Văn mẫu lớp 10: Phân tích bài Nỗi thương mình (3 Dàn ý + 11 mẫu)

1. Tình cảnh trớ trêu của Thúy Kiều ở lầu xanh (4 câu đầu) – Bút pháp ước lệ, tượng trưng: bướm, ong, cuộc vui, trận cười. → Cảnh sinh hoạt xô bồ, tấp nập ở chốn lầu xanh. – Sử dụng điển cố, điển tích: lá gió, cành chim, Tống Ngọc, Trường Khanh. – Nghệ thuật tiểu đối, gợi nên sự bẽ bàng, xấu hổ của Thúy Kiều: bướm lả – ong lơi, cuộc vui – trận cười, sớm – tối. Tài liệu được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!

Chủ đề:

Văn mẫu 10 232 tài liệu

Môn:

Ngữ Văn 10 1.3 K tài liệu

Thông tin:
47 trang 4 tháng trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Văn mẫu lớp 10: Phân tích bài Nỗi thương mình (3 Dàn ý + 11 mẫu)

1. Tình cảnh trớ trêu của Thúy Kiều ở lầu xanh (4 câu đầu) – Bút pháp ước lệ, tượng trưng: bướm, ong, cuộc vui, trận cười. → Cảnh sinh hoạt xô bồ, tấp nập ở chốn lầu xanh. – Sử dụng điển cố, điển tích: lá gió, cành chim, Tống Ngọc, Trường Khanh. – Nghệ thuật tiểu đối, gợi nên sự bẽ bàng, xấu hổ của Thúy Kiều: bướm lả – ong lơi, cuộc vui – trận cười, sớm – tối. Tài liệu được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!

121 61 lượt tải Tải xuống
1. Dàn ý phân tích Nỗi thương mình
Dàn ý số 1
I. Mở bài:
Giới thiệu khái quát về tác giả Nguyễn Du tác phẩm Truyện Kiều.
Giới thiệu khái quát về đoạn trích.
II. Thân bài:
1. Tình cảnh trớ trêu của Thúy Kiều lầu xanh (4 câu đầu)
Bút pháp ước lệ, tượng trưng: bướm, ong, cuộc vui, trận cười.
Cảnh sinh hoạt bồ, tấp nập chốn lầu xanh.
Sử dụng điển cố, điển tích: gió, cành chim, Tống Ngọc, Trường Khanh.
Nghệ thuật tiểu đối, gợi nên sự bẽ bàng, xấu hổ của Thúy Kiều: bướm lả ong lơi,
cuộc vui trận cười, sớm tối
Từ ngữ chỉ mức độ: biết bao, đầy tháng, suốt đêm.
Cuộc sống bồ lầu xanh, Kiều phải tiếp khách làng chơi suốt ngày đêm. Đây
một tình cảnh trớ trêu của cuộc đời Kiều khi bị vùi dập, chà đạp cả thể xác
nhân phẩm.
2. Niềm thương xót cho thân phận của Kiều
Không gian: lầu xanh.
Thời gian: tàn canh, ban đêm.
Thời gian, không gian nghệ thuật thích hợp để Kiều soi thấu tâm trạng của mình.
Tâm trạng của Thúy Kiều:
Giật mình: bàng hoàng, thảng thốt, không tin vào cảnh sống thực tại
của bản thân mình.
Thương mình xót xa.
Cái giật mình trân quý, làm nên nhân cách cao đẹp của Thúy kiều.
Nghệ thuật:
Cặp từ đối lập “khi sao” “giờ sao” với nghệ thuật đối giữa hai câu
lục/bát nhấn mạnh sự khác biệt: quá khứ thì êm đềm, hạnh phúc còn
hiện tại thì đau đớn, phũ phàng, bị vùi dập.
Ngữ điệu hỏi: “mặt sao”, “thân sao”.
Sử dụng thành ngữ chéo:“dày gió dạn sương” (dày dạn gió sương),
“bướm chán ong chường” (ong bướm chán chường) nhấn mạnh sự
ngỡ ngàng, bàng hoàng.
Đối lập giữa khách Kiều.
Khi sống thật với chính mình, Kiều bàng hoàng, xót xa cho thân phận của mình
phải chăng đó cũng chính tiếng nói đòi quyền sống nhân của con người
trong hội phong kiến của Nguyễn Du- con người biết nhận thức ý thức về
hạnh phúc của mình.
3. Tâm trạng đơn, đau khổ của Thúy Kiều (phần còn lại)
Cuộc sống chốn thanh lâu: phong, hoa, tuyết, nguyệt (cảnh đẹp bốn mùa), thú
vui cầm, kỳ, thi, họa.
Cảnh vật đối với Thúy Kiều sự giả tạo, Kiều không tìm được tri âm, tri kỉ, nàng
thờ ơ với tất cả mọi thứ xung quanh.
Qua nghệ thuật tả cảnh ngụ tình, tác giả khắc họa tâm trạng của Thúy Kiều chốn
lầu xanh: sống nơi lầu xanh dập dìu, Thúy Kiều tự thương, tự đau, tự xót xa cho
thân phận của mình.
Điệp từ vui, ai… câu hỏi tu từ tiếng kêu đến lòng của con người tài hoa
bạc mệnh.
Trong chốn lầu xanh nơi tất cả đều phù phiếm, đồng tiền lên ngôi, Kiều vẫn cố
gắng tách mình ra, tìm một tâm hồn tri âm, thể hiện khát vọng sống trong sạch của
Kiều ta thật sự đáng trân trọng.
Nguyễn Du đề cao giá trị nhân văn, cảm thông sâu sắc với số phận của Kiều
lên án hội gay gắt.
III. Kết bài:
Khái quát lại giá trị nội dung nghệ thuật của đoạn trích.
Dàn ý số 2
A, Mở bài:
- Giới thiệu tác giả Nguyễn Du, tác phẩm “Truyện Kiều” vị trí đoạn trích “Nỗi
thương mình”
- Đánh giá chung về đoạn trích “Nỗi thương mình”
B, Thân bài:
- Vị trí của đoạn trích “Nỗi thương mình
Đoạn trích Nỗi thương mình từ câu 1229 đến câu 1248 của Truyện Kiều miêu tả tâm
trạng đau đớn, tủi nhục, nỗi đơn, thương thân trách phận ý thức về thân phận
bất hạnh của Thúy Kiều chốn lầu xanh.
Nội dung : tác giả Nguyễn Du viết về tình cảnh, tâm trạng của Thúy Kiều khi bị
buộc làm nữ tiếp khách làng chơi. Nguyễn Du đã miêu tả thật sống động bức
tranh sinh hoạt đặc trưng chốn lầu xanh bằng bút pháp ước lệ tượng trưng:
Biết bao bướm lả ong lơi
Cuộc say đầy tháng trận cười suốt đêm.
Dập dìu gió cành chim,
Sớm đưa Tống Ngọc tối tìm Trường Khanh.
- Tác giả đã khai thác triệt để nhằm đậm nỗi thương thân, xót phận của Thúy Kiều
gây cảm giác đau đớn. Xót xa thực sự cho người đọc.
- Với 4 câu thơ đầu thôi tác giả như vừa bức tranh sinh hoạt nhơ nhớp chốn
thanh lâu vừa ẩn chứa tiếng thở dài não ruột của người con gái tài sắc buộc phải
làm nữ.
=> Tác giả Nguyễn Du như đang thực sự xót thương Thúy Kiều rơi vào chốn bùn
nhơ, nơi nhân phẩm bị hủy hoại, nhưng cũng chính trong hoàn cảnh đó
thể nói rằng Thúy Kiều đường như đã ý thức rất về nhân phẩm
cao quý của mình.
Thúy Kiều một người con gái tài hoa nhưng mệnh bạc, đã được
Nguyễn Du xây dựng trở thành hình mẫu tưởng của cái đẹp, cái thiện.
Khi lâm vào tình cảnh ô nhục nàng chưa từng nghĩ đến. Thúy Kiều
như đã dùng hết sức cố vùng vẫy để được giải thoát, nhưng càng vùng
vẫy lại càng bế tắc. Nỗi đau “trần thế’’ đối với một người Mai cốt cách,
tuyết tinh thần như Thúy Kiều dường như nhân lên gấp bội
=> Dường như nhà thơ tài năng Nguyễn Du đã thể hiện thật chân tình tâm trạng đau
buồn, tủi hổ đến ê chề của nhân vật Thúy Kiều khi phải đối diện với chính lòng mình:
- Sống trong cảnh cuộc say đầy tháng, trận cười suốt đêm thi chỉ khi tỉnh rượu, lúc
tàn canh Kiều mới những khoảnh khắc hiếm hoi để sống thực với mình. Lúc
khách làng chơi đã ra về, lúc này chỉ còn bóng đêm, đêm rất khuya, chỉ còn một
mình Kiều đối diện với ngọn đèn chong.
- Đến câu thứ hai, nhịp thơ thay đổi thành 2/2/2/2: giật mình / mình lại / thương mình
/ xót xa. Hai chữ giật minh kết. hợp với cách ngắt nhịp đột ngột dường như diễn tả
tâm trạng thảng thốt đau thương buồn tủi của Thúy Kiều.
=> Thúy Kiều đã như giật mình sợ hãi trước sự đổi thay ghê gớm của số phận
cũng như tình cảm thảm hại của mình lúc này.
- Nỗi thương mình thể nói cảm xúc bao trùm, chủ đạo trong đoạn trích
Thúy Kiều đã buộc phải xa cha mẹ, xa tổ ấm hạnh phúc để bước lên cỗ xe định
mệnh: câu khấp khểnh, bánh xe gập ghềnh, lao đi trên con đường mịt mù,
định
- Thúy Kiều cay đắng nghĩ tới sự tương phản ghê gớm giữa quá khứ tươi đẹp, hạnh
phúc hiện thực đen tối, phũ phàng:
Nàng nhớ lại cảnh sống quý phái, sang trọng khi còn nhà với cha mẹ
trước lúc xảy ra tai họa thương tiếc thân mình vùi dập tan tác như
hoa giữa đường.
Quá khứ đối lập hiện tại một cách khốc liệt. vãng tươi đẹp chỉ được
gợi lên qua một câu: Khi sao phong gấm rủ là, còn hiện tại đen tối được
nhắc đến liên tiếp trong nhiều câu thơ.
- Tác giả tả tâm trạng của Kiều chốn lầu xanh:
Mặc người mưa Sở mây Tần,
Những mình nào biết xuân gì.
Đòi phen gió tựa hoa kề,
Nửa rèm tuyết ngậm bốn bề trăng thâu.
+ Cảnh đủ phong, hoa, tuyết, nguyệt, tượng trưng cho vẻ đẹp bốn mùa như: xuân
hoa; gió; thu trăng; đông tuyết. Nhưng trước những cảnh đẹp đó,
Kiều dửng dưng, thờ ơ bởi con tim nàng đã bị nỗi đau khổ quá mức làm cho giá
lạnh.
+ lầu xanh cũng đủ các thú vui như cầm, kì, thi, họa, nhưng đối với Kiều thì
cảnh vật, con người những thú vui ấy giờ đây đối với nàng đều trở nên nghĩa.
- Tưởng chừng như nỗi sầu từ lòng người lan tỏa sang cả cảnh vật:
Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh vui đâu bao giờ.
=> Bằng sự thông cảm thực sự bằng tài năng diệu. Nguyễn Du dường như đã
viết lên hai câu thơ hay nhất về mối liên hệ tương đồng giữa ngoại cảnh tâm
cảnh, giữa cảnh tình trong văn chương Việt Nam.
- Đoạn trích Nỗi thương mình chứa đựng ý nghĩa sâu sắc về quá trình nhân vật đã
tự ý thức của con người nhân trong văn học trung đại.
Người phụ nữ xưa thường được giáo dục theo tinh thần an phận thủ
thường, cam chịu nhẫn nhục. Khi nhân vật Giật mình mình lại
thương mình xót xa thì điều này đã bao hàm ý nghĩa “cách mạng” Con
người không chỉ biết hy sinh, nhẫn nhục, cam chịu bước đầu đã
ý thức về phẩm giá, nhân cách, tức ý thức về quyền sống của bản
thân.
Thương thân, xót phận một hiện tượng khá phổ biến trong thơ văn
thế kỉ XVIII. Không thể tình thương sâu sắc, chân chính dành cho
người khác nếu không ý thức về bản thân, không biết thương chính
bản thân mình.
- Đoạn trích Nỗi thương mình cho thấy phẩm giá cao quý, trong trắng của Thúy
Kiều.
+ Không hề tránh thực tế nghiệt ngã, đã đề cao nhân cách của Kiều, phẩm giá
của Kiều bằng việc thể hiện thành công nỗi buồn thương, day dứt, chán chường của
nàng giữa chốn bùn nhơ.
