân vật người kể chuyện
Nhân vật người kể chuyện trong tiểu thuyết Rừng Na-Uy những điểm
khá đặc biệt, không còn người kể chuyện “toàn thông”, biết hết mọi chuyện
nữa, không còn đứng ngoài quan sát kể lại câu chuyện nữa. Nhân vật người
kể chuyện tham gia trực tiếp vào diễn biến của câu chuyện với cách nhân
vật trong cốt truyện. Hơn thế nữa, vai trò người kể chuyện được tác giả
Murakami “trao” cho nhiều nhân vật khác nhau. Trước hết, với cách nhân
vật trung tâm, Toru Watanabe cũng chính là người kể chuyện, nói với người đọc
về cuộc đời sinh viên của mình thông qua một điểm nhìn ngôi thứ nhất nhân
vật “tôi”. Nhân vật người kể chuyện không trực tiếp kể về cái chết của Kizuki
kể gián tiếp qua bước chuyển tâm của Toru Watanabe. Cái chết ấy in sâu
trong tâm trí Watanabe như một vết thương không bao giờ liền miệng. cứ
mãi ám ảnh trong cuộc đời người còn sống, từ sự hồ dần dần vón lại một
cách đậm đặc, như một cục khí.
Nhân vật người kể chuyện đã chuyển sang dòng ức của nhân vật
Naoko với những ức đau buồn về Kizuki hay về gia đình của mình. Nói cách
khác, Murakami đã trao vai trò người kể chuyện cho Naoko, một nhân vật trực
tiếp trong câu chuyện. Cũng như thế, Murakami còn trao vai trò ấy cho Reiko để
kể lại cuộc đời của một giáo viên dạy nhạc đang lần tìm giới tính của bản thân…
19
Mỗi người đều một cuộc đời riêng, những vấn đề riêng, mâu thuẫn riêng
cần phải giải quyết. Đây dòng suy nghĩ của một lớp người lớn lên sau chiến
tranh, một “thế hệ lạc lõng”, với thế giới quan hoàn toàn khác hẳn các bậc cha
anh, đang đứng trước sự lựa chọn hướng đi theo truyền thống hay hiện đại cho
tương lai cuộc đời của mình.
Nếu thể coi nhân vật người kể chuyện một “vai” trong nội dung tiểu
thuyết thì phương pháp này chính phưong pháp “trao vai”. Phương pháp tổ
chức tự sự “trao vai” này đã khiến cho nội dung của tác phẩm hoàn toàn mang
tính chủ quan của những nhân vật người kể chuyện. Không còn sự hiểu biết về
tất cả sự việc, diễn biến của nhân vật người kể chuyện nữa, cũng không còn sự
sắp đặt bố trí từ đầu đến cuối câu chuyện nữa, thay vào đómột cốt truyện vụn
vỡ thành nhiều mảnh ghép, lộn xộn, không theo tuần tự thời gian hay không
gian. Dòng suy nghĩ vô thức của nhân vật kể chuyện đi đến đâu thì cốt truyện lại
phát triển theo đến đấy. Tất cả cứ như một giấc mơ, hỗn độn và rất khó nắm bắt.
Chính phương pháp trần thuật đặc biệt này cuốn tiểu thuyết trở nên khó
đọc, khó giải thích, khó thể kể lại cốt truyện một cách tuần tự theo tuyến tính
ràng. Cũng chính thế, người cho rằng Rừng Na-Uy không nhân vật
người kể chuyện và không có cốt truyện. Tuy nhiên, có thể khẳng định rằng, tiểu
thuyết Rừng Na-Uy vẫn một cốt truyện. Chỉ điều, cốt truyện ấy đã bị
“nhoè mờ” theo dòng hồi ức của người kể chuyện. Đây chính là biểu hiện của sự
tác động bởi các yếu tố “hậu hiện đại” trong phong cách văn chương Haruki
Murakami nói riêng và một số nhà văn đương thời nói chung.
Hình tượng người kể chuyện trong tiểu thuyết Rừng Na-Uy một yếu tố
quan trọng, bản để làm nên sự thành công rực rỡ của tác phẩm. Bên cạnh
hình tượng nhân vật người kể chuyện, một kiểu nhân vật nữa cũng có vai trò cực
kỳ quan trọng trong việc thể hiện quan điểm nghệ thuật của nhà văn chính
nhân vật trung tâm.
2.2.3. Hình tượng nhân vật trung tâm Toru Watanabe
Một tác phẩm thể nhiều nhân vật chính. trong số các nhân vật
chính của tác phẩm ấy lại thể nhận thấy nổi lên những nhân vật trung tâm
xuyên suốt từ đầu đến cuối tác phẩm về mặt ý nghĩa, quy tụ hầu hết các mối
quan hệ hay mâu thuẫn của tác phẩm. Đồng thời, đó cũng phương tiện để tác
giả tập trung vấn đề trung tâm của tác phẩm. Đó Thuý Kiều trong Truyện
20

Preview text:

MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài
1.1. Văn học hiện đại Nhật Bản đã khẳng định vị thế của mình trên bản đồ
văn học thế giới. Cùng với các nền văn học Châu Á đang lớn mạnh như Trung
Quốc, Ấn Độ,… văn học Nhật đã có bước phát triển vượt bậc trong quá trình
giao lưu, quốc tế hóa đang diễn ra mạnh mẽ. Văn học đương đại Nhật Bản trong
khoảng 20 năm gần đây đã có sự chuyển biến lớn trong lòng của nó. Đọc các tác
phẩm văn học Nhật ngày nay, chúng ta khó có thể tìm thấy những trang văn
mượt mà, trau chuốt, điển hình cho một Nhật Bản đậm chất truyền thống như
các sáng tác của Kawabata Yasunari, Tanizaki Junichiro, Kenzaburo Oe... Thay
vào đó là những tên tuổi hoàn toàn mới với lối viết văn hiện đại: Murakami
Haruki, Murakami Ryu, Banana Yoshimoto, Yamada Amy,… Các nhà văn trẻ
của Nhật đã và đang làm một “cuộc cách mạng” thay đổi diện mạo của nền văn
học thuần túy, để đưa nền văn học này ngày một xích lại gần hơn với các nền
văn học lớn trên thế giới. Nghiên cứu, tìm hiểu văn học Nhật Bản đương đại là
việc làm cần thiết trong bối cảnh toàn cầu hóa như hiện nay.
1.2. Haruki Murakami nổi lên như một hiện tượng văn học toàn cầu mặc
dù văn chương của ông không dễ để lĩnh hội. Có thể khẳng định rằng, Murakami
là một trong những tác giả nổi tiếng và có ảnh hưởng đến văn học Nhật Bản và
thế giới. Tiểu thuyết gia người Mỹ, Richard Powers, cho biết rằng Murakami
được xem là một trong số hiếm hoi những nhà văn quốc tế có tầm ảnh hưởng
quan trọng ở Mỹ và nhiều nước khác: “Làm thế nào cùng một tác gia ấy mà lại
vừa là tác gia ăn khách vượt bậc ở Ý và Hàn Quốc, vừa là hiện tượng văn hoá ở
Thổ Nhĩ Kỳ, vừa là tác giả văn học được kính nể nhất ở những nơi khác biệt hẳn
nhau như Nga và Trung Quốc!” Ở Việt Nam, Murakami là một trong số ít nhà
văn Nhật Bản có tác phẩm được dịch gần như là đầy đủ và được giới nghiên
cứu, phê bình quan tâm, đánh giá cao. Vì vậy, việc tìm hiểu về Murakami và tác
phẩm của ông là điều cần thiết cho việc tiếp cận với thành tựu văn học Nhật Bản
đương đại, thúc đẩy quá trình giao lưu văn học, văn hóa giữa hai nước Việt –
Nhật. Từ đó có được cái nhìn chung về xã hội, văn hóa và con người Nhật Bản
từ hậu thế chiến thứ hai đến thời điểm hiện tại.
1.3. Tài năng của tiểu thuyết gia Murakami Haruki có tầm ảnh hưởng trên
toàn thế giới. Trả lời vấn đề này, nhà văn khẳng định: “Tôi không nghĩ mình là 1
nhà văn hậu hiện đại, mặc dù nếu bạn gọi tôi bằng cái tên đó thì tôi không phản
đối. Nói thật, người ta gọi tôi là gì tôi cũng chẳng quan tâm. Theo ý tôi, tôi chỉ là
người kể chuyện. Một người kể chuyện khá cừ, chắc vậy. Tôi cho rằng trên thế
giới có hai loại tiểu thuyết gia: tiểu thuyết gia đầy cảm hứng và tiểu thuyết gia
thường. Bạn cũng đoán được rồi đó, tôi muốn mình là loại thứ nhất.” Lời phát
biểu ấy đã gợi mở cho chúng tôi hướng tiếp cận với nghệ thuật tự sự của Murakami Haruki.
