Văn mẫu lớp 6: Phân tích tác phẩm Chuyện cổ tích về loài người | Kết nối tri thức

Chuyện cổ tích về loài người của Xuân Quỳnh là bài thơ sẽ được giới thiệu trong chương trình Ngữ Văn lớp 6. Chúng tôi muốn giới thiệu Bài văn mẫu lớp 6: Phân tích tác phẩm Chuyện cổ tích về loài người, bao gồm dàn ý và 6 bài văn mẫu. Hãy cùng theo dõi nội dung chi tiết ngay dưới đây.

Phân tích tác phẩm Chuyện cổ tích về loài người
Dàn ý phân tích Chuyện cổ tích về loài người
I. Mở bài
- Giới thiệu khái quát về nhà thơ Xuân Quỳnh, tác phẩm Chuyện cổ tích về loài
người.%
- Khái quát giá trị nội dung nghệ thuật của bài thơ Chuyện cổ tích về loài
người.%
II. Thân bài
1. Sự ra đời của loài người
- Sinh ra trước nhất: toàn là trẻ con
- Khung cảnh thuở sơ khai:
Không dáng cây ngọn cỏ.
Chưa có mặt trời, toàn là bóng đêm.
Không có màu sắc khác.
2. Sự ra đời của thiên nhiên
Mặt trời: giúp trẻ con nhìn rõ.
Cây, cỏ, hoa: giúp trẻ con nhận rõ màu sắc, kích thước.
Tiếng chim, làn gió: giúp trẻ con cảm nhận được âm thanh.
Sông: giúp trẻ con có nước để tắm
Biển: giúp trẻ con suy nghĩ, cung cấp thực phẩm nơi tìm hiểu, khám
phá.
Đám mây: đem đến bóng mát.
Con đường: giúp trẻ con tập đi.
=> Thiên nhiên không chỉ nơi sinh sống, những sự vật trong thiên nhiên
sẽ phục vụ cho cuộc sống của con người.
3. Sự ra đời của gia đình
Mẹ: mang đến tình yêu thương và lời ru, sự chăm sóc.
Bà: mang đến những câu chuyện cổ tích, dạy dỗ những giá trị văn hóa tốt
đẹp.
Bố: dạy dỗ những kiến thức, giúp trẻ em hiểu biết.
=> Gia đình là nơi luôn che chở và yêu thương cho con người.
4. Sự ra đời của xã hội
Chữ viết, bàn ghế, cục phấn, cái bảng, trường học… đều những đồ dùng
học tập của con người.
Thầy giáo, cô giáo là người dạy dỗ, cung cấp kiến thức.
=> Giáo dục có vai trò quan trọng đối với con người.
III. Kết bài
Khái quát giá trị nội dung nghệ thuật của bài thơ Chuyện cổ ch của loài
người.
Phân tích tác phẩm Chuyện cổ tích về loài người - Mẫu 1
Xuân Quỳnh một nhà thơ ờng viết về những tình cảm gần gũi, bình dị,
trong sáng của đời sống gia đình cuộc sống hàng ngày. Một trong những tác
phẩm tiêu biểu của chị là bài thơ “Chuyện cổ tích về loài người”.%
Để giải về nguồn gốc của loài người cho trẻ em thật khóa. Nhưng Xuân
Quỳnh lại cách giải thích đầy khéo léo, hài hước.khổ thơ đầu, nhà thơ
đã lí giải sự ra đời của loài người:%
“Trời sinh ra trước nhất
Chỉ toàn là trẻ con
Trên trái đất trụi trần
Không dáng cây ngọn cỏ
Mặt trời cũng chưa có
Chỉ toàn là bóng đêm
Không khí chỉ màu đen
Chưa có màu sắc khác”
Trái đất lúc này vẫn còn trần trụi, không có dáng cây hay ngọn cỏ. Ngay đến cả
mặt trời để sưởi ấm muôn loài cũng chưa xuất hiện. Trái đất chỉ toàn một màu
đen, không hề bất cứ một sắc màu khác. mọi vật sinh ra trên đời đều
trẻ em. Đôi mắt của trẻ em rất sáng nhưng chưa thể nhìn thấy gì, vì vậy mặt trời
xuất hiện cho trẻ con nhìn rõ. Màu xanh của cây cỏ, màu đỏ bông hoa giúp trẻ
con nhận biết màu sắc. Cây cối, cỏ đã% giúp trẻ con cảm nhận về kích thước.
Còn tiếng chim hót, tiếng gió thổi cho trẻ con cảm nhận âm thanh. Dòng sông ra
đời giúp trẻ con nước để tắm. Biển xuất hiện để trẻ con suy nghĩ, cung cấp
thực phẩm nơi tìm hiểu, khám phá. Khi trẻ con bắt đầu chập chững những
bước đi đầu tiên, cũng là lúc con đường xuất hiện.%
Nhưng trẻ con vẫn còn cần tình yêu thương, thế người mẹ đã xuất
hiện:%
“Nhưng còn cần cho trẻ
Tình yêu và lời ru
Cho nên mẹ sinh ra
Để bế bồng chăm sóc
Mẹ mang về tiếng hát
Từ cái bống cái bang
Từ cái hoa rất thơm
Từ cánh cò rất trắng
Từ vị gừng rất đắng
Từ vết lấm chưa khô
Từ đầu nguồn cơn mưa
Từ bãi sông cát vắng…”
Đoạn thơ được mở đầu với sự mặt của người mẹ trong thế giới. do mẹ
mặt trên đời thật đơn giản nhưng cùng ý nghĩa. Trẻ con cần bàn tay dịu
dàng chăm sóc, lời hát ru ngọt ngào của người mẹ. Bởi vậy mẹ xuất hiện để
đem đến tình yêu thương bao la. Những câu thơ được mở đầu bằng chữ “từ”%
nhằm khẳng định nguồn gốc ra đời của lời ru. Lời ru được sinh ra từ những thứ
thật giản dị, dễ tìm dễ thấy. Từ cái bống, cái bang, từ bông hoa rất thơm, từ
vị gừng rất đắng, t vết lấm chưa khô, t đầu nguồn cơn mưa, từ bãi sông cát
vắng...”. Tất cả những điều đó đều ở xung quanh trẻ em, gần gũi và quen thuộc.