C, Kết bài:
- Khẳng định được tài năng của tác giả Nguyễn Du cũng như tác phẩm “Truyện
Kiều” tầm ảnh hưởng như thế nào
- Qua đoạn trích thể hiểu được tâm trạng chán chường, buồn thương tuyệt
vọng của Thúy Kiều, nàng như đã tự ý thức được nhân phẩm của mình bị vùi dậy
cho nên càng thương mình.
Dàn ý số 3
1. Mở bài
Giới thiệu bối cảnh của đoạn trích Nỗi thương mình.
2. Thân bài:
a. Khung cảnh lầu xanh trụy lạc, phóng túng:
- “bướm lả ong lơi” gợi ra viễn cảnh cùng dung tục, kỹ nữ như những bông
hoa tươi đẹp, còn khách làng chơi lại tựa như loài ong loài bướm, lả lơi, ngả
nghiêng hết vờn đóa hoa này, lại chạm đến bông hoa kia, hết sức tạp nham, lẫn lộn
hoang đường.
- Hương rượu nồng quyện với mùi hương phấn dung tục với “cuộc say đầy tháng”,
với sự khoái lạc của “trận cười suốt đêm”, nam nữ thâu hoan không kể ngày đêm,
ồn ào, náo nhiệt trụy lạc.
- Hình ảnh “dập dìu” nam nữ cười đùa, ngả ngớn, đầu sát bên đầu, ấp bên
tựa như với gió, cành với chim.
- Khắc họa hình ảnh khách làng chơi bằng các điển tích, điển cố, nhân vật trong lịch
sử như Tống Ngọc, Tương Như.
b. Nỗi đau tâm trạng của Thúy Kiều:
- “Khi tỉnh rượu lúc tàn canh/Giật mình lại thấy thương mình xót xa”: Ý thức về thân
phận bọt bèo, giật mình, bàng hoàng nhìn lại tấm thân tàn, tự thấy xót xa,
thương cảm.
- “Khi sao phong gấm rủ là”, nhắc về cuộc sống êm đềm trướng rủ màn che thuở
trước. Còn Kiều bây giờ buộc phải đối mặt với một cuộc sống cũng trướng rủ màn
che đấy, nhưng lại chìm trong những ngày tháng sắc dục, buôn phấn bán hương.
- Kiều tự nhận thấy bản thân mình ứng với mấy chữ “tan tác như hoa giữa đường”,
vốn đóa mẫu đơn cao quý, trong sạch, cuối cùng lại bị chà đạp không thương tiếc,
chỉ còn lại bộ dạng tàn tạ, nhơ nhuốc.
- Khuôn mặt phải ngày ngày chường ra cho kẻ Bắc người Nam, ngắm nghía, bình
phẩm, phải “dày gió dạn sương” ôm ấp nam tử như người tình, điệu bộ lả lướt, ngả
ngớn, chiều lòng.
- Lời thở than chua xót “Thân sao bướm chán ong chường bấy thân!”, ý thức của
nàng về tấm thân tàn tạ, rẻ mạt của mình.
=> Cuộc sống tủi hổ, nhục nhã đau đớn tột cùng về cả thể xác tinh thần của nàng
Kiều.
c. Vẻ đẹp tâm hồn Thúy Kiều:
-Thế nhưng dẫu cuộc đời chà đạp, vùi dập phận liễu yếu đào tơ, thì Kiều vẫn
mạnh mẽ kiên cường, giữ vững cho mình cốt cách thanh cao, tinh khiết. Dẫu bốn bề
chốn lầu xanh nơi nào cũng “mây Sở mưa Tần” thì nàng cũng chẳng buồn để tâm
đến, những thú vui hoan lạc, tầm thường ấy
- “Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu/Người buồn cảnh cũng vui đâu bao giờ?”, để diễn
tả đúng cái hoàn cảnh éo le, buồn tủi của Thúy Kiều.
- “Đòi phen nét vẽ câu thơ/Cung cầm trong nguyệt nước cờ dưới hoa”, thể hiện
hoàn cảnh trêu ngươi của Thúy Kiều, nàng vốn người thông minh, sắc sảo ca từ
thi phú âm luật cái nào không thông, nhưng nhìn viễn cảnh trước mắt, lại nhìn
tới số phận bọt bèo của mình thì những thứ nàng yêu thích trước đây cũng trở
nên tẻ nhạt, chán chường.
- “Ai tri âm đó mặn với ai” nỗi trăn trở về một người thể thiếu hiểu, xót
thương, mong mỏi thoát khỏi chốn phong trần. Điều đó càng làm cho Kiều trở nên
chán nản, xót xa đến tột cùng.
3. Kết bài:
Nêu cảm nghĩ.
2. Nỗi thương mình phân tích (2 Mẫu)
Bài làm mẫu 1
Nguyễn Du (1765 1820) tên thật Tố Như, một nhà văn hóa lớn, một thiên tài
văn học. Truyện Kiều của Nguyễn Du được đánh giá tác phẩm truyện thơ nổi
tiếng nhất, được xếp vào hàng kinh điển trong kho tàng văn học Việt Nam. Đoạn
trích “Nỗi thương mình” nằm từ câu 1229 đến câu 1248 trong Truyện Kiều. Đây
đoạn trích miêu tả nét tình cảnh trớ trêu của nàng Kiều trong chốn lầu xanh,
nỗi niềm thương xót cho phận đời bạc bẽo của Thúy Kiều.
Tột cùng của nỗi đau không phải chuyện Kiều bán thân làm lẽ cho Giám Sinh.
đó việc Kiều bị Giám Sinh lừa bán vào lầu Ngưng Bích làm kỹ nữ. Số phận
của Kiều đúng kiếp “hồng nhan bạc phận”.
đoạn trích này, Nguyễn Du đã lột tả một cách trần trụi phận đời éo le, tủi nhục của
Kiều. Độc giả đã cảm nhận nét nỗi đau đớn của Kiều không khỏi thương cảm,
xót xa. chính Kiều người ý thức nhất cảnh ngộ éo le ấy của mình:
Biết bao bướm lả ong lơi
Cuộc say đầy tháng trận cười suốt đêm
Dập dìu gió cành chim
Sớm đưa Tống Ngọc tối tìm Trường Khanh
Mở đầu đoạn trích, Nguyễn Du đã khắc họa khung cảnh chốn lầu xanh trụy lạc bằng
những hình ảnh hết sức chân thực. “Bướm lả ong lơi” mở ra khung cảnh cùng
dung tục. đây, tác giả đã người kỹ nữ những bông hoa tươi đẹp, còn khách
làng chơi tựa như loài ong, loài bướm. Nguyễn Du thật sự tinh tế khi dùng hình ảnh
ong bướm để ẩn dụ cho khách hàng chơi.
Trong chốn hồng lâu ấy, chỉ những hình ảnh ăn chơi trụy lạc thâu đêm suốt sáng,
đó những “cuộc say đầy tháng” cùng nỗi khoái lạc từ những “trận cười suốt đêm”.
lẽ với khách làng chơi đó những giây phút khoái lạc, nhưng với Thúy Kiều đây lại
sự xót xa, tủi nhục. Dường như giá trị của những kỹ nữ như Thúy Kiều chốn lầu
xanh chỉ như một món đồ cho kẻ khác mua vui, người đến, kẻ đi “dập dìu” cười đùa
ngả ngớn.
Những người kỹ nữ chốn lầu xanh ngày đêm tiếp khách chẳng phân biệt ngày đêm,
chẳng cần biết khách ai. Họ vẫn vui vẻ trao đổi với nhau thú vui xác thịt đồng
tiền rẻ mạt. Cuộc sống ấy cứ quẩn quanh, hết ngày này đến tháng khác, đến nỗi
người kỹ nữ chẳng còn nhận ra chính bản thân mình nữa. Nguyễn Du đã khéo léo
đưa vào đoạn trích hai nhân vật nổi danh trong lịch sử Tống Ngọc nổi danh với
Phú Cao Đường kể về chuyện mây mưa của thần nữ Vu Sơn với tiên vương Sở
quốc. Trường Khanh người đã gảy khúc Phượng Cầu Hoàng để quyến Trách
Văn Quân, một người phong lưu, giỏi chuyện trăng gió.
Bằng những hình ảnh ẩn dụ tinh tế, cùng những điển tích cổ, Nguyễn Du đã tái hiện
nét khung cảnh chốn lầu xanh nhuộm màu nhơ nhớp, chốn vui thú loạn lạc,
hoang đường của những con người nơi đây. đó, số phận người phụ nữ trở nên
thấp kém, chỉ những món đồ phục vụ cho sở thích dung tục, tầm thường. Cuộc
đời của người kỹ nữ thế luôn chìm vào tăm tối đầy xót xa, tủi nhục.
Khắc họa số phận của kỹ nữ chốn lầu xanh cũng để khắc họa nỗi tủi phận của
Thúy Kiều. Cuộc đời Kiều đúng “chữ tài chữ mệnh khéo ghét nhau” nên chống
cự, vùng vẫy thế nào, cuối cùng nàng cũng phải chấp nhận số phận. Để rồi sau mỗi
cuộc vui thú xác thịt, Kiều tự nhìn lại tấm thân tàn tạ của mình nàng cảm thấy xót xa
cho chính bản thân.
Khi tỉnh rượu lúc tàn canh
Giật mình mình lại thương mình
Chỉ hai câu thơ thôi nhưng sao ta thấy đau đớn, xót xa đến vậy. Để quên đi nỗi chua
xót về số phận mình, nỗi đắng cay, Kiều đã tìm đến hơi men. Thế nhưng, khi tỉnh nỗi
đau ấy càng thấm thía như xát muối vào tim. Say của Thúy Kiều không phải tự
chuốc say mình như Hồ Xuân Hương, đó bắt buộc. Thân phận người kỹ nữ
bắt buộc phải nâng chén với đủ loại khách làng chơi. Việc ấy cứ liên tục mỗi ngày,
khi tỉnh giấc thì tiệc đã tàn, người đã tan. Lúc này, giữa không gian tĩnh lặng ấy, Kiều
mới chợt “giật mình” nhìn lại tấm thân tàn không khỏi xót xa.
Khi sao phong gấm rủ
Giờ sao tan tác như hoa giữa đường
Mặt sao dày gió dạn sương
Thân sao bướm chán ong chường bấy thân
Kiều ý thức được thân phận bèo bọt của mình nơi chốn lầu xanh. Thế nên, trong
một phút chốc nàng đã nhớ về cuộc sống êm đềm trước kia. “Khi sao phong gấm rủ
là” đó cuộc sống trong sự bao bọc của cha mẹ, chẳng cần quan tâm tới chốn
phong trần. Vậy “giờ sao tan tác như hoa giữa đường”. Lấy sự tươi đẹp của quá
khứ để làm nổi bật lên cuộc sống ê chề, xót xa đến tận cùng. Vẫn “trướng rủ màn
che” nhưng giờ lại cuộc sống buôn phấn bán hương cho người chẳng quen biết.
Thế mới thấy được nỗi xót xa của Thúy Kiều.
Nguyễn Du đã khéo léo khắc họa lời tự sự của Thúy Kiều. Cuộc sống giờ đây nàng
bị chà đạp không thương tiếc. Khuôn mặt ngại ngùng, e ấp chốn khuê phòng xưa
kia giờ đã “dày gió dạn sương”, ngày ngày phải chường ra tiếp rượu cho người ta
ngắm nghía, ôm ấp. Càng nghĩ đến bản thân, Thúy Kiều càng chán chường, chỉ còn
thể thốt lên những lời thở than chua xót “thân sao bướm chán ong chường”. Qua
đó, ta càng cảm thương số phận của nàng Kiều. Dường như ý thức được tấm thân
tàn tạ, rẻ mạt của mình, nên Kiều chẳng còn thiết tha gì:
Mặc người mưa Sở mây Tần
Những mình nào biết xuân
Đòi phen gió tựa hoa kề
Nửa rèm tuyết ngậm bốn bề trăng thâu
Giữa chốn phong trần ấy, phận liễu yếu đào bị vùi dập, bị coi thường, nhưng
Kiều vẫn mạnh mẽ, cố giữ cho mình cốt cách thanh cao. Bốn bề lầu xanh đâu đâu
cũng “mưa Sở mây Tần” nhưng Kiều cũng chẳng để tâm. Dường như những thú
vui hoan lạc, tầm thường ấy chẳng làm ảnh hưởng đến tâm hồn vốn đã chết lặng
của Kiều. Với người khác, những cuộc vui thâu đêm suốt sáng ấy chính xuân, còn
với Kiều những thứ ấy cũng như gió thoảng mây trôi.