Haruki Murakami sáng tác ở cả hai thể loại truyện ngắn và tiểu thuyết. Ở
thể loại truyện ngắn, Murakami khá thành công với nhiều truyện ngắn được tập
hợp trong các tuyển tập như: Con voi biến mất hay Cây liễu mù, người đàn bà
ngủ
... Nhưng Murakami đặc biệt thành công và được biết đến nhiều hơn ở thể
loại tiểu thuyết với nhiều tác phẩm được đọc và dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế
giới như: Lắng nghe gió hát, Rừng Na-Uy, Phía Nam biên giới, phía Tây mặt
trời
, Biên niên ký chim vặn dây cót, Người tình Sputnik, Kafka bên bờ biển
Trong số đó, tiểu thuyết Rừng Na-Uy – tuy không phải là tiểu thuyết xuất sắc
nhất của Murakami, nhưng đã được dịch và đón đọc ở mọi quốc gia nơi mà nó
xuất hiện. Rừng Na-Uy được đánh giá là “nơi Murakami phá vỡ địa hạt cấm cuối
cùng, để cho cái nhìn phóng khoáng và tự nhiên về xác thân của phương Tây
tràn ngập trong văn ông” [14; 1].
Tiểu thuyết Rừng Na-Uy là một tác phẩm sex hay là một tác phẩm nghệ
thuật đích thực, đến nay, điều này vẫn còn gây khá nhiều tranh luận trong giới
nghiên cứu, phê bình Việt Nam. Nhưng không thể phủ nhận sức ảnh hưởng của
nó đối với giới trẻ đương đại Việt Nam bởi nó đã phản ánh được tâm tư, cuộc
sống và những mối quan tâm của họ hiện nay. Hàng trăm cuộc thảo luận trên
các diễn đàn của giới trẻ Việt Nam được mở ra để bàn luận về đề tài này đã
khẳng định chỗ đứng của Rừng Na-Uy trong lòng độc giả trẻ Việt Nam. Tuy
nhiên, nghiên cứu chính thức về Haruki Murakami cũng như tiểu thuyết Rừng
Na-Uy
ở Việt Nam còn khá ít ỏi. Do vậy, chọn nghiên cứu Rừng Na-Uy của
Haruki Murakami, chúng tôi mong muốn được hiểu rõ hơn về cuộc đời, con
người cũng như giá trị tác phẩm của ông. Đồng thời, mong muốn góp tiếng nói
của mình trong việc đánh giá Rừng Na-Uy, trước hết là qua nghệ thuật tự sự của tác phẩm.
1.4. Tự sự học là hướng nghiên cứu có triển vọng trong nghiên cứu văn
học ở Việt Nam. Hiện tại, tuy số lượng những luận văn, luận án đi theo hướng 2
này chưa quá nhiều, nhưng cũng đã có một số công trình đạt kết quả nhất định.
Điều đó minh chứng cho sự “bén rễ” của lí thuyết tự sự hiện đại ở nước ta. Nếu
được vận dụng hợp lí và phù hợp, hướng nghiên cứu này sẽ mang lại kết quả
khả quan cho việc lí giải các hiện tượng văn học, các tác giả của giai đoạn văn
học hiện đại và hậu hiện đại. Từ những lí do trên, chúng tôi chọn đề tài “Nghệ
thuật tự sự tiểu thuyết Murakami Haruki” với mong muốn góp phần khám phá,
luận giải đặc trưng thế giới nghệ thuật tiểu thuyết của Murakami Haruki, người
đã “thổi luồng gió mới vào văn học Nhật Bản”.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
- Nhà nghiên cứu Nhật Chiêu trong bài “Thực tại trong ma ảo” đã nhận
định khái quát về phong cách tiểu thuyết Murakami: “Tiểu thuyết của Murakami
Haruki, với tinh thần chơi đùa và tự do tưởng tượng được kể bằng một bút pháp
sống động và đam mê như Nghìn lẻ một đêm của thời hiện đại. Nghệ thuật của
ông trở về với ngọn nguồn của tiểu thuyết, thời mà tiểu thuyết còn đầy tự do,
không bó buộc phải sao chép hiện thực.” [176, tr.4] Nhật Chiêu đã bước đầu chú
ý tới lối kể chuyện hấp dẫn, cuốn hút của Murakami, so sánh nó với lối kể của
Nghìn lẻ một đêm – kiệt tác của văn chương nhân loại. Trong một bài phỏng vấn
khác, Nhật Chiêu cũng đề cập tới hai yếu tố độc đáo trong nghệ thuật tự sự của
Murakami đó là “cấu trúc mở” và “ngôn ngữ mới”: “Cấu trúc tác phẩm mà
Murakami sử dụng trong hầu hết các sáng tác của ông rất mở.” và “Murakami
luôn nỗ lực sáng tạo một ngôn ngữ mới cho văn chương Nhật. Ngôn ngữ thường
thấy trong văn chương Nhật luôn mờ ảo, tế nhị. Trong khi đó, Murakami muốn
ngôn ngữ văn chương mới phải sáng tỏ, sống động, phải gần gũi với lời ăn tiếng
nói chân thật mà người dân Nhật vẫn nói hàng ngày.”
Năm 2007, NXB Tổng hợp TP Hồ Chí Minh đã cho xuất bản cuốn Truyện
ngắn Murakami - Nghiên cứu và phê bình của tác giả Hoàng Long. Trong cuốn
sách này, người đọc được nhìn lại tiểu sử của nhà văn cũng như bối cảnh xuất
hiện các tác phẩm của ông đặt trong sự thay đổi về văn học, xã hội và cả chính
con người H. Murakami. Để làm rõ sự thay đổi của nền văn học Nhật, tác giả đã
đặt những tác phẩm của ông đứng cạnh Kawabata, nhà văn Nhật đầu tiên đoạt
giải Nobel văn học. Cuốn sách giới thiệu 14 truyện ngắn tiêu biểu của nhà văn
H. Murakami và 5 truyện ngắn của Kawabata như một ví dụ cụ thể cho sự so
sánh một cách tương đối về sự thay đổi của văn học Nhật Bản. 3
Điểm qua tình hình dịch thuật, nghiên cứu Haruki Murakami và các tác
phẩm của ông ở Việt Nam căn cứ trên những tài liệu đã bao quát, chúng tôi nhận
thấy nổi bật lên những vấn đề sau đây:
- Ở Việt Nam và trên toàn thế giới, tình hình dịch thuật các sáng tác của
Haruki Murakami là khá sôi nổi. Qua đó đã giới thiệu được con người, quan
điểm sáng tác và sự nghiệp của Murakami đến với bạn đọc nói chung.
- Tuy nhiên, các bài viết vẫn chỉ dừng lại ở mức độ giới thiệu một cách
khái quát về Murakami chứ chưa có một công trình thực sự nào chuyên sâu về
Murakami và các tác phẩm của ông, cụ thể là Rừng Na-Uy, dù các nhà nghiên
cứu trong và ngoài nước đánh giá rất cao về tác phẩm này.
- Hướng tiếp cận văn bản văn học theo góc độ tự sự có thể nói là khá mới
mẻ và được nhiều học giả đánh giá là có triển vọng. Tuy nhiên, số lượng các
công trình nghiên cứu văn học theo hướng đi này còn khá hạn chế. Nếu có thì
cũng chỉ là những công trình mang tính chất lặp lại, khẳng định lại, ít có công
trình đi sâu tìm tòi khám phá cái mới.
Với một tác giả mới như Haruki Murakami, tình hình dịch thuật và nghiên
cứu các tác phẩm của ông diễn ra còn khá chậm, đơn lẻ và chủ yếu chỉ là những
ý kiến phát biểu cá nhân, mang tính tổng hợp hơn là khám phá. Xác định tiếp
cận tác phẩm theo góc nhìn nghệ thuật tự sự, chúng tôi mong muốn vượt qua
được cái nhìn đơn tuyến của chủ nghĩa cấu trúc để mang lại cái nhìn bao quát
hơn về Rừng Na-Uy.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng: nghệ thuật tự sự (hay nghệ thuật kể chuyện) của Haruki
Murakami trong tiểu thuyết Rừng Na-Uy.