Trong lời ru đó đã gửi gắm âm thanh, mùi vị, hương sắc, hình dáng... của thiên
nhiên để con trẻ cảm nhận. Lời ru cũng như tình yêu của mẹ đều nhiều sắc
thái, cung bậc khác nhau, tự nhiên như trời đất vốn có. Tình yêu của mẹ cũng
lớn lao, mênh mông như thế và được gửi gắm vào trong những lời hát ru.%
Tiếp đến, Xuân Quỳnh đã giải sự xuất hiện của bà. chính người đem
đến cho trẻ con:%
“Biết trẻ con khao khát
Chuyện ngày xưa, ngày sau
Không hiểu là từ đâu
Mà bà về ở đó
Kể cho bao chuyện cổ
Chuyện con cóc, nàng tiên
Chuyện cô Tấm ở hiền
Thằng Lý Thông ở ác…
Mái tóc bà thì bạc
Con mắt bà thì vui
Bà kể đến suốt đời
Cũng không sao hết chuyện”
Chắc hẳn tuổi thơ của mỗi người đều sẽ in đậm hình ảnh người bà nhân hậu với
những truyện cổ ch quen thuộc như: con cóc, nàng tiên; chuyện Tấm
hiền; thằng Thông ác… Qua những câu chuyện đó, điều muốn gửi
gắm đó chính cội nguồn văn hóa của dân tộc, hướng đến cách sống hiền
lành, lương thiện.
Có mẹ đem đến tình thương, có dạy dỗ đạo đức, trẻ em còn cầnbố. Bố đã
dạy cho trẻ em những hiểu biết của loài người. Nhờ “bố bảo”, “bố dạy” trẻ
em biết ngoan”, “biết nghĩ”. Con người mở rộng tầm hiểu biết, ngày một
khám phá mọi sự vật, mọi hiện tượng xung quanh:
“Rộng lắm là mặt bể
Dài là con đường đi
Núi thì xanh và xa
Hình tròn là trái đất”
Khi cuộc sống ngày càng phát triển, con người được học hành. Trường học
được mở ra để dạy trẻ em học,% thầy giáo chính người cung cấp kiến thức,
dạy dỗ trẻ em nên người.% Lớp, trường, bàn, ghế, cái bảng, cục phấn, chữ viết,
ông thầy.. những biểu tượng thể hiện sự thay đổi kỳ diệu cuộc sống loài
người trên trái đất ngày một văn minh. Dưới ánh sáng mặt trời, loài người được
sống trong ánh sáng của khoa học, của giáo dục, ánh sáng của văn minh:
“Chữ bắt đầu có trước
Rồi có ghế có bàn
Rồi có lớp có trường
Và sinh ra thầy giáo”
Như vậy, bài thơ “Chuyện cổ tích về loài người” đã đem đến một cách giải
độc đáo về nguồn gốc của loài người. Qua đó, Xuân Quỳnh muốn bộc lộ lòng
yêu thương trẻ em sâu sắc.%
Phân tích tác phẩm Chuyện cổ tích về loài người - Mẫu 2
“Chuyện cổ tích về loài người” một trong những bài thơ hay của Xuân
Quỳnh. Với bài thơ này, Xuân Quỳnh đã lí giải cho người đọc về nguồn gốc của
loài người một cách độc đáo mà thú vị.%
“Trời sinh ra trước nhất
Chỉ toàn là trẻ con
Trên trái đất trụi trần
Không dáng cây ngọn cỏ
Mặt trời cũng chưa có
Chỉ toàn là bóng đêm
Không khí chỉ màu đen
Chưa có màu sắc khác”
Khi trái đất vẫn còn trần trụi, không một dáng cây hay ngọn cỏ. Ánh sáng
của mặt trời cũng chưa xuất hiện, chỉ toàn bóng đêm. Trời đã sinh ra trẻ em
đầu tiên - đây chính cách giải nguồn gốc phần trái ngược với thực tế,
nhưng được xuất phát từ tình yêu thương sâu sắc của nhà thơ dành cho con trẻ.%
Mọi vật trên trái đất xuất hiện đều trẻ em. Đôi mắt của trẻ em rất sáng nhưng
chưa thể nhìn thấy gì, vậy mặt trời xuất hiện cho trẻ con nhìn rõ. Để giúp trẻ
con nhận biết màu sắc thì cây mới màu xanh, hoa mớimàu đỏ. Không chỉ
màu sắc còn âm thanh được trẻ con cảm nhận khi loài chim được sinh ra
với tiếng hót. Dòng sông, biển cả, đám mây, con đường ra đời cũng để phục
vụ cuộc sống của trẻ con. Mọi sự vật của tự nhiên đều được ra đời nhờ trẻ
em.%
Tiếp đến, Xuân Quỳnh giải nguồn gốc ra đời của gia đình, đầu tiên là sự xuất
hiện của mẹ:%
“Nhưng còn cần cho trẻ
Tình yêu và lời ru
Cho nên mẹ sinh ra
Để bế bồng chăm sóc
Mẹ mang về tiếng hát
Từ cái bống cái bang
Từ cái hoa rất thơm
Từ cánh cò rất trắng
Từ vị gừng rất đắng
Từ vết lấm chưa khô
Từ đầu nguồn cơn mưa
Từ bãi sông cát vắng…”
Đoạn thơ được mở đầu với sự mặt của người mẹ trong thế giới. do mẹ
mặt trên đời thật đơn giản nhưng cùng ý nghĩa. Trẻ con cần bàn tay dịu
dàng chăm sóc, lời hát ru ngọt ngào của người mẹ. Bởi vậy mẹ xuất hiện để
đem đến tình yêu thương bao la. Những câu thơ được mở đầu bằng chữ “từ”%
nhằm khẳng định nguồn gốc ra đời của lời ru. Lời ru được sinh ra từ những thứ
thật giản dị, dễ tìm dễ thấy. Từ cái bống, cái bang, từ bông hoa rất thơm, từ
vị gừng rất đắng, t vết lấm chưa khô, t đầu nguồn cơn mưa, từ bãi sông cát
vắng...”. Tất cả những điều đó đều ở xung quanh trẻ em, gần gũi và quen thuộc.
Trong lời ru đó đã gửi gắm âm thanh, mùi vị, hương sắc, hình dáng... của thiên
nhiên để con trẻ cảm nhận. Lời ru cũng như tình yêu của mẹ đều nhiều sắc
thái, cung bậc khác nhau, tự nhiên như trời đất vốn có. Tình yêu của mẹ cũng
lớn lao, mênh mông như thế và được gửi gắm vào trong những lời hát ru.%
Sau đó, người đã đến với thế giới để giúp trẻ con hiểu hơn về những nét đẹp
của đất nước, văn hóa:%
“Biết trẻ con khao khát
Chuyện ngày xưa, ngày sau
Không hiểu là từ đâu
Mà bà về ở đó
Kể cho bao chuyện cổ
Chuyện con cóc, nàng tiên
Chuyện cô Tấm ở hiền
Thằng Lý Thông ở ác…
Mái tóc bà thì bạc
Con mắt bà thì vui
Bà kể đến suốt đời
Cũng không sao hết chuyện”
Chắc hẳn tuổi thơ của mỗi người đều sẽ in đậm hình ảnh người bà nhân hậu với
những truyện cổ ch quen thuộc như: con cóc, nàng tiên; chuyện Tấm
hiền; thằng Thông ác… Qua những câu chuyện đó, điều muốn gửi
gắm đó chính cội nguồn văn hóa của dân tộc, hướng đến cách sống hiền
lành, lương thiện.
