Văn mẫu lớp 10: Viết báo cáo nghiên cứu về một vấn đề (2 Dàn ý + 2 Mẫu)

Văn mẫu lớp 10: Viết báo cáo nghiên cứu về một vấn đề mang đến 2 gợi ý cách viết và 2 mẫu báo cáo hay đầy đủ nhất. Qua đó giúp các bạn có thêm nhiều tài liệu học tập, củng cố kiến thức để nhanh chóng biết cách viết báo cáo nghiên cứu một vấn đề quan tâm.

Viết báo cáo nghiên cu v hình thức biu din s thi
Dàn ý chi tiết
1. M bài: Gii thiu vấn đề cần phân tích
2. Thân bài
- Khái quát về th loi s thi: người Êđê gọi s thi klei khan. Klei nghĩa lời, bài;
khan nghĩa là hát kể. Hát kể klei khan không phải hát kể thông thường bao gồm
ý nghĩa ngợi ca.
- Hình thc biu din s thi ca người dân Ê đê là hình th hát, hát kể,…
+ Hát kể s thi loại hình sinh hoạt văn hóa dân gian đã có t lâu đời ca cộng đồng
người Ê đê, đưc tn ti bằng hình thức truyn ming t đời này qua đời khác.
+ Ni dung của hát kể s thi ch yếu ca ngợi các anh hùng dân tộc, tôn vinh những
người công to lập buôn làng, những người anh hùng công bảo v cộng đồng
thoát khi s diệt vong, áp bức và s xâm chiếm ca các thế lực khác;
+ Ngôn ngữ diễn xưng ca s thi Êđê là sự kết hp nhun nhuyn gia li và nhc.
- S ảnh hưởng ca s thi đến đời sống người dân Ê đê:
+ Ảnh hưởng đến đời sống văn hóa tinh thần: Người Ê đê thực hiện hát sử thi trong
cuc sống hàng ngày, trong lễ nghi và lao đng.
+ S tôn sùng ca ngưi Ê đê v s thi.
3. Kết bài: Khẳng đnh li vấn đề
Bài làm tham khảo
S thi Ê đê ra đời trong điều kiện hội loài người những biến động ln v nhng
cuộc dilịch sử, đặc biệt là những cuc chiến tranh giữa các thị tc, b lạc để giành
đất sng vùng rừng núi Tây Nguyên.
Đồng bào dân tộc Ê đê xếp th 12 trong cng đồng 54 dân tộc anh em ti Vit Nam.
Ước tính hơn 331.000 người Ê đê trú tập trung ch yếu các tỉnh: Đắk Lk,
phía Nam của tỉnh Gia Lai miền Tây của hai tỉnh Khánh Hòa Phú Yên của Vit
Nam. Người Êđê gọi s thi klei khan. Klei nghĩa lời, bài; khan nghĩa hát kể.
Hát kể klei khan không phải hát k thông thường bao gồm ý nghĩa ngi ca.
Thc cht đây là một hình thức k chuyn tng hợp được thông qua hát k.
Các tác phẩm s thi đều phản ánh quan nim v trụ vi thế gii thần linh ba
tầng rệt: tng tri, tng mặt đất tầng i mặt đất - thế giới con người
thn linh gần gũi với nhau; phản ánh hội c đại của người Ê đê, cuộc sng sinh
hot ca cộng đồng bình đẳng, giàu có; phản ánh quyền lực gia đình mẫu hệ, đề cao
vai trò của người ph n trong quản lý và bảo v hạnh phúc gia đình.
Hát kể s thi loại hình sinh hoạt văn hóa dân gian đã t lâu đi ca cộng đồng
người Ê đê, được tn ti bằng hình thức truyn ming t đời này qua đời khác.Nội
dung của hát kể s thi ch yếu ca ngợi các anh hùng dân tộc, tôn vinh những người
công tạo lập buôn làng, những người anh hùng công bảo v cộng đồng thoát khỏi
s diệt vong, áp bức s xâm chiếm của các thế lực khác; đề cao s sáng tạo, mưu
trí tài giỏi, tinh thần đoàn kết, ơng trợ lẫn nhau lúc khó khăn hoạn nạn, nêu cao
chính nghĩa, phản kháng những điều trái với đạo lý, luật tc; ca ngợi cái đẹp v sc
mạnh hình thể lẫn tâm hồn, tình yêu đôi lứa, tình cảm gia đình, mong mun chinh
phục thiên nhiên để cuc sng tốt đẹp hơn; miêu tả cuc sng sinh hoạt, lao động bình
thưng gin d của buôn làng…
Ngôn ngữ hát kể ca s thi Êđê là sự kết hp nhun nhuyn gia lời nhạc. V phn
li, s thi Ê đê đều th hin một hình thức ngôn ngữ đặc biệt lời nói vần (klei duê).