3.2. Phạm vi: Tiểu thuyết Rừng Na Uy - Trịnh Lữ dịch, Công ty cổ phần
văn hoá và truyền thông Nhã Nam giữ bản quyền, Nhà xuất bản Hội nhà văn tái bản ấn hành năm 2014.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Hướng nghiên cứu tự sự học: Tự sự học là hướng nghiên cứu chính của
chúng tôi khi thực hiện đề tài này. Đây là hướng nghiên cứu được vận dụng
xuyên suốt quá trình thực hiện đề tài.
- Kết hợp với các thao tác: phân tích, miêu tả, đối chiếu, so sánh, phướng pháp văn hóa-văn học… 4
5. Đóng góp của đề tài
Đề tài Nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết Rừng Na uy của Murakami
Haruki làm giàu thêm về các đề tài nghiên cứu văn học đại chúng Nhật Bản, phù
hợp với thực tiễn nghiên cứu văn học Nhật Bản ở nước ta hiện nay. Qua việc tìm
hiểu những nét đặc sắc trong nghệ thuật kể chuyện trong Rừng Nauy, đề tài sẽ
góp phần làm sáng tỏ một số đặc điểm nghệ thuật tự sự trong phong cách của
Murakami Haruki và của văn học đương đại Nhật Bản. Chúng tôi cũng hy vọng
đây sẽ là một trong những tài liệu tham khảo cho sinh viên thuộc khối, ngành
Khoa học Xã hội và Nhân văn trong các trường Đại học và Cao đẳng ở nước ta
khi học về văn học Nhật Bản và tất cả những ai quan tâm đến.
6. Bố cục của tiểu luận
Ngoài phần mở đầu và kết luận, tài liệu tham khảo, bố cục của tiểu luận gồm 3 chương:
Chương 1. Haruki Murakami với tác phẩm Rừng Na-Uy trong dòng chảy tự sự Nhật Bản
Chương 2. Cấu trúc tự sự của tiểu thuyết Rừng Na-Uy
Chương 3.
Một số thủ pháp nghệ thuật tự sự đặc sắc trong tiểu thuyết Rừng Na-Uy 5 NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. HARUKI MURAKAMI VỚI TÁC PHẨM RỪNG NA-
UY TRONG DÒNG CHẢY TỰ SỰ NHẬT BẢN
1.1. Murakami Haruki - cuộc đời và văn nghiệp
Haruki Murakami sinh ngày 12 tháng 1 năm 1949 tại Kyoto (Nhật Bản).
Thời trai trẻ, ông chủ yếu sống tại Kobe, hiện tại sống ở Boston, Mỹ. Cha ông là
con của một thầy tu Phật giáo, mẹ là con gái của một thương gia ở Osaka. Cả hai
đều dạy môn Văn học Nhật Bản. Tuy vậy, ngay từ nhỏ, Haruki Murakami lại
yêu thích âm nhạc và văn học phương Tây, đặc biệt là nhạc Jazz. Ông đã theo
học ngành nghệ thuật sân khấu tại đại học Waseda, Tokyo.
Ngay từ thuở nhỏ, Haruki Murakami đã có khuynh hướng phản kháng đối
với văn hóa văn học truyền thống. Murakami đã chịu ảnh hưởng lớn từ văn hóa
phương Tây, đặc biệt là âm nhạc và văn học phương Tây. Ông tìm đọc các tác
phẩm của những tác giả Âu Châu thế kỷ XIX. Sau đó, ông tự học tiếng Anh, tìm
đọc nguyên tác những tác phẩm của các nhà văn Mỹ như Kurt Vonnegut,
Truman Capote và Richard Brautigan. Ông ham mê âm nhạc Châu Âu và Châu
Mỹ với những thần tượng là Elvis Presley, The Beatles, Beach Boys và nhạc
Jazz. Có thể nói, chính những tiền đề này đã góp tiếng nói quyết định đối với
phong cách và sự nghiệp văn chương của Haruki Murakami. Những yếu tố về
âm nhạc hay lối sống phương Tây, văn hoá phương Tây đã được Haruki
Murakami chuyển tải vào trong các tác phẩm của mình. Điều này giúp người
đọc nhận ra một Haruki Murakami đặc biệt hơn so với những nhà văn Nhật Bản khác.
Murakami khởi nghiệp năm 29 tuổi với tiểu thuyết Lắng nghe gió hát
(xuất bản năm 1979) – cuốn sách ông sáng tác trong giai đoạn còn làm việc tại
quán bar của mình. Tác phẩm kể lại những cuộc tranh đấu phản kháng của sinh
viên mà ông đã từng tham gia với một sự hoài nghi nhất định. Ngay từ tiểu
thuyết đầu tay này, Murakami đã được nhận giải thưởng văn học Gunzo
Shinjinsho lần thứ 22 vào năm 1979, mở màn cho sự nghiệp văn chương lẫy
lừng với hàng loạt những giải thưởng lớn, uy tín trong nước và quốc tế. Tuy
nhiên, cuộc đăng đàn của Murakami lại khá trầm lặng, vì sau đó, ông rất ít xuất
hiện trên báo đài. Thời điểm ấy, độc giả cũng chỉ biết tới ông qua bài viết “Nhà
văn trầm lặng được giới trẻ yêu thích” đăng trên báo Asashi vào tháng 12 năm 6
1980. Sau thành công của tiểu thuyết Lắng nghe gió hát, Murakami quyết định đi theo nghiệp văn.
Để trở thành một nhà văn Nhật Bản nổi tiếng với những tác phẩm lừng
danh như: Rừng Na-uy, Xứ sở diệu kỳ tàn bạo và chốn tận cùng thế giới, Phía
Nam biên giới, phía Tây mặt trời, Người tình Sputnik, Biên niên kí chim văn dây
cót, Kafka bên bờ biển, 1Q84
… Haruki Murakami luôn không ngừng sáng tạo
và thực sự đã “viết nát bản đồ mỹ học”. Theo Giáo sư Mitsuyoshi Numano, tác
phẩm của Haruki Murakami hấp dẫn, phổ quát vì có văn phong trau chuốt, cốt
truyện, cấu tứ, đan xen khéo léo giữa hiện thực và kì ảo, mang phong vị Nhật
Bản vừa đủ trong bầu không khí kiểu Âu Mĩ và có sự đồng cảm với cuộc sống
thành thị của những người độc thân trẻ tuổi. Còn theo chúng tôi, bên cạnh những
lí do kể trên thì cái chính là bởi, những điều Haruki Murakami đặt ra trong các
tác phẩm đã khắc chạm đến những vấn đề mang tính nhân loại, đặc biệt là cuộc
vật lộn của con người trong hành trình cuộc đời để tìm thấy bản ngã đích thực
của mình trong một thế giới nhiều khả thể. Bằng những hiểu biết về tâm lí của
người Nhật đương đại, về âm nhạc, triết học, khoa học tự nhiên và những khát
khao của con người trong cuộc truy tầm bản ngã, ý nghĩa đích thực của cuộc
sống… trong tác phẩm của mình, Haruki Murakami đã đặt ra những vấn đề
mang tính nhân loại sâu sắc và thực sự đã chạm vào nơi sâu thẳm nhất trong tâm
hồn con người, khiến mỗi lần đọc xong tác phẩm của ông, chúng ta không khởi
ngỡ ngàng vì bắt gặp mình trong đó.
Tính từ khi Rừng Nauy xuất bản cho đến nay, hàng triệu bản sách của
ông đã được lưu hành trên năm mươi quốc gia. Murakami trở thành “hiện
tượng” của văn hóa đương đại. Tiểu thuyết Murakami được ví như “chất gây
nghiện” đối với độc giả. Cùng với những tên tuổi nổi tiếng thế giới như
J.K.Rowlling, Dan Brown,… Murakami thực sự đã trở thành nhà văn quốc tế và
là một trong những tiểu thuyết gia tài năng của thế giới hiện nay.
1.2. Tiểu thuyết Rừng Na-Uy - dấu mốc trên hành trình sáng tạo nghệ
thuật của Haruki Murakami
Sau thành công của tiểu thuyết đầu tay, thời kì thứ hai trong sự nghiệp của
Murakami được tính từ năm 1985, lúc ông nhận giải thưởng danh giá của văn
học Nhật – giải Tanizaki Junichiro cho tiểu thuyết Xứ sở kì diệu tàn bạo và chốn
tận cùng thế giới (Hard-boiled Wonderland and the End of the World). Đây là
thời điểm bắt đầu cho sự bùng nổ của “quả bom” Murakami. Ông xuất hiện 7
nhiều hơn trên mặt báo với tư cách là một nhà văn thế hệ hậu chiến. Nhanh
chóng khẳng định tài năng, hai năm sau đó, năm 1987, Murakami xuất bản tiểu
thuyết nổi tiếng Rừng Nauy (The Norwegian wood). Cuốn sách viết về nỗi cô
đơn, sự trống rỗng, phản ánh chân thực cuộc sống của thế hệ thanh niên Nhật
Bản vào những thập niên 60, 70 của thế kỉ XX. Lập tức, nó trở thành hiện tượng
best seller tại Nhật Bản rồi nhanh chóng lan ra các nước khu vực Châu Á, và
được đánh giá là “cuốn sách thanh xuân bất tận, bầu bạn với hết thế hệ này đến
thế hệ khác”. Murakami trở thành tiểu thuyết gia nổi tiếng chỉ sau một đêm.
