-
Thông tin
-
Quiz
Văn mẫu lớp 10: Thuyết minh về lễ hội Giỗ Tổ Hùng Vương (3 Dàn ý + 12 Mẫu)
Mỗi một đám rước kiệu có 3 cỗ kiệu đi liền nhau. Được sơn son thiếp vàng, chạm trổ rất tinh xảo. Sự bày biện trang trí trên cỗ kiệu cũng rất khéo léo và đẹp mắt. Cỗ kiệu đi đầu bày hương hoa, đèn nhang, trầu cau, chén nước và bầu rượu.Tài liệu giúp bạn tham khảo ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Văn mẫu 10 232 tài liệu
Ngữ Văn 10 1.3 K tài liệu
Văn mẫu lớp 10: Thuyết minh về lễ hội Giỗ Tổ Hùng Vương (3 Dàn ý + 12 Mẫu)
Mỗi một đám rước kiệu có 3 cỗ kiệu đi liền nhau. Được sơn son thiếp vàng, chạm trổ rất tinh xảo. Sự bày biện trang trí trên cỗ kiệu cũng rất khéo léo và đẹp mắt. Cỗ kiệu đi đầu bày hương hoa, đèn nhang, trầu cau, chén nước và bầu rượu.Tài liệu giúp bạn tham khảo ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Chủ đề: Văn mẫu 10 232 tài liệu
Môn: Ngữ Văn 10 1.3 K tài liệu
Thông tin:
Tác giả:




















Tài liệu khác của Ngữ Văn 10
Preview text:
Văn mẫu lớp 10: Thuyết minh về lễ hội Giỗ Tổ Hùng Vương (3
Dàn ý + 12 Mẫu)Thuyết minh lễ hội truyền thống Tải về
Dàn ý thuyết minh về lễ hội Giỗ Tổ Hùng Vương Dàn ý số 1 I. Mở bài
Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày Giỗ Tổ mùng mười tháng ba.
- Câu ca dao quen thuộc nhắc nhở bất kì người con đất Việt nào nhớ về ngày giỗ Tổ Hùng Vương.
- Ngày này đã từ lâu là một ngày quốc lễ của đất nước Việt Nam. II. Thân bài
- Tại đền thờ chính ở Phú Thọ ngày giỗ tổ rất đông vui, dân chúng các nơi trên toàn quốc đổ về
(kể cả các em tráng nhi cũng được đi theo), đội lễ vật lên đền dâng lễ nườm nượp, trước là dâng
lễ tại đền thờ hai bà Công chúa (Tiên Dung và Ngọc Dung) ờ chân núi Nghĩa Lĩnh (còn gọi là núi Đen).
- Đó là đều Hạ (còn gọi là đền Giếng vì có một giếng mạch nước trong và mát). Sau mới lên
dâng lễ đền thờ Quốc tổ ở lưng chừng núi là đền Trung (trước đền có nhà Bia và gần đền có chùa
của xã Hy Cương) và cuối cùng là lên dâng lễ ở đền Thượng, tại đỉnh núi thờ 18 vị vua Hùng
Vương, trước đền có bức hoành phi đề Nam triều tổ. cạnh đền là Ngôi mộ tổ Hùng Vương
(không rõ của vị vua nào).
- Từ đền Hạ lên đền Thượng phải leo 296 bực (bậc) đá.
- Hội đền Hùng mở từ đầu tháng đón hết mùng 10 tháng 3 mới rã đám.
- Trong thời gian Hội có rước sách và các buổi tế lễ. mà lễ chính là buổi Quốc tế (Tế chính của
Quốc gia) do đại diện của triều đình thường là vị chủ tỉnh Phú Thọ chủ tế có đông đủ quan chức
địa phương tham dự và có các cuộc bách hí cố tri. gồm leo dây, múa roi, đánh cờ, thi diều sáo,
treo đèn (thắp đèn dọc từ đền Hạ tới Thượng tại chùa và các lăng miếu, ban đêm rất rực rỡ), đu tiên và đánh còn.
- Tại lễ hội quốc Tổ, đặc sắc nhất là có các tục nam thanh nữ tú trẩy hội vui vẻ tha hồ.
Nhưng nếu có thanh niên nào bờm son làm trò khiếm nhã để trêu chọc phụ nữ, nhất là các cô
thôn nữ ở Phú Thọ, sẽ bị bắt bỏ rọ lợn vứt trước cửa đền Hạ 2 giờ trong ngày.
- Sau 1975 một thời gian dài, lễ giỗ Tổ Hùng Vương không được coi là quốc lễ, nhưng kể từ năm
2003, Quốc hội thông qua việc coi giỗ tổ Hùng Vương là ngày Giỗ quốc tổ và đến 2007 nhà
nước mới có nghị định chính thức coi lễ Giỗ tổ Hùng Vương là quốc lễ được nghỉ làm việc một ngày.
- Bây giờ ngày giỗ này lại được chính quyền địa phương (Phú Thọ) tổ chức long trọng vừa để
thu hút khách du lịch vừa để dân chúng kể cả giới chức chính quyền (UBND tỉnh) có dịp đến
chính thức kính lễ Quốc tổ như trước.
Ai về Phú Thọ Phủ Lâm Thao
Gửi nén tâm hương thỏa ước ao
Rừng núi Hy Cương còn vẫn đó
Cháu con Hồng Lạc há quên sao
Dân hai nhăm triệu dân như một. III. Kết bài
- Lễ giỗ Tổ là biểu hiện của sự nhớ ơn tổ tiên của mọi người dân Việt Nam.
- Cần phải giữ gìn và phát huy nó nhiều hơn. Dàn ý số 2
I. Mở bài: Giới thiệu về di tích lịch sử đền Hùng. II.Thân bài
- Lịch sử hình thành: Vua Hùng lựa chọn để đóng đô. - Đặc điểm
Vị trí: nằm trên núi Nghĩa Lĩnh, giữa đất Phong Châu, ngày nay là xã Hy Cương,
thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ.
Gồm bốn đền chính là đền Hạ, đền Trung, đền Thượng và đền Giếng.
Điểm bắt đầu của Khu di tích là Đại Môn, xây năm 1917 theo kiểu vòm uốn.
Đền Hạ: xây vào thế kỷ 17 – 18, cấu trúc chữ Nhị, được tương truyền là nơi Âu
Cơ sinh bọc trăm trứng, nở thành trăm người con.
Chùa Thiên Quang: nằm kề bên đền Hạ, được xây vào thời Trần.
Đền Trung: tên chữ là Hùng Vương Tổ Miếu, tồn tại từ thời Lý – Trần, cấu trúc
đơn giản hình chữ Nhất. Tại đây Lang Liêu đã dâng lên vua cha bánh chưng nhân dịp lễ tết.
Ðền Thượng: nằm trên đỉnh núi Nghĩa Lĩnh, thờ Thánh Gióng và vua Hùng.
Lăng vua Hùng: là mộ của Hùng Vương thứ 6. Lăng được thiết kế theo cấu trúc
hình vuông với cột liền tường và hướng mặt về phía đông nam. Bên trong lăng có xây dựng mộ vua Hùng.
Đền Giếng: nằm ở phía Đông Nam chân núi Nghĩa Lĩnh. Đền xây vào thế kỷ 18,
đây là ngôi đền mà hai cô con gái vua là Tiên Dung và Ngọc Hoa đã từng ngang
qua, tại đây họ thường soi gương và chải tóc.
- Ý nghĩa văn hóa, tín ngưỡng của khu di tích
Thể hiện truyền thống “uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ kẻ trồng cây” của dân
tộc ta từ ngàn đời xưa.
Là di sản có giá trị sâu sắc thể hiện tình cảm, sự biết ơn sâu sắc đến các thế hệ
đi trước, đặc biệt là đối với vua Hùng, người đã tiên phong khai sinh nên bờ cõi nước Việt.