Trong khi diễn xướng người ngh nhân còn vn dụng các làn điệu dân ca của dân tc
mình, như: Ay ray, kưưt, mmuin… để tạo n nhịp điệu vừa chất thơ vừa chất
nhạc. Trong hình thức ngôn ngữ đó, các câu chữ như một móc xích nối các câu vần
với nhau. Chính đây cũng là một yếu t quan trng khiến ngh nhân có thể thuộc được
c những tác phẩm dài hàng vạn câu.
Trong s thi thường nhc nhiu v những cánh rừng bạt ngàn, rõ nét nhất là cảnh buôn
làng giàu của các trưởng, nhng người hùng nổi tiếng khắp vùng như Đăm Săn,
Khing Ju… Trong trí tưởng tượng của người k, những cánh rừng đi săn bắn, nơi làm
rẫy bến nước đều hướng đông. Đây ng mi buổi sáng thức dậy đi lên
rẫy đều nhìn thấy mt trời trên đỉnh núi, h quan niệm đây s sng, s sinh sôi,
ny n khi tiếp nhận ánh sáng của n thn mt tri mỗi ngày. Ánh mặt tri sự o
ng ca những điều tốt lành, là sự hy vng tr thành hin thc.
Ví dụ như trong sử thi Khing Ju đoạn k: “Đến sáng hôm sau, khi mặt trời lên khỏi
ngọn núi, Prong ng Dăng lấy nước trong bu ra mt. Sau đó, vít cần rượu tiếp
tc uống. Càng uống nước trong chế càng đầy, có lúc nước tràn ra ngoài”. Đây là điều
tốt lành báo ứng cho Prong Mưng Dăng dắt bà đỡ đẻ v gấp cho em gái mình H’Ling
kịp sinh con, trong khi Prong Mưng Dăng đang mải mê t tình với H’Bia Ling Pang.
Vi bt c s thi nào, khi một nhân vật đi tìm ai hỏi người nào đó trong làng thì sẽ
câu tr lời khéo léo. Đó là: Nhìn cột nhà sàn dài hơn nhà khác, nhiều cái
bành voi để ngoài hiên, cu thang rng bng tri ba chiếc chiếu. Cu thang rộng đến
ni những chàng trai xung một lúc năm, các gái thì xuống được ba người, con
heo, con chó chạy đầy dưới sân”. Câu trả lời này làm cho người nghe ởng tượng v
ngôi nhà đó đẹp, dài, rộng hơn hn những ngôi nhà trong buôn mình. Riêng nội tht
trong nhà, ngưi k luôn tạo ra nhng li k bằng ngôn từ ợng hình. Ví dụ: “Cột nhà
trong chm tr rất đẹp, sàn nhà láng bóng. Gian trong cột bng ch đỏ, gian ngoài cột
bng ch vàng”. Những hình ảnh gần như có thc vi không gian hin thc.
Ví dụ: “Từ trong bành voi, Mtao Grư đạp lên đầu voi nhy xuống sàn hiên, từ sàn hiên
nhy qua ngch ca, t ghế Lưng (ghế ch nhà), nhảy đến ch ngồi đánh Jhar (chiêng
ln tiếng ngân vang), t ch đánh Jhar đến ch đánh chiêng (ghế kpan), t ch đánh
chiêng nhảy đến ch đánh hgơr (trống cái)”. Hình ảnh này làm người nghe hình dung
ra những hành động nh nhàng, nhanh nhẹn của Mtao Grư đi o qua các vị trí đặt
chiêng, ch để ca nhng vt dụng (như hưng, kpan, th t t gian ngoài đi vào gian
trong). Qua tình tiết của câu chuyện, người nghe đã hình dung đây một nhà giàu
nht trong buôn làng
Tại không gian lễ hi b m của người Êđê M’Dhur, v khuya, sau khi mi nghi l
tm dng lại, thì nghệ nhân kể khan bắt đầu k những bài khan ni tiếng của dân tộc
mình cho mọi người nghe. Đây hình thức sinh hot k s thi cùng độc đáo. Bên
đống la bập bùng tại không gian nhà m rng ln, ngh nhân hát k s thi cho hàng
nghìn người nghe. Dân làng, già tr gái trai và khách gn xa ngi im lặng say sưa lắng
nghe k s thi suốt đêm thâu cho đến khi con trống gáy vang núi rừng, báo hiệu
ông mặt trời đã thc giấc thì nghệ nhân hát kể s thi mi dừng câu chuyện lại để
chun b cho các nghi l tiếp theo ca l hi b m. đây, lễ hi b m được t chc
bao nhiêu ngày đêm, thì những người đến d l được nghe k s thi bấy nhiêu đêm.