Sống trong sự tủi nhục, đau đớn cả thể xác tâm hồn, giờ đây Kiều chỉ như một
cái xác vật vờ chốn lầu xanh. Tâm trí nàng chẳng màng đến những thú vui tầm
thường ấy. lẽ chính tâm trạng của người, đã khiến tâm trạng của thiên nhiên
trở nên u ám.
Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh vui đâu bao giờ
Đó những câu thơ đắt giá nhất, diễn tả chính xác hoàn cảnh éo le của Thúy Kiều.
xung quanh đều những cuộc vui tối ngày, nhưng với Kiều đều tầm thường
hết cả. lẽ từ khi bước chân vào chốn này, Kiều đã trở nên không màng nhân tình
thế thái. Đối với Thúy Kiều mọi cảnh vật, con người nơi đây đều giả tạo, nàng
không tìm được tri âm, tri kỷ.
đây, Nguyễn Du đã hết sức tinh tế khi dùng những từ ngữ chắt lọc để miêu tả về
đám người dung tục, tầm thường nhưng vẫn luôn thể hiện mình kẻ văn hóa.
Đòi phen nét vẽ câu thơ
Cung cầm trong nguyệt nước cờ dưới hoa
Câu thơ ấy thể hiện sự mỉa mai đối với những khách làng chơi chốn lầu xanh.
Kiểu vốn một người “cầm kỳ thi họa” thế nên khi nhìn thấy sự giả tạo ấy, nàng
không ngừng cảm thán. Đó những điều nàng yêu thích trước đây, thế nhưng
giờ đây dưới con mắt của những kẻ làng chơi, nàng lại thấy thật tẻ nhạt, chán
chường. giữa chốn phong trần này, chính tài sắc vẹn toàn của Kiều lại sự trêu
ngươi chua xót.
Những điều Kiều làm trong chốn lầu xanh ấy chỉ gượng gạo. Bởi nàng biết
phản kháng thế nào nàng vẫn không thể thoát khỏi nó. Ngay cả khi tìm đến cái chết,
nàng cũng đâu thể trốn tránh được số phận đâu.
Vui vui gượng kẻo
Ai tri âm đó mặn với ai
chốn đó nàng muốn tìm một tri âm, tri kỷ. Ấy thế nhưng những kẻ đến đây đều
mến mộ, thèm khát nhan sắc, tài năng của Kiều. Chẳng một ai thật tâm, thật tình
đến để chia sẻ tâm sự cùng nàng. Thế nên những kẻ ấy chỉ một phút thoáng qua.
thế càng làm cho Kiều cảm thấy mình đơn, hiu quạnh xót xa đến tột cùng.
Phân tích Nỗi thương mình ta càng hiểu hơn nỗi thương cảm xót xa cho kiếp
hồng nhan bạc mệnh của Thúy Kiều. Người phụ nữ tài sắc vẹn toàn ấy đã bị cuộc
sống chốn phong trần vùi dập không thương tiếc. Đến mức tâm hồn Kiều như chết
lặng quá đau đớn. Qua đoạn trích ấy, ta cũng thấy tấm lòng nhân đạo
Nguyễn Du đã trao gửi, cảm thông cho Thúy Kiều. Chính thế ông đã đề cao nhân
phẩm tốt đẹp của nàng, chìm đắm trong chốn dung tục tầm thường, nhưng Kiều
vẫn giữ được cốt cách tâm hồn, không bị cuốn theo lối sống trụy lạc ấy.
Bài làm mẫu 2
Sau biến cố gia đình, Kiều bán thân làm lẽ cho Giám Sinh để cứu cha em,
đồng thời gửi lại mối duyên của mình với Kim Trọng cho Thúy Vân, những tưởng
bấy nhiêu sự hy sinh ấy của Kiều đã đến tột cùng, thế nhưng phận đời éo le, thích
trêu đùa kiếp hồng nhan bạc mệnh. Kiều bị Giám Sinh lừa bán vào lầu Ngưng
Bích, trở thành kỹ nữ, khiến cuộc đời nàng thật sự đi vào bi kịch kinh hoàng. Sau lần
tự tử bỏ trốn không thành Kiều bị buộc phải tiếp khách, dần trở thành
người kỹ nữ phong trần trong nỗi xót xa tủi nhục khôn cùng.
Số phận nổi trôi của nàng Kiều khiến độc giả không khỏi thương cảm, đớn đau đúng
với câu “Đau đớn thay phận đàn bà/Lời rằng bạc mệnh cũng lời chung”. đây
hơn ai hết Thúy Kiều chính người ý thức được nhất cảnh ngộ éo le của kiếp kỹ
nữ trong đoạn trích Nỗi thương mình.
“Biết bao bướm lả ong lơi
Cuộc say đầy tháng trận cười suốt đêm.
Dập dìu gió cành chim,
Sớm đưa Tống Ngọc tối tìm Trường Khanh.”
Mở đầu đoạn trích đó khung cảnh chốn lầu xanh ong bướm trụy lạc, hình ảnh
“bướm lả ong lơi” gợi ra viễn cảnh cùng dung tục, kỹ nữ như những bông
hoa tươi đẹp, còn khách làng chơi lại tựa như loài ong loài bướm, lả lơi, ngả
nghiêng hết vờn đóa hoa này, lại chạm đến bông hoa kia, hết sức tạp nham, lẫn lộn
hoang đường. Trong chốn mua vui ấy người ta chỉ thấy hương rượu nồng quyện
với mùi hương phấn dung tục với “cuộc say đầy tháng”, với sự khoái lạc của “trận
cười suốt đêm”, nam nữ thâu hoan không kể ngày đêm, ồn ào, náo nhiệt trụy lạc.
người phụ nữ chốn phong trần lại trở thành thứ đồ chơi cho kẻ khác mua vui,
ai đến ai đi nhiều không kể xiết, vốn những người xa lạ thế nhưng lại thể hiện
ra những hình ảnh “dập dìu” nam nữ cười đùa, ngả ngớn, đầu sát bên đầu, ấp
bên tựa như với gió, cành với chim. Người kỹ nữ ngày đêm tiếp khách cũng
chẳng phân biệt sáng tối, ngày hay đêm, khách đến ai, già hay trẻ, xấu hay đẹp,
nhân phẩm, tính cách ra sao, thứ họ trao đổi chỉ thú vui xác thịt đồng tiền rẻ
rúng, riết rồi chẳng còn nhận ra bản thân mình ai nữa. trong đoạn trích để
khắc họa hình ảnh khách làng chơi Nguyễn Du đã tinh tế đưa vào hai nhân vật
thật trong lịch sử, một Tống Ngọc nổi danh với bài Phú Cao Đường kể chuyện
mây mưa của nữ thần Vu Sơn với tiên vương nước Sở, ý chỉ chuyện nam nữ hoan
lạc. Hai Trường Khanh tên tự của Tương Như, người gảy một khúc
Phượng cầu Hoàng để quyến Trác Văn Quân, một quả phụ nhan sắc tuyệt trần,
cũng ý chỉ loại khách phong lưu, giỏi chuyện trăng gió. Như vậy từ những hình ảnh
ẩn dụ tinh tế thông qua cách điển tích điển cố, tác giả đã tái hiện một cách tài tình
khung cảnh chốn lầu xanh nhuốm màu sắc dục, cuộc sống nhơ nhớp, hỗn loạn
hoang đường của những con người nơi đây. đó người phụ nữ trở thành thú
vui, thứ đồ chơi tùy cho những kẻ tiền sử dụng phục vụ cho những sở thích dung
tục, tầm thường. Dẫu rằng chốn lầu xanh ngày ngày giăng đèn kết hoa, thế nhưng
cuộc đời của người kỹ nữ luôn chìm trong tăm tối, tủi nhục đầy xót xa cay đắng.
Còn bản thân Kiều, vốn một tiểu thư khuê các, nào đâu biết chuyện gió trăng, tâm
hồn vốn thanh cao trang nhã, tài sắc vẹn toàn, vốn tưởng sẽ phải xứng được
cuộc sống phú quý, được nâng niu cưng chiều. Thế nhưng dòng đời vốn “Chữ tài
chữ mệnh khéo ghét nhau”, ai ngờ được sóng gió lại đẩy cuộc đời Kiều đi vào chỗ
địa ngục trần gian, nhơ nhớp, dung tục đến tận cùng lầu xanh. chốn ấy Kiều đã
cố hết sức mình vùng vẫy, chống cự thậm chí tìm đến cái chết, nhưng vẫn không thể
thoát khỏi số phận ê chề, nhục nhã. Thế rồi sau mỗi cuộc “vui”, Kiều quay về nhìn lại
tấm thân tàn tạ, lại ý thức được thân phận bọt bèo, nàng không khỏi xót xa, tự khóc
thương cho bản thân mình.
“Khi tỉnh rượu lúc tàn canh
Giật mình lại thấy thương mình xót xa”
Hai câu thơ ấy khiến người ta chợt nghĩ đến hai câu thơ của Hồ Xuân Hương rằng
“Chén rượu hương đưa say lại tỉnh/Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn”, cũng
nỗi đớn đau cho thân phận phụ nữ, nỗi chán chê, xót xa cho cuộc đời hồng nhan,
lấy rượu để tạm quên đi nỗi đắng cay, thế nhưng lúc tỉnh thì nỗi đau ấy lại càng trở
nên thấm thía ràng. Thế nhưng khác với việc Hồ Xuân Hương tự chuốc say
mình để được quên sự đời, thì bản thân Thúy Kiều lại bị buộc phải say, chén đi chén
lại với đủ loại khách làng chơi, ngày này qua tháng nọ, hiếm lúc giở rượu, tỉnh
giấc khi cuộc vui đã tàn, người đã tan. Kiều mới chợt giật mình, bàng hoàng nhìn lại
tấm thân tàn, tự thấy xót xa, thương cảm đến quặn thắt cả tâm hồn.
“Khi sao phong gấm rủ
Giờ sao tan tác như hoa giữa đường.
Mặt sao dày gió dạn sương,
Thân sao bướm chán ong chường bấy thân!”
Nỗi đau của Kiều lại càng được bộc lộ nét hơn trong những câu thơ ý thức về
thân phận bọt bèo. Nhắc lại chuyện “Khi sao phong gấm rủ là”, nhắc về cuộc sống
êm đềm trướng rủ màn che thuở trước, khi Kiều còn được sống trong sự bảo bọc
của cha mẹ, nào biết đến chốn phong trần với nỗi ê chề, xót xa đến tận cùng này.
Trái ngược hẳn với mộng đẹp trong quá khứ, Kiều bây giờ buộc phải đối mặt với
một cuộc sống cũng trướng rủ màn che đấy, nhưng lại chìm trong những ngày tháng
sắc dục, buôn phấn bán hương cho kẻ chơi đùa thỏa thích, ngày ngày nở nụ cười
giả tạo, lấy lòng người không quen biết. Kiều tự nhận thấy bản thân mình ứng
với mấy chữ “tan tác như hoa giữa đường”, vốn đóa mẫu đơn cao quý, trong
sạch, cuối cùng lại trở thành nơi của biết bao “bướm lả ong lơi”, bị chà đạp không
thương tiếc, chỉ còn lại bộ dạng tàn tạ, nhơ nhuốc. Khuôn mặt khi xưa vốn ngại
ngùng, e ấp, quạt hương che nửa mặt, ôm ấp chốn khuê phòng, thì nay phải ngày
ngày chường ra cho kẻ Bắc người Nam, ngắm nghía, bình phẩm, phải “dày gió dạn
sương” ôm ấp nam tử như người tình, điệu bộ lả lướt, ngả ngớn, chiều lòng. Nghĩ lại
bản thân Thúy Kiều chỉ còn thể thốt lên lời thở than chua xót “Thân sao bướm
chán ong chường bấy thân!”, ý thức của nàng về tấm thân tàn tạ, rẻ mạt của
mình. Từ đó độc giả dễ dàng nhận ra cuộc sống tủi hổ, nhục nhã đau đớn tột cùng
về cả thể xác tinh thần của nàng Kiều tội nghiệp.
“Mặc người mưa Sở mây Tần,
Những mình nào biết xuân gì.