III. Kết bài: Khẳng định lại giá trị của khu di tích đền Hùng. Dàn ý số 3 1. Mở bài
Cứ hàng năm, những người con dân tộc Việt luôn hướng về quê hương Phú Thọ thân yêu dịp
10/3 âm lịch để tưởng nhớ công ơn của các vua Hùng dựng nước. Đó cũng là dịp mà lễ hội Đền Hùng diễn ra. 2. Thân bài
*Lịch sử lễ hội: - Đã có từ lâu đời
- Từ thời Đinh, Lý, Tiền Lê, thời Trần thì nhân dân khắp cả nước đều tụ hội về đây lễ bái gửi
lòng cảm tạ thành kính đến công ơn của mười tám đời vua Hùng.
*Thời gian diễn ra: Ngày 10 tháng 3 âm lịch hàng năm
Năm lẻ: Do tỉnh nhà Phú Thọ tổ chức
Năm chẵn: Do Trung ương phối hợp với ủy ban nhân dân tỉnh và bộ văn hóa tổ chức
* Quy mô: Lớn, được xem là quốc lễ *Hình thức - Phần lễ:
Gồm lễ rước kiệu và lễ dâng hương
Lễ hội rước kiệu vừa được diễn ra trong không khí đầy long trọng với những cờ,
lộng, hoa đầy màu sắc.
Đoàn đại biểu trung ương, tỉnh, thành phố đều tập trung tại một địa điểm cùng
đoàn xã tiêu binh rước vòng hoa tới chân núi Hùng.
Sau khi tới đền, đoàn người kính cẩn dâng lễ vào thượng cung
Sau đó, đại biểu đại diện bộ Văn hoá thấy mặt cho lãnh đạo tỉnh và nhân dân cả
nước trịnh trọng đọc chúc căn lễ tổ.
Tiếp đến là lễ dâng hương, mỗi người con đều mong muốn thắp lên đền thờ nén
nhang thành kính, nhờ hương khói nói hộ tâm nguyện của lòng mình với tổ tiên. - Phần hội:
Nhiều trò chơi dân gian được diễn ra nhiều chọi gà, đu quay, đấu vật.
Các hình thức dân ca diễn xướng, hát quan họ hay kịch nói được diễn ra bằng
hình thức thi tài giữa các làng, các thôn.
Những lời ca mượt mà êm ái trong từng làn điệu Xoan- Ghẹo đầy hấp dẫn mang
đậm dấu ấn vùng đất Phú Thọ quê hương.
Giữa trung tâm lễ hội được trưng bày khu bảo tàng Hùng Vương lưu giữ những di
vật cổ của thời đại các vua Hùng xưa.
Các dịch vụ văn hoá phẩm hay ăn uống với những món ăn truyền thống và hiện
đại cũng được tổ chức linh hoạt. 3. Kết bài
Báo chí, đài truyền hình, thông tấn xã vẫn là cầu nối tuyệt vời đưa những giá trị tín ngưỡng đến
với tất cả đồng bào trên mọi miền tổ quốc và nhân dân thế giới biết và hiểu hơn về những nét đẹp
của lễ hội truyền thống dân tộc Việt.
Giới thiệu về lễ hội Giỗ Tổ Hùng Vương - Mẫu 1
Là người Việt Nam, không ai là không biết đến câu ca:
“Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày Giỗ Tổ mùng mười tháng ba
Khắp miền truyền mãi câu ca
Nước non vẫn nước non nhà ngàn năm.”
Lễ hội đền Hùng giỗ tổ Hùng Vương (được tổ chức ngày mồng mười tháng ba hàng năm) từ lâu
đã trở thành một tục lệ trong đời sống tinh thần của người Việt Nam, một điểm tựa của tinh thần
văn hoá. Giỗ Tổ Hùng Vương từ rất lâu đã trở thành ngày lễ hội trọng đại của cả dân tộc. Dù ở
phương trời nào, người Việt Nam đều nhớ ngày giỗ Tổ mà hướng về vùng đất Phú Thọ. Từ các
triều đại phong kiến Việt Nam, Đinh Lý Trần Lê, Đền Hùng đã là nơi tưởng nhớ, tôn vinh công
lao các Vua Hùng, là biểu tượng của khối đại đoàn kết dân tộc ta.
Ngày này hàng năm, lễ hội đền Hùng vẫn được tổ chức theo truyền thống văn hoá của dân tộc.
Không chỉ để tưởng nhớ tổ tiên cội nguồn, lễ hội Đền Hùng còn nhằm giáo dục truyền thống
"Uống nước nhớ nguồn", ghi nhớ mười tám vị Vua Hùng đã có công dựng nước và lớp lớp các
bậc tiền nhân kiên cường chống giặc ngoại xâm giữ nước.
Lễ hội đền Hùng được diễn ra vào ngày mồng mười tháng ba:
“Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày giỗ Tổ mồng mười tháng ba”
Từ thuở xưa lễ hội đền Hùng đã có một đặc thù riêng là phần lễ nặng hơn phần hội. Người về dự
hội là hướng về tổ tiên với sự tôn kính và lòng biết ơn sâu sắc (Uống nước nhớ nguồn). Phần hội
chỉ là phần phụ để không khí thêm vui tươi, náo nhiệt trong ngày này.
Phần lễ gồm tế lễ của triều đình sau đó là phần lễ của dân. 41 làng thuộc tỉnh Phú Thọ được rước
kiệu từ đình làng mình đến Đền Hùng. Các kiểu đều được sơn son thếp vàng, chạm trổ đẹp mắt,
được rước đi trong không khí vừa trang nghiêm vừa vui vẻ với tiếng chiêng, trống, nhạc bát âm
rộn rã một vùng. Phần hội gồm các trò chơi dân gian như đánh vật, ném còn, cờ người, bắn cung
nỏ… và đặc biệt nhất là các đêm hát xoan, hát ghẹo – hai làn điệu dân ca độc đáo riêng ở Châu Phong.
Vào những năm chẵn (5 năm một lần), giỗ Tổ được tổ chức theo đúng nghi lễ quốc gia, năm lẻ
do tỉnh Phú Thọ tổ chức. Dù năm chẵn hay lẻ lễ hội Giỗ Tổ vẫn rất chặt chẽ, bao gồm hai phần lễ
và hội. Ngày 2-9-1945, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa được khai sinh đánh dấu bước ngoặt
lịch sử mới của dân tộc ta. Giỗ Tổ Hùng Vương năm 1946 là một sự kiện hết sức đặc biệt, đáng
ghi nhớ.Cụ Huỳnh Thúc Kháng, Phó Chủ tịch nước bấy giờ, đã thay mặt Chính phủ Việt Nam
Dân chủ cộng hoà lên làm lễ dâng hương tại Đền Hùng.
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn cán bộ "Các
vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước". Lời căn dặn như lời
hứa quyết tâm của vị lãnh tụ đứng đầu đất nước.
Có lẽ không một dân tộc nào trên thế giới có chung một ngày giỗ Tổ như dân tộc ta. Từ huyền
thoại Âu Cơ và Lạc Long Quân đẻ ra trăm trứng, nửa theo Cha xuống biển, nửa theo mẹ lên rừng
đã khơi dậy ý thức về dân tộc và gắn kết chúng ta thành một khối đại đoàn kết. Vì thế mà hai chữ
đồng bào là khởi nguồn của yêu thương, đùm bọc, của sức mạnh Việt Nam.
Phần lễ được tổ chức trang nghiêm trong các đền, chùa trên núi Hùng. Nghi thức dâng hương,
dâng hoa của các đoàn đại biểu của Đảng, Chính phủ, các địa phương trong toàn quốc,… được tổ
chức trang nghiêm và long trọng tại đền Thượng. Từ chiều ngày mùng 9, làng được Ban tổ chức
lễ hội cho phép rước kiệu dâng lễ đã tập trung đông đủ tại nhà bảo tàng dưới chân núi, trên kiệu
đặt lễ vật. Sáng mồng 10, các đoàn đại biểu tập trung ở thành phố Việt Trì, xe tiêu binh rước
vòng hoa dẫn đầu, diễu hành đến chân núi Hùng.