S thi Ê đê, chính một bc tranh rộng hoàn chỉnh v đời sống nhân dân v
những anh hùng, dũng đi din cho cộng đồng. Người dân Ê đê hát kể s thi như
một cách để bo tồn và gìn giữ giá trị văn hóa lâu đời của dân tộc đồng thời tuyên
truyền nét đẹp này đến vi nhiều đồng bào dân tộc khác.
Viết báo cáo nghiên cu v s thi Đăm Săn
Dàn ý chi tiết
a. Đặt vn đ:
- Nêu rõ đ tài và vn đề nghiên cứu.
b. Gii quyết vn đ:
* Kiến trúc nhà của người Ê-đê trong đoạn trích "Đăm Săn đi bt N Thn Mt
Tri":
- Gn lin với hình ảnh nhà sàn dài.
- Đặc trưng của nhà dài Tây Nguyên bao gồm: hình thức ca thang, cột sàn và cách bố
trí vt dụng trên mặt bng sinh hot.
*Sinh hot của người Ê-đê trong không gian nhà trong đoạn trích "Đăm Săn đi bắt
N Thn Mt Tri".
- Không gian nhà dài chính là nơi cư trú của người dân Ê-đê.
- Ti đây din ra rt nhiu hot đng gn lin vi văn hóa ca người Ê-đê.
- Đồ vật trong nhà biu th s giàu có, uy nghi, quyền lc.
c. Kết lun
- Khẳng định kết qu nghiên cứu và ý nghĩa ca vấn đề nghiên cứu.
Bài làm tham khảo
S thi "Đăm Săn" pho sử thi ni tiếng của người Ê-đê. Đoạn trích "Đăm Săn đi bắt
N Thn Mt Trời" một trong những trích đoạn tiêu biểu k lại hành trình chinh
phc N Thn Mt Tri của người anh hùng Đăm Săn. Đng thời, còn phản ánh
din mạo đời sng tinh thn, nim tin cng đồng người Ê-đê. Thông qua đoạn trích,
không gian sinh hoạt của người Ê-đê được hiện lên rõ nét trở thành một đim nhn
thú vị, đáng để khám phá.
Trưc hết, kiến trúc nhà của người Ê-đê trong đoạn trích "Đăm n đi bắt N Thn
Mt Tri" gn lin với hình ảnh nsàn dài. Nhà sàn dài kiến trúc độc đáo đặc
bit của người Ê-đê Tây Nguyên. Đặc trưng của nhà dài Tây Nguyên bao gồm: hình
thc ca thang, cột sàn và cách b trí vật dụng trên mặt bng sinh hoạt. Điều này được
miêu tả rất trong đoạn trích các chi tiết: "Chồm lên hai lần, chàng leo hết cu
thang. Chàng giậm chân trên sàn sân, hai lần sàn sân làm như vỗ cánh, bảy hàng cột
nhà chao qua chao lại t đông sang tây", "cầu thang trông như cái cu vồng", "tòa nhà
dài dằng dặc", "voi vây chặt sàn sân", "các ngang dọc đều thếp vàng". Hình nh
nhà sàn dài dng dc, cầu thang, ngang xuất hin nhiu lần được lặp đi lặp li
cho thy du n kiến trúc nhà đặc trưng của đồng bào người Ê-đê. Tuy kiến trúc nhà
không được miêu tả mt cách t m nhưng những hình ảnh tiêu biểu như vậy cũng đủ
để làm đng hin nền văn hóa đặc sc của vùng Tây Nguyên.