Đòi phen gió tựa hoa kề,
Nửa rèm tuyết ngậm bốn bề trăng thâu”
Thế nhưng dẫu cuộc đời chà đạp, vùi dập phận liễu yếu đào tơ, thì Kiều vẫn
mạnh mẽ kiên cường, giữ vững cho mình cốt cách thanh cao, tinh khiết tựa loài sen
trắng trong đầm nước “Gần bùn chẳng hôi tanh mùi bùn”. Dẫu bốn bề chốn lầu
xanh nơi nào cũng “mây Sở mưa Tần” thì nàng cũng chẳng buồn để tâm đến,
những thú vui hoan lạc, tầm thường ấy cũng chẳng đánh động được vào tâm hồn
vốn đã chết lặng từ lần đầu bước chân vào nơi đây. Với những ai khác cuộc vui thâu
đêm suốt sáng “xuân” còn với nàng những thứ ấy vốn chẳng lọt vào tầm mắt,
cũng chẳng thiết tha gì. Gặp cảnh khách làng chơi muốn “gió tựa hoa kề”, muốn gần
gũi xác thịt lòng nàng như chết lặng, lẽ bấy nhiêu đắng cay, tủi nhục đã khiến
Kiều hoàn toàn buông xuôi, mặc cho cuộc đời trôi nổi giữa chốn phong, hoa, tuyết,
nguyệt rực rỡ, thơ mộng nhưng ẩn chứa sự dung tục, tầm thường này.
3. Phân tích Nỗi thương mình (2 Mẫu)
Bài làm mẫu 1
Đoạn trích Nỗi thương mình tâm trạng xót xa, ê chề của nàng Kiều khi rơi vào
hoàn cảnh éo le đầy nhục nhã tại lầu Ngưng Bích bắt đầu những ngày tháng trở
thành kỹ nữ, chứng kiến cảnh mua vui trụy lạc, rớt nước mắt xót thương “Đau
đớn thay cho phận đàn bà/Lời rằng bạc mệnh cũng lời chung”.
Đoạn trích nằm từ câu 1229 đến câu 1248, trong phần Lưu lạc của Truyện Kiều. Bắt
đầu khi Giám Sinh đưa Kiều về đến lầu xanh của Bà, Kiều biết mình bị lừa,
để tránh thoát số kiếp kỹ nữ mua vui, Kiều bèn nhắm mắt định quyên sinh nhưng
không chết, lại được Đạm Tiên báo mộng nàng vẫn chưa thoát khỏi sổ đoạn trường.
Đành lòng Kiều nhẫn nhục ra tạm lầu Ngưng Bích, rồi mắc mưu của Sở Khanh, bỏ
trốn không thành, bị bắt về đánh đập man lấy cớ ép Kiều tiếp khách.
“Biết bao bướm lả ong lơi
Cuộc say đầy tháng trận cười suốt đêm.
Dập dìu gió cành chim,
Sớm đưa Tống Ngọc tối tìm Trường Khanh.”
Mở đầu cảnh chốn lầu xanh ăn chơi hoang lạc, hoàn toàn xa lạ, ngoài sức tưởng
tượng của nàng Kiều. Với “bướm lả, ong lơi”, đầy dung tục tầm thường, hành động
suồng sã, trêu ghẹo của khách làng chơi cùng với những bóng hồng lả lướt mời gọi
của kỹ nữ, như ong vờn bướm đầy ngả ngớn. Không gian ngập tràn trong ánh đèn
nến đỏ đỏ hồng hồng, cùng những “trận cười suốt đêm”, cùng với hương rượu nồng
đượm từ “cuộc say đầy tháng”, không phân biệt ngày đêm, ồn ào, buông thả náo
nhiệt. Hình ảnh nam nữ vốn chẳng quen biết “dập dìu” tựa sát vào nhau như “lá gió,
cành chim”, rồi cảnh kỹ nữ tiếp khách suốt ngày đêm, chẳng phân biệt ai ra ai, công
việc cứ tuần hoàn không điểm dừng, đến nỗi họ quên mất cả bản thân mình ai.
Nguyễn Du đã rất tài tình khi đưa hai nhân vật trong điển tích văn chương Trường
Khanh, Tống Ngọc, vốn nổi danh với tính phong lưu, thích tầm hoa vấn liễu để giúp
người đọc thấy được Kiều tiếp những đối tượng thường phong lưu tài tử. Chỉ
bằng vài câu thơ ngắn gọn, súc tích, tác giả đã khắc họa nét cuộc sống nhơ
nhớp, trụy lạc ngập tràn sắc dục ê chề nơi lầu xanh, nơi phụ nữ được xem thứ
đồ mua vui, thỏa mãn thói hoang lạc tầm thường của những kẻ lắm tiền nhiều của.
Cũng chính trong đoạn thơ này, dưới tầm mắt quan sát thấu đáo của Kiều, cho thấy
nàng ý thức rất cao về nhân phẩm cũng như thân phận của mình.
Kiều vốn được Nguyễn Du xây dựng như một hình mẫu người phụ nữ tưởng tài
sắc vẹn toàn, nhưng xót xa thay “Chữ tài chữ mệnh khéo ghét nhau”, một con
người thanh cao trong trẻo đến vậy, số mệnh lại đẩy đưa vào nỗi nhớ nhấp, tầm
thường nhất. Kiều vùng vẫy, chống lại số phận, không chấp nhận làm một kỹ nữ
bẩn mặc người chơi đùa, nàng hiện lên cái đức tính cao đẹp của loài hoa sen
thuần khiết “Gần bùn chẳng hôi tanh mùi bùn”. Nhưng Kiều bất lực trước hoàn
cảnh éo le của mình, Kiều buộc phải chấp nhận sự thật, tự khóc thương cho bản
thân.
“Khi tỉnh rượu lúc tàn canh
Giật mình lại thấy thương mình xót xa”
Kiều đã cố quên đi nỗi đau đớn tủi nhục, trong men rượu, nhưng ích khi, canh
tan rượu tàn, còn lại tấm thân rời, đến Kiều cũng phải “giật mình” tự “thương
mình xót xa”. Nhịp thơ trong câu lục, nhịp 3/3 chậm rãi, nhịp nhàng, diễn tả cuộc
sống chán chường, đằng đẵng tận, đến câu bát thì nhịp thơ 2/2/2/2 nhanh hơn,
Kiều bàng hoàng tỉnh lại, nhận lấy nỗi đớn đau tận tâm can, như vặn xoắn lấy tâm
hồn.
Những câu thơ tiếp dòng hồi tưởng đầy xót xa, chua chát của Kiều khi so sánh
cuộc sống nhung gấm, thanh cao trước đây cùng với thực cảnh tủi nhục, nhơ nhớp
chốn lầu xanh, ong bướm lả lơi.
“Khi sao phong gấm rủ
Giờ sao tan tác như hoa giữa đường.
Mặt sao dày gió dạn sương,
Thân sao bướm chán ong chường bấy thân!”
Nhớ khi xưa kia khi còn tiểu thư đài các, cầm kỳ thi họa môn nào cũng tinh thông,
lại được sống trong “phong gấm rủ là”, viên minh châu, được cha mẹ nâng niu,
chiều chuộng, thân ngọc ngà chẳng nhiễm một hạt bụi trần. Nhưng nay hiện thực
tàn khốc, Kiều tự tấm thân “tan tác như hoa giữa đường”, một đóa Mẫu đơn xinh
đẹp nay bị chốn lầu xanh vùi dập không thương tiếc. Ngày trước, nàng nào phải lộ
mặt tiếp xúc với nam tử, hay người lạ bao giờ, còn nay thì “Mặt sao dày gió dạn
sương”, đã chẳng còn biết xấu hổ, hay e lệ phép tắc, lễ nghĩa, bởi trong chốn phong
nguyệt này những thứ đó thật nực cười. Chính Kiều cũng cảm thấy tấm thân mình
chẳng còn trong sạch, vốn đã “bướm chán ong chường”, rẻ mạt đến thế. Để thấy
được Kiều đã một cuộc sống đày đọa, vừa ê chề nhục nhã về thể xác, vừa tủi hổ
trong tâm hồn, buồn xót cho một số phận tài hoa nhưng mệnh đời bạc bẽo quá. Việc
Nguyễn Du sử dụng các thành ngữ lồng ghép, đan chéo vào nhau càng tăng thêm
sức biểu cảm, từng câu từng chữ như ghim vào lòng người đọc, thấm đượm nỗi xót
thương cho số phận của nàng Kiều tội nghiệp.
“Mặc người mưa Sở mây Tần,
Những mình nào biết xuân gì.
Đòi phen gió tựa hoa kề,
Nửa rèm tuyết ngậm bốn bề trăng thâu.”
Nhưng hội cố vùi dập nàng xuống lớp bùn hôi tanh, tấm thân nàng đã
vướng bụi đời, nhưng tâm hồn hồn nàng vẫn thanh khiết, giữ vững cốt cách của loài
sen trắng. Kiều thờ ơ với mọi cuộc hoan lạc “mưa Sở mây Tần”, nàng chẳng lấy
làm vui thú, để vui đây? Khi những khách làng chơi muốn “gió tựa hoa kề”, cho
gần gũi thân mật, nhưng thật giả dối ghê tởm quá. Lòng Kiều như chết lặng, Kiều
không phản kháng, cũng không còn muốn phản kháng, bởi đau đớn tủi đã cướp
đi hồn nàng, Kiều chỉ đang tồn tại, tồn tại giữa chốn lầu xanh phồn hoa nhất, cũng
thấp kém nhất. Cảnh phong, hoa, tuyết, nguyệt đẹp đẽ đủ cả, nhưng cũng chẳng
thể che lấp đi sự nhơ nhớp, trụy lạc của chốn phong trần phóng túng.
Hỏi chăng trong lòng vốn đã đau xót, buồn tủi thì cảnh đẹp tuyệt trần đi chăng
nữa, thì người cũng vui được không? Thế Nguyễn Du mới câu thơ: “Cảnh nào
cảnh chẳng đeo sầu/Người buồn cảnh cũng vui đâu bao giờ?”. Tâm trạng u uất của
Kiều dường như lan tràn sang cả cảnh sắc xung quanh, nơi đây cũng nào thiếu
những thú vui cầm, kỳ, thi, họa, cũng thanh tao cao nhã một cách đầy mỉa mai, khi
chốn dung tục cũng “Đòi phen nét vẽ câu thơ/Cung cầm trong nguyệt nước cờ
dưới hoa”. Chính vậy lòng Kiều càng không vui nổi, chăng cái cười gượng
gạo “Vui vui gượng kẻo là”. Cười đây nụ cười chua chát, mặn đắng bờ môi,
chắc rằng lòng Kiều đang nhỏ lệ, câu buồn quá hóa cười, cười số phận trêu
ngươi, cười chán chê cái thân phận phụ nữ đầy ngang trái, trắc trở. Nỗi đau khổ
của Kiều qua đoạn thơ này được Nguyễn Du thể hiện bằng bút pháp tả cảnh ngụ
tình, càng thêm thấm thía, sâu sắc hơn trong từng câu chữ. Câu thơ cuối như một
lời hỏi bâng quơ “Ai tri âm đó mặn với ai?”, Kiều chẳng mong câu trả lời, bởi
trong chốn phong trần này, sẽ chẳng ai thấu hiểu cho nỗi đau này của nàng.
Bài làm mẫu 2
Đoạn thơ đầy chất bi thương nhưng lại không hề yếu đuối. Từ bên trong toát lên
ánh sáng của phẩm chất cao quý chính cái bi thương ấy lại lời tố cáo mãnh liệt
tội ác của hội bất nhân đã chồng chất bao nhiêu đau khổ lên một kiếp người
Sau khi Thúy Kiều đánh tiếng sẽ bán mình để chuộc cha ra khỏi chốn ngục tù,
Giám Sinh nhờ mối lái dẫn đến, giả danh cưới Kiều làm vợ lẽ. nhưng thực ra y mua
nàng về cho nhà chứa của Bà. Khi biết mình bị lừa, Thúy Kiều quyết liệt chống lại
âm mưu tàn ác của chúng. Nàng rút dao định tự sát, nhưng không chết. Trong cơn
mê, Thúy Kiều thấy hồn Đạm Tiên hiện về báo cho biết nàng chưa thoát được số
đoạn trường nên đành phải nghe lời dỗ dành của ra tạm lầu Ngưng Bích.
Sở Khanh, tên tay sai của đã lập mưu rủ nàng đi trốn. Kiều nhẹ dạ nghe theo,
bị bắt về đánh đập rất man buộc nàng phải tiếp khách.
Đoạn trích Nỗi thương mình từ câu 1229 đến câu 1248 của Truyện Kiều miêu tả tâm
trạng đau đớn, tủi nhục, nỗi đơn, thương thân trách phận ý thức về thân phận
bất hạnh của Thúy Kiều chốn lầu xanh.