Tới trước thềm của "Điện Kính Thiên”, đoàn đại biểu kính cẩn dâng lễ vào thượng cung đền
Thượng. Nguyên thủ quốc gia hoặc đại biểu đại diện Bộ Văn hoá, thay mặt cho tỉnh và nhân dân
cả nước đọc chúc văn lễ Tổ. Toàn bộ nghi thức hành lễ được báo chí, truyền hình đưa tin hoặc
tường thuật trực tiếp để đồng bào cả nước theo dõi lễ hội. Người đi lễ dâng lễ trong các đền, chùa
trên núi, ai cũng có tâm nguyện cầu mong tổ tiên phù hộ độ trì cho con cháu.
Lễ hội ngày nay có nhiều hình thức diễn ra văn hoá hoá xưa. Các hình thức văn hoá được đan
xen giữa truyền thống và hiện đại. Trong khu vực diễn ra hội, nhiều cửa hàng bán đồ lưu niệm,
văn hoá phẩm, các cửa hàng dịch vụ ăn uống, các khu văn hóa, thể thao,… được duy trì trong nhiều năm nay.
Các trò chơi văn hoá dân gian được duy trì đến ngày nay như: đu quay, đấu vật, chọi gà, kéo lửa,
nấu cơm thi, đánh cờ tướng (cờ người)… Bên cạnh đó là sân khấu của các đoàn nghệ dân chuyên
nghiệp: chèo, hát quan họ, kịch nói,… Đây chính là nơi để thi tuyển và giao lưu văn hoá giữa các
vùng. Những làn điệu hát Xoan – Ghẹo với lời ca tinh tế mượt mà đã đem tới cho lễ hội một nét
đặc trưng, thấm đượm văn hoá vùng đất Phú Thọ.
Tổ tiên người Việt Nam luôn muốn nhắc nhở con cháu: nên làm tròn bổn phận nhiệm vụ của
mình, giữ kỷ cương, gia đình sẽ yên ổn, xã hội được an cư lạc nghiệp phồn vinh, phát triển. Lời
dạy bảo này không chỉ được nhắc nhở hằng năm thông qua ngày hội giỗ mà còn được khắc ghi
trên trống đồng Đông Sơn, biểu tượng thiêng của dân tộc, gửi gắm trong hình tượng mặt trời
nằm rạng rỡ giữa trống đồng.
Thông qua lễ hội đền Hùng, tổ tiên ta còn muốn nhắc nhở hậu thế những kế sách giữ nước, yên
dân. Suốt mấy nghìn năm trông coi và gìn giữ, đánh giặc và dựng xây, lễ hội đền Hùng đã trở
thành biểu tượng của tinh thần, là cội nguồn của sức mạnh, chói sáng của một nền văn hóa.
Không chỉ người Việt chúng ta tự hào về Đền Hùng và ngày giỗ Tổ, mà nhìn vào những dòng
lưu bút của các đoàn đại biểu quốc tế và bạn bè khắp năm châu bốn biển cũng đã từng đến thăm
viếng Đền Hùng. Chúng ta thật sự tự hào khi được biết Đến Hùng và các di tích trên đỉnh núi
Nghĩa Lĩnh đã làm cho cả thế giới phải cúi đầu vị nể ý thức cội nguồn dân tộc của chúng ta.
Trong những dòng lưu bút thừa nhận. "Đền Hùng là nơi đặt nền móng cho lịch sử Việt Nam…".
Lịch sử là một dòng chảy liên tục. Qua mấy nghìn năm, bao biến động thăng trầm, Đền Hùng và
ngày giỗ Tổ mùng mười tháng ba âm lịch vẫn là điểm sáng của bốn phương tụ hội, nơi con cháu
lưu công đức Tổ tiên, là biểu tượng của dân tộc và văn hóa Việt Nam – một dân tộc đã có truyền
thống dựng nước và giữ nước hàng nghìn năm.
Thuyết minh lễ hội Giỗ Tổ Hùng Vương - Mẫu 2
Có một câu nói mà con người của muôn thời đại đều cần phải khắc ghi, đó là nếu đánh mất và bỏ
mặc quá khứ, bạn không bao giờ có hiện tại và tương lai. Hay một cách ngắn gọn, nó đằm mình
trong câu tục ngữ truyền thống bao đời của dân tộc ta Uống nước nhớ nguồn”. Chính vì thế, hàng
năm, vẫn có những lễ hội truyền thống để nhắc nhở con cháu đời đời về nguồn cội vĩnh hằng của
cha ông, lễ hội đền hùng chính là mang ý nghĩa thiêng liêng ấy.
“Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày giỗ tổ mùng mười tháng ba
Khắp miền truyền mãi câu ca
Nước non vẫn nước non nhà ngàn năm”
Câu ca dao xưa đã cho thấy tầm quan trọng về ý nghĩa lịch sử thiêng liêng của lễ hội đền Hùng,
một trong những nghi thức lễ lâu đời nhất trong lịch sử dân tộc. Đặc biệt đó cũng là một dịp
thiêng liêng để cả nước cùng hướng về tri ân, cùng nhau ôn lại những nét đẹp lịch sử văn hóa đã
đồng hành cùng thời gian vượt lên trên cả sự băng biến. Lễ hội đền Hùng diễn ra vào ngày mùng
mười tháng ba âm lịch hàng năm, đây là dịp những đứa con ở khắp nơi trên tổ quốc cùng trở về
Phú Thọ quê tổ để cùng thể hiện lòng thờ kính thiêng liêng dành cho nguồn cội lịch sử của dân
tộc ta, để tri ân các vị vua Hùng đã có công dựng nước để con cháu sau này đời đời được sống
trên mảnh đất giàu truyền thống và mang những nét đẹp tâm hồn riêng. Hàng năm, cứ vào dịp
này, những người con đất Việt từ khắp nơi trên tổ quốc, thậm chí cả kiều bào ta sinh sống công
tác ở nước ngoài cũng luôn lắng lòng để tưởng nhớ về lễ hội truyền thống của dân tộc.Chính vì
mang trong nó không chỉ tính nghi lễ mà còn bao chứa cả lớp trầm tích văn hóa lịch sử ngàn đời
cùng đạo lí dân tộc sâu sắc, mà ngày lễ giỗ tổ Hùng Vương được xem là ngày quốc lễ của dân tộc ta.
Như tên gọi, phần nào ta có thể khái quát, lễ hội đền Hùng gồm hai phần chính, đó là phần lễ và
phần hội. Trước tiên là phần Lễ, gồm lễ rước kiệu vua và lễ dâng hương. Lễ rước kiệu vua, đây
là nghi thức để tưởng nhớ công ơn những vị vua hùng đã hi sinh vì dân tộc, phần rước kiệu diễn
ra long trọng với các đoàn rước, cùng cờ hoa biểu tượng sặc sỡ sang nghiêm cùng tấm lòng thành
kính thiêng liêng của những người tham gia rước kiệu. Vì phần lễ rước kiệu vô cùng cao quý,
trang trọng, vậy nên công tác chuẩn bị vô cùng cầu kì kĩ lượng để đảm bảo không làm thất lễ đối với các vị thần.
Sau phần lễ rước kiệu để tưởng nhớ vô cùng trang kính tôn nghiêm, thì không khí cũng được trở
nên ấm thiêng hơn bởi khói hương nghi ngút của phần lễ dâng hương. Đây là dịp mà những đứa
con trên khắp mỏi dải đất cùng hướng về cha tổ, để cầu nguyện những điều tốt đẹp và nói ra
những mong ước, gửi gắm của mình trong dịp đầu năm. Đây cũng là một nét đẹp, giúp không khí
xung quanh khói hương nghi ngút vô cùng thiêng liêng, đó không khí của chân tâm dâng kính,
của nét đẹp văn hóa lịch sử của dân tộc. Phần rước kiệu và phần lễ hội có lẽ là phần lễ dành cho
mọi người thờ khấn, cầu nguyện.
Sang phần hội, có nhiều trò chơi dân gian thú vị, hấp dẫn đang chờ đợi mọi người tham gia. Đây
cũng là dịp để những đứa trẻ đang trưởng thành trong thời kỳ mới, kỷ nguyên công nghệ hiện đại
có thể ngược dòng cảm nhận nét đẹp truyền thống tích lũy bao đời qua lớp lớp tháng năm ,có các
trò chơi như kéo co, đấu vật, ..đặc biệt là hội thi hát xoan truyền thống, nơi bạn được thưởng
thức những làn điệu dân ca đã đằm mình vào nét đẹp tâm hồn con người nơi đây, đã mang giai
điệu riêng của mảnh đất Phú Thọ để giới thiệu đến người dân xứ sở, để một lần nữa cùng cất lên
lòng cảm phục và ngưỡng mộ với nét đẹp âm nhạc dân gian đáng quý ấy.