Nhưng trẻ con cũng cần phải có hiểu biết, bởi vậy mà người bố đã ra đời:
“Muốn cho trẻ hiểu biết
Thế là bố sinh ra
Bố bảo cho biết ngoan
Bố dạy cho biết nghĩ
Rộng lắm là mặt bể
Dài là con đường đi
Núi thì xanh và xa
Hình tròn là trái đất…”
Nhờ “bố bảo”, “bố dạy” trẻ em biết ngoan”, “biết nghĩ”. Con người mở
rộng tầm hiểu biết, ngày một khám phá mọi sự vật, mọi hiện tượng xung quanh.
Không chỉ vậy, khi cuộc sống ngày càng phát triển, trường học đã ra đời. Đó
chính biểu hiện của một hội văn minh. Lớp, trường, bàn, ghế, cái bảng,
cục phấn, chữ viết, ông thầy.. những biểu tượng thể hiện sự thay đổi kỳ diệu
cuộc sống loài người trên trái đất ngày một văn minh.%
Với% “Chuyện cổ tích về loài người”, Xuân Quỳnh đã bộc lộ tình yêu thương
sâu sắc dành cho trẻ em. Đồng thời gửi gắm thông điệp rằng hãy chăm sóc
nâng niu trẻ em.
Phân tích tác phẩm Chuyện cổ tích về loài người - Mẫu 5
Xuân Quỳnh một nhà thơ nhiều sáng tác viết cho thiếu nhi. Một trong số
đó phải kể đến “Chuyện cổ tích về loài người”. Bài thơ đã giải về nguồn
gốc của loài người một cách rất thú vị:%
“Trời sinh ra trước nhất
Chỉ toàn là trẻ con
Trên trái đất trụi trần
Không dáng cây ngọn cỏ
Mặt trời cũng chưa có
Chỉ toàn là bóng đêm
Không khí chỉ màu đen
Chưa có màu sắc khác”
“Chuyện cổ tích về loài người” được viết theo hình thức một bài thơ, nhưng lại
giàu tính tự sự, giống như một câu chuyện được kể lại về nguồn gốc loài người.
Đó khi trái đất vẫn còn trần trụi, không một dáng cây hay ngọn cỏ. Ánh
sáng của mặt trời cũng chưa xuất hiện, chỉ toàn bóng đêm. Không khí duy
nhất một màu đen, những màu sắc khác chưa xuất hiện. Trời đã sinh ra trẻ em
đầu tiên - đây chính cách giải nguồn gốc phần trái ngược với thực tế.
Nhưng qua việc giải này, người đọc thấy được sự quan tâm, cũng như tình
yêu thương dành cho trẻ con của Xuân Quỳnh.%
“Mắt trẻ con sáng lắm
Nhưng chưa thấy gì đâu!
Mặt trời mới nhô cao
Cho trẻ con nhìn rõ
Màu xanh bắt đầu cỏ
Màu xanh bắt đầu cây
Cây cao bằng gang tay…”
Và rồi, mọi vật xuất hiện để đáp ứng những nhu cầu của trẻ con. Đôi mắt của trẻ
con rất sáng nhưng chưa thấy gì. Bởi vậy, mặt trời đã nhô cao, chiếu sáng vạn
bật để thể giúp trẻ con nhìn rõ. Cây, cỏ ra đời giúp trẻ con thể phân biệt
được màu sắc. Chim chóc ra đời giúp trẻ con cảm nhận được âm thanh. Dòng
sông, đám mây, biển cả giúp trẻ con biết cảm nhận về giá trị cuộc sống. Còn
con đường xuất hiện là giúp trẻ con tập đi…%
Không chỉ vậy, trẻ em cũng cần tình yêu thương. Bởi vậy những người
thân như bà, mẹ, bố đã xuất hiện:%
%
“Nhưng còn cần cho trẻ
Tình yêu và lời ru
Cho nên mẹ sinh ra
Để bế bồng chăm sóc
Mẹ mang về tiếng hát
Từ cái bống cái bang
Từ cái hoa rất thơm
Từ cánh cò rất trắng
Từ vị gừng rất đắng
Từ vết lấm chưa khô
Từ đầu nguồn cơn mưa
Từ bãi sông cát vắng…”
Trước tiên mẹ, đó người quan trọng nhất đối với trẻ con. Mẹ đã nuôi lớn,
chăm sóc dạy dỗ trẻ con. Lời hát ru ngọt ngào của mẹ đưa trẻ con vào giấc
ngủ bình yên. Bàn tay mẹ bồng trẻ con, nâng niu với tình yêu thương bờ.
Trong lời ru đó của mẹ gửi gắm âm thanh, mùi vị, hương sắc, hình dáng của
cuộc sống. Tình yêu của mẹ bao la, lớn lao đến vô cùng.%
Tiếp đến, trẻ con cũng khao khát được nghe những câu chuyện ngày xửa ngày
xưa. Vậy là người bà đã xuất hiện:%
“Biết trẻ con khao khát
Chuyện ngày xưa, ngày sau
Không hiểu là từ đâu
Mà bà về ở đó
Kể cho bao chuyện cổ
Chuyện con cóc, nàng tiên
Chuyện cô Tấm ở hiền
Thằng Lý Thông ở ác…
Mái tóc bà thì bạc
Con mắt bà thì vui
Bà kể đến suốt đời
Cũng không sao hết chuyện”
Những câu chuyện bà kể giúp trẻ con biết hiểu thêm về truyền thống tốt đẹp của
dân tộc. Những truyện cổ ch về con cóc, nàng tiên; chuyện Tấm hiền;
thằng Thông ác… qua giọng kể của trở nên hấp dẫn, sinh động hơn.
Không chỉ vậy, còn gửi gắm cả bài học quý giá về nét đẹp của cội nguồn
văn hóa của dân tộc, hướng trẻ con đến lối sống tốt đẹp hơn.%
Muốn cho trẻ hiểu biết
Thế là bố sinh ra
Bố bảo cho biết ngoan
Bố dạy cho biết nghĩ
Rộng lắm là mặt bể
Dài là con đường đi
Núi thì xanh và xa
Hình tròn là trái đất…”
Trong quá trình trưởng thành, trẻ con sẽ không ngừng học hỏi, khám phá. Bởi
vậy mà người bố đã xuất hiện để dạy cho trẻ con nhiều kiến thức thú vị. Bố dạy
cho trẻ con “biết ngoan, biết nghĩ” - uốn nắn để trẻ con nên người. Bố còn
kho tàng tri thức, giải đáp cho trẻ con mọi thắc mắc về cuộc sống.%
vậy, bố cũng không thể mãi đồng hành cùng trẻ con, vậy trường học ra
đời:%
“Chữ bắt đầu có trước
Rồi có ghế có bàn
Rồi có lớp có trường
Và sinh ra thầy giáo…
Cái bảng bằng cái chiếu
Cục phấn từ đá ra
Thầy viết chữ thật to
“Chuyện loài người” trước nhất”
Chữ xuất hiện để lưu lại kiến thức. Rồi có trường học xuất hiện, ở đó có thầy cô
những người truyền đạt tri thức cho trẻ em. Từ đó, trẻ con biết thêm nhiều
kiến thức hơn. thể nói rằng, sự ra đời của trường học chính biểu hiện về
một cuộc sống văn minh của con người.