Điểm đặc thù của đoạn trích này tác giả viết về tình cảnh, tâm trạng của Thúy
Kiều khi bị buộc làm kỹ nữ tiếp khách làng chơi. Nguyễn Du phải đối diện với một
thực tế phũ phàng hội vạn ác đã đồn đẩy nhân vật ông trân trọng, yêu mến
vào chốn thanh lâu. Làm thế nào để vẫn phản ánh được sự thật không hạ thấp
nhân vật. vẫn thể hiện được thái độ cảm thông của mình nói lên được sự đau
khổ, thương thân xót phận của nhân vật. Nguyễn Du phát huy mặt mạnh của bút
| 1/47

Preview text:

1. Dàn ý phân tích Nỗi thương mình Dàn ý số 1 I. Mở bài:
● Giới thiệu khái quát về tác giả Nguyễn Du và tác phẩm Truyện Kiều.
● Giới thiệu khái quát về đoạn trích. II. Thân bài:
1. Tình cảnh trớ trêu của Thúy Kiều ở lầu xanh (4 câu đầu)
– Bút pháp ước lệ, tượng trưng: bướm, ong, cuộc vui, trận cười.
→ Cảnh sinh hoạt xô bồ, tấp nập ở chốn lầu xanh.
– Sử dụng điển cố, điển tích: lá gió, cành chim, Tống Ngọc, Trường Khanh.
– Nghệ thuật tiểu đối, gợi nên sự bẽ bàng, xấu hổ của Thúy Kiều: bướm lả – ong lơi,
cuộc vui – trận cười, sớm – tối
– Từ ngữ chỉ mức độ: biết bao, đầy tháng, suốt đêm.
⇒ Cuộc sống xô bồ ở lầu xanh, Kiều phải tiếp khách làng chơi suốt ngày đêm. Đây
là một tình cảnh trớ trêu của cuộc đời Kiều khi bị vùi dập, chà đạp cả thể xác và nhân phẩm.
2. Niềm thương xót cho thân phận của Kiều – Không gian: lầu xanh.
– Thời gian: tàn canh, ban đêm.
→ Thời gian, không gian nghệ thuật thích hợp để Kiều soi thấu tâm trạng của mình.
– Tâm trạng của Thúy Kiều:
● Giật mình: bàng hoàng, thảng thốt, không tin vào cảnh sống ở thực tại của bản thân mình. ● Thương mình xót xa.
→ Cái giật mình trân quý, làm nên nhân cách cao đẹp của Thúy kiều. – Nghệ thuật:
● Cặp từ đối lập “khi sao” và “giờ sao” với nghệ thuật đối giữa hai câu
lục/bát ⇒ nhấn mạnh sự khác biệt: quá khứ thì êm đềm, hạnh phúc còn
hiện tại thì đau đớn, phũ phàng, bị vùi dập.
● Ngữ điệu hỏi: “mặt sao”, “thân sao”.
● Sử dụng thành ngữ chéo:“dày gió dạn sương” (dày dạn gió sương),
“bướm chán ong chường” (ong bướm chán chường) ⇒ nhấn mạnh sự ngỡ ngàng, bàng hoàng.
● Đối lập giữa khách và Kiều.
⇒ Khi sống thật với chính mình, Kiều bàng hoàng, xót xa cho thân phận của mình
và phải chăng đó cũng chính là tiếng nói đòi quyền sống cá nhân của con người
trong xã hội phong kiến của Nguyễn Du- con người biết nhận thức và ý thức về hạnh phúc của mình.
3. Tâm trạng cô đơn, đau khổ của Thúy Kiều (phần còn lại)
– Cuộc sống chốn thanh lâu: có phong, hoa, tuyết, nguyệt (cảnh đẹp bốn mùa), thú vui cầm, kỳ, thi, họa.
→ Cảnh vật đối với Thúy Kiều là sự giả tạo, Kiều không tìm được tri âm, tri kỉ, nàng
thờ ơ với tất cả mọi thứ xung quanh.
– Qua nghệ thuật tả cảnh ngụ tình, tác giả khắc họa tâm trạng của Thúy Kiều ở chốn
lầu xanh: sống nơi lầu xanh dập dìu, Thúy Kiều tự thương, tự đau, tự xót xa cho thân phận của mình.
– Điệp từ vui, ai… và câu hỏi tu từ là tiếng kêu đến xé lòng của con người tài hoa bạc mệnh.
⇒ Trong chốn lầu xanh nơi mà tất cả đều phù phiếm, đồng tiền lên ngôi, Kiều vẫn cố
gắng tách mình ra, tìm một tâm hồn tri âm, thể hiện khát vọng sống trong sạch của
Kiều mà ta thật sự đáng trân trọng.
⇒ Nguyễn Du đề cao giá trị nhân văn, cảm thông sâu sắc với số phận của Kiều và lên án xã hội gay gắt. III. Kết bài:
– Khái quát lại giá trị nội dung và nghệ thuật của đoạn trích. Dàn ý số 2 A, Mở bài:
- Giới thiệu tác giả Nguyễn Du, tác phẩm “Truyện Kiều” và vị trí đoạn trích “Nỗi thương mình”
- Đánh giá chung về đoạn trích “Nỗi thương mình” B, Thân bài:
- Vị trí của đoạn trích “Nỗi thương mình ”
Đoạn trích Nỗi thương mình từ câu 1229 đến câu 1248 của Truyện Kiều miêu tả tâm
trạng đau đớn, tủi nhục, nỗi cô đơn, thương thân trách phận và ý thức về thân phận
bất hạnh của Thúy Kiều ở chốn lầu xanh.
Nội dung : Là tác giả Nguyễn Du viết về tình cảnh, tâm trạng của Thúy Kiều khi bị
buộc làm kĩ nữ tiếp khách làng chơi. Nguyễn Du đã miêu tả thật sống động bức
tranh sinh hoạt đặc trưng ở chốn lầu xanh bằng bút pháp ước lệ tượng trưng:
Biết bao bướm lả ong lơi
Cuộc say đầy tháng trận cười suốt đêm.
Dập dìu lá gió cành chim,
Sớm đưa Tống Ngọc tối tìm Trường Khanh.
- Tác giả đã khai thác triệt để nhằm tô đậm nỗi thương thân, xót phận của Thúy Kiều
và gây cảm giác đau đớn. Xót xa thực sự cho người đọc.
- Với 4 câu thơ đầu thôi mà tác giả như vừa là bức tranh sinh hoạt nhơ nhớp chốn
thanh lâu vừa ẩn chứa tiếng thở dài não ruột của người con gái tài sắc buộc phải làm kĩ nữ.
=> Tác giả Nguyễn Du như đang thực sự xót thương Thúy Kiều rơi vào chốn bùn
nhơ, nơi nhân phẩm bị hủy hoại, nhưng cũng chính trong hoàn cảnh đó
● Có thể nói rằng Thúy Kiều đường như đã ý thức rất rõ về nhân phẩm cao quý của mình.
● Thúy Kiều là một người con gái tài hoa nhưng mệnh bạc, đã được
Nguyễn Du xây dựng trở thành hình mẫu lí tưởng của cái đẹp, cái thiện.
Khi lâm vào tình cảnh ô nhục mà nàng chưa từng nghĩ đến. Thúy Kiều
như đã dùng hết sức cố vùng vẫy để được giải thoát, nhưng càng vùng
vẫy lại càng bế tắc. Nỗi đau “trần thế’’ đối với một người Mai cốt cách,
tuyết tinh thần như Thúy Kiều dường như nhân lên gấp bội
=> Dường như nhà thơ tài năng Nguyễn Du đã thể hiện thật chân tình tâm trạng đau
buồn, tủi hổ đến ê chề của nhân vật Thúy Kiều khi phải đối diện với chính lòng mình:
- Sống trong cảnh cuộc say đầy tháng, trận cười suốt đêm thi chỉ khi tỉnh rượu, lúc
tàn canh Kiều mới có những khoảnh khắc hiếm hoi để sống thực với mình. Lúc
khách làng chơi đã ra về, lúc này chỉ còn bóng đêm, đêm rất khuya, chỉ còn một
mình Kiều đối diện với ngọn đèn chong.
- Đến câu thứ hai, nhịp thơ thay đổi thành 2/2/2/2: giật mình / mình lại / thương mình
/ xót xa. Hai chữ giật minh kết. hợp với cách ngắt nhịp đột ngột dường như diễn tả
tâm trạng thảng thốt đau thương buồn tủi của Thúy Kiều.
=> Thúy Kiều đã như giật mình sợ hãi trước sự đổi thay ghê gớm của số phận và
cũng như tình cảm thảm hại của mình lúc này.
- Nỗi thương mình có thể nói là cảm xúc bao trùm, chủ đạo trong đoạn trích
Thúy Kiều đã buộc phải xa cha mẹ, xa tổ ấm hạnh phúc để bước lên cỗ xe định
mệnh: vó câu khấp khểnh, bánh xe gập ghềnh, lao đi trên con đường mịt mù, vô định
- Thúy Kiều cay đắng nghĩ tới sự tương phản ghê gớm giữa quá khứ tươi đẹp, hạnh
phúc và hiện thực đen tối, phũ phàng:
● Nàng nhớ lại cảnh sống quý phái, sang trọng khi còn ở nhà với cha mẹ
trước lúc xảy ra tai họa và thương tiếc thân mình vì vùi dập tan tác như hoa giữa đường.
● Quá khứ đối lập hiện tại một cách khốc liệt. Dĩ vãng tươi đẹp chỉ được
gợi lên qua một câu: Khi sao phong gấm rủ là, còn hiện tại đen tối được
nhắc đến liên tiếp trong nhiều câu thơ.
- Tác giả tả tâm trạng của Kiều ở chốn lầu xanh:
Mặc người mưa Sở mây Tần,
Những mình nào biết có xuân là gì.
Đòi phen gió tựa hoa kề,
Nửa rèm tuyết ngậm bốn bề trăng thâu.
+ Cảnh có đủ phong, hoa, tuyết, nguyệt, tượng trưng cho vẻ đẹp bốn mùa như: xuân
có hoa; hè có gió; thu có trăng; đông có tuyết. Nhưng trước những cảnh đẹp đó,
Kiều dửng dưng, thờ ơ bởi con tim nàng đã bị nỗi đau khổ quá mức làm cho giá lạnh.
+ Ở lầu xanh cũng có đủ các thú vui như cầm, kì, thi, họa, nhưng đối với Kiều thì
cảnh vật, con người và những thú vui ấy giờ đây đối với nàng đều trở nên vô nghĩa.
- Tưởng chừng như nỗi sầu từ lòng người lan tỏa sang cả cảnh vật:
Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ.
=> Bằng sự thông cảm thực sự và bằng tài năng kì diệu. Nguyễn Du dường như đã
viết lên hai câu thơ hay nhất về mối liên hệ tương đồng giữa ngoại cảnh và tâm
cảnh, giữa cảnh và tình trong văn chương Việt Nam.
- Đoạn trích Nỗi thương mình chứa đựng ý nghĩa sâu sắc về quá trình nhân vật đã
tự ý thức của con người cá nhân trong văn học trung đại.
● Người phụ nữ xưa thường được giáo dục theo tinh thần an phận thủ
thường, cam chịu và nhẫn nhục. Khi nhân vật Giật mình mình lại
thương mình xót xa thì điều này đã bao hàm ý nghĩa “cách mạng” Con
người không chỉ biết hy sinh, nhẫn nhục, cam chịu mà bước đầu đã có
ý thức về phẩm giá, nhân cách, tức là ý thức về quyền sống của bản thân.
● Thương thân, xót phận là một hiện tượng khá phổ biến trong thơ văn
thế kỉ XVIII. Không thể có tình thương sâu sắc, chân chính dành cho
người khác nếu không có ý thức về bản thân, không biết thương chính bản thân mình.
- Đoạn trích Nỗi thương mình cho thấy phẩm giá cao quý, trong trắng của Thúy Kiều.
+ Không hề né tránh thực tế nghiệt ngã, và đã đề cao nhân cách của Kiều, phẩm giá
của Kiều bằng việc thể hiện thành công nỗi buồn thương, day dứt, chán chường của nàng giữa chốn bùn nhơ. C, Kết bài:
- Khẳng định được tài năng của tác giả Nguyễn Du cũng như tác phẩm “Truyện
Kiều” có tầm ảnh hưởng như thế nào
- Qua đoạn trích có thể hiểu được tâm trạng chán chường, buồn thương và tuyệt
vọng của Thúy Kiều, nàng như đã tự ý thức được nhân phẩm của mình bị vùi dậy cho nên càng thương mình. Dàn ý số 3 1. Mở bài
Giới thiệu bối cảnh của đoạn trích Nỗi thương mình. 2. Thân bài:
a. Khung cảnh lầu xanh trụy lạc, phóng túng:
- “bướm lả ong lơi” gợi ra viễn cảnh vô cùng dung tục, ví kỹ nữ như là những bông
hoa tươi đẹp, còn khách làng chơi lại tựa như loài ong loài bướm, lả lơi, ngả
nghiêng hết vờn đóa hoa này, lại chạm đến bông hoa kia, hết sức tạp nham, lẫn lộn và hoang đường.