Chính nhà văn cũng bất ngờ vì điều này. Giới trẻ châu Á say mê đọc tiểu thuyết
của ông và coi ông là thần tượng. Ở Nhật, cứ 10 người thì có 1 người đọc Rừng
Nauy. Murakami Haruki trở thành một “hiện tượng” trên chính quê hương mình.
Kể từ sau Rừng Nauy, tiểu thuyết nào của ông ra đời cũng trở thành best seller như thế.
Ở Việt Nam, cho đến nay đã có hai bản dịch Rừng Na-Uy. Tác phẩm được
dịch sang tiếng Việt và xuất bản lần đầu tiên vào năm 1997 do Kiều Liên và Hải
Thanh thực hiện, Bùi Phụng hiệu đính. Bản dịch này không thực sự xuất sắc và
đã bị cắt xén khá nhiều câu, nhiều đoạn bị cho là “nhạy cảm”, “dung tục”. Năm
2006 bản dịch mới của Trịnh Lữ được Nhà xuất bản Hội nhà văn ấn hành và tái
bản gần nhất năm 2014 được đánh giá khá cao.
Mỗi người trong chúng ta thường tự nhủ với bản thân rằng mình là một
sinh linh bé nhỏ giữa bao người. Vì vậy, nỗi cô đơn và cái buồn luôn đeo đuổi;
nhiều cái chết là ở sự mất niềm tin vào cuộc sống. Đọc Rừng Na-Uy, bạn đọc trẻ
tìm thấy sự đồng cảm. Họ tìm thấy những nghĩ suy mà đôi khi không thể gọi nên
lời. Dường như có một cái gì đó là chung giữa bạn đọc với Toru Watanabe,
Midori, Naoko và Kizuki ... dù khác thời đại, khác dân tộc hay dòng máu... Ai
cũng có sự mất mát nào đó, và đều cảm thấy một nỗi trống trải khôn cùng mỗi
khi nghĩ về nó. Chính vì vậy Rừng Na-Uy đạt được sự đồng cảm của mọi độc
giả. Đó là sự gặp gỡ, sự đồng cảm của những tâm hồn đồng loại.
Nhân vật trong Rừng Na-Uy được đánh giá là hiện đại hơn rất nhiều so
với nhân vật trong văn học Nhật Bản truyền thống vì niềm khao khát được là
chính mình, sống cuộc sống của bản thân mình chứ không phải cuộc sống bầy
đàn nhạt nhẽo. Họ bị bủa vây bởi sự cô độc và luôn muốn đi tìm chính mình. Và
do đó thường rơi vào những bi kịch tinh thần. Chính Haruki Murakami cũng cho 8
rằng, trong xã hội có tính ý thức cộng đồng chặt chẽ như Nhật Bản, một tinh
thần cá nhân độc lập là rất khó tồn tại. CHƯƠNG 2
CẤU TRÚC TỰ SỰ CỦA TIỂU THUYẾT RỪNG NA-UY
2.1. Khái niệm “tự sự” và cấu trúc tự sự trong tác phẩm Rừng Na-uy 2.1.1. Tự sự
Trong tiếng Anh, người ta dùng từ “narrate” nghĩa là “kể lại, thuật lại sự
việc”, “narration” với nghĩa “sự kể chuyện, sự tường thuật sự việc”. Như vậy,
“tự sự” tương đương với nghĩa “kể, trần thuật”. Từ đây, “narratology” xuất hiện
với hàm nghĩa là khoa học về trần thuật.
Ở Việt Nam, Lại Nguyên Ân định nghĩa: “Tự sự là một khái niệm khoa
học nhằm chỉ một trong ba phương thức biểu đạt của văn học bên cạnh “trữ
tình” và “kịch”. “Tự sự” và “kịch” đều tái hiện hành động diễn ra trong thời gian
và không gian, tái hiện tiến trình các biến cố trong cuộc đời các nhân vật”.
Đứng về phương thức phản ánh đời sống, tác phẩm tự sự là loại tác phẩm
phản ánh đời sống trong tính khách quan. Tính khách quan ở đây được hiểu với
nghĩa là nội dung được phản ánh trong tác phẩm mang tính khách quan so với
người kể chuyện. Người kể chuyện, ở một mức độ nào đó đứng ở bên ngoài câu
chuyện được kể. Theo Arixtốt, tự sự là người kể chuyện kể về những gì xảy ra
bên ngoài mình, khác với trữ tình là kể về chính mình với những tình cảm và
cảm xúc của mình, là vì vậy. Do đó, tính khách quan được hiểu như một nguyên
tắc tái hiện đời sống của tác phẩm tự sự.
Chính vì vậy, về phương diện cấu trúc tác phẩm, tác phẩm tự sự phải có
các sự kiện khách quan xảy ra để tạo thành một câu chuyện hoàn chỉnh. Muốn
có các sự kiện thì phải có con người tức các nhân vật hoạt động, cảm xúc và
quan hệ với nhau. Tất cả những con người và sự kiện đó hoạt động và tồn tại
trong những không gian và thời gian nhất định. Và phải có một người nào đứng
ra để kể các câu chuyện xảy ra. Cũng như câu chuyện đó phải được kể dưới một
góc nhìn, một quan điểm, một tình cảm nhất định. Điều ấy dẫn đến việc phải có
lời văn đặc thù cho từng kiểu kể chuyện, từng giọng kể chuyện, từng cá nhân kể
chuyện. Đó là các yếu tố cơ bản của cấu trúc tác phẩm tự sự. 9
2.1.2. Cấu trúc tự sự trong tác phẩm Rừng Nauy
Cấu trúc tự sự trong tiểu thuyết Rừng Na-Uy có thể được xem xét theo
vấn đề mở đầu, kết thúc và tính toàn vẹn của nó. Rừng Na-Uy mở ra bằng khung
cảnh của một chuyến máy bay sắp hạ cánh, tiếp đó là dòng suy nghĩ, ký ức của
Toru Watanabe về quãng đời sinh viên hai mươi năm trước đây, với những mối
tình đượm màu u buồn. Ký ức nối tiếp ký ức, ý nghĩ nối tiếp ý nghĩ như một
dòng chảy, chính xác hơn là như một giấc mơ dài… Chỉ có điều, đó “là những
ký ức không hoàn hảo và những ý nghĩ không hoàn hảo”. Trong giấc mơ không
hoàn hảo ấy, Toru Watanabe vẫn phải chịu đựng những cơn sợ hãi đến thắt lòng.
Khởi đầu bằng một hồi ức được khơi gợi qua bản nhạc Rừng Na-Uy của The
Beatles có lẽ cũng là dụng ý không rõ ràng của tác giả. Để rồi kết thúc bản nhạc
ấy, thực tại dần bị kéo lùi về hồi ức trong quá khứ, những hồi ức rõ ràng, sống
động và đầy dục tính như nó đang diễn ra chứ không chỉ là đã từng diễn ra.
Những hình nhân đại diện cho những nhân vật ở quá khứ đang lướt qua trong hệ
thống màng lọc phức tạp của nhân vật, trút vào trong cái “tưởng kí” lạ lùng ấy
những suy tư trăn trở và chiêm nghiệm về cuộc đời.
Cuốn tiểu thuyết kết thúc bằng tiếng gọi của Toru Watanabe trong một
trạm điện thoại dưới làn mưa bụi, sau rất nhiều biến cố cuộc đời, vui buồn, đau
khổ, mất niềm tin, mất phương hướng, sau những cái chết và sự ra đi của không
ít người. Tương lai của Toru Watanabe, Midori hay Reiko ra sao sau kết thúc
truyện, tác giả không nói rõ. Cũng như không nói rõ về sự biến mất của một số
nhân vật khác, như Quốc-xã. Nhưng đó chính là cách kết thúc mở của Haruki
Murakami. Người đọc phải suy nghĩ, tự tìm hiểu, tự cảm nhận và đưa ra cho
chính mình một cái kết hợp lý nhất. Sự toàn vẹn của một tác phẩm không nằm ở
cái kết thúc có hậu hay không mà quan trọng hơn, đó là cái kết thúc tự bản thân
mỗi người đọc nhận thức được. Đó mới là vấn đề của cấu trúc tự sự trong tiểu
thuyết Rừng Na-Uy của Haruki Murakami.