Như vậy, với “Chuyện cổ tích về loài người”, Xuân Quỳnh đã giải về sự ra
đời của mọi vật một cách độc đáo, đồng thời đã bộc lộ tình yêu thương sâu sắc
của nhà thơ dành cho trẻ con.
Phân tích tác phẩm Chuyện cổ tích về loài người - Mẫu 6
Xuân Quỳnh một nữ thi nổi tiếng trong nền văn học Việt Nam. Chị
nhiều tác phẩm viết cho thiếu nhi, trong đó bài thơ Chuyện cổ tích về loài
người.%
Tác phẩm được viết theo hình thức một bài thơ, nhưng lại giàu tính tự sự. Bài
thơ đã giải nguồn gốc ra đời của vạn vật trên Trái Đất với một góc nhìn độc
đáo, mới mẻ:%
“Trời sinh ra trước nhất
Chỉ toàn là trẻ con
Trên trái đất trụi trần
Không dáng cây ngọn cỏ
Mặt trời cũng chưa có
Chỉ toàn là bóng đêm
Không khí chỉ màu đen
Chưa có màu sắc khác”
Khi trái đất vẫn còn trần trụi, không một dáng cây hay ngọn cỏ. Ánh sáng
của mặt trời cũng chưa xuất hiện, chỉ toàn bóng đêm. Không khí duy nhất
một màu đen, những màu sắc khác chưa xuất hiện. Trẻ em đã được sinh ra đầu
tiên, điều đó cho thấy được tình yêu thương của tác giả dành cho đối tượng này.
những câu thơ tiếp theo, tác giả tiếp tục giải sự ra đời của vạn vật, đều xuất
phát từ nhu cầu của trẻ em:%
“Mắt trẻ con sáng lắm
Nhưng chưa thấy gì đâu!
Mặt trời mới nhô cao
Cho trẻ con nhìn rõ
Màu xanh bắt đầu cỏ
Màu xanh bắt đầu cây
Cây cao bằng gang tay…”
Đôi mắt của trẻ con sáng lắm, nhưng vẫn chưa thể thấy gì. Mặt trời đã nhô cao
để thể giúp trẻ con nhìn rõ. Cây, cỏ ra đời giúp trẻ con thể phân biệt được
màu sắc. Chim chóc ra đời giúp trẻ con cảm nhận được âm thanh. Dòng sông,
đám mây, biển cả giúp trẻ con biết cảm nhận về giá trị cuộc sống. thể thấy
rằng, nhờ trẻ em, Trái Đất trở nên đầy màu sắc, thiên nhiên trở nên tươi đẹp
hơn.%
Trẻ em còn cần tình yêu thương, được dạy dỗ kiến thức nên người thân yêu như
mẹ, bố và bà đã xuất hiện:%%
%
“Nhưng còn cần cho trẻ
Tình yêu và lời ru
Cho nên mẹ sinh ra
Để bế bồng chăm sóc
Mẹ mang về tiếng hát
Từ cái bống cái bang
Từ cái hoa rất thơm
Từ cánh cò rất trắng
Từ vị gừng rất đắng
Từ vết lấm chưa khô
Từ đầu nguồn cơn mưa
Từ bãi sông cát vắng…”
Mẹ người quan trọng nhất. Mẹ đã nuôi lớn, chăm sóc dạy dỗ trẻ con. Lời
ru của mẹ khiến trẻ em cảm nhận được cuộc sống. Tình yêu của mẹ bắt nguồn
từ những điều giản dị, thân thuộc nhưng rất đỗi đẹp đẽ.%
Người xuất hiện để kể cho trẻ em nghe về những câu chuyện xa xưa, từ
chuyện Tấm hiền lành đến thằng Thông độc ác. Qua mỗi câu chuyện, trẻ
em học được điều tốt đẹp, bài học trong cuộc sống:%
“Biết trẻ con khao khát
Chuyện ngày xưa, ngày sau
Không hiểu là từ đâu
Mà bà về ở đó
Kể cho bao chuyện cổ
Chuyện con cóc, nàng tiên
Chuyện cô Tấm ở hiền
Thằng Lý Thông ở ác…
Mái tóc bà thì bạc
Con mắt bà thì vui
Bà kể đến suốt đời
Cũng không sao hết chuyện”
%Nhưng trẻ em cũng sẽ lớn lên, trưởng thành cần phải hiểu biết. Bố đã xuất
hiện để dạy dỗ những điều đó. Bố uốn nắn tính cách, dạy trẻ em nên người. Bố
còn là nơi để trẻ em được giải đáp thắc mắc về thế giới ngoài kia:%
Muốn cho trẻ hiểu biết
Thế là bố sinh ra
Bố bảo cho biết ngoan
Bố dạy cho biết nghĩ
Rộng lắm là mặt bể
Dài là con đường đi
Núi thì xanh và xa
Hình tròn là trái đất…”
Những dẫu vậy, bố cũng không thể mãi đồng hành cùng trẻ con, vậy trường
học ra đời để dạy cho trẻ em kiến thức, kĩ năng:%
“Chữ bắt đầu có trước
Rồi có ghế có bàn
Rồi có lớp có trường
Và sinh ra thầy giáo…
Cái bảng bằng cái chiếu
Cục phấn từ đá ra
Thầy viết chữ thật to
“Chuyện loài người” trước nhất”
Chữ viết trước, đến trường học với bàn ghế, rồi thầy xuất hiện. Họ chính
người đã truyền đạt kiến thức cho tr em, dạy dỗ trẻ em nên người. Với thể
thơ năm chữ, kết hợp sử dụng nhiều hình ảnh gần gũi, cũng như các biện pháp
tu từ, bài thơ “Chuyện cổ tích về loài người” đã lí giải nguồn gốc ra đời của vạn
vật con người thật lí vị, từ đó cũng cho thấy tình yêu mến trẻ em của nhà thơ
Xuân Quỳnh.%
Tóm lại, Xuân Quỳnh đã lí giải về sự ra đời của mọi vật một cách độc đáo, đồng
thời đã bộc lộ tình yêu thương sâu sắc của nhà thơ dành cho trẻ con qua bài thơ
“Chuyện cổ tích về loài người”.
| 1/15

Preview text:

Phân tích tác phẩm Chuyện cổ tích về loài người
Dàn ý phân tích Chuyện cổ tích về loài người I. Mở bài
- Giới thiệu khái quát về nhà thơ Xuân Quỳnh, tác phẩm Chuyện cổ tích về loài người.
- Khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ Chuyện cổ tích về loài người. II. Thân bài
1. Sự ra đời của loài người
- Sinh ra trước nhất: toàn là trẻ con
- Khung cảnh thuở sơ khai:  Không dáng cây ngọn cỏ. 
Chưa có mặt trời, toàn là bóng đêm.  Không có màu sắc khác.
2. Sự ra đời của thiên nhiên
Mặt trời: giúp trẻ con nhìn rõ. 
Cây, cỏ, hoa: giúp trẻ con nhận rõ màu sắc, kích thước. 
Tiếng chim, làn gió: giúp trẻ con cảm nhận được âm thanh. 
Sông: giúp trẻ con có nước để tắm 
Biển: giúp trẻ con suy nghĩ, cung cấp thực phẩm và là nơi tìm hiểu, khám phá. 
Đám mây: đem đến bóng mát. 
Con đường: giúp trẻ con tập đi.
=> Thiên nhiên không chỉ là nơi sinh sống, mà những sự vật trong thiên nhiên
sẽ phục vụ cho cuộc sống của con người.
3. Sự ra đời của gia đình
Mẹ: mang đến tình yêu thương và lời ru, sự chăm sóc. 
Bà: mang đến những câu chuyện cổ tích, dạy dỗ những giá trị văn hóa tốt đẹp. 
Bố: dạy dỗ những kiến thức, giúp trẻ em hiểu biết.
=> Gia đình là nơi luôn che chở và yêu thương cho con người.
4. Sự ra đời của xã hội
Chữ viết, bàn ghế, cục phấn, cái bảng, trường học… đều là những đồ dùng
học tập của con người. 
Thầy giáo, cô giáo là người dạy dỗ, cung cấp kiến thức.
=> Giáo dục có vai trò quan trọng đối với con người. III. Kết bài
Khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ Chuyện cổ tích của loài người.
Phân tích tác phẩm Chuyện cổ tích về loài người - Mẫu 1
Xuân Quỳnh là một nhà thơ hường viết về những tình cảm gần gũi, bình dị,
trong sáng của đời sống gia đình và cuộc sống hàng ngày. Một trong những tác
phẩm tiêu biểu của chị là bài thơ “Chuyện cổ tích về loài người”.
Để lý giải về nguồn gốc của loài người cho trẻ em thật khóa. Nhưng Xuân
Quỳnh lại có cách giải thích đầy khéo léo, mà hài hước. Ở khổ thơ đầu, nhà thơ
đã lí giải sự ra đời của loài người:
“Trời sinh ra trước nhất
Chỉ toàn là trẻ con
Trên trái đất trụi trần
Không dáng cây ngọn cỏ
Mặt trời cũng chưa có
Chỉ toàn là bóng đêm
Không khí chỉ màu đen
Chưa có màu sắc khác”
Trái đất lúc này vẫn còn trần trụi, không có dáng cây hay ngọn cỏ. Ngay đến cả
mặt trời để sưởi ấm muôn loài cũng chưa xuất hiện. Trái đất chỉ toàn một màu
đen, không hề có bất cứ một sắc màu khác. Và mọi vật sinh ra trên đời đều vì
trẻ em. Đôi mắt của trẻ em rất sáng nhưng chưa thể nhìn thấy gì, vì vậy mặt trời
xuất hiện cho trẻ con nhìn rõ. Màu xanh của cây cỏ, màu đỏ bông hoa giúp trẻ
con nhận biết màu sắc. Cây cối, lá cỏ đã giúp trẻ con cảm nhận về kích thước.
Còn tiếng chim hót, tiếng gió thổi cho trẻ con cảm nhận âm thanh. Dòng sông ra
đời giúp trẻ con có nước để tắm. Biển xuất hiện để trẻ con suy nghĩ, cung cấp
thực phẩm và là nơi tìm hiểu, khám phá. Khi trẻ con bắt đầu chập chững những
bước đi đầu tiên, cũng là lúc con đường xuất hiện.
Nhưng trẻ con vẫn còn cần có tình yêu thương, vì thế mà người mẹ đã xuất hiện:
“Nhưng còn cần cho trẻ Tình yêu và lời ru Cho nên mẹ sinh ra
Để bế bồng chăm sóc
Mẹ mang về tiếng hát
Từ cái bống cái bang
Từ cái hoa rất thơm
Từ cánh cò rất trắng
Từ vị gừng rất đắng
Từ vết lấm chưa khô
Từ đầu nguồn cơn mưa
Từ bãi sông cát vắng…”
Đoạn thơ được mở đầu với sự có mặt của người mẹ trong thế giới. Lý do mẹ có
mặt trên đời thật đơn giản nhưng vô cùng ý nghĩa. Trẻ con cần có bàn tay dịu
dàng chăm sóc, lời hát ru ngọt ngào của người mẹ. Bởi vậy mà mẹ xuất hiện để
đem đến tình yêu thương bao la. Những câu thơ được mở đầu bằng chữ “từ”
nhằm khẳng định nguồn gốc ra đời của lời ru. Lời ru được sinh ra từ những thứ
thật giản dị, dễ tìm và dễ thấy. Từ cái bống, cái bang, từ bông hoa rất thơm, từ
vị gừng rất đắng, từ vết lấm chưa khô, từ đầu nguồn cơn mưa, từ bãi sông cát
vắng...”. Tất cả những điều đó đều ở xung quanh trẻ em, gần gũi và quen thuộc.
Trong lời ru đó đã gửi gắm âm thanh, mùi vị, hương sắc, hình dáng... của thiên
nhiên để con trẻ cảm nhận. Lời ru cũng như tình yêu của mẹ đều có nhiều sắc
thái, cung bậc khác nhau, tự nhiên như trời đất vốn có. Tình yêu của mẹ cũng
lớn lao, mênh mông như thế và được gửi gắm vào trong những lời hát ru.
Tiếp đến, Xuân Quỳnh đã lý giải sự xuất hiện của bà. Bà chính là người đem đến cho trẻ con:
“Biết trẻ con khao khát
Chuyện ngày xưa, ngày sau
Không hiểu là từ đâu Mà bà về ở đó
Kể cho bao chuyện cổ
Chuyện con cóc, nàng tiên
Chuyện cô Tấm ở hiền
Thằng Lý Thông ở ác…
Mái tóc bà thì bạc Con mắt bà thì vui
Bà kể đến suốt đời
Cũng không sao hết chuyện”
Chắc hẳn tuổi thơ của mỗi người đều sẽ in đậm hình ảnh người bà nhân hậu với
những truyện cổ tích quen thuộc như: con cóc, nàng tiên; chuyện cô Tấm ở
hiền; thằng Lý Thông ở ác… Qua những câu chuyện đó, điều mà bà muốn gửi
gắm đó chính là cội nguồn và văn hóa của dân tộc, hướng đến cách sống hiền lành, lương thiện.