Lễ hội đền Hùng không chỉ là một nét đẹp, mà còn là một di tích nghệ thuật văn hóa được thế hệ
muôn đời truyền tụng, gối nhau vẻ đẹp của đạo lí uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ kẻ trồng
cây, từ đó, gợi đến vẻ đẹp của giá trị vĩnh hằng vượt lên dòng chảy băng hoại của thời gian.
Bài viết về Giỗ Tổ Hùng Vương - Mẫu 3
Đền Hùng biểu tượng lịch sử của dân tộc Việt Nam, khu di tích lịch sử Đền Hùng là nơi thờ
phụng các Vua Hùng những người có công dựng nước từ xa xưa. Giỗ Tổ mùng 10 tháng 3 trở
thành ngày lễ trọng đại của dân tộc.
Đền Hùng xây dựng trên núi Nghĩa Lĩnh, hiện nay thuộc Hy Cương, Việt Trì, Phú Thọ. Nơi đây
là tập hợp lăng tẩm, miếu, thờ các vua Hùng. Nếu du khách đi từ chân núi sẽ bắt đầu khám phá
nơi thấp nhất đó là đền Hạ – nơi đây theo dân gian tương truyền mẹ Âu Cơ đẻ ra bọc trứng, nửa
còn lại theo cha số còn lại theo mẹ. Tiếp đến du khách sẽ được khám phá đền Trung địa điểm
thường tổ chức các cuộc hội họp bàn các vấn đề quốc gia của vua Hùng thử xưa, qua đền Trung
sẽ đến đền Thượng nơi thờ vua Hùng thứ 6 đây chính là vị trí cao nhất.
Mỗi năm ngày giỗ tổ Hùng Vương được tổ chức rất linh đình theo nghi thức quốc gia, Giỗ Tổ
bao gồm có 2 phần riêng biệt đó là phần lễ và phần hội. Lễ Rước Kiệu với các đền, chùa trên núi,
các vị lãnh đạo của đất nước dâng hương lên vua Hùng tổ chức tại đền Thượng. Các nghi thức tổ
chức, dâng hương sẽ được tổ chức long trọng, thành kính và sẽ được báo chí, phát thanh truyền
hình đưa tin. Đồng bào trong cả nước được dâng lễ trong các đền, chùa, với sự thành kính và cầu
mong yên bình, làm ăn thành công.
Bên cạnh đó phải nhắc đến lễ Dâng Hương các đền, chùa trên núi. Lễ hội còn giúp người dân
tham gia sinh hoạt văn hoá cổ xưa. Người dân sẽ được xem các trò chơi như đấu vật, chọi gà,
rước kiệu, đánh cờ người…. Còn có sân khấu riêng của các đoàn nghệ thuật: chèo, kịch nói, hát
quan họ,… Các nghệ sĩ, nghệ nhân từ nhiều nơi về đây để trình diễn những làn điệu hát xoan
mượt mà, đặc sắc mang đến cho cho lễ hội đền Hùng đặc trưng riêng của Đất Tổ.
Những người đến đây không chỉ là xem lễ hội mà còn thể hiện sự tâm linh, thành kính với quê
hương đất Tổ, ai cũng biết đây là nơi gốc gác linh thiêng,cội nguồn của dân tộc. Hàng năm, cứ
đến mùng 10 tháng 3, người dân và du khách tham gia trẩy hội đền Hùng, đây là nét đẹp truyền
thống của dân tộc Việt Nam. Lễ hội rất linh thiêng và thể hiện sự biết ơn công lao dựng nước và
giữ nước của các vua Hùng.
Thuyết minh về lễ hội Giỗ Tổ Hùng Vương - Mẫu 4
Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày Giỗ Tổ mùng 10 tháng 3
Khắp miền truyền mãi câu ca
Nước non vẫn nước non nhà ngàn năm.
Hàng năm, lễ hội Giỗ Tổ vẫn được tổ chức theo truyền thống văn hoá của dân tộc. Vào những
năm chẵn (5 năm một lần), Giỗ Tổ được tổ chức theo nghi lễ quốc gia, năm lẻ do tỉnh Phú Thọ tổ
chức. Việc tổ chức lễ hội Giỗ Tổ rất chặt chẽ, bao gồm hai phần: lễ và hội.
Lễ hội Rước Kiệu được duy trì trang nghiêm trong các đền, chùa trên núi Hùng. Nghi thức dâng
hương hoa của các đoàn đại biểu của Đảng, Chính phủ, các địa phương trong toàn quốc, được tổ
chức long trọng tại đền Thượng. Từ chiều ngày mùng 9, làng nào được Ban tổ chức lễ hội cho
phép rước kiệu dâng lễ đã tập trung tại nhà bảo tàng dưới chân núi, trên kiệu đặt lễ vật. Sáng sớm
ngày mùng 10, các đoàn đại biểu tập trung ở một địa điểm tại thành phố Việt Trì, có xe tiêu binh
rước vòng hoa dẫn đầu, diễu hành tới chân núi Hùng. Các đoàn đại biểu xếp hàng chỉnh tề đi sau
kiệu lễ, lần lượt lên đền theo tiếng nhạc của phường bát âm và đội múa sinh tiền. Tới trước thềm
của “Điện Kính Thiên”, đoàn dừng lại, kính cẩn dâng lễ vào thượng cung đền Thượng. Một đồng
chí lãnh đạo tỉnh (năm chẵn là nguyên thủ quốc gia hoặc đại biểu đại diện Bộ Văn hoá), thay mặt
cho tỉnh và nhân dân cả nước đọc chúc căn lễ Tổ. Toàn bộ nghi thức hành lễ được hệ thống báo
chí, phát thanh truyền hình đưa tin hoặc tường thuật trực tiếp để đồng bào cả nước có thể theo
dõi lễ hội. Đồng bào dâng lễ trong các đền, chùa trên núi, ai cũng có tâm nguyện cầu mong tổ
tiên chứng giám, phù hộ độ trì cho con cháu.
Lễ Dâng Hương sẽ được diễn ra tưng bừng, náo nhiệt xung quanh các đền, chùa và dưới chân núi
Hùng. Lễ hội ngày nay có nhiều hình thức sinh hoạt văn hoá hơn xưa. Các hình thức văn hoá
truyền thống và hiện đại được đan xen nhau. Trong khu vực của hội, nhiều cửa hàng bán đồ lưu
niệm, văn hoá phẩm, các cửa hàng dịch vụ ăn uống, các khu văn thể được tổ chức và duy trì một
cách trật tự, quy củ. Tại khu văn thể, các trò chơi văn hoá dân gian được bảo lưu có chọn lọc
như: đu quay, đấu vật, chọi gà, bắn nỏ, rước kiệu, kéo lửa nấu cơm thi, đánh cờ tướng (cờ
người). Có năm còn diễn trò “Bách nghệ khôi hài”, “Rước chúa gái”, “Rước lúa thần” và trò
“Trám” tại khu vực hội. Cạnh đó là sân khấu của các đoàn nghệ thuật chuyên nghiệp: chèo, kịch
nói, hát quan họ. Hội ngày nay chính là nơi để thi tuyển và giao lưu văn hoá giữa các vùng. các
nghệ nhân người Mường mang đến lễ hội thanh âm của tiếng trống đồng một thời gióng trên
đỉnh núi Hùng, gọi mặt trời làm mưa, làm nắng thuận hòa, cho mùa màng tốt tươi, muôn dân
hạnh phúc. Những làn điệu Xoan – Ghẹo với lời ca tinh tế, mượt mà đã đem tới cho lễ hội đền
Hùng một nét đặc trưng, thấm đượm văn hóa vùng Trung du Đất Tổ. Một điểm quan trọng nằm ở
giữa trung tâm lễ hội là nhà bảo tàng Hùng Vương, ở đây lưu giữ vô số những cổ vật đích thực
của thời đại các Vua Hùng.