Không gian nhà dài chính nơi trú của người dân Ê-đê. Tại đây diễn ra rt nhiu
hoạt động gn lin với văn hóa của người Ê-đê như hội họp, ăn mừng, k chuyn s
thi, t chc nghi l th cúng thần linh,... Đoạn văn trong đoạn trích "Đăm Săn đi bt
N Thn Mt Trời" đã miêu tả li khung cnh của người dân như sau: "tôi tớ trải dưới
mt chiếu trng, trải trên một chiếu đỏ làm chỗ ngồi cho nhà trưởng. Ri h đem
thuc si c hòm đồng, thuốc lá cả sọt đại, tru v c gùi to, không còn sợ thiếu thuc
thiếu trần cho Đăm Săn ăn, hút. H đốt một mái p, giết một mái đẻ, giã gạo
trắng như hoa êpang, sáng như ánh mặt tri, nấu cơm mời khách. Họ đi lấy rượu, đem
một ché tuk da lươn, một ché êbah Mnông, trên vẽ hoa -ụ, dưới ợn hoa văn, tai
ché hình mỏ vẹt xâu lỗ. Đó những cái ché ngã giá phải ba voi. Ai đi lấy nước c đi
lấy ớc, ai đánh chiêng cứ đánh chiêng, ai cm cn c cm cn. Cn cm rồi, người
ta mời Đăm Săn vào uống.". Các vt dng xut hiện trong đoạn văn như: ché tuk, ché
êbah, những đồ vật được làm bằng gm với hình hoa văn đa dạng, được xem
những đồ vật quý của người Ê-đê. biểu th cho s sung túc, giàu có, phải "ngã giá
bng ba voi" mới có đưc.
Hơn nữa, đoạn văn còn làm nổi bật được hoạt động tính cách của người dân Ê-đê.
Để thiết đãi vị trưởng Đăm Săn - v khách quý của buôn làng, người dân nô nức thi
nhau mang ra những món ăn ngon nhất, nhng loi thuốc quý nhất để thiết đãi: thuốc
si, thuc lá, tru vỏ, gà mái ấp, gà mái đẻ, go trắng. Người Ê-đê hiện lên với nét tính
cách xi lởi, hào phóng, nồng hu. Nhng hoạt đng thiết đãi tù trưởng Đăm Săn cũng
chính là nhng hot đng của dân làng khi tiếp đón những v khách quý từ phương xa.
Bên cạnh đó, chi tiết "chiêng xếp đầy nhà ngoài", "cồng chất đầy nhà trong" "ai
đánh chiêng cứ đánh chiêng, ai cắm cn c cm cần" đã phản ánh phong tục đánh
cồng chiêng uống rượu cn của người dân vùng Tây Nguyên. Cồng chiêng không
ch nhạc c còn chứa đựng giá trị văn hóa của cộng đồng người Ê-đê. Chính
vậy, chi tiết Đăm Săn đến nhà Nữ Thn Mt Tri thấy hình ảnh "chiêng xếp đầy
nhà ngoài, cồng xếp đầy nhà trong" biểu th cho s quyn lực giàu có. Người Ê-đê
tin rng: mi mt chiếc cồng đều n cha mt v thần cho nên ng nhiều cng, cng
càng cổ thì quyền lc ca v thần càng cao. Ngoài ra, tục uống u cần cũng một
nét đẹp văn hóa trong đi sng của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên. Rượu cn trong
đoạn trích chính là phương tiện để gn kết tình cảm giữa người trưởng Đăm Săn
Đăm Par Kvây. Rượu không chỉ đóng vai trò trong các buổi thực nh nghi lễ để cu
xin đấng thn linh còn th hiện đầy đủ tinh thn tp th ca cộng đồng, lòng
mến khách của ch nhà. th nói, những vt dụng trong căn nhà của người Ê-đê
không chỉ gn lin vi hoạt động sống n phản ánh được tính cách, sự giàu có,
phn vinh ca c mt cộng đồng.
Đoạn trích "Đăm n đi bt N Thn Mt Trời" đoạn trích quan trng ca s thi
"Đăm Săn". Đoạn trích không chỉ khc ha v đẹp phi thường, khát vọng mãnh lit
của người anh hùng Đăm Săn qua đó, chúng ta còn thấy được những nét đẹp văn
hóa, đặc biệt là không gian sinh hot ca ngưi Ê-đê Tây Nguyên. S thi "Đăm Săn"
cho thy kiến trúc nhà dài, vật dng gn lin vi sinh hoạt lối sng, tính cách của
đồng bào người Ê-đê. Các giá trị vt cht, tinh thn ca người Ê-đê trong thời đại mi
cn phi đưc bo tồn và phát huy hơn nữa.
| 1/7

Preview text:


Viết báo cáo nghiên cứu về hình thức biểu diễn sử thi Dàn ý chi tiết
1. Mở bài: Giới thiệu vấn đề cần phân tích 2. Thân bài
- Khái quát về thể loại sử thi: người Êđê gọi sử thi là klei khan. Klei nghĩa là lời, bài;
khan nghĩa là hát kể. Hát kể klei khan không phải là hát kể thông thường mà bao gồm ý nghĩa ngợi ca.