Có mẹ đem đến tình thương, có bà dạy dỗ đạo đức, trẻ em còn cần có bố. Bố đã
dạy cho trẻ em những hiểu biết của loài người. Nhờ “bố bảo”, “bố dạy” mà trẻ
em “ biết ngoan”, “biết nghĩ”. Con người mở rộng tầm hiểu biết, ngày một
khám phá mọi sự vật, mọi hiện tượng xung quanh:
“Rộng lắm là mặt bể
Dài là con đường đi Núi thì xanh và xa
Hình tròn là trái đất”
Khi cuộc sống ngày càng phát triển, con người được học hành. Trường học
được mở ra để dạy trẻ em học, thầy cô giáo chính là người cung cấp kiến thức,
dạy dỗ trẻ em nên người. Lớp, trường, bàn, ghế, cái bảng, cục phấn, chữ viết,
ông thầy.. là những biểu tượng thể hiện sự thay đổi kỳ diệu cuộc sống loài
người trên trái đất ngày một văn minh. Dưới ánh sáng mặt trời, loài người được
sống trong ánh sáng của khoa học, của giáo dục, ánh sáng của văn minh:
“Chữ bắt đầu có trước
Rồi có ghế có bàn
Rồi có lớp có trường
Và sinh ra thầy giáo”
Như vậy, bài thơ “Chuyện cổ tích về loài người” đã đem đến một cách lý giải
độc đáo về nguồn gốc của loài người. Qua đó, Xuân Quỳnh muốn bộc lộ lòng
yêu thương trẻ em sâu sắc.
Phân tích tác phẩm Chuyện cổ tích về loài người - Mẫu 2
“Chuyện cổ tích về loài người” là một trong những bài thơ hay của Xuân
Quỳnh. Với bài thơ này, Xuân Quỳnh đã lí giải cho người đọc về nguồn gốc của
loài người một cách độc đáo mà thú vị.
“Trời sinh ra trước nhất
Chỉ toàn là trẻ con
Trên trái đất trụi trần
Không dáng cây ngọn cỏ
Mặt trời cũng chưa có
Chỉ toàn là bóng đêm
Không khí chỉ màu đen
Chưa có màu sắc khác”
Khi trái đất vẫn còn trần trụi, không có một dáng cây hay ngọn cỏ. Ánh sáng
của mặt trời cũng chưa xuất hiện, chỉ toàn là bóng đêm. Trời đã sinh ra trẻ em
đầu tiên - đây chính là cách lý giải nguồn gốc có phần trái ngược với thực tế,
nhưng được xuất phát từ tình yêu thương sâu sắc của nhà thơ dành cho con trẻ.
Mọi vật trên trái đất xuất hiện đều vì trẻ em. Đôi mắt của trẻ em rất sáng nhưng
chưa thể nhìn thấy gì, vì vậy mặt trời xuất hiện cho trẻ con nhìn rõ. Để giúp trẻ
con nhận biết màu sắc thì cây mới có màu xanh, hoa mới có màu đỏ. Không chỉ
màu sắc mà còn có âm thanh được trẻ con cảm nhận khi loài chim được sinh ra
với tiếng hót. Dòng sông, biển cả, đám mây, con đường ra đời cũng là để phục
vụ cuộc sống của trẻ con. Mọi sự vật của tự nhiên đều được ra đời nhờ có trẻ em.
Tiếp đến, Xuân Quỳnh lí giải nguồn gốc ra đời của gia đình, đầu tiên là sự xuất hiện của mẹ:
“Nhưng còn cần cho trẻ Tình yêu và lời ru Cho nên mẹ sinh ra
Để bế bồng chăm sóc
Mẹ mang về tiếng hát
Từ cái bống cái bang
Từ cái hoa rất thơm
Từ cánh cò rất trắng
Từ vị gừng rất đắng
Từ vết lấm chưa khô
Từ đầu nguồn cơn mưa
Từ bãi sông cát vắng…”
Đoạn thơ được mở đầu với sự có mặt của người mẹ trong thế giới. Lý do mẹ có
mặt trên đời thật đơn giản nhưng vô cùng ý nghĩa. Trẻ con cần có bàn tay dịu
dàng chăm sóc, lời hát ru ngọt ngào của người mẹ. Bởi vậy mà mẹ xuất hiện để
đem đến tình yêu thương bao la. Những câu thơ được mở đầu bằng chữ “từ”
nhằm khẳng định nguồn gốc ra đời của lời ru. Lời ru được sinh ra từ những thứ
thật giản dị, dễ tìm và dễ thấy. Từ cái bống, cái bang, từ bông hoa rất thơm, từ
vị gừng rất đắng, từ vết lấm chưa khô, từ đầu nguồn cơn mưa, từ bãi sông cát
vắng...”. Tất cả những điều đó đều ở xung quanh trẻ em, gần gũi và quen thuộc.
Trong lời ru đó đã gửi gắm âm thanh, mùi vị, hương sắc, hình dáng... của thiên
nhiên để con trẻ cảm nhận. Lời ru cũng như tình yêu của mẹ đều có nhiều sắc
thái, cung bậc khác nhau, tự nhiên như trời đất vốn có. Tình yêu của mẹ cũng
lớn lao, mênh mông như thế và được gửi gắm vào trong những lời hát ru.
Sau đó, người bà đã đến với thế giới để giúp trẻ con hiểu hơn về những nét đẹp
của đất nước, văn hóa:
“Biết trẻ con khao khát
Chuyện ngày xưa, ngày sau
Không hiểu là từ đâu Mà bà về ở đó
Kể cho bao chuyện cổ
Chuyện con cóc, nàng tiên
Chuyện cô Tấm ở hiền
Thằng Lý Thông ở ác…
Mái tóc bà thì bạc Con mắt bà thì vui
Bà kể đến suốt đời
Cũng không sao hết chuyện”
Chắc hẳn tuổi thơ của mỗi người đều sẽ in đậm hình ảnh người bà nhân hậu với
những truyện cổ tích quen thuộc như: con cóc, nàng tiên; chuyện cô Tấm ở
hiền; thằng Lý Thông ở ác… Qua những câu chuyện đó, điều mà bà muốn gửi
gắm đó chính là cội nguồn và văn hóa của dân tộc, hướng đến cách sống hiền lành, lương thiện.
Nhưng trẻ con cũng cần phải có hiểu biết, bởi vậy mà người bố đã ra đời:
“Muốn cho trẻ hiểu biết Thế là bố sinh ra
Bố bảo cho biết ngoan
Bố dạy cho biết nghĩ
Rộng lắm là mặt bể
Dài là con đường đi Núi thì xanh và xa
Hình tròn là trái đất…”
Nhờ “bố bảo”, “bố dạy” mà trẻ em “ biết ngoan”, “biết nghĩ”. Con người mở
rộng tầm hiểu biết, ngày một khám phá mọi sự vật, mọi hiện tượng xung quanh.