Có thể nói, cấu trúc tự sự của một tác phẩm về cơ bản là kết cấu của một
tác phẩm tự sự được thể hiện qua những phương diện về hình thức và nội dung,
góp phần quan trọng trong việc biểu đạt ý đồ nghệ thuật của tác giả, từ đó tái
hiện cuộc sống con người. Cấu trúc tự sự của một tác phẩm văn học có thể bao
gồm nhiều phương diện khác nhau. Tuy nhiên, trong phạm vi khoá luận và giới
hạn đề tài này, chúng tôi chỉ cố gắng phân tích, tìm hiểu nghiên cứu một số vấn
đề nổi bật như: nhân vật trần thuật, giọng điệu trần thuật, điểm nhìn trần thuật,… 10
2.1.3. Một số phương diện cơ bản về nghệ thuật tự sự trong Rừng Na- Uy
Mỗi người khi đọc Rừng Na-Uy có thể có những cảm nhận khác nhau về
tác phẩm này. Tuy nhiên, tiểu thuyết Rừng Na-Uy cuốn hút người đọc bởi “một
lối cấu tứ tinh tế” (S. Poole, The Guardian), bởi những trang viết miêu tả thiên
nhiên, miêu tả tâm trạng nhân vật rất nhẹ nhàng, trữ tình và giàu chất thơ chứ
không phải bởi một cốt truyện kịch tính hoặc sự dồn dập liên tục của các tình
tiết truyện. Cái cảm giác buồn, một nỗi buồn nhè nhẹ, êm êm... không làm người
ta bi lụy mà chỉ thấy nhớ nhung và tiếc nuối một điều gì đó. Đó có thể là nỗi nhớ
về những ngày tháng thanh xuân bất diệt sẽ không trở lại bao giờ, về sự đam mê
và gấp gáp của ái tình tuổi trẻ, về nỗi ưu tư và cô đơn như một định mệnh của cuộc đời.
Chính cái lối kể, lối viết văn rất nhẹ nhàng nhưng sâu sắc của Haruki
Murakami đã tạo ra cho Rừng Na-Uy một sự hấp dẫn không thể cưỡng lại. Nghệ
thuật tự sự đóng vai trò quan trọng tạo nên sự hấp dẫn của một tác phẩm văn học
tự sự. Nó chi phối một cách trực tiếp đến cách xây dựng nhân vật, kết cấu, cốt
truyện. Trong văn xuôi hiện đại, nghệ thuật kể chuyện ngày một hoàn thiện để
miêu tả hiện thực một cách thực tế hơn – mô tả điều mình không biết, tái hiện
cuộc sống như nó vốn vậy. Sự hoàn thiện trong nghệ thuật tự sự này cũng hoàn
toàn dễ dàng để có thể nhận ra khi độc giả tiếp xúc với các tác phẩm của Haruki
Murakami mà tiểu thuyết chúng tôi lựa chọn để nghiên cứu là một ví dụ điển
hình về nghệ thuật kể chuyện.
Nói đến nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết Rừng Na-Uy là nói đến cả một
thế giới nhân vật trần thuật, nói đến điểm nhìn trần thuật, giọng điệu trần thuật,
cốt truyện và cả không gian - thời gian nghệ thuật. Thủ pháp tự sự dòng ý thức
(stream of consciousness) được bắt nguồn từ “Phân tâm học” của Freud và
“Tâm lí học cơ năng” của William Jame, đã trở thành một công cụ quan trọng
trong việc khám phá thế giới nội tâm phức tạp của con người cho nhiều tiểu
thuyết gia hiện đại trong đó có Haruki Murakami.
2.2. Thế giới nhân vật trong tiểu thuyết Rừng Na-Uy
2.2.1. Hệ thống nhân vật và vai trò của nhân vật trong tiểu thuyết Rừng Na-Uy 11
Nhân vật trong tác phẩm tự sự được chia thành nhiều loại hình, dựa theo
nhiều tiêu chí khác nhau. Về phương pháp có nhân vật chủ nghĩa cổ điển, nhân
vật lãng mạn, nhân vật hiện thực. Về thể loại có nhân vật tự sự, nhân vật kịch,
nhân vật trữ tình. Tuy nhiên, cách phân biệt các nhân vật phổ biến hiện nay
thường dựa vào ba khía cạnh: kết cấu, ý thức hệ, và cấu trúc. Theo đó có thể có
nhân vật chính, nhân vật phụ; nhân vật chính diện – nhân vật phản diện; nhân
vật chức năng, nhân vật tính cách, nhân vật loại hình, nhân vật tư tưởng… Nhân
vật trung tâm trong tiểu thuyết Rừng Na-Uy là Toru Watanabe, sinh viên năm
thứ nhất của một trường đại học tư thục ở Tokyo. Xoay quanh Toru Watanabe là
những mối quan hệ với những nhân vật khác. Đó là Kizuki bạn thân nhất của
Toru và bạn gái của cậu ta, Naoko; là Nagasawa, người có chung sở thích đọc
tiểu thuyết Gatsby vĩ đại và Hatsumi, bạn gái lâu dài của anh ta; là Reiko, một
nghệ sĩ dương cầm ở cùng với Naoko tại trại Ami; là Midori, cô bạn học cùng
lớp rất sôi nổi, hoạt bát, có cá tính với ông bố mắc chứng u não của mình…
Lấy phông nền là mối quan hệ của Toru Watanabe với những người
xung quanh, từ Naoko và Kizuki, Nagasawa và Hatsumi cho đến Midori hay
Reiko, Haruki Murakami đã tái hiện đời sống Nhật Bản những năm 60 của thế
kỷ XX một cách khá rõ nét, dù đó không phải là ý đồ nghệ thuật của ông. Những
lần quan hệ tình dục chớp nhoáng giữa Toru với những cô bạn của Hatsumi, cái
chết khi tuổi đời còn rất trẻ của Kizuki hay của chị gái Naoko… Tất cả góp phần
dựng nên hiện trạng xã hội Nhật Bản thời kỳ hậu chiến tranh thế giới thứ hai.
Lúc này, xã hội Nhật Bản dường như đang phải gồng mình để tiếp nhận, hấp thụ
những ảnh hưởng của văn hoá Phương Tây đang theo vết xích sắt của những
chiếc xe tăng tràn vào. Cũng như Ấn Độ thời kỳ nửa sau thế kỷ XIX hay Việt
Nam những năm đầu thế kỷ XIX, người Nhật Bản cũng đang đứng trước những
sự lựa chọn, một bên là văn hoá truyền thống và bên kia là văn hoá hiện đại.
Thế giới nhân vật trong Rừng Na-Uy là thế giới của những con người cô
đơn. Cả cuốn sách toát lên sự cô đơn sâu thẳm trong tâm hồn mỗi nhân vật. Ta
bắt gặp đầu tiên hình ảnh của Toru Watanabe khi nghe bản hoà tấu không lời ca
khúc Rừng Na-Uy của The Beatles. “Giai điệu ấy bao giờ cũng khiến toàn thân
tôi run rẩy, lần này nó làm tôi choáng váng hơn bao giờ hết”. Bản nhạc đưa Toru
trở về miền kỉ niệm, “về những mất mát trong cuộc đời, về những bạn bè đã chết
hoặc vô âm tín, những cảm xúc mãi mãi không còn nữa” [6; 23-24] 12
Hình ảnh “ngày hôm đó” - một cánh đồng mà mọi thứ hiện lại rõ ràng từ
mùi cỏ, mùi lạnh đến cả tiếng chó sủa … Nhưng nó trống rỗng vì không có con
người ở đó. Toru và Naoko xuất hiện với câu chuyện về cái “giếng đồng”. “Nó
sâu đến độ không thể đo được, và đầy chặt bóng tối, như thể toàn bộ bóng tối
của thế giới đã được nấu chảy và lèn vào đó đến tận cùng đậm đặc của chúng”
[6; 29]. Nó dường như cũng chính là giới hạn của con người trong cuộc đời.
Người ta lo sợ mơ hồ về một điều gì đó mà không thể biết đích xác là gì, giống
như việc người ta cố gắng đến mấy cũng không thể tìm ra vị trí cái “giếng
đồng”. Nó là một nỗi ám ảnh, một yếu tố tồn tại ngay trong chính bản ngã mỗi
người. Có thế thấy rằng, mỗi nhân vật cô đơn trong Rừng Na-Uy đều là một
người méo mó, không hoàn hảo. Họ xa lạ với xã hội, với cuộc đời, thậm chí với
chính cả bản thân mình.