- Hình thức biểu diễn sử thi của người dân Ê đê là hình thứ hát, hát kể,…
+ Hát kể sử thi là loại hình sinh hoạt văn hóa dân gian đã có từ lâu đời của cộng đồng
người Ê đê, được tồn tại bằng hình thức truyền miệng từ đời này qua đời khác.
+ Nội dung của hát kể sử thi chủ yếu ca ngợi các anh hùng dân tộc, tôn vinh những
người có công tạo lập buôn làng, những người anh hùng có công bảo vệ cộng đồng
thoát khỏi sự diệt vong, áp bức và sự xâm chiếm của các thế lực khác; …
+ Ngôn ngữ diễn xướng của sử thi Êđê là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa lời và nhạc.
- Sự ảnh hưởng của sử thi đến đời sống người dân Ê đê:
+ Ảnh hưởng đến đời sống văn hóa tinh thần: Người Ê đê thực hiện hát sử thi trong
cuộc sống hàng ngày, trong lễ nghi và lao động.
+ Sự tôn sùng của người Ê đê về sử thi.
3. Kết bài: Khẳng định lại vấn đề Bài làm tham khảo
Sử thi Ê đê ra đời trong điều kiện xã hội loài người có những biến động lớn về những
cuộc di cư lịch sử, đặc biệt là những cuộc chiến tranh giữa các thị tộc, bộ lạc để giành
đất sống ở vùng rừng núi Tây Nguyên.
Đồng bào dân tộc Ê đê xếp thứ 12 trong cộng đồng 54 dân tộc anh em tại Việt Nam.
Ước tính có hơn 331.000 người Ê đê cư trú tập trung chủ yếu ở các tỉnh: Đắk Lắk,
phía Nam của tỉnh Gia Lai và miền Tây của hai tỉnh Khánh Hòa và Phú Yên của Việt
Nam. Người Êđê gọi sử thi là klei khan. Klei nghĩa là lời, bài; khan nghĩa là hát kể.
Hát kể klei khan không phải là hát kể thông thường mà bao gồm ý nghĩa ngợi ca.
Thực chất đây là một hình thức kể chuyện tổng hợp được thông qua hát kể.
Các tác phẩm sử thi đều phản ánh quan niệm về vũ trụ với thế giới thần linh có ba
tầng rõ rệt: tầng trời, tầng mặt đất và tầng dưới mặt đất - thế giới mà con người và
thần linh gần gũi với nhau; phản ánh xã hội cổ đại của người Ê đê, cuộc sống sinh
hoạt của cộng đồng bình đẳng, giàu có; phản ánh quyền lực gia đình mẫu hệ, đề cao
vai trò của người phụ nữ trong quản lý và bảo vệ hạnh phúc gia đình.
Hát kể sử thi là loại hình sinh hoạt văn hóa dân gian đã có từ lâu đời của cộng đồng
người Ê đê, được tồn tại bằng hình thức truyền miệng từ đời này qua đời khác.Nội
dung của hát kể sử thi chủ yếu ca ngợi các anh hùng dân tộc, tôn vinh những người có
công tạo lập buôn làng, những người anh hùng có công bảo vệ cộng đồng thoát khỏi
sự diệt vong, áp bức và sự xâm chiếm của các thế lực khác; đề cao sự sáng tạo, mưu
trí tài giỏi, tinh thần đoàn kết, tương trợ lẫn nhau lúc khó khăn hoạn nạn, nêu cao
chính nghĩa, phản kháng những điều trái với đạo lý, luật tục; ca ngợi cái đẹp về sức
mạnh hình thể lẫn tâm hồn, tình yêu đôi lứa, tình cảm gia đình, mong muốn chinh
phục thiên nhiên để cuộc sống tốt đẹp hơn; miêu tả cuộc sống sinh hoạt, lao động bình
thường giản dị của buôn làng…
Ngôn ngữ hát kể của sử thi Êđê là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa lời và nhạc. Về phần
lời, sử thi Ê đê đều thể hiện một hình thức ngôn ngữ đặc biệt là lời nói vần (klei duê).
Trong khi diễn xướng người nghệ nhân còn vận dụng các làn điệu dân ca của dân tộc
mình, như: Ay ray, kưưt, mmuin… để tạo nên nhịp điệu vừa có chất thơ vừa có chất
nhạc. Trong hình thức ngôn ngữ đó, các câu chữ như một móc xích nối các câu vần
với nhau. Chính đây cũng là một yếu tố quan trọng khiến nghệ nhân có thể thuộc được
cả những tác phẩm dài hàng vạn câu.