Không chỉ vậy, khi cuộc sống ngày càng phát triển, trường học đã ra đời. Đó
chính là biểu hiện của một xã hội văn minh. Lớp, trường, bàn, ghế, cái bảng,
cục phấn, chữ viết, ông thầy.. là những biểu tượng thể hiện sự thay đổi kỳ diệu
cuộc sống loài người trên trái đất ngày một văn minh.
Với “Chuyện cổ tích về loài người”, Xuân Quỳnh đã bộc lộ tình yêu thương
sâu sắc dành cho trẻ em. Đồng thời gửi gắm thông điệp rằng hãy chăm sóc và nâng niu trẻ em.
Phân tích tác phẩm Chuyện cổ tích về loài người - Mẫu 5
Xuân Quỳnh là một nhà thơ có nhiều sáng tác viết cho thiếu nhi. Một trong số
đó phải kể đến là “Chuyện cổ tích về loài người”. Bài thơ đã lí giải về nguồn
gốc của loài người một cách rất thú vị:
“Trời sinh ra trước nhất
Chỉ toàn là trẻ con
Trên trái đất trụi trần
Không dáng cây ngọn cỏ
Mặt trời cũng chưa có
Chỉ toàn là bóng đêm
Không khí chỉ màu đen
Chưa có màu sắc khác”
“Chuyện cổ tích về loài người” được viết theo hình thức một bài thơ, nhưng lại
giàu tính tự sự, giống như một câu chuyện được kể lại về nguồn gốc loài người.
Đó là khi trái đất vẫn còn trần trụi, không có một dáng cây hay ngọn cỏ. Ánh
sáng của mặt trời cũng chưa xuất hiện, chỉ toàn là bóng đêm. Không khí có duy
nhất một màu đen, những màu sắc khác chưa xuất hiện. Trời đã sinh ra trẻ em
đầu tiên - đây chính là cách lý giải nguồn gốc có phần trái ngược với thực tế.
Nhưng qua việc lí giải này, người đọc thấy được sự quan tâm, cũng như tình
yêu thương dành cho trẻ con của Xuân Quỳnh.
“Mắt trẻ con sáng lắm
Nhưng chưa thấy gì đâu!
Mặt trời mới nhô cao Cho trẻ con nhìn rõ
Màu xanh bắt đầu cỏ
Màu xanh bắt đầu cây
Cây cao bằng gang tay…”
Và rồi, mọi vật xuất hiện để đáp ứng những nhu cầu của trẻ con. Đôi mắt của trẻ
con rất sáng nhưng chưa thấy gì. Bởi vậy, mặt trời đã nhô cao, chiếu sáng vạn
bật để có thể giúp trẻ con nhìn rõ. Cây, cỏ ra đời giúp trẻ con có thể phân biệt
được màu sắc. Chim chóc ra đời giúp trẻ con cảm nhận được âm thanh. Dòng
sông, đám mây, biển cả giúp trẻ con biết cảm nhận về giá trị cuộc sống. Còn
con đường xuất hiện là giúp trẻ con tập đi…
Không chỉ vậy, trẻ em cũng cần có tình yêu thương. Bởi vậy mà những người
thân như bà, mẹ, bố đã xuất hiện:
“Nhưng còn cần cho trẻ Tình yêu và lời ru Cho nên mẹ sinh ra
Để bế bồng chăm sóc
Mẹ mang về tiếng hát
Từ cái bống cái bang
Từ cái hoa rất thơm
Từ cánh cò rất trắng
Từ vị gừng rất đắng
Từ vết lấm chưa khô
Từ đầu nguồn cơn mưa
Từ bãi sông cát vắng…”
Trước tiên là mẹ, đó là người quan trọng nhất đối với trẻ con. Mẹ đã nuôi lớn,
chăm sóc và dạy dỗ trẻ con. Lời hát ru ngọt ngào của mẹ đưa trẻ con vào giấc
ngủ bình yên. Bàn tay mẹ bồng bé trẻ con, nâng niu với tình yêu thương vô bờ.
Trong lời ru đó của mẹ gửi gắm âm thanh, mùi vị, hương sắc, hình dáng của
cuộc sống. Tình yêu của mẹ bao la, lớn lao đến vô cùng.
Tiếp đến, trẻ con cũng khao khát được nghe những câu chuyện ngày xửa ngày
xưa. Vậy là người bà đã xuất hiện:
“Biết trẻ con khao khát
Chuyện ngày xưa, ngày sau
Không hiểu là từ đâu Mà bà về ở đó
Kể cho bao chuyện cổ
Chuyện con cóc, nàng tiên
Chuyện cô Tấm ở hiền
Thằng Lý Thông ở ác…
Mái tóc bà thì bạc Con mắt bà thì vui
Bà kể đến suốt đời
Cũng không sao hết chuyện”
Những câu chuyện bà kể giúp trẻ con biết hiểu thêm về truyền thống tốt đẹp của
dân tộc. Những truyện cổ tích về con cóc, nàng tiên; chuyện cô Tấm ở hiền;
thằng Lý Thông ở ác… qua giọng kể của bà trở nên hấp dẫn, sinh động hơn.
Không chỉ vậy, bà còn gửi gắm cả bài học quý giá về nét đẹp của cội nguồn và
văn hóa của dân tộc, hướng trẻ con đến lối sống tốt đẹp hơn.
Muốn cho trẻ hiểu biết Thế là bố sinh ra
Bố bảo cho biết ngoan
Bố dạy cho biết nghĩ
Rộng lắm là mặt bể
Dài là con đường đi Núi thì xanh và xa
Hình tròn là trái đất…”
Trong quá trình trưởng thành, trẻ con sẽ không ngừng học hỏi, khám phá. Bởi
vậy mà người bố đã xuất hiện để dạy cho trẻ con nhiều kiến thức thú vị. Bố dạy
cho trẻ con “biết ngoan, biết nghĩ” - uốn nắn để trẻ con nên người. Bố còn là
kho tàng tri thức, giải đáp cho trẻ con mọi thắc mắc về cuộc sống.
Dù vậy, bố cũng không thể mãi đồng hành cùng trẻ con, vậy là trường học ra đời:
“Chữ bắt đầu có trước
Rồi có ghế có bàn
Rồi có lớp có trường
Và sinh ra thầy giáo…
Cái bảng bằng cái chiếu
Cục phấn từ đá ra
Thầy viết chữ thật to
“Chuyện loài người” trước nhất”
Chữ xuất hiện để lưu lại kiến thức. Rồi có trường học xuất hiện, ở đó có thầy cô
là những người truyền đạt tri thức cho trẻ em. Từ đó, trẻ con biết thêm nhiều
kiến thức hơn. Có thể nói rằng, sự ra đời của trường học chính là biểu hiện về
một cuộc sống văn minh của con người.