- Hương rượu nồng quyện với mùi hương phấn dung tục với “cuộc say đầy tháng”,
với sự khoái lạc của “trận cười suốt đêm”, nam nữ thâu hoan không kể ngày đêm,
ồn ào, náo nhiệt và trụy lạc.
- Hình ảnh “dập dìu” nam nữ cười đùa, ngả ngớn, đầu sát bên đầu, má ấp bên má
tựa như lá với gió, cành với chim.
- Khắc họa hình ảnh khách làng chơi bằng các điển tích, điển cố, nhân vật trong lịch
sử như Tống Ngọc, Tư Mã Tương Như.
b. Nỗi đau và tâm trạng của Thúy Kiều:
- “Khi tỉnh rượu lúc tàn canh/Giật mình lại thấy thương mình xót xa”: Ý thức về thân
phận bọt bèo, giật mình, bàng hoàng nhìn lại tấm thân tàn, mà tự thấy xót xa, thương cảm.
- “Khi sao phong gấm rủ là”, là nhắc về cuộc sống êm đềm trướng rủ màn che thuở
trước. Còn Kiều bây giờ buộc phải đối mặt với một cuộc sống cũng trướng rủ màn
che đấy, nhưng lại chìm trong những ngày tháng sắc dục, buôn phấn bán hương.
- Kiều tự nhận thấy bản thân mình ứng với mấy chữ “tan tác như hoa giữa đường”,
vốn là đóa mẫu đơn cao quý, trong sạch, cuối cùng lại bị chà đạp không thương tiếc,
chỉ còn lại bộ dạng tàn tạ, nhơ nhuốc.
- Khuôn mặt phải ngày ngày chường ra cho kẻ Bắc người Nam, ngắm nghía, bình
phẩm, phải “dày gió dạn sương” ôm ấp nam tử như người tình, điệu bộ lả lướt, ngả ngớn, chiều lòng.
- Lời thở than chua xót “Thân sao bướm chán ong chường bấy thân!”, là ý thức của
nàng về tấm thân tàn tạ, rẻ mạt của mình.
=> Cuộc sống tủi hổ, nhục nhã đau đớn tột cùng về cả thể xác và tinh thần của nàng Kiều.
c. Vẻ đẹp tâm hồn Thúy Kiều:
-Thế nhưng dẫu cuộc đời có chà đạp, vùi dập phận liễu yếu đào tơ, thì Kiều vẫn
mạnh mẽ kiên cường, giữ vững cho mình cốt cách thanh cao, tinh khiết. Dẫu bốn bề
chốn lầu xanh nơi nào cũng “mây Sở mưa Tần” thì nàng cũng chẳng buồn để tâm
đến, những thú vui hoan lạc, tầm thường ấy
- “Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu/Người buồn cảnh cũng vui đâu bao giờ?”, để diễn
tả đúng cái hoàn cảnh éo le, buồn tủi của Thúy Kiều.
- “Đòi phen nét vẽ câu thơ/Cung cầm trong nguyệt nước cờ dưới hoa”, thể hiện
hoàn cảnh trêu ngươi của Thúy Kiều, nàng vốn là người thông minh, sắc sảo ca từ
thi phú âm luật có cái nào mà không thông, nhưng nhìn viễn cảnh trước mắt, lại nhìn
tới số phận bọt bèo của mình thì những thứ mà nàng yêu thích trước đây cũng trở
nên tẻ nhạt, chán chường.
- “Ai tri âm đó mặn mà với ai” nỗi trăn trở về một người có thể thiếu hiểu, xót
thương, mong mỏi thoát khỏi chốn phong trần. Điều đó càng làm cho Kiều trở nên
chán nản, xót xa đến tột cùng. 3. Kết bài: Nêu cảm nghĩ.
2. Nỗi thương mình phân tích (2 Mẫu) Bài làm mẫu 1
Nguyễn Du (1765 – 1820) tên thật là Tố Như, là một nhà văn hóa lớn, một thiên tài
văn học. Truyện Kiều của Nguyễn Du được đánh giá là tác phẩm truyện thơ nổi
tiếng nhất, được xếp vào hàng kinh điển trong kho tàng văn học Việt Nam. Đoạn
trích “Nỗi thương mình” nằm từ câu 1229 đến câu 1248 trong Truyện Kiều. Đây là
đoạn trích miêu tả rõ nét tình cảnh trớ trêu của nàng Kiều trong chốn lầu xanh, và
nỗi niềm thương xót cho phận đời bạc bẽo của Thúy Kiều.
Tột cùng của nỗi đau không phải là chuyện Kiều bán thân làm lẽ cho Mã Giám Sinh.
Mà đó là việc Kiều bị Mã Giám Sinh lừa bán vào lầu Ngưng Bích làm kỹ nữ. Số phận
của Kiều đúng kiếp “hồng nhan bạc phận”.
Ở đoạn trích này, Nguyễn Du đã lột tả một cách trần trụi phận đời éo le, tủi nhục của
Kiều. Độc giả đã cảm nhận rõ nét nỗi đau đớn của Kiều và không khỏi thương cảm,
xót xa. Và chính Kiều là người ý thức rõ nhất cảnh ngộ éo le ấy của mình:
Biết bao bướm lả ong lơi
Cuộc say đầy tháng trận cười suốt đêm
Dập dìu lá gió cành chim
Sớm đưa Tống Ngọc tối tìm Trường Khanh
Mở đầu đoạn trích, Nguyễn Du đã khắc họa khung cảnh chốn lầu xanh trụy lạc bằng
những hình ảnh hết sức chân thực. “Bướm lả ong lơi” mở ra khung cảnh vô cùng
dung tục. Ở đây, tác giả đã ví người kỹ nữ nư những bông hoa tươi đẹp, còn khách
làng chơi tựa như loài ong, loài bướm. Nguyễn Du thật sự tinh tế khi dùng hình ảnh
ong bướm để ẩn dụ cho khách hàng chơi.
Trong chốn hồng lâu ấy, chỉ là những hình ảnh ăn chơi trụy lạc thâu đêm suốt sáng,
đó là những “cuộc say đầy tháng” cùng nỗi khoái lạc từ những “trận cười suốt đêm”.
Có lẽ với khách làng chơi đó những giây phút khoái lạc, nhưng với Thúy Kiều đây lại
là sự xót xa, tủi nhục. Dường như giá trị của những kỹ nữ như Thúy Kiều ở chốn lầu
xanh chỉ như một món đồ cho kẻ khác mua vui, người đến, kẻ đi “dập dìu” cười đùa ngả ngớn.
Những người kỹ nữ chốn lầu xanh ngày đêm tiếp khách chẳng phân biệt ngày đêm,
chẳng cần biết khách là ai. Họ vẫn vui vẻ trao đổi với nhau thú vui xác thịt và đồng
tiền rẻ mạt. Cuộc sống ấy cứ quẩn quanh, hết ngày này đến tháng khác, đến nỗi
người kỹ nữ chẳng còn nhận ra chính bản thân mình nữa. Nguyễn Du đã khéo léo
đưa vào đoạn trích hai nhân vật nổi danh trong lịch sử là Tống Ngọc – nổi danh với
Phú Cao Đường kể về chuyện mây mưa của thần nữ Vu Sơn với tiên vương Sở
quốc. Trường Khanh – người đã gảy khúc Phượng Cầu Hoàng để quyến rũ Trách
Văn Quân, là một người phong lưu, giỏi chuyện trăng gió.
Bằng những hình ảnh ẩn dụ tinh tế, cùng những điển tích cổ, Nguyễn Du đã tái hiện
rõ nét khung cảnh chốn lầu xanh nhuộm màu nhơ nhớp, chốn vui thú loạn lạc,
hoang đường của những con người nơi đây. Ở đó, số phận người phụ nữ trở nên
thấp kém, chỉ là những món đồ phục vụ cho sở thích dung tục, tầm thường. Cuộc
đời của người kỹ nữ vì thế mà luôn chìm vào tăm tối và đầy xót xa, tủi nhục.
Khắc họa số phận của kỹ nữ chốn lầu xanh cũng là để khắc họa nỗi tủi phận của
Thúy Kiều. Cuộc đời Kiều đúng “chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau” nên dù chống
cự, vùng vẫy thế nào, cuối cùng nàng cũng phải chấp nhận số phận. Để rồi sau mỗi
cuộc vui thú xác thịt, Kiều tự nhìn lại tấm thân tàn tạ của mình nàng cảm thấy xót xa cho chính bản thân.
Khi tỉnh rượu lúc tàn canh
Giật mình mình lại thương mình
Chỉ hai câu thơ thôi nhưng sao ta thấy đau đớn, xót xa đến vậy. Để quên đi nỗi chua
xót về số phận mình, nỗi đắng cay, Kiều đã tìm đến hơi men. Thế nhưng, khi tỉnh nỗi
đau ấy càng thấm thía và như xát muối vào tim. Say của Thúy Kiều không phải tự
chuốc say mình như Hồ Xuân Hương, mà đó là bắt buộc. Thân phận người kỹ nữ
bắt buộc phải nâng chén với đủ loại khách làng chơi. Việc ấy cứ liên tục mỗi ngày,
khi tỉnh giấc thì tiệc đã tàn, người đã tan. Lúc này, giữa không gian tĩnh lặng ấy, Kiều
mới chợt “giật mình” nhìn lại tấm thân tàn mà không khỏi xót xa.
Khi sao phong gấm rủ là
Giờ sao tan tác như hoa giữa đường
Mặt sao dày gió dạn sương
Thân sao bướm chán ong chường bấy thân
Kiều ý thức được thân phận bèo bọt của mình nơi chốn lầu xanh. Thế nên, trong
một phút chốc nàng đã nhớ về cuộc sống êm đềm trước kia. “Khi sao phong gấm rủ
là” đó là cuộc sống trong sự bao bọc của cha mẹ, chẳng cần quan tâm tới chốn
phong trần. Vậy mà “giờ sao tan tác như hoa giữa đường”. Lấy sự tươi đẹp của quá
khứ để làm nổi bật lên cuộc sống ê chề, xót xa đến tận cùng. Vẫn là “trướng rủ màn
che” nhưng giờ lại là cuộc sống buôn phấn bán hương cho người chẳng quen biết.
Thế mới thấy được nỗi xót xa của Thúy Kiều.
Nguyễn Du đã khéo léo khắc họa lời tự sự của Thúy Kiều. Cuộc sống giờ đây nàng
bị chà đạp không thương tiếc. Khuôn mặt ngại ngùng, e ấp chốn khuê phòng xưa
kia giờ đã “dày gió dạn sương”, ngày ngày phải chường ra tiếp rượu cho người ta
ngắm nghía, ôm ấp. Càng nghĩ đến bản thân, Thúy Kiều càng chán chường, chỉ còn
có thể thốt lên những lời thở than chua xót “thân sao bướm chán ong chường”. Qua
đó, ta càng cảm thương số phận của nàng Kiều. Dường như ý thức được tấm thân
tàn tạ, rẻ mạt của mình, nên Kiều chẳng còn thiết tha gì:
Mặc người mưa Sở mây Tần
Những mình nào biết có xuân là gì
Đòi phen gió tựa hoa kề
Nửa rèm tuyết ngậm bốn bề trăng thâu
Giữa chốn phong trần ấy, dù phận liễu yếu đào tơ bị vùi dập, bị coi thường, nhưng
Kiều vẫn mạnh mẽ, cố giữ cho mình cốt cách thanh cao. Bốn bề lầu xanh đâu đâu
cũng có “mưa Sở mây Tần” nhưng Kiều cũng chẳng để tâm. Dường như những thú
vui hoan lạc, tầm thường ấy chẳng làm ảnh hưởng đến tâm hồn vốn đã chết lặng
của Kiều. Với người khác, những cuộc vui thâu đêm suốt sáng ấy chính là xuân, còn
với Kiều những thứ ấy cũng như gió thoảng mây trôi.
Sống trong sự tủi nhục, đau đớn cả thể xác và tâm hồn, giờ đây Kiều chỉ như một
cái xác vật vờ chốn lầu xanh. Tâm trí nàng chẳng màng đến những thú vui tầm
thường ấy. Có lẽ chính vì tâm trạng của người, đã khiến tâm trạng của thiên nhiên trở nên u ám.
Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ
Đó là những câu thơ đắt giá nhất, diễn tả chính xác hoàn cảnh éo le của Thúy Kiều.
Dù xung quanh đều là những cuộc vui tối ngày, nhưng với Kiều nó đều tầm thường
hết cả. Có lẽ từ khi bước chân vào chốn này, Kiều đã trở nên không màng nhân tình
thế thái. Đối với Thúy Kiều mọi cảnh vật, con người nơi đây đều là giả tạo, nàng
không tìm được tri âm, tri kỷ.