Thời đại của chúng ta ngày nay đang ngày càng góp sức tô điểm và phát huy sự cao đẹp của lễ
hội Giỗ Tổ Hùng Vương. Hàng năm, ý nghĩa tâm linh của cuộc trẩy hội về Đền Hùng đã trở
thành nếp nghĩ, nếp sinh hoạt truyền thống không thể thiếu trong đời sống văn hoá tinh thần tín
ngưỡng của người Việt Nam. Không phân biệt già trẻ, không phân biệt tuổi tác, không phân biệt
tôn giáo. Tất cả những người con đang sống trên mọi miền Tổ quốc, những người con xa xứ đều
bình đẳng về mộ Tổ, thăm đền và dự lễ hội Giỗ Tổ Hùng Vương.
Thuyết minh về lễ hội Giỗ Tổ Hùng Vương - Mẫu 5
Từ xưa, dân gian ta đã có câu:
Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày giỗ tổ mùng mười tháng ba
Câu ca dao đã nhắc nhở mỗi người chúng ta về một nét sinh hoạt văn hóa tâm linh vô cùng
thiêng liêng của dân tộc hằng năm - Đó là ngày giỗ Tổ Hùng Vương. Vào ngày đặc biệt này,
toàn dân tộc ta, ai ai dù ở nơi đâu trên thế giới cùng đều hướng một lòng về quê cha đất tổ, vùng
đất cội nguồn thuộc tỉnh Phú Thọ, Việt Nam để tưởng nhớ tới công ơn của cha ông đã gây dựng
lên đất nước. Lễ hội Giỗ tổ Hùng Vương được tổ chức thường niên nhằm tri ân công ơn to lớn
của các vị vua Hùng và các bậc tiền nhân đã xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày xưa.
Giỗ Tổ Hùng Vương hay còn được gọi là lễ hội đền Hùng là một trong những dịp lễ hội truyền
thống quan trọng nhất trong năm của người Việt để bày tỏ sự tri ân, tưởng nhớ công lao dựng
nước và bảo vệ đất nước của các vị Hùng Vương - Văn Lang ngày xưa. Lễ hội được tổ chức vào
ngày mùng mười tháng ba âm lịch, với các nghi thức truyền thống được tổ chức tại đền Hùng,
thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ.
Có lẽ trong tâm tưởng của mỗi người dân Việt, ai cũng luôn hướng về cội nguồn, hướng về
những truyền thống với những phong tục tâm linh từ thời cha ông để lại.Chính vì vậy, ở bất cứ
thời kì nào, chúng ta vẫn luôn giữ nguyên vẹn được phong tục Giỗ tổ của mình.Nhắc về nguồn
gốc của lễ hội tưởng nhớ công ơn này thì có lẽ không ai có thể biết tới bởi nó xuất hiện và tồn tại
từ lâu đời.Ngay từ thời phong kiến, các triều đại Đinh, Lý, Trần, Lê đã luôn dâng hương hoa và
lễ vật lên ngôi đền linh thiêng này để tưởng nhớ công ơn của các đấng vua cha tiên tổ từ xa
xưa.Theo Ngọc phả Hùng Vương ghi chép lại lịch sử từ thời Hồng Đức, ngôi đền thiêng liêng
này đã được các vua chúa thời phong kiến thờ cúng, cho người trông nom, sửa chữa và tổ chức lễ
hội vào ngày mồng mười hai tháng ba hằng năm.Các triều đại phong kiến cứ nối tiếp nhau tiếp
quản nhưng không triều đại nào quên dâng hương bái tổ, dâng lễ vật và tổ chức các nghi lễ hằng
năm cho ngôi đền Hùng thiêng liêng này.
Vào thời phong kiến, Phú Thọ được chia ra thành bốn mươi mốt làng xã và những làng xã này có
nhiệm vụ tổ chức phần lễ truyền thống khi lễ Giỗ Tổ diễn ra. Mỗi làng sẽ rước kiệu của làng
mình từ đình làng tới đền Hùng với các lễ vật, đi cùng là các phường tấu nhạc, hát ca dân gian.
Mỗi kiệu sẽ có lọng che, đi cùng cờ quạt và chiêng trống.Đó được coi như là những cuộc hành
trình về nguồn của mỗi làng một xã vô cùng trang nghiêm và mang tính tâm linh sâu sắc.Phần
nghi thức của lễ Giỗ tổ được diễn ra trang nghiêm với nhiều nghi lễ phức tạp, bao gồm lễ của
triều đình và lễ của dân dâng lên. Sau phần nghi lễ trang trọng được diễn ra, nhà vua sẽ tổ chức
những trò vui chơi dân gian mang tính phong tục truyền thống như hát xoan, hát ghẹo, đấu vật,
đánh đu, để người dân được vui chơi sau một năm làm lụng vất vả. Nhưng đến thời nhà Nguyễn,
vào năm 1917, vua Khải Định ra sắc lệnh cho tỉnh Phú Thọ phải lấy ngày mùng mười tháng ba
âm lịch để cử hành quốc lễ hằng năm. Khi đó, các quan chức trong tỉnh sẽ phải mặc triều phục,
đứng ra thay mặt cho các vua và các quan trong triều tế Tổ theo nghi thức truyền thống.
Đến khi nền cộng hòa được thành lập vào ngày mùng hai tháng chín năm 1945, kế thừa những
phong tục truyền thống của dân tộc, Chính phủ lâm thời khi đó với chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn
đặc biệt ghi nhớ lễ hội quan trọng này. Bác vẫn luôn dặn dò mỗi người con đất Việt phải luôn
"uống nước nhớ nguồn", phải biết trân trọng, gìn giữ và phát huy những truyền thống quý báu
cũng như phải bảo vệ quê hương đất nước của mình. Bác cũng đã từng dặn các chiến sĩ, cán bộ
khi tới thăm đền Hùng rằng:"Các vua Hùng đã có công dựng nước, bác cháu ta phải cùng nhau
giữ lấy nước". Vâng lời dặn dò ân cần đó của Bác, năm 1946, ngay năm sau khi nước Việt Nam
Dân chủ cộng hòa được thành lập, cụ Huỳnh Thúc Kháng - phó Chủ tịch nước khi đó đã thay
mặt nhà nước và chính phủ lâm thời lên dâng hương hoa tại đền Hùng, Phú Thọ. Trong lần viếng
thăm ấy, cụ đã mặc trang phục truyền thống khi vào làm nghi lễ dâng hương với khăn xếp, áo the
và trang trọng đặt lên bàn thờ các vua Hùng bản đồ đất nước Việt Nam cùng với thanh kiếm
quốc bảo. Với hành động mang đầy tính tâm linh đó, chúng ta như muốn khẳng định với các bậc
tiền nhân rằng dân tộc ta sẽ giữ vững ý chí bảo vệ Tổ quốc trước sự trở lại kẻ thù xâm lược là
thực dân Pháp lúc bấy giờ. Năm 1954, sau thắng lợi của chiến thắng Điện Biên Phủ, Bác Hồ
cùng các cán bộ và chiến sĩ của Việt Nam đã vào thăm đền Hùng để kính viếng và tỏ lòng biết
ơn tới các vị vua Hùng.
Ngày nay, lễ hội vẫn giữ được nguyên những nét nghi lễ truyền thống vốn có lưu lại từ bao đời
trước với các phần lễ và phần hội.Giỗ Tổ ngày nay thường có sự tham gia của ba tỉnh Phú Thọ,
Cà Mau, Bình Thuận tham gia góp giỗ.Cùng với đó là sự tổ chức cũng quy mô hơn, nghiêm ngặt
hơn với các hoạt động văn hóa thể thao diễn ra rất sôi nổi.