Bất cứ nơi đâu trong thế giới của Rừng Na-Uy ta cũng bắt gặp những con
người cô đơn. Nhân vật không hòa nhập được với cuộc đời thực, họ “phát điên”
lên vì sợ hãi. Người thì tự vẫn, người chấp nhận quay trở lại trại an dưỡng,
người không biết mình đã lang thang những đâu và đang ở đâu. Tất cả dường
như vô vọng tuy không quá bi thảm. Cuộc sống hiện ra mờ tối, ảm đạm - một sự
“nhợt nhạt” ám ảnh sâu sắc.
Toru là nhân vật chính của truyện. Anh đã hoà nhập được với cuộc sống
sau những trải nghiệm nhất định. Nhưng Toru cũng cô đơn. Cô đơn đến ghê
gớm bởi hoàn cảnh kéo anh khỏi nhịp sống thường nhật. Anh đã từng chỉ kết
thân với Kizuki và bạn gái cậu ta. Bộ ba bọn họ giống như một thể thống nhất và
hoàn hảo đến nỗi dường như không cần thêm hay bớt một phần tử nào. Đến khi
vào đại học, Toru cũng không thật sự thân thiết với ai. Anh ở cùng phòng Quốc-
xã, nhưng luôn mang cậu ấy ra làm trò cười. Toru kết giao với Nagasawa nhưng
không hề cởi mở lòng mình với cậu ấy. Toru gợi cho ta nhớ đến nhân vật chính
trong Người xa lạ của Albert Camus. Anh duy trì một thế giới của riêng mình và
hành động theo những nguyên tắc của thế giới đó, cũng không tìm cách chống
lại hay cố gắng hoà hợp với thế giới bên ngoài. Chính điều này đã tạo nên sự cô đơn ở Toru.
Đó là Kizuki - bạn thân của Watanabe. Kizuki là một người công bình và
chu đáo. “Cậu ta có cái tài rất hiếm là biết tìm thấy những cái thú vị trong những
câu chuyện chẳng có chút thú vị nào của người khác…”. Thế nhưng Toru
Watanabe lại là “thằng bạn thực sự duy nhất của cậu ở trường”. Người thứ hai 13
mà Kizuki chơi cùng là Naoko, bạn gái của anh ta. Naoko cũng là một người kì
quặc. Ba người đó chơi với nhau như một sự kết hợp hoàn hảo, hầu như không
có mối liên hệ nào với những người khác xung quanh. Naoko được nuôi dạy như
một con búp bê, mặc dù cô không hề thích thế. Cô không có khả năng phản
kháng, nhất là sau cái chết của Kizuki, cô gần như tách biệt hoàn toàn với xã
hội, thậm chí với cả gia đình. Cô ở một nhà trọ mà không ai có thể tìm ra cô,
sống đơn giản đến mức tưởng như không có gì đơn giản hơn thế được nữa. Và
Naoko không có khả năng giao tiếp bình thường. “Mình cố nói một điều gì đó,
nhưng nói ra từ nào là sai từ ấy - chúng đều không đúng hoặc ngược hẳn lại với
điều mình định nói”. Ta còn cảm thấy ở Naoko một nỗi sợ hãi bước đi của thời
gian. Toru đã nhận ra điều này khi Naoko tròn hai mươi tuổi. “Có cái gì đó là lạ
trong việc nàng đã tròn hai mươi tuổi. Tôi cảm thấy dường như chỉ có duy nhất
một thứ có ý nghĩa với Naoko cũng như với tôi, và đó là cứ tiếp tục qua lại mãi
giữa tuổi mười tám và tuổi mười chín. Sau tuổi mười tám là tuồi mười chín, và
sau mười chín lại đến mười tám. […] Chỉ có người chết mới mãi mãi ở tuổi
mười bảy” [6; 86-87]. Con người ấy không chấp nhận được thời gian trôi chảy,
không chấp nhận được cuộc đời, cái cô đơn nó tồn tại như một thứ keo dính
chắc, làm cho cô bị gạt sang một bên, trở nên lạc lõng hơn ai hết.
Và cả chị gái của Naoko cũng vậy – “một trong những cô gái thành công
trong mọi chuyện: một siêu học sinh, siêu vận động viên, danh nổi như cồn, một
nhân vật thủ lãnh, nhân hậu, thẳng thắn, bọn con trai thích cô, thầy cô giáo cũng
thích cô, tường phòng cô treo đủ loại giấy khen và chứng chỉ” [6; 272]. Thế
nhưng, cô là một cô gái không bình thường. “Thường cứ độ hai hoặc ba tháng
một lần, chị ấy bỗng ở lì trong phòng và nằm suốt ngày, không đi học, hầu như
không ăn gì, tắt hết đèn và không làm gì cả. […] Sau hai ngày, chị ấy sẽ lập tức
chấm dứt tình trạng đó và lại đi học như thường” [6; 274]. Sự cô đơn trong con
người này không thể lí giải nổi. Và chính vì thế nó đã dẫn đến cái một cái kết
thúc mà cho đến khi khép lại cuốn truyện, không một ai trong số chúng ta có thể
chắc chắn là mình hiểu được lí do.
Một nhân vật cô đơn nữa là Quốc-xã, bạn cùng phòng với Toru ở khu học
xá trường đại học. Đó là một con người mang trong mình ít nhiều dấu vết của
Nhật Bản truyền thống: thích cuộc sống ngăn nắp, minh bạch, sống điều độ, lành
mạnh, say mê đến mức tôn thờ lý tưởng vẽ bản đồ địa lý. Nhưng Quốc-xã vẫn
đơn độc và lạc lõng, như một con thiên nga giữa đàn vịt xấu xí. Bởi mọi người 14
xung quanh lúc bấy giờ đều sống buông thả, phóng túng, không ai có mục đích,
lí tưởng. Và vì vậy anh ta cũng cô độc, không kết thân được với ai, thậm chí bị
mọi người đem ra làm trò cười.
Nagasawa cũng rơi vào tình trạng tương tự như vậy. “Vừa là một đạo linh
hồn cao thượng tuyệt vời, vừa là một hạng rác rưởi cống rãnh vô phương cứu
chuộc. Hắn có thể vẫn xốc tới như một vị lãnh tụ lạc quan trong khi chính con
tim hắn đang khô héo giữa một đầm lầy cô độc” [6; 77]. Anh ta là một sinh viên
con nhà giàu, thích rượu, thích gái, giá trị con người đối với anh ta là sự sành
điệu, nhưng lại kết bạn với một người quá đỗi bình thường như Toru. Anh ta
thành công và kiêu ngạo, lí giải việc mình ngủ với hàng trăm cô gái như là một
việc làm của một “gentleman”, bởi lẽ “người ta chờ đợi bạn làm việc đó, và bạn
làm việc đó đúng theo sự chờ đợi của họ”. Nagasawa nổi bật hơn tất cả mọi
người nhưng cũng vì thế mà cô đơn, lạc lõng, như một nốt nhạc sai vang lên
trong một bản hợp ca trầm lắng của xã hội Nhật Bản lúc bấy giờ.
Sự cô đơn còn thấy ở Midori Koyabashi - một cô gái sexy, táo bạo, hiện
đại, cá tính, thích hút thuốc, uống bia nhưng cũng giỏi nấu ăn và biết suy nghĩ.
Cô tự sáng tác và hát một bài hát kì lạ: “Em chẳng có gì”. Chính cô đã kể về
mình: “Sinh ra trong một gia đình phức tạp”, bố mẹ không hề quan tâm và yêu
thương cô một cách đầy đủ. “Tớ vẫn luôn thèm được yêu. Dù chỉ một lần thôi.
Tớ muốn biết được yêu thương đầy đủ phần mình nó ra sao, đầy đến mức không
thể chịu được nữa ấy. Chỉ một lần thôi. Nhưng họ chưa bao giờ cho tớ cái đó”.
Cô luôn đi tìm sự ích kỉ - “ích kỉ đến hoàn hảo”. Vì vậy mà Midori lạc lõng mà
không ý thức được điều đó. Cái tôi của Midori quá lớn mà sự kìm kẹp của gia
đình đã làm cho cô ngột ngạt. Chính thế mà con người cô có nhiều điểm kì quặc.
Đặc biệt là hành động khoả thân trước bàn thờ cha, vừa thể hiện tính cách độc
đáo đến kì quái của Midori, mặt khác, nó là lời giã biệt, là nước mắt, là những gì
không thể nói ra, là cảm xúc không thể bộc lộ của cô gái nhỏ trước vong hồn người đã sinh ra mình.