Ở đây, Nguyễn Du đã hết sức tinh tế khi dùng những từ ngữ chắt lọc để miêu tả về
đám người dung tục, tầm thường nhưng vẫn luôn thể hiện mình là kẻ có văn hóa.
Đòi phen nét vẽ câu thơ
Cung cầm trong nguyệt nước cờ dưới hoa
Câu thơ ấy thể hiện sự mỉa mai đối với những khách làng chơi ở chốn lầu xanh.
Kiểu vốn là một người “cầm kỳ thi họa” thế nên khi nhìn thấy sự giả tạo ấy, nàng
không ngừng cảm thán. Đó là những điều mà nàng yêu thích trước đây, thế nhưng
giờ đây dưới con mắt của những kẻ làng chơi, nàng lại thấy nó thật tẻ nhạt, chán
chường. Và giữa chốn phong trần này, chính tài sắc vẹn toàn của Kiều lại là sự trêu ngươi chua xót.
Những điều Kiều làm trong chốn lầu xanh ấy chỉ là gượng gạo. Bởi nàng biết dù có
phản kháng thế nào nàng vẫn không thể thoát khỏi nó. Ngay cả khi tìm đến cái chết,
nàng cũng đâu thể trốn tránh được số phận đâu.
Vui là vui gượng kẻo là
Ai tri âm đó mặn mà với ai
Ở chốn đó nàng muốn tìm một tri âm, tri kỷ. Ấy thế nhưng những kẻ đến đây đều vì
mến mộ, thèm khát nhan sắc, tài năng của Kiều. Chẳng một ai thật tâm, thật tình
đến để chia sẻ tâm sự cùng nàng. Thế nên những kẻ ấy chỉ là một phút thoáng qua.
Vì thế càng làm cho Kiều cảm thấy mình cô đơn, hiu quạnh và xót xa đến tột cùng.
Phân tích Nỗi thương mình ta càng hiểu rõ hơn nỗi thương cảm xót xa cho kiếp
hồng nhan bạc mệnh của Thúy Kiều. Người phụ nữ tài sắc vẹn toàn ấy đã bị cuộc
sống chốn phong trần vùi dập không thương tiếc. Đến mức tâm hồn Kiều như chết
lặng vì quá đau đớn. Qua đoạn trích ấy, ta cũng thấy rõ tấm lòng nhân đạo mà
Nguyễn Du đã trao gửi, cảm thông cho Thúy Kiều. Chính vì thế ông đã đề cao nhân
phẩm tốt đẹp của nàng, dù chìm đắm trong chốn dung tục tầm thường, nhưng Kiều
vẫn giữ được cốt cách tâm hồn, không bị cuốn theo lối sống trụy lạc ấy. Bài làm mẫu 2
Sau biến cố gia đình, Kiều bán thân làm lẽ cho Mã Giám Sinh để cứu cha và em,
đồng thời gửi lại mối duyên của mình với Kim Trọng cho Thúy Vân, những tưởng
bấy nhiêu sự hy sinh ấy của Kiều đã là đến tột cùng, thế nhưng phận đời éo le, thích
trêu đùa kiếp hồng nhan bạc mệnh. Kiều bị Mã Giám Sinh lừa bán vào lầu Ngưng
Bích, trở thành kỹ nữ, khiến cuộc đời nàng thật sự đi vào bi kịch kinh hoàng. Sau lần
tự tử và bỏ trốn không thành Kiều bị Tú Bà buộc phải tiếp khách, dần trở thành
người kỹ nữ phong trần trong nỗi xót xa và tủi nhục khôn cùng.
Số phận nổi trôi của nàng Kiều khiến độc giả không khỏi thương cảm, đớn đau đúng
với câu “Đau đớn thay phận đàn bà/Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”. Mà ở đây
hơn ai hết Thúy Kiều chính là người ý thức được rõ nhất cảnh ngộ éo le của kiếp kỹ
nữ trong đoạn trích Nỗi thương mình.
“Biết bao bướm lả ong lơi
Cuộc say đầy tháng trận cười suốt đêm.
Dập dìu lá gió cành chim,
Sớm đưa Tống Ngọc tối tìm Trường Khanh.”
Mở đầu đoạn trích đó là khung cảnh chốn lầu xanh ong bướm trụy lạc, hình ảnh
“bướm lả ong lơi” gợi ra viễn cảnh vô cùng dung tục, ví kỹ nữ như là những bông
hoa tươi đẹp, còn khách làng chơi lại tựa như loài ong loài bướm, lả lơi, ngả
nghiêng hết vờn đóa hoa này, lại chạm đến bông hoa kia, hết sức tạp nham, lẫn lộn
và hoang đường. Trong chốn mua vui ấy người ta chỉ thấy hương rượu nồng quyện
với mùi hương phấn dung tục với “cuộc say đầy tháng”, với sự khoái lạc của “trận
cười suốt đêm”, nam nữ thâu hoan không kể ngày đêm, ồn ào, náo nhiệt và trụy lạc.
Mà người phụ nữ ở chốn phong trần lại trở thành thứ đồ chơi cho kẻ khác mua vui,
ai đến ai đi nhiều không kể xiết, vốn là những người xa lạ thế nhưng lại có thể hiện
ra những hình ảnh “dập dìu” nam nữ cười đùa, ngả ngớn, đầu sát bên đầu, má ấp
bên má tựa như lá với gió, cành với chim. Người kỹ nữ ngày đêm tiếp khách cũng
chẳng phân biệt sáng tối, ngày hay đêm, khách đến là ai, già hay trẻ, xấu hay đẹp,
nhân phẩm, tính cách ra sao, thứ họ trao đổi chỉ là thú vui xác thịt và đồng tiền rẻ
rúng, riết rồi chẳng còn nhận ra bản thân mình là ai nữa. Mà trong đoạn trích để
khắc họa hình ảnh khách làng chơi Nguyễn Du đã tinh tế đưa vào hai nhân vật có
thật trong lịch sử, một là Tống Ngọc nổi danh với bài Phú Cao Đường kể chuyện
mây mưa của nữ thần Vu Sơn với tiên vương nước Sở, ý chỉ chuyện nam nữ hoan
lạc. Hai là Trường Khanh tên tự của Tư Mã Tương Như, người gảy một khúc
Phượng cầu Hoàng để quyến rũ Trác Văn Quân, một quả phụ nhan sắc tuyệt trần,
cũng ý chỉ loại khách phong lưu, giỏi chuyện trăng gió. Như vậy từ những hình ảnh
ẩn dụ tinh tế thông qua cách điển tích điển cố, tác giả đã tái hiện một cách tài tình
khung cảnh chốn lầu xanh nhuốm màu sắc dục, cuộc sống nhơ nhớp, hỗn loạn và
hoang đường của những con người nơi đây. Mà ở đó người phụ nữ trở thành thú
vui, thứ đồ chơi tùy cho những kẻ có tiền sử dụng phục vụ cho những sở thích dung
tục, tầm thường. Dẫu rằng chốn lầu xanh ngày ngày giăng đèn kết hoa, thế nhưng
cuộc đời của người kỹ nữ luôn chìm trong tăm tối, tủi nhục và đầy xót xa cay đắng.
Còn bản thân Kiều, vốn là một tiểu thư khuê các, nào đâu biết chuyện gió trăng, tâm
hồn vốn thanh cao trang nhã, tài sắc vẹn toàn, vốn tưởng sẽ phải xứng có được
cuộc sống phú quý, được nâng niu cưng chiều. Thế nhưng dòng đời vốn dĩ “Chữ tài
chữ mệnh khéo là ghét nhau”, ai ngờ được sóng gió lại đẩy cuộc đời Kiều đi vào chỗ
địa ngục trần gian, nhơ nhớp, dung tục đến tận cùng là lầu xanh. Ở chốn ấy Kiều đã
cố hết sức mình vùng vẫy, chống cự thậm chí tìm đến cái chết, nhưng vẫn không thể
thoát khỏi số phận ê chề, nhục nhã. Thế rồi sau mỗi cuộc “vui”, Kiều quay về nhìn lại
tấm thân tàn tạ, lại ý thức được thân phận bọt bèo, nàng không khỏi xót xa, tự khóc
thương cho bản thân mình.
“Khi tỉnh rượu lúc tàn canh
Giật mình lại thấy thương mình xót xa”
Hai câu thơ ấy khiến người ta chợt nghĩ đến hai câu thơ của Hồ Xuân Hương rằng
“Chén rượu hương đưa say lại tỉnh/Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn”, cũng là
nỗi đớn đau cho thân phận phụ nữ, là nỗi chán chê, xót xa cho cuộc đời hồng nhan,
lấy rượu để tạm quên đi nỗi đắng cay, thế nhưng lúc tỉnh thì nỗi đau ấy lại càng trở
nên thấm thía và rõ ràng. Thế nhưng khác với việc Hồ Xuân Hương tự chuốc say
mình để được quên sự đời, thì bản thân Thúy Kiều lại bị buộc phải say, chén đi chén
lại với đủ loại khách làng chơi, ngày này qua tháng nọ, hiếm có lúc giở rượu, tỉnh
giấc khi cuộc vui đã tàn, người đã tan. Kiều mới chợt giật mình, bàng hoàng nhìn lại
tấm thân tàn, mà tự thấy xót xa, thương cảm đến quặn thắt cả tâm hồn.
“Khi sao phong gấm rủ là
Giờ sao tan tác như hoa giữa đường.
Mặt sao dày gió dạn sương,
Thân sao bướm chán ong chường bấy thân!”
Nỗi đau của Kiều lại càng được bộc lộ rõ nét hơn trong những câu thơ ý thức về
thân phận bọt bèo. Nhắc lại chuyện “Khi sao phong gấm rủ là”, là nhắc về cuộc sống
êm đềm trướng rủ màn che thuở trước, khi Kiều còn được sống trong sự bảo bọc
của cha mẹ, nào có biết đến chốn phong trần với nỗi ê chề, xót xa đến tận cùng này.
Trái ngược hẳn với mộng đẹp trong quá khứ, Kiều bây giờ buộc phải đối mặt với
một cuộc sống cũng trướng rủ màn che đấy, nhưng lại chìm trong những ngày tháng
sắc dục, buôn phấn bán hương cho kẻ chơi đùa thỏa thích, ngày ngày nở nụ cười
giả tạo, lấy lòng người không quen biết. Mà Kiều tự nhận thấy bản thân mình ứng
với mấy chữ “tan tác như hoa giữa đường”, vốn là đóa mẫu đơn cao quý, trong
sạch, cuối cùng lại trở thành nơi của biết bao “bướm lả ong lơi”, bị chà đạp không
thương tiếc, chỉ còn lại bộ dạng tàn tạ, nhơ nhuốc. Khuôn mặt khi xưa vốn dĩ ngại
ngùng, e ấp, quạt hương che nửa mặt, ôm ấp chốn khuê phòng, thì nay phải ngày
ngày chường ra cho kẻ Bắc người Nam, ngắm nghía, bình phẩm, phải “dày gió dạn
sương” ôm ấp nam tử như người tình, điệu bộ lả lướt, ngả ngớn, chiều lòng. Nghĩ lại
bản thân Thúy Kiều chỉ còn có thể thốt lên lời thở than chua xót “Thân sao bướm
chán ong chường bấy thân!”, là ý thức của nàng về tấm thân tàn tạ, rẻ mạt của
mình. Từ đó độc giả dễ dàng nhận ra cuộc sống tủi hổ, nhục nhã đau đớn tột cùng
về cả thể xác và tinh thần của nàng Kiều tội nghiệp.
“Mặc người mưa Sở mây Tần,
Những mình nào biết có xuân là gì.
Đòi phen gió tựa hoa kề,
Nửa rèm tuyết ngậm bốn bề trăng thâu”
Thế nhưng dẫu cuộc đời có chà đạp, vùi dập phận liễu yếu đào tơ, thì Kiều vẫn
mạnh mẽ kiên cường, giữ vững cho mình cốt cách thanh cao, tinh khiết tựa loài sen
trắng trong đầm nước “Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”. Dẫu bốn bề chốn lầu
xanh nơi nào cũng “mây Sở mưa Tần” thì nàng cũng chẳng buồn để tâm đến,
những thú vui hoan lạc, tầm thường ấy cũng chẳng đánh động được vào tâm hồn
vốn đã chết lặng từ lần đầu bước chân vào nơi đây. Với những ai khác cuộc vui thâu
đêm suốt sáng là “xuân” còn với nàng những thứ ấy vốn chẳng lọt vào tầm mắt,
cũng chẳng thiết tha gì. Gặp cảnh khách làng chơi muốn “gió tựa hoa kề”, muốn gần
gũi xác thịt mà lòng nàng như chết lặng, có lẽ bấy nhiêu đắng cay, tủi nhục đã khiến
Kiều hoàn toàn buông xuôi, mặc cho cuộc đời trôi nổi giữa chốn phong, hoa, tuyết,
nguyệt rực rỡ, thơ mộng nhưng ẩn chứa là sự dung tục, tầm thường này.