Tiếp nối truyền thống vốn có, phần lễ trước tiên bao gồm các nghi thức cúng Tổ, dâng hương và
hoa của các đoàn đại biểu sẽ được tổ chức bên trong đền Thượng. Khác với thời xưa khi mỗi
làng đều phải rước kiệu của mình để về giỗ Tổ, ngày nay, kiệu của Giỗ Tổ chỉ có một và được
ban tổ chức lễ hội rước ra từ chiều ngày mùng chín đặt ở dưới chân núi. Sau đó, các đoàn đại
biểu cùng vòng hoa kính viếng sẽ theo sau đội khiêng kiệu lần lượt vào đền trong tiếng nhạc bát
âm. Như truyền thống vào những năm chẵn khoảng năm năm, lễ Giỗ Tổ sẽ được tổ chức theo
nghi thức quốc gia, còn những năm khác đều do tỉnh ủy tỉnh Phú Thọ chỉ đạo tổ chức. Khi kiệu
được rước đến trước thềm của điện Kính Tiêu, một vị đại biểu lãnh đạo sẽ thay mặt cho nhân dân
cả nước đọc chúc văn lễ Tổ. Những nghi lễ trang nghiêm này sẽ được ghi hình và phát trực tiếp
cho đồng bào trên khắp thế giới có thể theo dõi cùng. Sau lễ đọc chúc văn và làm lễ của đoàn đại
biểu, các đồng bào cũng tham gia dâng lễ tế tổ tiên, các vị vua Hùng để cầu xin về một năm mới
may mắn và làm ăn phát đạt.
Tiếp theo sau khi những nghi thức truyền thống đã kết thúc, ban tổ chức lễ hội cũng tổ chức
thêm phần hội bao gồm các trò chơi dân gian và văn nghệ ở phía dưới chân đền. Cùng với đó là
các hoạt động thể thao, văn hóa cũng diễn ra vô cùng sôi nổi và phong phú. Thêm vào đó, mỗi
năm, ban tổ chức sẽ mở ra các trò chơi mới như thi gói bánh chưng, thi nấu cơm, để dâng lên vua
Hùng cùng với lòng thành kính, bày tỏ sự biết ơn đối các vị vua đã tạo nên một phong tục đẹp.
Bên cạnh các trò chơi dân gian là các đoàn hát nghệ thuật cũng góp vui, mang đến nhiều không
khí lễ hội tưng bừng đầy phấn khởi.
Ngày nay, lễ hội đền Hùng - giỗ tổ Hùng Vương không chỉ còn là lễ hội của riêng người dân tộc
Kinh mà các dân tộc khác trong vùng như Mường, Mông, cũng tới tham gia lễ hội và góp vui
cùng những tiếng cồng, tiếng chiêng đem tới một không khí thật sôi nổi, khẳng định nột nét văn
hóa thấm đượm tình dân tộc, tình đoàn kết anh em.Giỗ tổ Hùng Vương là một phong tục tâm linh
hết sức thiêng liêng và độc đáo của dân tộc ta. Vào ngày này, con cháu chúng ta không chỉ cầu
mong tổ tiên phù hộ để luôn được sự khỏe mạnh, may mắn mà còn phải luôn ghi nhớ trong lòng,
biết ơn, tri ân những người tiền nhân đã gây dựng và bảo vệ đất nước để chúng ta có được ngày
hôm nay. Hơn thế nữa, từ phong tục này, chúng ta nhắc nhau về một dân tộc được sinh ra cùng
từ một nguồn, vậy nên phải biết yêu thương, đoàn kết, phải ý thức được lòng tự hào, tự tôn dân
tộc để cùng nhau xây dựng và phát triển Tổ quốc ngày càng phồn thịnh hơn nữa.
Dòng sông lịch sử vẫn luôn cuồn cuộn chảy suốt bốn ngàn năm qua cùng dân tộc Việt Nam. Thế
nhưng, trải qua bao thăng trầm, biến động ấy, lễ hội Đền Hùng - Giỗ Tổ Hùng Vương vẫn là một
lễ hội tâm linh, tín ngưỡng quan trọng bậc nhất của người Việt. Từ truyền thống tốt đẹp đã được
giữ gìn hàng trăm năm ấy, chúng ta những con người của thế hệ sau phải biết cố gắng kế thừa và
phát huy hơn những truyền thống tốt đẹp như thế này của dân tộc. Con cháu dân tộc ta, dù có ở
bất cứ đâu, cứ tới ngày mùng mười tháng ba âm lịch sẽ nhắc cho nhau về ngày giỗ Tổ của một
dân tộc ngàn năm văn hiến với truyền thống dựng nước và giữ nước vững bền.
Thuyết minh về sự kiện Giỗ Tổ Hùng Vương - Mẫu 6
Câu ca dao cổ xưa: "Dù ai đi ngược về xuôi/ Nhớ ngày giỗ Tổ mùng 10 tháng Ba" được lưu
truyền tự bao đời nay của người Việt Nam nhắc nhở con cháu các thế hệ nhớ về công lao dựng
nước và giữ nước to lớn của các Vua Hùng, về cội nguồn dân tộc, về đạo lý truyền thống tốt đẹp
"Uống nước nhớ nguồn.
Như cô và các bạn đã biết, ngày giỗ Tổ Hùng Vương là ngày lễ lớn của cả dân tộc. Đây không
chỉ là dịp để người dân Việt Nam nhớ về cội nguồn của mình mà còn là dịp để mỗi người thể
hiện lòng biết ơn đối với các thế hệ cha ông đã có công xây dựng và bảo vệ đất nước.
Lễ hội Đền Hùng được tổ chức từ ngày mồng 1 đến ngày mồng 10 tháng ba hàng năm tại núi
Nghĩa Lĩnh, xã Hy Cương, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ. Lễ hội được chia làm hai phần
chính bao gồm: phần lễ và phần hội.
Trước hết, lễ giỗ đức Quốc Tổ Lạc Long Quân và lễ dâng hương tưởng niệm Tổ Mẫu u Cơ sẽ
được tổ chức vào ngày mồng 6 tháng ba âm lịch. Đến ngày mồng 10, ngày chính của lễ hội,
người dân sẽ tiến hành lễ rước kiệu và dâng hương trên đền Thượng. Rước kiệu vua xuất phát từ
dưới chân núi, đi qua lần lượt các đền rồi kết thúc tại đền Thượng, nơi làm lễ dâng hương. Trong
lễ dâng hương, người dân sẽ dâng lễ vật lên ban thờ các vị vua để thể hiện lòng thành của mình.
Sau tế lễ, có rất nhiều hoạt động sôi nổi, thú vị diễn ra như đánh trống đồng, đâm đuống tại khu
vực nhà Công Quán, trình diễn Hát Xoan làng cổ, trình diễn múa rối nước. Một số hội thi và trò
chơi dân gian được tổ chức càng làm cho bầu không khí của buổi lễ thêm phần náo nhiệt, tươi
vui hơn, có thể kể đến như hội thi gói, nấu bánh chưng và giã bánh giầy, giải bơi chải trên hồ
công viên Văn Lang,... Đây đều là những hoạt động được người dân và du khách tham quan
mong chờ, tham gia, hưởng ứng.
Bởi mang trong mình những ý nghĩa thiêng liêng mà Lễ hội Đền Hùng đã trở thành biểu tượng
văn hóa của dân tộc Việt Nam, mang giá trị văn hóa tâm linh sâu sắc, thể hiện đạo lí "uống nước
nhớ nguồn" và tinh thần đoàn kết, gắn bó của toàn thể dân tộc Việt Nam.
Thuyết minh về lễ hội Giỗ Tổ Hùng Vương - Mẫu 7
Là người dân nước Việt ai cũng biết câu ca:
Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày Giỗ Tổ mùng mười tháng ba
Khắp miền truyền mãi câu ca
Nước non vẫn nước non nhà ngàn năm.
Từ nhiều đời nay, trong đời sống tinh thần của người Việt Nam, đã luôn hướng tới một điểm tựa
của tinh thần văn hoá - đó là lễ hội Đền Hùng và Giỗ Tổ Hùng Vương, được tổ chức vào ngày 10
tháng 3 âm lịch. Giỗ Tổ Hùng Vương - từ rất lâu đã trở thành ngày Giỗ trọng đại của cả dân tộc,
đã in đậm trong cõi tâm linh của mỗi người dân đất Việt. Dù ở phương trời nào, người Việt Nam
đều nhớ ngày giỗ Tổ, đều hướng về vùng đít Cội nguồn - xã Hy Cương - Lâm Thao - Phú Thọ.
Nơi đây chính là điểm hội tụ văn hóa tâm linh của dân tộc Việt Nam.