Một nhân vật nữa khá kì quặc trong tác phẩm Rừng Na-Uy là Reiko Ishisa
- một người phụ nữ đã có chồng con, bỗng một ngày được đánh thức dục tính và
bị khiêu khích bởi một cô bé học sinh 13 tuổi. Và rồi chị phải sống tới bảy năm
trời trong một khu điều dưỡng - nơi chỉ có những con người méo mó, không
bình thường, không hoà nhập được với cuộc sống bên ngoài. Khu điều dưỡng ấy
giống như biểu tượng của ranh giới giữa cuộc sống thực với cái tôi mỗi con 15
người. Chỉ bước ra khỏi đó là cuộc sống bên ngoài mà biết bao người không thể
làm được. Họ đã sống cả một cuộc đời trong sự lạc lõng, bế tắc như vậy.
Rõ ràng, Rừng Na-Uy là một thế giới của những con người không hoàn
hảo, thế giới của những con người cô đơn. Họ cô đơn bởi chính họ không lí giải
được sự hiện hữu của mình, bởi xã hội đã sinh ra họ mà không cho họ sống như
mình mong muốn. Dù vậy, những nhân vật của Murakami vẫn luôn vận động,
luôn ý thức nỗ lực vượt thoát khỏi nỗi cô đơn. Mỗi người tìm đến một phương
thức khác nhau nhưng chung lại, họ vẫn luôn cố gắng đi tìm ý nghĩa đích thực của cuộc đời.
Kizuki và Naoko là bạn thân của Toru. Họ tự mang trong mình một nỗi cô
đơn không thể lí giải nổi như có lần chính Naoko xác nhận: “Cho nên nếu
Kizuki còn sống, nhất định là bọn mình sẽ vẫn ở bên nhau, yêu nhau và dần dần
trở thành bất hạnh […] Cậu là móc xích nối bọn mình với thế giới bên ngoài.
Bọn mình gắng gỏi thông qua cậu để hoà nhập với thế giới bên ngoài càng nhiều
càng tốt. Nhưng cuối cùng, việc đó không thành, tất nhiên rồi” [6; 246-247].
Mong muốn Toru trở thành móc xích duy nhất với thế giới bên ngoài của
Kizuki đã thất bại. Cậu tìm đến cái chết năm mười bảy tuổi, không để lại một lời
di chúc. Cái chết ấy đã ảnh hưởng không nhỏ đến Toru và Naoko. Họ cùng rời
khỏi Kobe tới Tokyo để tìm cho mình một lối thoát. Toru đã gặp lại và yêu
Naoko vừa như một cách “tìm lại thời gian đã mất”, vừa như muốn quên lãng
quá khứ u sầu. Và họ đi bộ ngày tháng bên nhau trên khắp các con đường ngoằn
ngoèo của Tokyo, nhằm thẳng về phía trước, như một nghi lễ tôn giáo, một
phương thuốc chữa lành hai linh hồn sớm phải gánh chịu những tổn thương.
Đêm sinh nhật tuổi hai mươi đáng nhớ của Naoko với Toru đã khiến Naoko hiểu
rằng mình có thể hoà nhập trở lại với thế giới. Nhưng Naoko đã không bao giờ
chữa lành được vết thương ấy. Cô phải nghỉ học vào sống trong một khu trị liệu
trên núi cao, biệt lập cách xa thành phố. Trong ý thức của mình, cô tự nhận thấy
mình có nhiều thiếu sót, không hoàn hảo. Cô vừa hi vọng được quay trở lại cuộc
sống bên ngoài, vừa lo sợ. Hành động khoả thân vô thức trước Toru của Naoko
là khát vọng sâu thẳm được phơi bày, mở lòng để hoà nhập sau cái chết của
Kizuki. Nhưng nỗi đau quá khứ cùng nỗi cô đơn siêu hình ghê gớm một lần nữa
dẫn Naoko đến tuyệt vọng, dẫn đến cái chết khi mới ở tuổi hai mươi.
Đây cũng chính là triết lí mà Toru rút ra sau cái chết của Kizuki: “Sự chết
tồn tại không phải như một đối nghịch mà là một phần của sự sống”. Sự chết chỉ 16
là một trong nhiều yếu tố cấu thành nên sự sống. Cả Kizuki và Naoko đều sống
với cái chết ở trong con người họ. Cái chết ngập tràn trong thế giới của các nhân
vật. Họ tìm đến cái chết nhẹ nhàng hết sức mà không bởi lí do cụ thể nào.
Những cái chết đến như một điều chắc chắn phải có. Ngay cả với Hatsumi
- bạn gái của Nagasawa - một cô gái hoàn hảo, tưởng chừng như không chịu để
cuộc sống buồn chán tác động vào. Vậy mà “giống như bao nhiêu người khác
mà tôi đã biết, Hatsumi đã đạt đến một giai đoạn nào đó của cuộc sống và đã
quyết định - hầu như hoàn toàn bất ngờ - kết thúc nó. Hai năm sau khi
Nagasawa sang Đức, cô lấy chồng và hai năm sau đó, cô đã dùng dao cạo cứa đứt cổ tay mình”.
Những người chết trong tác phẩm đều còn rất trẻ. Họ cô đơn và lạc lõng
trước cuộc đời. Họ cố gắng vượt thoát khỏi nỗi cô đơn đáng sợ ấy. Và có lẽ bởi
không còn đủ niềm tin, họ đã tìm đến cái chết như một giải pháp nhẹ nhàng, đơn giản.
Bên cạnh đó, còn có những nhân vật có một sự ra đi mà không hứa hẹn
điều gì. Họ cũng cô đơn, nhưng hoàn cảnh làm cho họ cô đơn nhiều hơn. Đó là
Quốc-xã, anh chàng chỉn chu, ngăn nắp, có lí tưởng. Nhưng con người anh ta
không phù hợp với thực tại xã hội lúc bây giờ. Và Murakami đã để cho anh ta
biến mất mãi mãi sau một kì nghỉ hè. Có lẽ đây cũng chỉ là một biến thể của cái
chết mà thôi. Con người không thể hoà nhập giữa cuộc đời.
Nagasawa - con người đầy tham vọng cũng rời khỏi Nhật Bản. Số phận
anh ta thế nào, chúng ta chẳng thể biết, có thể tốt đẹp hơn, có thể không. Nhưng
ta hiểu rằng, con người ấy đã không chấp nhận được thực tế xã hội đương thời
mà ra đi để thực hiện mong muốn của mình.
Và một trong những nhân vật để lại một sự băn khoăn lớn cho độc giả là
Reiko. Bảy năm sống trong khu trị liệu, giờ trở lại cuộc đời với nhiều biến động
và đổi thay, điều gì hứa hẹn chị sẽ có một cuộc sống hạnh phúc. Không có gì
chắc chắn cả. Phía trước vẫn là một tương lai xa xăm, mờ ảo, một con đường đi
mà chưa biết đích đến ở nơi nào. Như vậy, tác giả cũng chỉ ném nhân vật từ
không gian vô định này sang một không gian vô định khác, đâu có chút gì là một
lối thoát rõ ràng? Đêm cuối cùng Toru tiễn biệt Reiko. Họ đến với nhau đơn
giản chỉ là một sự chia sẻ giữa những kẻ cô độc, có cùng sự mất mát. Reiko cần
được an ủi để trở lại cuộc sống sau nhiều năm cách biệt, Toru cũng cần được an
ủi để thăng bằng trở lại, để tạm trút bỏ đau buồn và tiếp tục sống. Những lời tâm 17
sự của họ mang lại cho người đọc một chút thanh thản nhưng vẫn mông lung, vô
định và mang nặng ám ảnh.
Và còn biết bao con người khác đang sống một cách vô nghĩa. Họ tìm đến
nhau như một giải pháp tạm thời vượt thoát khỏi nỗi cô đơn rồi để mặc ngày
hôm sau sẽ ra sao. Từng đôi một đến với nhau, rồi nửa đêm đổi bạn tình tự
nguyện, hay có cả những người con gái trả thù người yêu bội bạc bằng cách ngủ
với người đàn ông lần đầu tiên gặp trong quán rượu, dửng dưng đến mức không
cần biết tên, không cần tạm biệt…
Phương thức thể hiện nhân vật cũng rất đa dạng, phong phú. Một cách
trực tiếp, nhận vật được thể hiện bằng chi tiết. Tác giả dùng chi tiết để khắc hoạ
chân dung, ngoại hình, tính cách, hành động, tâm trạng của nhân vật. Cùng với
chi tiết, nhân vật còn được thể hiện qua các sự kiện, xung đột, mâu thuẫn trong
tác phẩm. Các sự kiện, xung đột, mâu thuẫn có tác dụng thúc đẩy nhân vật thể
bộc lộ bản chất sâu kín của nó. Nội dung khái quát của nhân vật không chỉ là cái
tính cách xã hội lịch sử và mảng đời sống gắn liền với nó mà còn là quan niệm
về tính cách, tư tưởng mà tác giả muốn thể hiện.