Như vậy, với “Chuyện cổ tích về loài người”, Xuân Quỳnh đã lí giải về sự ra
đời của mọi vật một cách độc đáo, đồng thời đã bộc lộ tình yêu thương sâu sắc
của nhà thơ dành cho trẻ con.
Phân tích tác phẩm Chuyện cổ tích về loài người - Mẫu 6
Xuân Quỳnh là một nữ thi sĩ nổi tiếng trong nền văn học Việt Nam. Chị có
nhiều tác phẩm viết cho thiếu nhi, trong đó có bài thơ Chuyện cổ tích về loài người.
Tác phẩm được viết theo hình thức một bài thơ, nhưng lại giàu tính tự sự. Bài
thơ đã lí giải nguồn gốc ra đời của vạn vật trên Trái Đất với một góc nhìn độc đáo, mới mẻ:
“Trời sinh ra trước nhất
Chỉ toàn là trẻ con
Trên trái đất trụi trần
Không dáng cây ngọn cỏ
Mặt trời cũng chưa có
Chỉ toàn là bóng đêm
Không khí chỉ màu đen
Chưa có màu sắc khác”
Khi trái đất vẫn còn trần trụi, không có một dáng cây hay ngọn cỏ. Ánh sáng
của mặt trời cũng chưa xuất hiện, chỉ toàn là bóng đêm. Không khí có duy nhất
một màu đen, những màu sắc khác chưa xuất hiện. Trẻ em đã được sinh ra đầu
tiên, điều đó cho thấy được tình yêu thương của tác giả dành cho đối tượng này.
Ở những câu thơ tiếp theo, tác giả tiếp tục lí giải sự ra đời của vạn vật, đều xuất
phát từ nhu cầu của trẻ em:
“Mắt trẻ con sáng lắm
Nhưng chưa thấy gì đâu!
Mặt trời mới nhô cao Cho trẻ con nhìn rõ
Màu xanh bắt đầu cỏ
Màu xanh bắt đầu cây
Cây cao bằng gang tay…”
Đôi mắt của trẻ con sáng lắm, nhưng vẫn chưa thể thấy gì. Mặt trời đã nhô cao
để có thể giúp trẻ con nhìn rõ. Cây, cỏ ra đời giúp trẻ con có thể phân biệt được
màu sắc. Chim chóc ra đời giúp trẻ con cảm nhận được âm thanh. Dòng sông,
đám mây, biển cả giúp trẻ con biết cảm nhận về giá trị cuộc sống. Có thể thấy
rằng, nhờ có trẻ em, Trái Đất trở nên đầy màu sắc, thiên nhiên trở nên tươi đẹp hơn.
Trẻ em còn cần tình yêu thương, được dạy dỗ kiến thức nên người thân yêu như
mẹ, bố và bà đã xuất hiện:
“Nhưng còn cần cho trẻ Tình yêu và lời ru Cho nên mẹ sinh ra
Để bế bồng chăm sóc
Mẹ mang về tiếng hát
Từ cái bống cái bang
Từ cái hoa rất thơm
Từ cánh cò rất trắng
Từ vị gừng rất đắng
Từ vết lấm chưa khô
Từ đầu nguồn cơn mưa
Từ bãi sông cát vắng…”
Mẹ là người quan trọng nhất. Mẹ đã nuôi lớn, chăm sóc và dạy dỗ trẻ con. Lời
ru của mẹ khiến trẻ em cảm nhận được cuộc sống. Tình yêu của mẹ bắt nguồn
từ những điều giản dị, thân thuộc nhưng rất đỗi đẹp đẽ.
Người bà xuất hiện để kể cho trẻ em nghe về những câu chuyện xa xưa, từ
chuyện cô Tấm hiền lành đến thằng Lý Thông độc ác. Qua mỗi câu chuyện, trẻ
em học được điều tốt đẹp, bài học trong cuộc sống:
“Biết trẻ con khao khát
Chuyện ngày xưa, ngày sau
Không hiểu là từ đâu Mà bà về ở đó
Kể cho bao chuyện cổ
Chuyện con cóc, nàng tiên
Chuyện cô Tấm ở hiền
Thằng Lý Thông ở ác…
Mái tóc bà thì bạc Con mắt bà thì vui
Bà kể đến suốt đời
Cũng không sao hết chuyện”
Nhưng trẻ em cũng sẽ lớn lên, trưởng thành và cần phải hiểu biết. Bố đã xuất
hiện để dạy dỗ những điều đó. Bố uốn nắn tính cách, dạy trẻ em nên người. Bố
còn là nơi để trẻ em được giải đáp thắc mắc về thế giới ngoài kia:
Muốn cho trẻ hiểu biết Thế là bố sinh ra
Bố bảo cho biết ngoan
Bố dạy cho biết nghĩ
Rộng lắm là mặt bể
Dài là con đường đi Núi thì xanh và xa
Hình tròn là trái đất…”
Những dẫu vậy, bố cũng không thể mãi đồng hành cùng trẻ con, vậy là trường
học ra đời để dạy cho trẻ em kiến thức, kĩ năng:
“Chữ bắt đầu có trước
Rồi có ghế có bàn
Rồi có lớp có trường
Và sinh ra thầy giáo…
Cái bảng bằng cái chiếu
Cục phấn từ đá ra
Thầy viết chữ thật to
“Chuyện loài người” trước nhất”
Chữ viết có trước, đến trường học với bàn ghế, rồi thầy cô xuất hiện. Họ chính
là người đã truyền đạt kiến thức cho trẻ em, dạy dỗ trẻ em nên người. Với thể
thơ năm chữ, kết hợp sử dụng nhiều hình ảnh gần gũi, cũng như các biện pháp
tu từ, bài thơ “Chuyện cổ tích về loài người” đã lí giải nguồn gốc ra đời của vạn
vật và con người thật lí vị, từ đó cũng cho thấy tình yêu mến trẻ em của nhà thơ Xuân Quỳnh.
Tóm lại, Xuân Quỳnh đã lí giải về sự ra đời của mọi vật một cách độc đáo, đồng
thời đã bộc lộ tình yêu thương sâu sắc của nhà thơ dành cho trẻ con qua bài thơ
“Chuyện cổ tích về loài người”.
Document Outline

  • Dàn ý phân tích Chuyện cổ tích về loài người
  • Phân tích tác phẩm Chuyện cổ tích về loài người - Mẫu 1
  • Phân tích tác phẩm Chuyện cổ tích về loài người - Mẫu 2
  • Phân tích tác phẩm Chuyện cổ tích về loài người - Mẫu 5
  • Phân tích tác phẩm Chuyện cổ tích về loài người - Mẫu 6