3. Phân tích Nỗi thương mình (2 Mẫu) Bài làm mẫu 1
Đoạn trích Nỗi thương mình là tâm trạng xót xa, ê chề của nàng Kiều khi rơi vào
hoàn cảnh éo le đầy nhục nhã tại lầu Ngưng Bích và bắt đầu những ngày tháng trở
thành kỹ nữ, chứng kiến cảnh mua vui trụy lạc, mà rớt nước mắt xót thương “Đau
đớn thay cho phận đàn bà/Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”.
Đoạn trích nằm từ câu 1229 đến câu 1248, trong phần Lưu lạc của Truyện Kiều. Bắt
đầu khi Mã Giám Sinh đưa Kiều về đến lầu xanh của Tú Bà, Kiều biết mình bị lừa,
để tránh thoát số kiếp kỹ nữ mua vui, Kiều bèn nhắm mắt định quyên sinh nhưng
không chết, lại được Đạm Tiên báo mộng nàng vẫn chưa thoát khỏi sổ đoạn trường.
Đành lòng Kiều nhẫn nhục ra ở tạm lầu Ngưng Bích, rồi mắc mưu của Sở Khanh, bỏ
trốn không thành, bị Tú Bà bắt về đánh đập dã man và lấy cớ ép Kiều tiếp khách.
“Biết bao bướm lả ong lơi
Cuộc say đầy tháng trận cười suốt đêm.
Dập dìu lá gió cành chim,
Sớm đưa Tống Ngọc tối tìm Trường Khanh.”
Mở đầu là cảnh chốn lầu xanh ăn chơi hoang lạc, hoàn toàn xa lạ, ngoài sức tưởng
tượng của nàng Kiều. Với “bướm lả, ong lơi”, đầy dung tục tầm thường, hành động
suồng sã, trêu ghẹo của khách làng chơi cùng với những bóng hồng lả lướt mời gọi
của kỹ nữ, như ong vờn bướm đầy ngả ngớn. Không gian ngập tràn trong ánh đèn
nến đỏ đỏ hồng hồng, cùng những “trận cười suốt đêm”, cùng với hương rượu nồng
đượm từ “cuộc say đầy tháng”, không phân biệt ngày đêm, ồn ào, buông thả và náo
nhiệt. Hình ảnh nam nữ vốn chẳng quen biết “dập dìu” tựa sát vào nhau như “lá gió,
cành chim”, rồi cảnh kỹ nữ tiếp khách suốt ngày đêm, chẳng phân biệt ai ra ai, công
việc cứ tuần hoàn không có điểm dừng, đến nỗi họ quên mất cả bản thân mình là ai.
Nguyễn Du đã rất tài tình khi đưa hai nhân vật trong điển tích văn chương là Trường
Khanh, Tống Ngọc, vốn nổi danh với tính phong lưu, thích tầm hoa vấn liễu để giúp
người đọc thấy được Kiều tiếp những đối tượng thường là phong lưu tài tử. Chỉ
bằng vài câu thơ ngắn gọn, súc tích, tác giả đã khắc họa rõ nét cuộc sống nhơ
nhớp, trụy lạc ngập tràn sắc dục và ê chề nơi lầu xanh, nơi phụ nữ được xem là thứ
đồ mua vui, thỏa mãn thói hoang lạc tầm thường của những kẻ lắm tiền nhiều của.
Cũng chính trong đoạn thơ này, dưới tầm mắt quan sát thấu đáo của Kiều, cho thấy
nàng có ý thức rất cao về nhân phẩm cũng như thân phận của mình.
Kiều vốn được Nguyễn Du xây dựng như một hình mẫu người phụ nữ lý tưởng tài
sắc vẹn toàn, nhưng xót xa thay “Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau”, một con
người thanh cao trong trẻo đến vậy, số mệnh lại đẩy đưa vào nỗi nhớ nhấp, tầm
thường nhất. Kiều vùng vẫy, chống lại số phận, không chấp nhận làm một kỹ nữ dơ
bẩn mặc người chơi đùa, ở nàng hiện lên cái đức tính cao đẹp của loài hoa sen
thuần khiết “Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”. Nhưng Kiều bất lực trước hoàn
cảnh éo le của mình, Kiều buộc phải chấp nhận sự thật, tự khóc thương cho bản thân.
“Khi tỉnh rượu lúc tàn canh
Giật mình lại thấy thương mình xót xa”
Kiều đã cố quên đi nỗi đau đớn tủi nhục, trong men rượu, nhưng có ích gì khi, canh
tan rượu tàn, còn lại tấm thân rã rời, đến Kiều cũng phải “giật mình” mà tự “thương
mình xót xa”. Nhịp thơ trong câu lục, là nhịp 3/3 chậm rãi, nhịp nhàng, diễn tả cuộc
sống chán chường, đằng đẵng vô tận, đến câu bát thì nhịp thơ 2/2/2/2 nhanh hơn,
Kiều bàng hoàng tỉnh lại, nhận lấy nỗi đớn đau tận tâm can, như vặn xoắn lấy tâm hồn.
Những câu thơ tiếp là dòng hồi tưởng đầy xót xa, chua chát của Kiều khi so sánh
cuộc sống nhung gấm, thanh cao trước đây cùng với thực cảnh tủi nhục, nhơ nhớp
chốn lầu xanh, ong bướm lả lơi.
“Khi sao phong gấm rủ là
Giờ sao tan tác như hoa giữa đường.
Mặt sao dày gió dạn sương,
Thân sao bướm chán ong chường bấy thân!”
Nhớ khi xưa kia khi còn là tiểu thư đài các, cầm kỳ thi họa môn nào cũng tinh thông,
lại được sống trong “phong gấm rủ là”, là viên minh châu, được cha mẹ nâng niu,
chiều chuộng, thân ngọc ngà chẳng nhiễm một hạt bụi trần. Nhưng nay hiện thực
tàn khốc, Kiều tự ví tấm thân “tan tác như hoa giữa đường”, một đóa Mẫu đơn xinh
đẹp nay bị chốn lầu xanh vùi dập không thương tiếc. Ngày trước, nàng nào phải lộ
mặt tiếp xúc với nam tử, hay người lạ bao giờ, còn nay thì “Mặt sao dày gió dạn
sương”, đã chẳng còn biết xấu hổ, hay e lệ phép tắc, lễ nghĩa, bởi trong chốn phong
nguyệt này những thứ đó thật nực cười. Chính Kiều cũng cảm thấy tấm thân mình
chẳng còn trong sạch, vốn đã “bướm chán ong chường”, rẻ mạt đến thế. Để thấy
được Kiều đã có một cuộc sống đày đọa, vừa ê chề nhục nhã về thể xác, vừa tủi hổ
trong tâm hồn, buồn xót cho một số phận tài hoa nhưng mệnh đời bạc bẽo quá. Việc
Nguyễn Du sử dụng các thành ngữ lồng ghép, đan chéo vào nhau càng tăng thêm
sức biểu cảm, từng câu từng chữ như ghim vào lòng người đọc, thấm đượm nỗi xót
thương cho số phận của nàng Kiều tội nghiệp.
“Mặc người mưa Sở mây Tần,
Những mình nào biết có xuân là gì.
Đòi phen gió tựa hoa kề,
Nửa rèm tuyết ngậm bốn bề trăng thâu.”
Nhưng dù xã hội có cố vùi dập nàng xuống lớp bùn hôi tanh, dù tấm thân nàng đã
vướng bụi đời, nhưng tâm hồn hồn nàng vẫn thanh khiết, giữ vững cốt cách của loài
sen trắng. Kiều thờ ơ với mọi cuộc hoan lạc “mưa Sở mây Tần”, nàng chẳng lấy gì
làm vui thú, có gì để vui đây? Khi những khách làng chơi muốn “gió tựa hoa kề”, cho
gần gũi thân mật, nhưng thật giả dối và ghê tởm quá. Lòng Kiều như chết lặng, Kiều
không phản kháng, cũng không còn muốn phản kháng, bởi đau đớn và tủi đã cướp
đi hồn nàng, Kiều chỉ đang tồn tại, tồn tại giữa chốn lầu xanh phồn hoa nhất, cũng
thấp kém nhất. Cảnh phong, hoa, tuyết, nguyệt đẹp đẽ có đủ cả, nhưng cũng chẳng
thể che lấp đi sự nhơ nhớp, trụy lạc của chốn phong trần phóng túng.
Hỏi chăng trong lòng vốn đã đau xót, buồn tủi thì cảnh có đẹp tuyệt trần đi chăng
nữa, thì người cũng có vui được không? Thế Nguyễn Du mới có câu thơ: “Cảnh nào
cảnh chẳng đeo sầu/Người buồn cảnh cũng vui đâu bao giờ?”. Tâm trạng u uất của
Kiều dường như lan tràn sang cả cảnh sắc xung quanh, nơi đây cũng nào thiếu
những thú vui cầm, kỳ, thi, họa, cũng thanh tao cao nhã một cách đầy mỉa mai, khi
chốn dung tục mà cũng “Đòi phen nét vẽ câu thơ/Cung cầm trong nguyệt nước cờ
dưới hoa”. Chính vì vậy lòng Kiều càng không vui nổi, có chăng là cái cười gượng
gạo “Vui là vui gượng kẻo là”. Cười ở đây là nụ cười chua chát, mặn đắng bờ môi,
chắc rằng lòng Kiều đang nhỏ lệ, có câu buồn quá hóa cười, cười vì số phận trêu
ngươi, cười vì chán chê cái thân phận phụ nữ đầy ngang trái, trắc trở. Nỗi đau khổ
của Kiều qua đoạn thơ này được Nguyễn Du thể hiện bằng bút pháp tả cảnh ngụ
tình, càng thêm thấm thía, sâu sắc hơn trong từng câu chữ. Câu thơ cuối như một
lời hỏi bâng quơ “Ai tri âm đó mặn mà với ai?”, Kiều chẳng mong câu trả lời, bởi
trong chốn phong trần này, sẽ chẳng ai thấu hiểu cho nỗi đau này của nàng. Bài làm mẫu 2
Đoạn thơ đầy chất bi thương nhưng lại không hề yếu đuối. Từ bên trong nó toát lên
ánh sáng của phẩm chất cao quý và chính cái bi thương ấy lại là lời tố cáo mãnh liệt
tội ác của xã hội bất nhân đã chồng chất bao nhiêu đau khổ lên một kiếp người
Sau khi Thúy Kiều đánh tiếng sẽ bán mình để chuộc cha ra khỏi chốn ngục tù, Mã
Giám Sinh nhờ mối lái dẫn đến, giả danh cưới Kiều làm vợ lẽ. nhưng thực ra y mua
nàng về cho nhà chứa của Tú Bà. Khi biết mình bị lừa, Thúy Kiều quyết liệt chống lại
âm mưu tàn ác của chúng. Nàng rút dao định tự sát, nhưng không chết. Trong cơn
mê, Thúy Kiều thấy hồn Đạm Tiên hiện về báo cho biết nàng chưa thoát được số
đoạn trường nên đành phải nghe lời dỗ dành của Tú Bà ra tạm ở lầu Ngưng Bích.
Sở Khanh, tên tay sai của Tú Bà đã lập mưu rủ nàng đi trốn. Kiều nhẹ dạ nghe theo,
bị Tú Bà bắt về đánh đập rất dã man và buộc nàng phải tiếp khách.
Đoạn trích Nỗi thương mình từ câu 1229 đến câu 1248 của Truyện Kiều miêu tả tâm
trạng đau đớn, tủi nhục, nỗi cô đơn, thương thân trách phận và ý thức về thân phận
bất hạnh của Thúy Kiều ở chốn lầu xanh.
Điểm đặc thù của đoạn trích này là tác giả viết về tình cảnh, tâm trạng của Thúy
Kiều khi bị buộc làm kỹ nữ tiếp khách làng chơi. Nguyễn Du phải đối diện với một
thực tế phũ phàng là xã hội vạn ác đã đồn đẩy nhân vật mà ông trân trọng, yêu mến
vào chốn thanh lâu. Làm thế nào để vẫn phản ánh được sự thật mà không hạ thấp
nhân vật. vẫn thể hiện được thái độ cảm thông của mình và nói lên được sự đau
khổ, thương thân xót phận của nhân vật. Nguyễn Du phát huy mặt mạnh của bút