Trong sử thi thường nhắc nhiều về những cánh rừng bạt ngàn, rõ nét nhất là cảnh buôn
làng giàu có của các tù trưởng, những người hùng nổi tiếng khắp vùng như Đăm Săn,
Khing Ju… Trong trí tưởng tượng của người kể, những cánh rừng đi săn bắn, nơi làm
rẫy và bến nước đều ở hướng đông. Đây là hướng mỗi buổi sáng thức dậy và đi lên
rẫy đều nhìn thấy mặt trời ló trên đỉnh núi, họ quan niệm đây là sự sống, sự sinh sôi,
nẩy nở khi tiếp nhận ánh sáng của nữ thần mặt trời mỗi ngày. Ánh mặt trời là sự báo
ứng của những điều tốt lành, là sự hy vọng trở thành hiện thực.
Ví dụ như trong sử thi Khing Ju có đoạn kể: “Đến sáng hôm sau, khi mặt trời lên khỏi
ngọn núi, Prong Mưng Dăng lấy nước trong bầu rửa mặt. Sau đó, vít cần rượu và tiếp
tục uống. Càng uống nước trong chế càng đầy, có lúc nước tràn ra ngoài”. Đây là điều
tốt lành báo ứng cho Prong Mưng Dăng dắt bà đỡ đẻ về gấp cho em gái mình H’Ling
kịp sinh con, trong khi Prong Mưng Dăng đang mải mê tỏ tình với H’Bia Ling Pang.
Với bất cứ sử thi nào, khi một nhân vật đi tìm ai và hỏi người nào đó trong làng thì sẽ
có câu trả lời khéo léo. Đó là: “Nhìn cột nhà sàn nó dài hơn nhà khác, có nhiều cái
bành voi để ngoài hiên, cầu thang rộng bằng trải ba chiếc chiếu. Cầu thang rộng đến
nỗi những chàng trai xuống một lúc năm, các cô gái thì xuống được ba người, con
heo, con chó chạy đầy dưới sân”. Câu trả lời này làm cho người nghe tưởng tượng về
ngôi nhà đó đẹp, dài, rộng hơn hẳn những ngôi nhà trong buôn mình. Riêng nội thất
trong nhà, người kể luôn tạo ra những lời kể bằng ngôn từ tượng hình. Ví dụ: “Cột nhà
trong chạm trổ rất đẹp, sàn nhà láng bóng. Gian trong cột bằng chỉ đỏ, gian ngoài cột
bằng chỉ vàng”. Những hình ảnh gần như có thực với không gian hiện thực.
Ví dụ: “Từ trong bành voi, Mtao Grư đạp lên đầu voi nhảy xuống sàn hiên, từ sàn hiên
nhảy qua ngạch cửa, từ ghế Lưng (ghế chủ nhà), nhảy đến chỗ ngồi đánh Jhar (chiêng
lớn tiếng ngân vang), từ chỗ đánh Jhar đến chỗ đánh chiêng (ghế kpan), từ chỗ đánh
chiêng nhảy đến chỗ đánh hgơr (trống cái)”. Hình ảnh này làm người nghe hình dung
ra những hành động nhẹ nhàng, nhanh nhẹn của Mtao Grư đi vào qua các vị trí đặt
chiêng, chỗ để của những vật dụng (như hưng, kpan, thứ tự từ gian ngoài đi vào gian
trong). Qua tình tiết của câu chuyện, người nghe đã hình dung đây là một nhà giàu có nhất trong buôn làng
Tại không gian lễ hội bỏ mả của người Êđê M’Dhur, về khuya, sau khi mọi nghi lễ
tạm dừng lại, thì nghệ nhân kể khan bắt đầu kể những bài khan nổi tiếng của dân tộc
mình cho mọi người nghe. Đây là hình thức sinh hoạt kể sử thi vô cùng độc đáo. Bên
đống lửa bập bùng tại không gian nhà mồ rộng lớn, nghệ nhân hát kể sử thi cho hàng
nghìn người nghe. Dân làng, già trẻ gái trai và khách gần xa ngồi im lặng say sưa lắng
nghe kể sử thi suốt đêm thâu cho đến khi con gà trống gáy vang núi rừng, báo hiệu
ông mặt trời đã thức giấc thì nghệ nhân hát kể sử thi mới dừng câu chuyện lại để
chuẩn bị cho các nghi lễ tiếp theo của lễ hội bỏ mả. Ở đây, lễ hội bỏ mả được tổ chức
bao nhiêu ngày đêm, thì những người đến dự lễ được nghe kể sử thi bấy nhiêu đêm.