Từ ngàn đời nay Đền Hùng là nơi tưởng nhớ, tôn vinh công lao các Vua Hùng, là biểu tượng của
khối đại đoàn kết dân tộc Việt Nam. Người Việt Nam may mắn khi có chung một Tổ để hướng
về, có chung một miền Đất Tổ để nhớ, có chung một đền thờ Tổ để tri ân. Ngày nay hàng năm, lễ
hội Giỗ Tổ vẫn được tổ chức theo truyền thống văn hoá của dân tộc. Không chỉ để tưởng nhớ tổ
tiên, Giỗ Tổ Hùng Vương - Lễ hội Đền Hùng còn nhằm giáo dục truyền thống yêu nước “Uống
nước nhớ nguồn”, biết ơn sâu sắc các Vua Hùng đã có công dựng nước và lớp lớp các bậc tiền
nhân kiên cường chống giặc ngoại xâm giữ nước.
Ngày giỗ Tổ Hùng Vương là ngày hội chung của toàn dân, ngày mà mọi trái tim dầu ở muôn nơi
vẫn đập chung một nhịp, mọi cặp mắt đều nhìn về cùng một hướng: Đền Hùng.
Lễ giỗ Tổ Hùng Vương cử hành vào ngày mồng mười tháng ba:
Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày giỗ Tổ mùng mười tháng ba
Lễ hội Đền Hùng là lễ hội truyền thống của dân tộc Việt Nam. Từ thuở xa xưa có một đặc thù
riêng là phần lễ nặng hơn phần hội. Tâm tưởng người về dự hội là hướng về tổ tiên, cội nguồn
với sự tôn kính và lòng biết ơn sâu sắc (Uống nước nhớ nguồn). 41 làng xã thuộc tỉnh Phú Tha
tham gia rước kiệu lễ dâng Tổ. Từ ngàn xưa, trên các cổ kiệu có bày lễ vật, đi kèm có phường
bát âm tấu nhạc, cờ quạt, bát bửu, lọng che cùng chiêng trống.
Những làng ở xa thường phải rước 2-3 ngày mới tới”. “Xưa kia, việc cúng Tổ (cử hành) vào
ngày 12 tháng 3 (âm lịch) hằng năm. Thường khi con cháu ở xa về làm giỗ trước một ngày, vào
ngày 11 tháng 3 (âm lịch). Đến thời nhà Nguyễn định lệ 5 năm mở hội lớn một lần (vào các năm
thứ 5 và 10 của các thập kỷ), có quan triều đình về cúng tế cùng quan hàng tỉnh và người chủ tế
địa phương cúng vào ngày 10 tháng 3 (âm lịch). Do đó ngày giỗ Tổ sau này mới là ngày 10
tháng 3 (âm lịch ) hàng năm”.
Những năm hội chính thì phần lễ gồm: Tế lễ của triều đình, sau đó là phần lễ của dân. Có 41 làng
được rước kiệu từ đình làng mình tới Đền Hùng. Đó là những cuộc hành lễ thể hiện tính tâm linh
và nhân văn sâu sắc. Các kiệu đều sơn son thếp vàng, chạm trổ tinh vi, được rước đi trong không
khí vừa trang nghiêm vừa vui vẻ với sự tham gia của các thành phần chức sắc và dân chúng
trong tiếng chiêng, trống, nhạc bát âm rộn rã một vùng. Phần hội gồm các trò chơi dân gian như
đánh vật, đu tiên, ném còn, cờ người, bắn cung nỏ và đặc biệt là các đêm hát xoan, hát ghẹo - hai
làn điệu dân ca độc đáo của vùng đất Châu Phong.
Ngày 2-9-1945, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời đánh dấu bước ngoặt lịch sử mới của
dân tộc ta. Kế tục truyền thống cao đẹp của cha ông, nhất là đạo đức “uống nước nhớ nguồn” nên
giỗ Tổ Hùng Vương năm 1946 - sau khi Chính phủ mới được thành lập - là một sự kiện hết sức
đặc biệt, đáng ghi nhớ. Năm ấy, cụ Huỳnh Thúc Kháng, Phó Chủ tịch nước, đã thay mặt Chính
phủ Việt Nam Dân chủ cộng hòa lên làm lễ dâng hương tại Đền Hùng. Cụ mặc áo the, khăn xếp,
khấn vái theo lễ tục cổ truyền và trang trọng dâng lên bàn thờ tấm bản đồ Việt Nam và thanh
kiếm là hai vật báu nói lên ý chí của Chính phủ và nhân dân ta trước họa xâm lăng đang đe dọa trở lại.
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, do chiến tranh ác liệt nên việc đèn hương nơi mộ
Tổ do nhân dân vùng quanh Đền Hùng đảm nhiệm. Kháng chiến thắng lợi với thiên sử vàng
Điện Biên Phủ (7-5-1954), ngày 19-9-1954, tại Đền Hùng, Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu đã
căn dặn cán bộ, chiến sĩ Đại đoàn quân Tiên phong trước khi về tiếp quản Thủ đô: “Các vua
Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước“.
Lời căn dặn cũng là lời hứa quyết tâm ấy của vị đứng đầu đất nước, dân tộc đã được thực hiện
vào mùa xuân 1975. Sau 30 năm gian khổ hy sinh, nhân dân ta đã quét sạch bọn xâm lược ra
khỏi bờ cõi, giang san thống nhất, quy về một mối vẹn toàn. Có lẽ không một dân tộc nào trên
thế giới có chung một gốc cội tổ tiên - một ngày giỗ Tổ như dân tộc ta. Từ huyền thoại mẹ Âu
Cơ đẻ ra trăm trứng, nửa theo cha xuống biển, nửa theo mẹ lên rừng đã khơi dậy ý thức về dân
tộc, nghĩa đồng bào và gắn kết chúng ta thành một khối đại đoàn kết. Hai chữ đồng bào là khởi
nguồn của yêu thương, đùm bọc, của sức mạnh Việt Nam.
Ngày nay việc tổ chức lễ hội Giỗ Tổ hàng năm vẫn được tổ chức theo truyền thống văn hoá của
dân tộc. Vào những năm chẵn (5 năm một lần), Giỗ Tổ được tổ chức theo nghi lễ quốc gia, năm
lẻ do tỉnh Phú Thọ tổ chức. Dù năm chẵn hay lẻ lễ hội Giỗ Tổ vẫn rất chặt chẽ, bao gồm hai phần lễ và hội.
Phần lễ được duy trì trang nghiêm trong các đền, chùa trên núi Hùng. Nghi thức dâng hương hoa
của các đoàn đại biểu của Đảng, Chính phủ, các địa phương trong toàn quốc,… được tổ chức
long trọng tại đền Thượng.
Từ chiều ngày mùng 9, làng nào được Ban tổ chức lễ hội cho phép rước kiệu dâng lễ đã tập trung
tại nhà bảo tàng dưới chân núi, trên kiệu đặt lễ vật tế. Sáng sớm ngày mùng 10, các đoàn đại biểu
tập trung ở một địa điểm tại thành phố Việt Trì, có xe tiêu binh rước vòng hoa dẫn đầu, diễu
hành tới chân núi Hùng. Các đoàn đại biểu xếp hàng chỉnh tề đi sau kiệu lễ, lần lượt lên đền theo
tiếng nhạc của phường bát âm và đội múa sinh tiền.
Tới trước thềm của “Điện Kính Thiên”, đoàn dừng lại, kính cẩn dâng lễ vào thượng cung đền
Thượng. Một đồng chí lãnh đạo tỉnh là nguyên thủ quốc gia hoặc đại biểu đại diện Bộ Văn hoá),
thay mặt cho tỉnh và nhân dân cả nước đọc chúc văn lễ Tổ. Toàn bộ nghi thức hành lễ được hệ
thống báo chí, phát thanh truyền hình đưa tin hoặc tường thuật trực tiếp để đồng bào cả nước có
thể theo dõi lễ hội. Đồng bào dâng lễ trong các đền, chùa trên núi, ai cũng có tâm nguyện cầu
mong tổ tiên chứng giám, phù hộ độ trì cho con cháu.