Qua sự cảm nhận của những người xung quanh, qua môi trường sống, nhà
văn cũng thể hiện nhân vật của mình một cách gián tiếp. Thêm vào nữa, các
phương tiện kết cấu, phương tiện ngôn ngữ cũng góp phần thể hiện trọn vẹn một
hình tượng nhân vật trong tác phẩm tự sự. Nhân vật trong tiểu thuyết là nhân vật
“con người nếm trải”, khác với nhân vật sử thi hay nhân vật kịch thường là
những nhân vật hành động. Sau những biến cố, sự kiện trong cuộc sống, nhân
vật ấy có sự biến đổi, có thể tích cực hoặc tiêu cực, “lớn lên” trong suy nghĩ, tư
duy của bản thân mình. Xuân trong Số đỏ của Vũ Trọng Phụng, Thứ trong Sống
mòn
của Nam Cao hay Jean Valjean trong Những người khốn khổ của Victor
Hugo… là những điển hình cho nhân vật “con người nếm trải” trong văn học.
Đây là kiểu nhân vật đặc trưng của thể loại tiểu thuyết so với nhân vật trong kịch và sử thi.
Toru Watanabe trong tiểu thuyết Rừng Na-Uy cũng là một “nhân vật nếm
trải”. Tâm lý tình cảm của Watanabe đã có sự thay đổi qua nhiều sự kiện, biến
cố xảy đến với cuộc đời anh. Bị ám ảnh bởi cái chết của người bạn thân,
Watanabe “mất khả năng nhìn nhận sự chết (và sự sống) một cách giản dị như
vậy”, “mắc kẹt trong mối mâu thuẫn nghẹt thở ấy, tôi luẩn quẩn trong một vòng
tròn vô tận”… và thiết lập một khoảng cách thích hợp với mọi chuyện. Trong 18
khi đó, kỉ niệm về Naoko là một “lỗ trống” trong tâm trí của Watanabe, bởi từ
sau lần quan hệ vào đêm sinh nhật tuổi 20 của Naoko, hai người họ đã không
gặp nhau trong một thời gian dài. Và Watanabe đã viết trong một bức thư gửi
cho Naoko: “chờ đợi cậu trả lời là một trong những việc đau đớn nhất mà mình
đã từng phải chịu đựng”. Cái “lỗ trống” trong con người anh ta lại lớn thêm ra.
Mỗi lần đọc thư của Naoko là một lần Watanabe “chìm ngập trong cùng một nỗi
buồn không thể chịu đựng nổi”. Không có cách gì đương đầu với nỗi buồn ấy,
không biết đem nó đi đâu, giấu nó vào đâu.
Khi chứng kiến cảnh Naoko điều dưỡng ở nhà nghỉ Ami, thế giới như
bừng bừng sống lại trong con người Watanabe. Hạnh phúc trong tình yêu và
căng tràn hi vọng về một tương lai tốt đẹp mà ở đó, anh có thể sống bên cạnh
Naoko, che chở và yêu thương cô. Thế nhưng, đến cuối tác phẩm, khi nhận được
tin Naoko đã không còn, anh “hoàn toàn kiệt sức”, liền ba ngày sau đó,
Watanabe “như đi dưới đáy biển”. Anh đi lang thang khắp Nhật Bản mà không
có mục đích, không một chút niềm tin hay hi vọng.
2.2.2. Hình tượng nhân vật người kể chuyện
Nhân vật người kể chuyện trong tiểu thuyết Rừng Na-Uy có những điểm
khá đặc biệt, không còn là người kể chuyện “toàn thông”, biết hết mọi chuyện
nữa, không còn đứng ngoài quan sát và kể lại câu chuyện nữa. Nhân vật người
kể chuyện tham gia trực tiếp vào diễn biến của câu chuyện với tư cách là nhân
vật trong cốt truyện. Hơn thế nữa, vai trò người kể chuyện được tác giả
Murakami “trao” cho nhiều nhân vật khác nhau. Trước hết, với tư cách là nhân
vật trung tâm, Toru Watanabe cũng chính là người kể chuyện, nói với người đọc
về cuộc đời sinh viên của mình thông qua một điểm nhìn ở ngôi thứ nhất nhân
vật “tôi”. Nhân vật người kể chuyện không trực tiếp kể về cái chết của Kizuki
mà kể gián tiếp qua bước chuyển tâm lý của Toru Watanabe. Cái chết ấy in sâu
trong tâm trí Watanabe như một vết thương không bao giờ liền miệng. Nó cứ
mãi ám ảnh trong cuộc đời người còn sống, từ sự mơ hồ dần dần vón lại một
cách đậm đặc, như một cục khí.
Nhân vật người kể chuyện đã chuyển sang dòng ký ức của nhân vật
Naoko với những ký ức đau buồn về Kizuki hay về gia đình của mình. Nói cách
khác, Murakami đã trao vai trò người kể chuyện cho Naoko, một nhân vật trực
tiếp trong câu chuyện. Cũng như thế, Murakami còn trao vai trò ấy cho Reiko để
kể lại cuộc đời của một giáo viên dạy nhạc đang lần tìm giới tính của bản thân… 19
Mỗi người đều có một cuộc đời riêng, có những vấn đề riêng, mâu thuẫn riêng
cần phải giải quyết. Đây là dòng suy nghĩ của một lớp người lớn lên sau chiến
tranh, một “thế hệ lạc lõng”, với thế giới quan hoàn toàn khác hẳn các bậc cha
anh, đang đứng trước sự lựa chọn hướng đi theo truyền thống hay hiện đại cho
tương lai cuộc đời của mình.
Nếu có thể coi nhân vật người kể chuyện là một “vai” trong nội dung tiểu
thuyết thì phương pháp này chính là phưong pháp “trao vai”. Phương pháp tổ
chức tự sự “trao vai” này đã khiến cho nội dung của tác phẩm hoàn toàn mang
tính chủ quan của những nhân vật người kể chuyện. Không còn sự hiểu biết về
tất cả sự việc, diễn biến của nhân vật người kể chuyện nữa, cũng không còn sự
sắp đặt bố trí từ đầu đến cuối câu chuyện nữa, thay vào đó là một cốt truyện vụn
vỡ thành nhiều mảnh ghép, lộn xộn, không theo tuần tự thời gian hay không
gian. Dòng suy nghĩ vô thức của nhân vật kể chuyện đi đến đâu thì cốt truyện lại
phát triển theo đến đấy. Tất cả cứ như một giấc mơ, hỗn độn và rất khó nắm bắt.
Chính vì phương pháp trần thuật đặc biệt này mà cuốn tiểu thuyết trở nên khó
đọc, khó giải thích, khó có thể kể lại cốt truyện một cách tuần tự theo tuyến tính
rõ ràng. Cũng chính vì thế, có người cho rằng Rừng Na-Uy không có nhân vật
người kể chuyện và không có cốt truyện. Tuy nhiên, có thể khẳng định rằng, tiểu
thuyết Rừng Na-Uy vẫn có một cốt truyện. Chỉ có điều, cốt truyện ấy đã bị
“nhoè mờ” theo dòng hồi ức của người kể chuyện. Đây chính là biểu hiện của sự
tác động bởi các yếu tố “hậu hiện đại” trong phong cách văn chương Haruki
Murakami nói riêng và một số nhà văn đương thời nói chung.
Hình tượng người kể chuyện trong tiểu thuyết Rừng Na-Uy là một yếu tố
quan trọng, cơ bản để làm nên sự thành công rực rỡ của tác phẩm. Bên cạnh
hình tượng nhân vật người kể chuyện, một kiểu nhân vật nữa cũng có vai trò cực
kỳ quan trọng trong việc thể hiện quan điểm nghệ thuật của nhà văn chính là nhân vật trung tâm.
2.2.3. Hình tượng nhân vật trung tâm Toru Watanabe
Một tác phẩm có thể có nhiều nhân vật chính. Và trong số các nhân vật
chính của tác phẩm ấy lại có thể nhận thấy nổi lên những nhân vật trung tâm
xuyên suốt từ đầu đến cuối tác phẩm về mặt ý nghĩa, quy tụ hầu hết các mối
quan hệ hay mâu thuẫn của tác phẩm. Đồng thời, đó cũng là phương tiện để tác
giả tập trung vấn đề trung tâm của tác phẩm. Đó là Thuý Kiều trong Truyện 20