Sử thi Ê đê, chính là một bức tranh rộng và hoàn chỉnh về đời sống nhân dân và về
những anh hùng, dũng sĩ đại diện cho cộng đồng. Người dân Ê đê hát kể sử thi như
một cách để bảo tồn và gìn giữ giá trị văn hóa lâu đời của dân tộc đồng thời tuyên
truyền nét đẹp này đến với nhiều đồng bào dân tộc khác.
Viết báo cáo nghiên cứu về sử thi Đăm Săn Dàn ý chi tiết a. Đặt vấn đề:
- Nêu rõ đề tài và vấn đề nghiên cứu.
b. Giải quyết vấn đề:
* Kiến trúc nhà ở của người Ê-đê trong đoạn trích "Đăm Săn đi bắt Nữ Thần Mặt Trời":
- Gắn liền với hình ảnh nhà sàn dài.
- Đặc trưng của nhà dài Tây Nguyên bao gồm: hình thức của thang, cột sàn và cách bố
trí vật dụng trên mặt bằng sinh hoạt.
*Sinh hoạt của người Ê-đê trong không gian nhà ở trong đoạn trích "Đăm Săn đi bắt Nữ Thần Mặt Trời".
- Không gian nhà dài chính là nơi cư trú của người dân Ê-đê.
- Tại đây diễn ra rất nhiều hoạt động gắn liền với văn hóa của người Ê-đê.
- Đồ vật trong nhà biểu thị sự giàu có, uy nghi, quyền lực. c. Kết luận
- Khẳng định kết quả nghiên cứu và ý nghĩa của vấn đề nghiên cứu. Bài làm tham khảo
Sử thi "Đăm Săn" là pho sử thi nổi tiếng của người Ê-đê. Đoạn trích "Đăm Săn đi bắt
Nữ Thần Mặt Trời" là một trong những trích đoạn tiêu biểu kể lại hành trình chinh
phục Nữ Thần Mặt Trời của người anh hùng Đăm Săn. Đồng thời, nó còn phản ánh
diện mạo đời sống tinh thần, niềm tin cộng đồng người Ê-đê. Thông qua đoạn trích,
không gian sinh hoạt của người Ê-đê được hiện lên rõ nét và trở thành một điểm nhấn
thú vị, đáng để khám phá.
Trước hết, kiến trúc nhà ở của người Ê-đê trong đoạn trích "Đăm Săn đi bắt Nữ Thần
Mặt Trời" gắn liền với hình ảnh nhà sàn dài. Nhà sàn dài là kiến trúc độc đáo và đặc
biệt của người Ê-đê ở Tây Nguyên. Đặc trưng của nhà dài Tây Nguyên bao gồm: hình
thức của thang, cột sàn và cách bố trí vật dụng trên mặt bằng sinh hoạt. Điều này được
miêu tả rất rõ trong đoạn trích ở các chi tiết: "Chồm lên hai lần, chàng leo hết cầu
thang. Chàng giậm chân trên sàn sân, hai lần sàn sân làm như vỗ cánh, bảy hàng cột
nhà chao qua chao lại từ đông sang tây", "cầu thang trông như cái cầu vồng", "tòa nhà
dài dằng dặc", "voi vây chặt sàn sân", "các xà ngang xà dọc đều thếp vàng". Hình ảnh
nhà sàn dài dằng dặc, cầu thang, xà ngang xuất hiện nhiều lần và được lặp đi lặp lại
cho thấy dấu ấn kiến trúc nhà ở đặc trưng của đồng bào người Ê-đê. Tuy kiến trúc nhà
ở không được miêu tả một cách tỉ mỉ nhưng những hình ảnh tiêu biểu như vậy cũng đủ
để làm đồng hiện nền văn hóa đặc sắc của vùng Tây Nguyên.