Phần hội diễn ra tưng bừng, náo nhiệt xung quanh các đền, chùa và dưới chân núi Hùng. Lễ hội
ngày nay có nhiều hình thức sinh hoạt văn hoá hơn xưa. Các hình thức văn hoá truyền thống và
hiện đại được đan xen nhau. Trong khu vực của hội, nhiều cửa hàng bán đồ lưu niệm, văn hoá
phẩm, các cửa hàng dịch vụ ăn uống, các khu văn hóa thể thao, được tổ chức và duy trì một cách trật tự, quy củ.
Các trò chơi văn hoá dân gian được bảo lưu có chọn lọc như: đu quay, đấu vật, chọi gà, bắn nỏ,
rước kiệu, kéo lửa, nấu cơm thi, đánh cờ tướng (cờ người) Có năm còn diễn trò “Bách nghệ khôi
hài”, “Rước chúa gái”, “Rước lúa thần” và trò “Trám” tại khu vực hội. Cạnh đó là sân khấu của
các đoàn nghệ thuật chuyên nghiệp: chèo, kịch nói, hát quan họ.
Hội ngày nay chính là nơi để thi tuyển và giao lưu văn hóa giữa các vùng. Các nghệ nhân người
Mường mang đến lễ hội thanh âm của tiếng trống đồng một thời đóng trên đỉnh núi Hùng, gọi
mặt trời làm mưa, làm nắng thuận hòa, cho mùa màng tốt tươi, muôn dàn hạnh phúc. Những làn
điệu Xoan - Ghẹo với lời ca tinh tế, mượt mà đã đem tới cho lễ hội đền Hùng một nét đặc trưng,
thấm đượm văn hóa vùng Trung du Đất Tổ.
Ngày này cả nước hướng về vùng Đất Tổ, người người trẩy hội Đền Hùng. Tổ tiên người Việt
luôn muốn nhắc nhở con cháu: ai ai cũng nên làm tròn bổn phận, nhiệm vụ của mình, giữ đúng
kỷ cương, vua ra vua, cha ra cha, con ra con thì gia đình sẽ yên ổn, xã hội được an cư lạc nghiệp
phồn vinh, phát triển. Lời di huấn này không chỉ được nhắc nhở hằng năm thông qua ngày hội
giỗ mà còn được khắc ghi trên trống đồng Đông Sơn, trống thiêng của dân tộc, gửi gắm trong
biểu tượng mặt trời nằm rạng rỡ giữa trống đồng.
Thông qua ngày giỗ Tổ, Tổ tiên ta còn có hoài bão muốn nhắc nhở hậu thế những kế sách giữ
nước an dân. Mấy nghìn năm trông coi và gìn giữ, đánh giặc và dựng xây, Đền Hùng đã trở
thành biểu tượng của tinh thần dân tộc, là cội nguồn của sức mạnh, niềm tin, chói sáng của một nền văn hóa.
Không chỉ người Việt chúng ta tự hào về Đền Hùng và ngày giỗ Tổ , mà tìm vào những dòng lưu
bút của các đoàn đại biểu quốc tế và bạn bè khắp năm châu bốn biển từng đến thăm viếng Đền
Hùng, chúng ta thật sự xúc động khi được biết Đền Hùng và các di tích trên Nghĩa Lĩnh đã làm
cho cả thế giới phải cúi đầu vị nể ý thức cội nguồn dân tộc của chúng ta. Nhiều dòng lưu bút
thừa nhận. “Đền Hùng là nơi đặt nền móng cho lịch sử Việt Nam.
Lịch sử như một dòng chảy liên tục. Trải mấy nghìn năm, trước bao biến động thăng trầm, trong
tâm thức của cả dân tộc, Đền Hùng và ngày giỗ Tổ 10-3 âm lịch vẫn là điểm của bốn phương tụ
hội, nơi con cháu phụng thờ công đức Tổ tiên, là biểu tượng của dân tộc Việt Nam - một dân tộc
đã có truyền thống dựng nước và giữ nước hàng nghìn năm.
Thuyết minh lễ hội Giỗ Tổ Hùng Vương - Mẫu 8
Truyền thống "uống nước nhớ nguồn" của con người Việt Nam có từ nghìn xưa trở thành đạo lý
và lẽ sống của các dân tộc. Trải qua hàng nghìn năm Bắc thuộc nhưng ở đời nào, triều đại nào
nhân dân ta đều không hề quên tổ chức lễ hội Đền Hùng. Đây là một lễ hội lớn mang tính quốc
gia để tưởng nhớ các vua Hùng đã có công dựng nước.
Như vậy phong tục giỗ tổ Hùng Vương đã trở thành truyền thống văn hoá lâu đời ở nước ta. Đó
là ngày hội toàn quốc, toàn dân và trong tâm thức dân gian Việt Nam nó mang tính thiêng liêng
cao cả nhất. Vì thế mà lễ hội được tổ chức long trọng hàng năm với nghi thức đại lễ quốc gia, với
sự hành hương "trở về cội nguồn dân tộc" của hàng chục vạn người từ khắp các nơi trong nước
và kiều bào sống ở nước ngoài.
Khu di tích đền Hùng là một quần thể kiến trúc đẹp trên núi Nghĩa Lĩnh, tức núi Hùng, thuộc xã
Huy Cương, huyện Phong Châu, tỉnh Phú Thọ. Khởi thủy các ngôi đền này đều được làm bằng
đá để thờ các vị thần núi và các vị vua Hùng. Và từ đó đến nay, trải qua mấy nghìn năm lịch sử,
qua các triều đại, các ngôi đền đều được nhân dân địa phương trông coi, sửa chữa, tôn tạo hoặc
xây dựng để chống lại sự phong hoá của thời gian và do các cuộc chiến tranh tàn phá. Để có
được những ngôi đền với diện mạo bề thế khang trang như ngày nay là kỳ tích và công sức của
bao thế hệ con cháu duy tu bảo dưỡng. Các di tích này từ lâu đã trở thành một di sản văn hóa quý
giá và là bảo tàng lịch sử của dân tộc ta.
Mỗi công trình kiến trúc của di tích đền Hùng đều hàm chứa nội dung huyền thoại hòa lẫn hiện
thực, theo dòng lịch sử chảy trôi, làm cho người đi hội hôm nay như thấy quá khứ và hiện tại
quyện vào nhau. Khí thiêng sông núi như tôn thêm cho ngày hội non sông thêm rạng rỡ. Từ cổng
tiền lớn (Đai môn) dưới chân núi, bức đại tự phía trên mang dòng chữ "Cao sơn cảnh hàng" (Núi
cao đường lớn) vui vẻ chào đón mọi người. Vượt 225 bậc xi măng, khách tới đền Hạ, nơi bà Âu
Cơ sinh bọc trăm trứng, nở thành trăm con trai.
Có lẽ đây là sự tích về nguồn gốc của người Việt Nam được cùng sinh ra một bọc. Vì vậy mà
trong ngôn ngữ của ta, dân gian vẫn dùng hai tiếng "đồng bào" (cùng một bọc) cho đến tận ngày
nay. Khi u Cơ sinh bọc trăm trứng thì Lạc Long Quân dẫn 50 người về xuôi còn u Cơ dẫn 49 con
lên ngược, để lại người con trưởng làm vua, xưng là Hùng Vương, định đô ở Phong Châu. Vượt
168 bậc nữa là tới đền Trung. Tương truyền nơi đền Trung là chỗ xưa kia các vua Hùng thường
họp bàn việc nước với các quan đại thần trong triều. Đây cũng là nơi nghỉ ngơi thoải mái của các
vua Hùng cùng các tướng lĩnh sau những cuộc viễn du săn bắn dài ngày.
Nơi đền Trung còn liên quan đến sự tích "bánh chưng, bánh dày" và cuộc thi cổ do vua Hùng
Vương thứ 6 tổ chức nhằm mục đích tìm người nối ngôi. Lang Liêu là con trai út vì lòng hiếu
thảo đã chế ra được hai loại bánh từ gạo nếp thơm là bánh chưng và bánh dày. Lại vượt 102 bậc
nữa là tới đền Thượng. Tục truyền rằng ở thời Hùng Vương, các vua Hùng thường cùng các vị