Không gian nhà dài chính là nơi cư trú của người dân Ê-đê. Tại đây diễn ra rất nhiều
hoạt động gắn liền với văn hóa của người Ê-đê như hội họp, ăn mừng, kể chuyện sử
thi, tổ chức nghi lễ thờ cúng thần linh,... Đoạn văn trong đoạn trích "Đăm Săn đi bắt
Nữ Thần Mặt Trời" đã miêu tả lại khung cảnh của người dân như sau: "tôi tớ trải dưới
một chiếu trắng, trải trên một chiếu đỏ làm chỗ ngồi cho nhà tù trưởng. Rồi họ đem
thuốc sợi cả hòm đồng, thuốc lá cả sọt đại, trầu vỏ cả gùi to, không còn sợ thiếu thuốc
thiếu trần cho Đăm Săn ăn, hút. Họ đốt một gà mái ấp, giết một gà mái đẻ, giã gạo
trắng như hoa êpang, sáng như ánh mặt trời, nấu cơm mời khách. Họ đi lấy rượu, đem
một ché tuk da lươn, một ché êbah Mnông, trên vẽ hoa kơ-ụ, dưới lượn hoa văn, tai
ché hình mỏ vẹt xâu lỗ. Đó là những cái ché ngã giá phải ba voi. Ai đi lấy nước cứ đi
lấy nước, ai đánh chiêng cứ đánh chiêng, ai cắm cần cứ cắm cần. Cần cắm rồi, người
ta mời Đăm Săn vào uống.". Các vật dụng xuất hiện trong đoạn văn như: ché tuk, ché
êbah, là những đồ vật được làm bằng gốm với hình hoa văn đa dạng, được xem là
những đồ vật quý của người Ê-đê. Nó biểu thị cho sự sung túc, giàu có, phải "ngã giá
bằng ba voi" mới có được.
Hơn nữa, đoạn văn còn làm nổi bật được hoạt động và tính cách của người dân Ê-đê.
Để thiết đãi vị tù trưởng Đăm Săn - vị khách quý của buôn làng, người dân nô nức thi
nhau mang ra những món ăn ngon nhất, những loại thuốc quý nhất để thiết đãi: thuốc
sợi, thuốc lá, trầu vỏ, gà mái ấp, gà mái đẻ, gạo trắng. Người Ê-đê hiện lên với nét tính
cách xởi lởi, hào phóng, nồng hậu. Những hoạt động thiết đãi tù trưởng Đăm Săn cũng
chính là những hoạt động của dân làng khi tiếp đón những vị khách quý từ phương xa.
Bên cạnh đó, chi tiết "chiêng xếp đầy nhà ngoài", "cồng chất đầy nhà trong" và "ai
đánh chiêng cứ đánh chiêng, ai cắm cần cứ cắm cần" đã phản ánh phong tục đánh
cồng chiêng và uống rượu cần của người dân vùng Tây Nguyên. Cồng chiêng không
chỉ là nhạc cụ mà nó còn chứa đựng giá trị văn hóa của cộng đồng người Ê-đê. Chính
vì vậy, chi tiết Đăm Săn đến nhà Nữ Thần Mặt Trời thấy hình ảnh "chiêng xếp đầy
nhà ngoài, cồng xếp đầy nhà trong" biểu thị cho sự quyền lực và giàu có. Người Ê-đê
tin rằng: mỗi một chiếc cồng đều ẩn chứa một vị thần cho nên càng nhiều cồng, cồng
càng cổ thì quyền lực của vị thần càng cao. Ngoài ra, tục uống rượu cần cũng là một
nét đẹp văn hóa trong đời sống của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên. Rượu cần trong
đoạn trích chính là phương tiện để gắn kết tình cảm giữa người tù trưởng Đăm Săn và
Đăm Par Kvây. Rượu không chỉ đóng vai trò trong các buổi thực hành nghi lễ để cầu
xin đấng thần linh mà nó còn thể hiện đầy đủ tinh thần tập thể của cộng đồng, lòng
mến khách của chủ nhà. Có thể nói, những vật dụng trong căn nhà của người Ê-đê
không chỉ gắn liền với hoạt động sống mà còn phản ánh được tính cách, sự giàu có,
phồn vinh của cả một cộng đồng.
Đoạn trích "Đăm Săn đi bắt Nữ Thần Mặt Trời" là đoạn trích quan trọng của sử thi
"Đăm Săn". Đoạn trích không chỉ khắc họa vẻ đẹp phi thường, khát vọng mãnh liệt
của người anh hùng Đăm Săn mà qua đó, chúng ta còn thấy được những nét đẹp văn
hóa, đặc biệt là không gian sinh hoạt của người Ê-đê ở Tây Nguyên. Sử thi "Đăm Săn"
cho thấy kiến trúc nhà dài, vật dụng gắn liền với sinh hoạt và lối sống, tính cách của
đồng bào người Ê-đê. Các giá trị vật chất, tinh thần của người Ê-đê trong thời đại mới
cần phải được bảo tồn và phát huy hơn nữa.